



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60857655
MỤC LỤC 1. KHÁI QUÁT CHUNG .................................................................... 1
1.1. Dân số ........................................................................................................... 1
1.2. Phân bố, sinh sống ........................................................................................ 2
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển: ................................................................. 2
2. VĂN HÓA MƯU SINH ....................................................................................... 2
2.1. Nông nghiệp .................................................................................................. 2
2.2. Săn bắt và hái lượm ...................................................................................... 8
2.3. Thủ công ....................................................................................................... 8
2.4. Trao đổi, mua bán ......................................................................................... 9
3. VĂN HÓA VẬT THỂ ........................................................................................ 10
3.1. Nhà ở và công trình kiến trúc ..................................................................... 10
3.2. Ẩm thực ....................................................................................................... 15
3.3. Trang phục .................................................................................................. 20
3.4. Phương tiện vận chuyển ............................................................................. 22
3.5. Nhạc cụ ....................................................................................................... 22
4. VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ................................................................................ 24
4.1. Ngôn ngữ..................................................................................................... 24
4.2. Tôn giáo và tín ngưỡng ............................................................................... 24
4.3.Lễ hội ........................................................................................................... 26
4.4. Văn học dân gian ........................................................................................ 37
4.5. Tri thức dân gian ........................................................................................ 40
5. VĂN HÓA XÃ HỘI ............................................................................................ 41
5.1. Buôn làng .................................................................................................... 41
5.2. Gia đình và dòng họ ................................................................................... 44
6. PHONG TỤC TẬP QUÁN ................................................................................ 48
6.1. Hôn nhân .................................................................................................... 48
6.2. Tang ma ....................................................................................................... 50
7. CÁC XU THẾ BIẾN ĐỔI VÀ PHÁT TRIỂN HIỆN NAY ............................ 52
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC ..................................................................... 53 1. KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Dân số
Theo số liệu Điều tra ngày 01/4/2019 dân số Việt Nam có 96.208.984 người,
trong đó có 54 dân tộc và người nước ngoài cùng sinh sống và dân số của người Ê
Đê lúc đó là 398,671 nghìn người chiếm 0,41% dân số cả nước. lOMoAR cPSD| 60857655
1.2. Phân bố, sinh sống
Êđê (Rađê, Rhadê, Anăk Êđê, Đê, Êđê Êgar, Mọi, Thượng, Rơđê, …) là tên
gọi của một cộng đồng tộc người hiện đang sinh sống khá tập trung ở một số địa bàn
như Buôn Ma Thuột, Krông Păc, Krông Ana, Krông Bông, Êa H’Leo, Krông Buk,
Cư M’gar, M’Drăk… của tỉnh Đắk Lắk và rải rác một số địa bàn lân cận thuộc tỉnh
Gia Lai, Đắk Nông, Phú Yên, Khánh Hoà. Người Êđê còn có mặt ở một số quốc gia khác trên thế giới.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển:
Người Ê Ðê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây nguyên. Nhưng họ
có nguồn gốc sâu xa từ vùng biển, do đó, dù đã lên cao nguyên hàng ngàn năm,
nhưng trong sâu thẳm văn hóa của người Ê-đê, bến nước và con thuyền vẫn là hình
ảnh quen thuộc của họ. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của dân tộc ê Ðê đã phản ánh
lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Đây là
nhóm dân tộc có nguồn gốc từ nhóm tộc người nói tiếng Mã Lai từ các hải đảo Thái
Bình Dương đã có mặt lâu đời ở Đông Dương; truyền thống dân tộc vẫn mang đậm
nét mẫu hệ thể hiện dấu vết hải đảo của nhóm tộc người nói tiếng MalayPolynesia.
Truyền thuyết của người Êđê kể lại rằng: Một người thủ lĩnh (Krung) từ Ấn Độ tên
là Radaya (Y-Đê) đến xứ sở của công chúa mẹ Xứ Sở tên là Nagar (HGar). Radaya
đã chinh phục được xứ sở của Nagar sau đó kết hôn với công Chúa mẹ Xứ sở Nagar
được phong làm Krung. Con cháu hậu duệ của họ được gọi là Anak Kudaya Nagar
sau này rút gọn âm lại thành Anak Đê Gar có nghĩa là con cháu của thủ lĩnh Ấn Độ
Kudaya (Y-Đê) với Công Chúa xứ sở Nagar (H-Gar). Đây là truyền thuyết khá phổ
biến ở cư dân bản địa Đông Nam Á để giải thích nguồn gốc cội nguồn của dân tộc họ. 2. VĂN HÓA MƯU SINH
Dân tộc Ê-đê cũng như các dân tộc khác ở nước ta, có nghề sinh sống chính là
nông nghiệp: trồng trọt và chăn nuôi.
2.1. Nông nghiệp - Trồng trọt Trong trồng trọt của người Ê-đê, rẫy (hma) chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, ruộng nước chỉ lOMoAR cPSD| 60857655 có ở một số nơi ven các con sông, hồ còn rẫy thì có ở khắp nơi.
Làm rẫy luân khoảnh
Với thói quen canh tác trên rẫy là chính, đồng bào sản xuất tại một đám rẫy trong
chu kì vài năm, sau đó bỏ hóa rẫy một thời gian để cỏ cây tự nhiên mọc lại, đất tự
phục hồi, đồng bào trở lại canh tác theo chu kỳ. Chu kỳ luân khoảnh phụ thuộc vào
chất đất từng rẫy, có đất chu kì từ 5-10 năm, 10-15 năm, cũng có chu kỳ kéo dài 15,
20 đến 30 năm. Do đất Tây Nguyên màu mỡ, độ dốc không cao, mỗi gia đình thường
có vài mảnh đất để làm rẫy nên chu kỳ thường kéo dài từ 20 đến 30 năm. Người Ê
Đê thường làm rẫy ở những khu vực đất bằng phẳng, gần nguồn nước. Ở phía Tây,
rẫy được làm trên các rừng xavan gọi là hma h’drah; ở vùng trung tâm, rẫy làm trên
các đồi tranh, độ ẩm cao và sự màu mỡ của đất thực sự là những nơi trồng trỉa tốt.
Việc sử dụng các giống lúa gieo trồng trên các rẫy mới và rẫy cũ có khác nhau.
