Khái niệm, biểu hiện và lợi ích kinh tế | Tài liệu môn Kinh tế học Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
- Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nguồn lực vật chất thu được từ việc thực hiện các hoạt động kinh tế của con người nhằm thoả mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần. Nó thể hiện sự thoả mãn các nhu cầu của con người thông qua các hoạt động sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng của nền kinh tế.- Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các chủ
thể tham gia vào quá trình sản xuất trong nền kinh tế xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Khái niệm lợi ích kinh tế:
- Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nguồn lực vật chất thu được từ việc thực
hiện các hoạt động kinh tế của con người nhằm thoả mãn nhu cầu về vật
chất và tinh thần. Nó thể hiện sự thoả mãn các nhu cầu của con người thông
qua các hoạt động sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng của nền kinh tế.
- Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các chủ
thể tham gia vào quá trình sản xuất trong nền kinh tế xã hội. Các chủ thể
như doanh nghiệp, người lao động, nhà nước, người tiêu dùng đều hành động
dựa trên lợi ích kinh tế cụ thể để đạt được mục tiêu của mình trong hệ thống kinh tế.
- Lợi ích kinh tế không chỉ mang tính vật chất mà còn mang tính chất tinh
thần, giá trị như danh tiếng, uy tín, thương hiệu, môi trường làm việc tốt,...
tạo điều kiện để các chủ thể phát triển bền vững.
Biểu hiện của lợi ích kinh tế:
- Lợi ích kinh tế gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau nên có những biểu
hiện tương ứng (ví dụ: lợi ích của doanh nghiệp là lợi nhuận, của người lao
động là tiền lương và thu nhập, của người tiêu dùng là hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu).
- Lợi ích kinh tế có thể được biểu hiện dưới dạng vật chất cụ thể như tiền tệ,
tài sản, của cải hoặc dưới dạng phi vật chất như uy tín, thương hiệu, môi
trường làm việc tốt, điều kiện hưởng thụ dịch vụ tốt.
- Biểu hiện của lợi ích kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã
hội, trong đó lợi ích vật chất cơ bản là động lực chính ở các giai đoạn đầu,
sau đó lợi ích phi vật chất ngày càng quan trọng theo xu hướng phát triển bền vững.
Vai trò của lợi ích kinh tế:
- Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp thúc đẩy các chủ thể và hoạt động kinh
tế - xã hội diễn ra. Vì lợi ích kinh tế mà các chủ thể như doanh nghiệp, người
lao động, nhà nước... hoạt động, đầu tư, kinh doanh, làm việc để đạt được
mục tiêu thoả mãn nhu cầu của mình.
- Lợi ích kinh tế là cơ sở, là điều kiện vật chất tạo tiền đề thúc đẩy sự hình
thành và phát triển của các lợi ích khác như lợi ích chính trị, xã hội, văn hoá.
Khi đã đạt được lợi ích kinh tế nhất định, con người mới có điều kiện để theo
đuổi các lợi ích cao hơn về quyền tự do dân chủ, bình đẳng, giáo dục, môi trường sống.
- Lợi ích kinh tế là nền tảng, nguồn lực để duy trì và phát triển các hoạt động
kinh tế - xã hội. Khi được đảm bảo, lợi ích kinh tế giúp doanh nghiệp mở rộng
đầu tư, tạo việc làm; người lao động có thu nhập để chi tiêu; nhà nước có
nguồn thu ngân sách đầu tư cho phát triển.
Quan hệ lợi ích kinh tế:
- Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập tương tác, liên kết giữa các chủ thể
kinh tế với nhau nhằm xác lập và thực hiện các lợi ích kinh tế, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, kiến trúc kinh tế - xã hội và hệ
thống thể chế trong từng giai đoạn nhất định.
- Quan hệ lợi ích kinh tế có thể được xem xét theo chiều ngang (lợi ích của
các giai tầng, nhóm trong xã hội như doanh nghiệp - người lao động, doanh
nghiệp với nhau, người lao động với nhau) và theo chiều dọc (giữa lợi ích cá
nhân, lợi ích nhóm và lợi ích toàn xã hội).
- Các quan hệ lợi ích kinh tế có thể mang tính hợp tác, phối hợp để đạt được
lợi ích chung hoặc mang tính cạnh tranh, đối kháng giữa các bên để giành lợi
ích tùy thuộc vào bối cảnh, môi trường và mục tiêu lợi ích cụ thể của các chủ thể.
Sự thống nhất và mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế:
- Sự thống nhất lợi ích: Việc thực hiện lợi ích của một chủ thể sẽ góp phần
thúc đẩy và tạo điều kiện để các chủ thể khác cũng đạt được lợi ích của mình
(ví dụ doanh nghiệp phát triển tạo việc làm, thu nhập cho người lao động;
người lao động có thu nhập cao góp phần phát triển doanh nghiệp và kinh tế
xã hội). Điều này thể hiện mối liên hệ biện chứng, tác động qua lại giữa các lợi ích khác nhau.
- Sự mâu thuẫn lợi ích: Do các chủ thể có mục tiêu, vị trí, lợi ích kinh tế khác
nhau nên không tránh khỏi sự đối lập, xung đột về lợi ích giữa các bên (ví dụ
mâu thuẫn giữa doanh nghiệp và người lao động về lương, môi trường làm
việc; giữa các doanh nghiệp cạnh tranh để giành thị phần). Mâu thuẫn lợi ích
là động lực thúc đẩy các bên điều chỉnh, vận động để hướng tới sự cân bằng lợi ích.
Các nhân tố ảnh hưởng:
- Trình độ phát triển lực lượng sản xuất (con người và tư liệu sản xuất) như
trình độ công nghệ, kỹ năng lao động, vốn đầu tư... sẽ quyết định năng suất,
hiệu quả và quy mô lợi ích kinh tế.
- Địa vị, vị trí, vai trò của các chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất, như
là chủ sở hữu, người lao động, người quản lý... sẽ tác động đến khả năng
kiểm soát, chi phối và thực thi lợi ích kinh tế của các bên.
- Môi trường và điều kiện kinh tế - xã hội như cơ chế thị trường, chính sách
của nhà nước, hệ thống pháp lý, trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng
lớn đến việc hình thành, phân bổ và thực thi các lợi ích giữa các chủ thể.
- Yếu tố truyền thống văn hóa, tâm lý, lối sống cũng tác động đến cách nhìn
nhận và thực hiện lợi ích kinh tế của các cá nhân, cộng đồng.
Tóm lại, khái niệm lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế phản ánh mối
tương quan giữa nhu cầu và điều kiện sản xuất của con người. Lợi ích kinh tế
đóng vai trò nền tảng và động lực trung tâm thúc đẩy các hoạt động kinh tế -
xã hội. Quan hệ lợi ích kinh tế phản ánh sự tương tác phức tạp giữa các chủ
thể để thực hiện các lợi ích kinh tế, đan xen giữa sự đồng thuận và xung đột
lợi ích trong bối cảnh các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Việc điều phối, cân
bằng và hài hòa các lợi ích khác nhau là yếu tố quan trọng để phát triển bền vững.