Rẫy khai phá năm đầu ênah thường gieo trồng các giống mdiê wviết, mdiê ana, mdiê
bla. Rẫy đã qua sử dụng từ 3 đến 5 năm (kpuh) thì gieo trồng các loại giống mdiê
săn, mdiê kê, còn rẫy đã qua sử dụng lâu hơn thì trồng mdiê êrăng và gần đây có
trồng lúa Hà Lan, sikar 4. Khi lúa trên rẫy cho năng suất thấp thì người ta bỏ hóa
(ksor). Các giống lúa trên rẫy mới thường là ngắn ngày, rẫy cũ là dài ngày. Các giống
lúa khác nhau có thời gian sinh trưởng khác nhau, có giống lúa ngắn ngày, có giống
dài ngày. Việc gieo trồng các giống lúa khác nhau còn liên quan đến lúc thu hoạch:
thu hoạch lúa ngắn ngày xong, lúa dài ngày chin rộ, đồng bào thu hoạch tiếp. Khi lúa
chín, người ta suốt mdiê wviết, mdiê ana,hdrô, sau đó gặt kê và săn phơi nỏ rồi đống
lại. Tiếp đó là suốt lúa mkit, êrăng, Hà Lan rồi đập kê và săn lấy thóc đem về. Trên
rẫy, lúa là cây trồng chính, nhưng xưa kia có một loại kê trồng phổ biến được gọi là
bao. Đồng bào vẫn quen phát đốt cây cỏ, cuốc đất, rồi dung gậy chọc lỗ tra hạt giống
do một cặp nam nữ tiến hành. Khoảng cách giữa các hốc lúa phụ thuộc vào độ màu
mỡ của đất. Nhưng nói chung, các hốc cách nhau khoảng 0,20 x 0,20m, 0,30 x 0,30m;
hốc có độ sâu từ 0,03 đến 0,05m. Thường thì những rẫy ven suối, cạnh đầm được
trồng trỉa trước, rồi mới đến những rẫy dốc, có khi được trồng trỉa vào đầu tháng 6.
Bên cạnh đó, đồng bào còn trồng ngô, khoai lang, bí, ớt, thuốc lá, bông. Ngô và khoai
lang cũng được trông trên những mảnh rẫy riêng, mỗi hốc ngô thường cách nhau 0,80
x 0,80m, mỗi hốc thường có 3 cây. Khoai lang trồng ngay trên mặt đất bằng, ít đánh
luống. Riêng các loại dưa, bầu, bí, bông thì hạt giống thường được trộn vào lúa giống
để gieo cùng một lúc hoặc được để riêng để gieo ở những nơi có nhiều tro. Mặc dù
những cây họ lạc, đậu có điều kiện phát triển trên rẫy nhưng trước đây ít được trồng. lOMoAR cPSD| 60857655
Đồng bào phổ biến chí có vài hạt đậu màu nâu, nhưng diện tích canh tác hang năm
không đáng kể. Việc xen canh lúa với các cây trồng khác, theo kinh nghiệm của đồng
bào, không những tận dụng được đất đai, làm cho đất tốt có thêm sản phẩm mà còn
thuận tiện cho việc chăm sóc và bảo vệ rẫy. Vả lại, trong quá trình chăm sóc rẫy,
đồng bào cần có thực phẩm tại chỗ, nhất là trong mùa làm cỏ, tháng 7, tháng 8 và tháng 9.
Khi phát rẫy ở những vùng đất đai rộng đồng bào thường để lại những khoảng
rừng có cây cối rậm rạp khá rộng, giữ cây kơ nia trên rẫy để có bóng mát, trồng các
cây ăn quả đồng thời cũng để đánh dấu quyền sở hữu, đồng bào có ý thức coi đó là
trách nhiệm bảo vệ rừng tránh tình trạng làm cho tất cả trở thành đồi trọc và hủy diệt
giun đất, là hình thức chống xói mòn quan trọng. Luật tục của người Ê Đê cấm chặt
các loại cây to như ktông, kdjam là những cây thường có ong làm tổ, cây hoach hrach
(dầu rái), gier (xao) thường để làm áo quan. Chặt những cây to, không theo quy định
của tập quán, không được phép của làng, cũng như gây nạn cháy rừng, đều bị trừng
phạt nghiêm khắc. Làm cháy làng là một trọng tội, thủ phạm thường bị bắt làm nô
lệ. Rừng đầu nguồn càng được đồng bào chú ý giữ gìn.
Việc chọn đất làm rẫy thuộc về trách nhiệm của chủ nhà, đồng bào chọn đất
mới khai phá bằng cách bổ nhát cuốc đầu tiên xuống vùng đất định chọn, nhát cuốc
đó được coi là dấu hiệu xác định đất đã có chủ sở hữu. Việc chuẩn bị đất trồng trên
những khu rừng xavan thường diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4. Phát rẫy là công việc
chính đầu tiên để khoảng tháng 4, sau khi cây cối đã khô thì đốt, dọn và cuốc. Riêng
đối với rẫy đồi tranh thì đồng bào cuốc ải vào tháng 8 và tháng 9, gọi là yan coh
hlang, “mùa diệt cỏ: hay dich mana, “cuốc ải diệt cỏ” để đến tháng 3 năm sau mới
dọn, xới, nhặt rễ cỏ rồi săn bằng để kịp trồng trỉa vào tháng 5, tháng 6, sau khi có
những cơn mưa đầu mùa.
Trên rẫy đất bằng, để bảo vệ mùa màng đồng bào thường đào hào bao quanh
để ngăn thú dữ vào phá hoại hoa màu, đồng thời để ngăn rễ cỏ tranh lan tới, ngoài ra
còn đặt một số bẫy xung quanh lối đi quen thuộc của chúng; trong rẫy thì đặt một số
bù nhìn và mõ (có loại nhờ sức gió để tạo âm thanh, có loại dùng giây giật) để xua
đuổi muông thú. Trên rẫy có chòi làm chỗ nghỉ ngơi trong khi lao động và ở đêm trong thời kỳ canh rẫy.
Công cụ làm rẫy thường giống nhau và ít kiểu loại nhưng thường rất độc đáo:
rìu (jông), xà gạc (kgă), cuốc (wăng biêng, wăng wít), gậy chọc lỗ, ống đựng thóc tra
hạt, cào, gùi, giỏ suốt lúa… Rìu có cùng một kiểu loại với rìu của các dân tộc khác ở
nước ta dung để chặt cây, phá rẫy, làm nhà, làm dụng cụ gia đình. Chà gạc (kga) là
một lưỡi dao thép, tra dựng đứng vào gù một cái cán cong bằng lồ ô đặc. Chà gạc
dùng trong sản xuất, chiến đấu, xây dựng nhà cửa và cũng là một công cụ của nhà lOMoAR cPSD| 60857655
bếp. Wăng briêng là một loại cuốc lưỡi sắt nhỏ, hình trăng lưỡi liềm, tra vào cán gỗ
cong, dùng để xới đất. Hiện nay, đồng bào dùng cuốc bàn (wăng cuốc) để xới đất,
phần nhiều đã được thay the công cụ truyền thống: wăng briêng. Để thích hợp với
kinh nghiệm sản xuất của mình, đồng bào cắt hai góc của rìa tác dụng lưỡi cuốc bàn,
làm cho lưỡi cuốc đó gần giống với lưỡi cuốc truyền thống. Wăng wit là cái nạo cỏ
rẫy, lưỡi sắt, được bẻ gập và vặn vỏ đỗ, một đầu cắm vào cán gỗ. Đối với người Ê-
đê, cuốc đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, khiến có thể nói rằng, hình thái nông
nghiệp cuốc đã tồn tại ở họ. Cào cỏ (hwar) là một thân tre nhỏ, dài khoảng 1,50m,
một đầu chẻ làm 6 hay 8 nan, đan xòe hình giẻ quạt, khi cào thì đứng. Ống dựng thóc
tra lúa (đing nuh) là một khúc lồ ô dài khoảng 0,80m.
Cách thu hoạch đơn giản, tùy theo từng giống lúa; nếu là lúa tẻ thì suốt bằng
tay, rồi bỏ vào cái giỏ đeo ở ngang hông phía trước; nếu là lúa nếp thì dung liềm gặt,
rồi bó thành cum mang về, khi cần mới vò lấy hạt. Cũng có giống lúa tẻ của đồng
bào phải gặt bằng liềm, họ cắt thành từng nắm để phơi trên rẫy ít lâu, rồi đánh đống
lại, khi cần mới vò lấy thóc. Lúc thu hoạch, người ta chọn bông lúa to và mẩy để làm
giống, giống lúa blama nhờ có quá trình lựa chọn như vậy mà trở thành giống lúa có
năng suất cao, được ưa thích gieo trồng ở nhiều nơi. Các giống lúa thường có nhiều
loại, ở mỗi nhóm người Ê Đê lại có giống lúa gieo trồng riêng. Trừ một vài giống 3
tháng, hầu hết các giống lúa đều phát triển dài ngày từ 4 đến 6 tháng, phù hợp với lối
canh tác thô sơ trên đất khô. Bên cạnh các giống tẻ trắng hạt, dẻo cơm, còn có nhiều
loại nếp đen, đỏ, trắng, thơm ngon. Các giống ngô ít hơn giống lúa, nhưng đã được
du nhập từ lâu,nay đã trở thành cây trồng quen thuộc.
Bên cạnh việc canh tác trên rẫy, ở vùng ven hồ Lak, ven sông Krông Nô, Krông
Ana, đồng bào Êđê còn làm ruộng nước. Nhóm người Bhi sinh sống ở vùng này và
làm ruộng vào mùa mưa khi nước dâng lên.
Mùa cấy lúa từ tháng 4, tháng 5 đến tháng 9, thu hoạch vào tháng 11, tháng 12.
Trước kia đồng bào cấy khi mạ được một tháng tuổi và để nguyên cả ngọn. Việc làm
đất cho ruộng mạ cũng như ruộng cấy đều thực hiện phương pháp dung trâu quần
(một phương pháp làm đất xuất hiện trong nông nghiệp thời cổ đại, gọi là thủy nậu).
Đàn trâu gồm nhiều con, nhưng bao giờ cũng có một đến hai con dẫn đầu, biết đi
theo sự điều khiển của chủ. Khi có mưa, đất phù sa được thấm nước đã mềm, bấy
giờ người ta mới đưa đàn trâu đến quần làm cho cỏ dập nát rồi vùi xuống sâu, bùn
nhuyễn ra trên mặt ruộng chang bằng. Đồng bào Ê Đê làm ruộng ở vùng này thường
cấy mau và nhỏ dảnh, mục đích là hạn chế cỏ dại mọc. Lúa ruộng cũng có nhiều
giống dài ngày, ngắn ngày, tẻ và nếp khác nhau. Khi gặt thì phơi lúa ngay trên gốc
rạ, sau đó đống lại trên bờ, rồi vò dần lấy thóc đem về. lOMoAR cPSD| 60857655
Do có hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa, nên hoạt động sản xuất kinh tế cũng
theo từng mùa. Trước đây, vào mùa khô, bên cạnh việc làm các nghề thủ công. thu
hái, săn bắt, tổ chức các nghi lễ gia đình, một số khá đông cư dân đến các đồn điền
làm thuê để có tiền nộp thuế, may mặc... Vào mùa mưa, hoạt động nông nghiệp là
chính. Người Ê-đê nhìn trăng tính tháng, một tháng là 30 ngày, một năm có 12 tháng.
Công việc làm rẫy được tiến hành theo các tháng như sau: -
Mlan sa (tháng giêng): phát rẫy, dệt vải, ăn tết Mnăm thun - Mlan dua (tháng
hai); phát rẫy, dệt vải, làm lễ bỏ mả. -
Mlan tảo (tháng ba): phát rẫy, dệt vải, làm lễ bỏ mả. -
Mlan pă (tháng tư): đốt và dọn rẫy. -
Mlan ema (tháng năm): dọn rẫy, xới đất, tria lúa- Mlan năm (tháng sáu): tria lúa. -
Mlan kinh (tháng bảy): trỉa lúa, làm cỏ lúa. -
Mlan sopăn (tháng tám): làm cỏ, phát và cuốc rẫy mới. -
Mlan dua păn (tháng chín): làm cỏ, phát và cuốc rẫy mới, ăn mừng lúa mới. -
Mlan pluh (tháng mười): canh rẫy, ăn mừng lúa mới, - Mlan pluh sa (tháng mười một): suốt lúa. -
Mlan pluh dua (tháng chạp): suốt lúa, sửa sang nhà cửa.
Mỗi năm còn được chia ra thành nhiều mùa. Công việc trong mỗi mùa tương ứng với
công việc ở những tháng nói trên. Các mùa đó gồm có: -
Yan mnga đáp, mnga blong (vào tháng chạp, tháng giêng và hai): sửa sang
nhàcửa, thăm viếng anh em, tổ chức nghĩ lễ, ăn tết Mnăm than và phát rẫy làm - Yan
dran (vào tháng ba): mùa đốt rẫy mới. -
Yan Jik (vào tháng tư): mùa xới đất. -
Yan hwar (vào tháng năm): mùa diệt cỏ. -
Yan buh (vào cuối tháng năm và nửa đầu tháng sáu): mùa trỉa lúa. - Yan jik rok
mdiê (vào cuối tháng sáu và đầu tháng bảy): mùa làm cỏ lúa - Yan ktor (vào tháng
bảy): mùa thu hoạch ngô. -
Yan huadro (vào tháng tám và chín): mùa suốt lúa và cuốc rẫy mới. -
Yan puôt wid (vào tháng mười và mười một): mùa thu hoạch lúa. lOMoAR cPSD| 60857655
Để bước vào công việc của mỗi mùa, người Ê-đê theo dõi các hiện tượng tự
nhiên để phán đoán thời tiết
Do tác động của quá trình đổi mới, người Ê-đê từ chỗ sống chủ yếu bằng canh
tác cây lương thực là chính chuyển sang sống chủ yếu bằng kết hợp canh tác ruộng
nước với trồng trọt cây thương phẩm; và hoạt động kinh tế từ sản xuất tự cấp, tự túc
chuyển dần sang sản xuất hàng hoá. Theo tác giả Hà Đình Thành, “Ngày nay, đến
Đắk Lắk, bên cạnh những ruộng lúa, nương ngô còn có những “rừng” cà phê vài chục
ha, những vùng trồng hồ tiêu bạt ngàn mà người Ê-đê là những chủ nhân mới. Việc
trồng cây công nghiệp như cà phê, hồ tiêu, cao su đã là một thế mạnh, một nét mới
trong kinh tế của người Ê-đê, đưa đến nguồn thu lợi lớn, góp phần vào việc xóa đói
giảm nghèo”. Nhờ việc trồng các cây công nghiệp, đời sống của nhiều gia đình người
Ê-đê đã thoát khỏi nghèo đói, một số gia đình khá giả còn lập trang trại trồng trọt,
chăn nuôi và làm đại lý thu mua nông sản.
Mặc dù phương pháp canh tác đơn giản, nông cụ thô sơ nhưng nhờ có kinh
nghiệm chọn đúng thời vụ, đất đai màu mỡ nên thu hoạch ở rẫy cũng như ở ruộng
thường đạt năng suất một đến hai tấn lúa trên một ha. So với phương pháp trồng trọt
nguyên thủy; phát, đốt tràn lan, tiện đầu làm đó thì cách canh tác rẫy theo chế độ luận
khoảnh có nhiều ưu điểm, nhưng vẫn là một lối quảng canh, chưa đi vào thâm canh
tăng năng suất, vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các điều kiện tự nhiên. Bên cạnh đó, họ
còn thu hoạch được một khối lượng hoa màu đáng kể. Năng suất chưa cao, nhưng
đồng bảo thường canh tác trên một diện tích rộng, nên sản lượng hàng năm của từng
gia đình cũng khá. Đồng bào thường nỗ lực sao cho mỗi năm có 2/3 số thóc thu hoạch
được để ăn, còn 1/3 thì ủ rượu và giúp đỡ bà con khi cần thiết. * Chăn nuôi
Dân tộc Ê Đê chú ý phát triển chăn nuôi gia đình, đồng bào nuôi trâu, bò, dê,
gà, lợn, vịt, ngan ngỗng. Chăn nuôi khá phát triển, mỗi gia đình thường có vài con
đến vài chục con, có khi có tới hang tram con trâu bò. Một số nhà giàu còn nuôi voi,
được coi là gia đinh có “số” làm ăn. Thông thường con vật nuôi được chú ý trong gia
đình là trâu, bò. Bởi trâu, bò được coi là biểu hiện của sự giàu có, là con vật định giá
có thể đem ra để đổi lấy cồng, chiêng, ché, nồi đồng và các đồ trang sức quý giá
khác, đồng thời là con vật hiến sinh trong nghi lễ cúng giàng. Các loại gia cầm, gia
súc khác đồng bào Ê Đê chăn nuôi để có nguồn thực phẩm dung trong cưới xin, ma
chay, cúng bái. Theo quan niệm đồng bào, trong các dịp cưới xin, ma chay, cúng bái,
hiến sinh nhiều gia súc, gia cầm thể hiện sự giàu sang, quyền uy và địa vị xã hội của
người chủ. Voi dùng để vận tải và làm sức kéo, đồng thời cũng là vật định giá trong
mua bán, trao đổi những tài sản lớn. lOMoAR cPSD| 60857655
Do tác động của tái định cư bởi các dự án thủy điện ở Tây Nguyên, đời sống
của người dân Ê-đê cũng thay đổi rất nhiều và chăn nuôi cũng bị ảnh hưởng không
nhỏ. Trước khi thực hiện tái định cư, trâu, bò, lợn, dê, gà được chăn nuôi theo lỗi thả
rông, nửa chăm sóc, không nhốt chuồng. Ở nhiều vùng trâu, bò trở thành hàng hóa,
đem lại nguồn thu quan trọng cho đời sống. Đến khi thực hiện tái định cư, diện tích
đất đai bị thu hẹp, đồng cỏ dành cho bãi chăn thả mất đi làm cho đàn trâu, đàn dê
không còn, đàn bò suy giảm. Nhà cửa quy hoạch theo lối phố, chật hẹp, nóng bức
cùng sự thay đổi của thời tiết khí hậu dẫn đến dịch bệnh gia súc, gia cầm tăng. Không
chỉ trâu, bò, đàn lợn, đàn gà cũng giảm sút
2.2. Săn bắt và hái lượm
Hái lượm và săn bắt luôn có vị trí quan trọng trong đời sống của cư dân với
nền kinh tế tự túc, tự cấp. Xưa cũng như nay, bên trong chiếc gùi trên lưng người phụ
nữ đi rẫy về không bao giờ thiếu nắm rau rừng, vài con cá, con ốc, ít củ quả. Người
Ê Đê lấy rau rừng, hoa quả dại, măng rừng, nấm hương, mộc nhĩ về để ăn; lấy tre, gỗ
về làm nhà ở, làm dụng cụ trong gia đình, lấy củi đun hàng ngày. Về nấm, người dân
khai thác được 14 loại, chủ yếu vào mùa mưa. Quả rừng lấy được rải rác từ tháng
Hai đến tháng Chín, song nhiều nhất là vào các tháng Tư, Năm, Sáu. Củ rừng trước
đây từng giữ vị trí quan trọng trong cứu đói của buôn, vào thời điểm điều tra vẫn
được các hộ nghèo sử dụng và khai thác vào các tháng Hai, Ba, Tư. Bên cạnh sử
dụng trong bữa ăn hằng ngày, đồng bào còn bán một số sản phẩm thu hái được (măng,
đọt mây, lá bép). Săn bắt muông thú cũng được nam thanh niên chú ý và sản phẩm
thu được từ săn bắt trở thành nguồn lợi đáng kể. Săn thú rừng được thực hiện ở rừng
của làng. Khi săn được thú, đồng bào có thói quen chia cho các gia đình, mời bà con
ăn uống. Theo truyền thống, nhiều nơi có lâm thủy sản và thịt thú rừng dùng quanh
năm. Đánh cá cũng là nguồn lợi đáng kể đối với cư dân sinh sống ven hồ, ven sông.
Có nơi người ta tổ chức đánh cá chung vài ngày. Ở vùng này, nhiều gia đình không
chỉ có cá ăn thường xuyên mà còn có cá sấy khô để đổi lấy muối, vải, lụa. Săn bắt và
đánh bắt cá là những hoạt động có tính phiêu lưu, may rủi, không chỉ được nam thanh
niên ưa thích mà người tài giỏi trong việc này còn được dân làng đánh giá cao về khả năng kiếm sống.
2.3. Thủ công
Với nền kinh tế tự túc, tự cấp, đồng bào Ê Đê có ngành nghề thủ công khá phát
triển. Một số ngành nghề thực sự đã có giá trị góp phần tự cung cấp sản phẩm cần
thiết cho người Ê Đê: nghề mộc, nghề rèn, đan lát, nghề gốm, nghề dệt. Với nghề lOMoAR cPSD| 60857655
mộc làm nhà, tạc tượng gỗ, khắc phù điêu đã giúp dân tộc Ê Đê làm ra những sản
phẩm rất đặc thù: trên ngôi nhà dài, trên cầu thang lên nhà, quá giang trong nhà có
nhiều phù điêu như vú phụ nữ, hình những con vật như con voi, hình người, hình quả
bầu,.... Nghề mộc làm ra các sản phẩm điêu khắc xung quanh nhà mồ. Trước năm
1975, trong các nghề thủ công, quan trọng nhất là nghề rèn, để cung cấp công cụ sản
xuất như lưỡi rìu, chà gạc, cần niết, các loại lưỡi cuốc và vũ khí tự vệ, săn bắt, các
đồ trang sức bằng đồng. Đồng bào Ê-đê cũng có một nghề thủ công truyền thống phổ
biến nữa là nghề trồng bông dệt vai, dệt váy, áo, khố, khăn và mền bằng khung dệt.
Người Ê đê có câu: “Đẻ con gái phải dạy nghề dệt vải, đẻ con trai phải dạy bắn nỏ,
đi rừng”. Do đó, trong các buôn làng người E-đê, nhà nào cũng có 2 - 3 khung dệt.
Bên cạnh đó, họ còn có nghề trồng cói, dệt chiếu, nghề đan lát tre, mây thành
các vật dụng trong sinh hoạt. Ngoài ra, họ duy trì nghề tạc tượng, chủ yếu tạc tượng
nhà mồ phục vụ các nghi lễ tâm linh Nghề đan lát mây tre được từng gia đình quan
tâm. Những sản phẩm của nghề đan lát gồm có: gùi đeo vai, chiếu. Những sản phẩm
của nghề gốm là nồi nấu cơm, những chiếc âu đựng thức ăn; sản phẩm của nghề dệt
là vải mặc trong gia đình. Nhưng hiện nay một số ngành nghề đang dần mai một (như
gốm, dệt), một số nghề khác như rèn, đan lát, làm đồ gỗ vẫn tồn tại và giữ một vị trí
quan trọng trong đời sống.
2.4. Trao đổi, mua bán
Do nền kinh tế tự cấp tự túc nên việc trao đổi mua bán chưa phát triển nhiều,
tuy nhiên có một số đồ dùng người Ê Đê cần nhưng chưa sản xuất được do vậy việc
trao đổi hang hóa là nhu cầu tất yếu. Để đổi lấy cồng, chiêng, ché, những đồ trang
sức bằng bạc… đồng bào Ê Đê thường dung trâu, bò để làm vật định giá. Thông
thường có hai cách tiến hành trao đổi hàng là người Ê Đê đưa trâu, bò xuống đồng
bằng vùng Nam Trung Bộ, sang Căm-pu-chia để đổi lấy hàng, hoặc có những đoàn
thương lái người Kinh hoặc người Căm-pu-chia chở những hàng người Ê Đê cần như
cồng, chiêng, ché, đồ trang sức bằng bạc đến tận làng Ê Đê sinh sống để trao đổi lấy
trâu, bò, voi, đôi khi thương lái lấy cả lợn. Một năm có thể có một đôi lần đồng bào
Ê Đê tổ chức đi trao đổi buôn bán như vậy vào mùa nông nhàn, thời tiết khô.
Chợ chính là hiện thân của nền kinh tế thị trường, nơi mọi hàng hóa đều có thể
mua bán bằng tiền. Phản ánh hoạt động thị trường tại một làng người Ê-đê, tác giả
Hà Thị Mai cho biết vai trò của thương nhân người Kinh tại một buôn Ê-đê: “Chợ
họp phiên vào buổi sáng, có 11 cơ sở kinh doanh cá thể với hình thức buôn bán nhỏ
lẻ, 1 doanh nghiệp tư nhân mua bán nông sản. Hoạt động kinh doanh ở khu vực trung
tâm buôn bán khá sôi động và có chiều hướng phát triển. Tuy vậy, người Ê-đê ở buôn
Kao ít tham gia vào hoạt động buôn bán tại chợ. Toàn bộ tư thương ở chợ đều là
người Kinh”. Ở nhiều nơi, chính quyền đã quan tâm tới việc chuyển đổi cơ cấu cây lOMoAR cPSD| 60857655
trồng, giảm dẫn diện tích trồng một số cây hiệu quả kinh tế thấp và hình thành những
vùng cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như cà phê. Thêm vào đó, người Ê-đê
còn thường xuyên tiếp thu và nâng cao các kỹ thuật trồng trọt mới.
3. VĂN HÓA VẬT THỂ
3.1. Nhà ở và công trình kiến trúc • Nhà ở
Các gia đình lớn mẫu hệ Ê đê sống trong các nhà sàn-dài. Tùy theo số lượng
người trong mỗi gia đình mà nhà dài, ngắn khác nhau. Những ngôi nhà dài của
người Ê đê, ngày nay chúng ta chỉ còn thấy dài khoảng 20-30m. Những nhà dài
hàng trăm mét hầu như không còn. (ảnh8)
• Kết cấu bộ khung nhà
Bộ khung nhà của người Ê đê hình thành trên cơ sở các vì cột. Do vậy bộ
khung nhà với bộ nóc là hai bộ phận riêng biệt. Nóc úp trên bộ khung cột. Mỗi vì
cột chỉ có: hai cột (kmek), một quá giang (êđa) và các vì cột chung nhau hai đòn
tay cái đặt ở đầu cột. (ảnh 32) lOMoAR cPSD| 60857655
Kết cấu mặt sàn (tul): dưới cùng là các dầm ngang cũng có tên gọi là đê cũng
như tên quá giang. Đặt trên các dầm ngang là các dầm dọc (gắp) thường là các cây
gỗ có đường kính nhỏ hơn. Trên dầm dọc đặt một lớp cây nhỏ (t’rung) song song
với các dầm ngang ở bên dưới. Trên lớp cây này lại được trải một lớp những thanh
tre (hoặc lồ ô) nhỏ bản (nê) cùng chiều với dầm dọc. Trên cùng là lớp dát sàn (trịa)
làm bằng lồ ô hay tre rừng... bổ banh thành từng phá. (ảnh 33) lOMoAR cPSD| 60857655
Bộ sườn của mái, lớp dưới là các “kèo giả” (kèo không ráp vào đầu cột)
(mal). Trên kèo là các đòn tay, trên nữa là rui rồi đến mè, trên cùng là lớp cỏ tranh.
Tuy mái lợp tranh, nhưng cách lợp của người Ê đê khá chắc chắn: gốc các phên
tranh được đặt vào các đòn tay nhưng quay xuống dưới buộc đè cây mè lên trên,
rồi người ta mới bẻ quặt ngọn phên tranh xuống phía dưới. Đến lượt các phên tranh
khác người ta cũng làm như vậy. Với cách lợp này, các lá tranh không thể tụt ra khỏi phên. lOMoAR cPSD| 60857655
Nhà của người Ê đê phổ biến là có hai mái chính. (ảnh ê đê 2). Nhưng có
nhà có thêm hai mái phụ ở hai đầu hồi thụt sâu vào hai mái chính để tránh hắt mưa vào nhà (ảnh 9).
Đó là cách kết cấu vì cột, mái và cách lợp mái theo kiểu cổ truyền. Hiện nay,
ở một số nơi người ta đã làm nhà theo kiểu vì kèo, mái lợp tôn, hoặc lợp ngói và
nóc có bốn mái như nhà người Việt. Mặt bằng sinh hoạt
Nhà người Ê đê có hai cửa chính (CL1, CL2) mở ở hai đầu hồi. Cửa trước
nhìn ra đường làng, cửa này dành cho khách và các thành viên nam. Cửa sau dành
cho sinh hoạt của nữ. Trước hai cửa là hai sân sàn. Sân sàn trước (SS1) bao giờ
cũng được làm rộng hơn sân sau (SS2). Thang được đặt vào sân sàn. Thang thường
là những thân gỗ được đẽo bậc để lên xuống. Loại thang thông thường gọi là ghăl.
Những nhà khá giả thang rất to. Đầu thang vượt khỏi mặt sàn chừng 1m. Ở phần
đầu thang được khắc nổi một đôi vú (k’sâu). Phía trên đôi vú, có khi người ta còn
khắc hình trăng non. Hình trăng non biểu tượng cho sự chung thủy còn đôi bầu vú
biểu trưng rõ rệt cho chế độ mẫu hệ của người Ê đê. Loại thang này được gọi là lOMoAR cPSD| 60857655
ênhan pla dang. Ngoài thang chính nhiều nhà còn thêm một hoặc hai thang phụ. (ảnh 10)
Có nhà, vào khoảng giữa nhà, về phía Tây người ta còn làm thêm sân sàn
phụ (SS3) (adring kiêu) để trai gái gặp nhau trao đổi tâm tình.
Trên mặt bằng sinh hoạt chia thành hai phần theo chiều ngang: từ cửa trước
vào khoảng trên hai gian là phần gah, phần này bao giờ cũng có gian rộng hơn các
gian khác. Gah là phần không gian để tiếp khách và dành cho sinh hoạt chung của
cả nhà dài. Trong gah có cột khách (CK) (kmeh knang) ở vì cột thứ hai về bên trái.
Cột này ngay cạnh bếp khách (BK) (kpur gah). Xung quanh bếp người ta đặt những
chiếc ghế dài để khách ngồi (GK). Vào những dịp trong nhà có đám (đám ma, đám
cưới,...), ở đây còn thêm một bếp nữa để sắm cỗ cúng.
Đối diện với cột khách là cột chiêng (CC) (kmeh knah) phía sau cột này là nơi để cồng chiêng.
Vì cột thứ ba là cột ngăn (CN) (kmeh kpăng), giới hạn giữa không gian của
phần gah và phần ôk. Cây cột về phía trái là cột chủ. Ở đây có một cái ghế độc mộc
khá lớn dành cho chủ nhà (GC) (jhưng). Cột đối diện là cột trong (CT) (kmeh hgor).
Dọc vách phía trái của phần gah là một dãy ché (CR) đủ loại đủ cỡ khác nhau. Còn
sát vách phía bên kia (bên phải) là một ghế dài làm bằng gỗ nguyên cây (gỗ) (kpan)
(có cái dài gần 20m). Ghế này để cho các nhạc công ngồi khi trong nhà có đám.
Dưới gầm ghế là nơi để cồng chiêng. lOMoAR cPSD| 60857655
Phần ôk chia theo phần dọc: phần về bến trái được coi là “trên”, phần đối
diện là “dưới”. Phần trên chia thành nhiều phòng nhỏ. Phòng cuối của phần ôk là
của vợ chồng chủ nhà (PC), tiếp là phòng để các đồ đồng, ché, ú, ... đồng thời cũng
là phòng của con gái út (PU). Tiếp nữa là phòng dành cho từng cặp vợ chồng của
em gái vợ hoặc con gái của chủ nhà (PG1, PG2...).
Phần dưới là một hành lang thông thoáng để đi lại dễ dàng. (ảnh 34)
3.2. Ẩm thực
Bữa ăn thường ngày của người Ê đê có cơm tẻ, rau xanh, bát muối ớt. Cơm
nếp được dùng khi có khách hoặc trong các dịp tết. Trong bữa ăn của đại gia đình,
bà chủ (khoa sang) là người đơm cơm canh cho các thành viên của gia đình. Ngô,
khoai, sẵn cũng là những nguồn lương thực quan trọng, nhất là những lúc giáp hạt, mùa màng thất bát.
Ngoài cơm nấu, xôi đồ, đồng bào còn làm nhiều loại bánh trong các dịp lễ tết.
Thức ăn trong các dịp lễ tết thường có thêm cá, thịt gia súc hay thịt thú rừng. Con
trâu, con gà, con vịt sau khi bị giết chết, người ta đem thui qua lửa cho cháy hết lông
rồi mới vặt những lông còn sót lại.
Cách chế biến thức ăn cũng rất đa dạng. Thịt gà thường luộc cả con hoặc chặt
nhỏ nấu canh. Các loại thịt gia súc thường được chế biến thành các món khác nhau
như: thịt nước (ăm), thịt nướng bằng cặp tre có gia vị (ghang), thịt luộc (tuk), thịt nấu
với rau quả (tuk djam), thịt kho hay ninh nhừ, thịt nhồi trong ống tre có ướp gia vị (chim brông).
Mỗi người trong gia đình đều có bầu nước uống riêng không dùng lẫn của
nhau. Trước đây đồng bào uống nước lã lấy từ sông, suối cho nên ý thức giữ sạch lOMoAR cPSD| 60857655
nguồn nước từ trước rất được đề cao. Đồng bào có tập quán uống rượu cần trong
những ngày lễ tế, khách đến chơi nhà. Canh bột lá yao
Từ bao đời nay, để thích ứng với thiên nhiên, người Ê đê đã biết tận dụng các
loại rau rừng để chế biến thành những món ăn đặc trưng của họ. Ngày nay các món
dân dã ấy đã trở thành đặc sản riêng mang đậm hương vị của núi rừng. Canh bột lá
áp yao là một món ăn truyền thống và có ý nghĩa rất quan trọng đối với cộng đồng
người Ê đê bởi nó tượng trưng cho sự ấm cúng, sum vầy. Đây là món ăn được chế
biến vào tất cả các dịp tụ họp đông người như lễ ăn mừng, lễ đầu năm, sum họp gia
đình hoặc đám ma..., đồng thời cũng là món ăn được nhiều gia chủ dùng để thết đãi
khách. Canh bột lá yao được chế biến với nhiều nguyên liệu, gia vị kết hợp như:
thịt/xương heo hoặc vếch bò (phần đầu ruột non của bò), cây môn thục, cà đắng phơi
khô, đu đủ xanh, gạo, lõi chuối... và là yao ( một loại lá rừng có vị ngọt, mùi thơm,
hình dáng giống lá trầu không) – là thành phần quan trọng không thể thiếu. Cách nấu
canh bột lá yao cũng rất cầu kì. Gạo sau khi ngâm sẽ được để ráo nước, sau đó giã
chung với lá yao cho tới khi nát đều, mịn như bột. Thịt hoặc xương thì ướp gia vị.
Các gia vị khác như đu đủ, cây môn thục, lõi chuối được làm sẵn trước khi nấu. Khi
nấu, cho bột đã giã mịn với lá yao vào nồi nước đang sôi, khuấy đều tay cho đến khi
bột chín tới. Sau đó cho rau rừng vào nồi nêm nếm các loại gia vị vào là được. Canh
bột lá yao khi ăn có vị đắng của các loại rau rừng, mùi thơm của lá yao, vị cay của
ớt, vị béo của thịt, vị ngọt sền sệt của nước canh bột gạo. Canh cà đắng
Canh cà đắng là một trong những món ăn của người Ê Đê nổi tiếng nhất.
Nguyên liệu chính của món ăn chính là quả cà đắng, một loại cà mọc dại có quả lớn
hơn trái cà pháo, thân có nhiều gai nhọn và có màu trắng xanh rất đặc trưng. Cà đắng
mọc dại khá nhiều trên nương, rẫy của người Ê Đê nên họ đã tận dụng để chế biến
thành món ăn mà canh cà đắng là ví dụ điển hình. Nguyên liệu của món canh cà đắng
gồm cà đắng, đầu cá trích phơi khô, cá khô cùng một số loại gia vị và rau rừng. Khi
chế biến, cá kho sẽ được mang đi giã nát rồi cho thêm hành, tỏi vào cho dậy mùi, sau
đó cho nước vào nồi và chờ sôi. Tiếp đến họ sẽ cho cà đắng các loại rau vào và nêm
nếm gia vị. Cuối cùng để tạo độ sệt cho canh, người Ê Đê sẽ cho thêm nước vo gạo.
Món canh cà đắng thường được dùng với cơm trắng, vị đắng, cay và hơi hăng của cà
khiến món ăn trở nên ngon hơn. Đặc biệt với người Ê Đê đây cũng là món ăn giúp
tăng cường sức khỏe. Ngoài canh thì trái cà đắng còn được người Ê Đê chế biến
thành các món ăn khác như cà đắng xào, cà đắng om ếch, cà đắng kho… lOMoAR cPSD| 60857655 Lẩu lá rừng
Lẩu lá rừng, đây được liệt vào hàng đặc sản trong các món ăn của người Ê Đê
bởi sự độc đáo trong việc kết hợp nguyên liệu và hương vị của món ăn. Trước đây,
chính món ăn này đã từng cứu sống đồng bào trong những năm tháng khốn khó nhất
khi mất mùa, đói kém. Ngày nay, món lẩu lá rừng chỉ được nấu trong các dịp đặc
biệt, thiết đãi khách quý vì nguồn nguyên liệu cũng đã hiếm dần. Các loại rau, lá sử
dụng cho món ăn này rất đa dạng, chủ yếu được hái từ rừng sâu sau đó mang về rửa
sạch và nấu cùng thịt heo rừng, ớt, kết hợp với nhiều loại gia vị khác. Khi nếm thử,
bạn sẽ thấy rõ được vị đắng, chát, bùi của các loại lá rừng, vị thơm, ngọt của thịt và
vị nồng của gia vị rất ấn tượng. Vếch bò
Thực chất món ăn của người Ê Đê này chính là món lòng bò xào măng nướng.
Điểm khác biệt là người ta không dùng loại lòng bò thông thường mà dùng đoạn ruột
nằm ở gần với phần ruột già của con bò gọi là vếch, nơi vẫn còn chứa phân non màu
xanh, chính vì vậy nếu ai chưa quen thì sẽ thấy khó ăn nhưng ăn được thì sẽ rất ghiền.
Để làm món vếch bò, người Ê Đê sẽ dùng những bắp măng tre nướng trên lửa than
hồng rồi mới đem đi rửa sạch và thái vừa ăn. Tiếp đến mang xào cùng với vếch bò,
cho thêm các loại gia vị như củ nén, ớt để tạo vị cay nồng. Món ăn là tổng thể của vị
ngọt từ măng rừng vị ngậy hơi đắng của vếch và vị cay nồng của gai vị tạo nên một
hương vị đặc biệt hấp dẫn. Dế cơm rang muối
Dế cơm rang muối cũng là một món ăn của người Ê Đê được rất nhiều người
ưa thích. Những chú dế được bắt bằng cách thủ công vào đầu vụ thu hoạch lúa sẽ
được mang đi làm sạch, bỏ chân sau đó đem rang lên đến khi có màu vàng và mùi
thơm tỏa ra. Tiếp đến, người ta sẽ mang dế cùng với muối, hành lá, gừng, hẹ giã
nhuyễn tạo thành một hỗn hợp đặc. Với món ăn có thể dùng để chấm hoặc làm món
ăn kèm cơm nóng cũng rất ngon. Hương vị mằn mặn, béo bùi rất đưa cơm. Canh chua kiến vàng
Món canh chua kiến vàng cũng là món ăn của người Ê Đê rất hấp dẫn. Nguyên
liệu đặc biệt nhất của món ăn chính là kiến vàng, kết hợp cùng tôm, cua, cá, hoa
“djam tang”, ngò gai, nén, gia vị… Kiến vàng chính là nguyên liệu giúp tạo vị chua
đặc trưng cho món ăn. Cách nấu canh chua kiến vàng cũng rất đơn giản, chỉ cần đặt
lên bếp một nồi nước lớn rồi đun sôi và thả các loại nguyên liệu như cua, cá tôm, củ
nén đập dập vào nấu trong vài phút. Tiếp đến cho thêm hoa “djam tang” và kiến vàng
đã làm sạch vào là hoàn tất. Hương vị chua thanh đặc biệt từ kiến vàng khiến cho lOMoAR cPSD| 60857655
món ăn trở nên rất đặc biệt và thường được sử dụng trong những ngày oi bức. Lá mì xào
Chúng ta thường chỉ biết đến củ mì, khoai mì hay còn gọi là củ sắn chứ ít ai
biết lá mì cũng có thể ăn được. Đây là món ăn của người Ê Đê rất nổi tiếng. Loại lá
mì mà người Ê Đê sử dụng là lá mì ta chứ không phải mì cao sản, lá mì để nấu ăn là
loại còn đỏ và lá mỏng thường được hái từ lúc sáng sớm. Lá mì có thể xào không có
thêm chú gia vị hoặc kết hợp với hoa đu đủ đực, cá khô để tạo hương vị đa dạng.
Rượu cần trong ẩm thực Ê đê
Theo tiếng Ê đê rượu cần gọi là Kpiê cheh.
Ðể có những ché rượu cần ngon, ngoài cách chế biến cũng cần phải có sự
chuẩn bị chu đáo trước khi dùng. Người Ê đê dựng những cây cột dùng để buộc rượu
thành vòng tròn hay hàng ngang, tùy theo tính chất của buổi uống rượu. Những cột
này là cây tre, lồ ô cao khoảng 2-3m, được trang trí thêm những tua chỉ đầy màu sắc,
hoa văn và những thanh gỗ nhỏ đẽo gọt các hình con thú như những cây nêu.
Các ché rượu được buộc chặt vào từng cột để ché rượu không đổ ngã. Người
Ê đê lấy những lá cây không có độc xung quanh vườn nhà như, lá chuối, mít, ổi…
để nhét chặt vào miệng ché trước khi đổ nước vào. V.iệc làm này nhằm mục đích để
khi đổ nước vào ché, bã rượu và trấu sẽ không bị nổi lên trên mặt ché và làm trào ra
bên ngoài, đồng thời tạo nên một khoảng trống từ cổ đến miệng ché (cao từ 10–15
cm). Khoảng trống này là cữ cho mỗi người uống, mỗi cữ khoảng 200-300 ml nước.
Sau đó đến việc chuẩn bị cần uống rượu, thông thường cần uống thường được
chuẩn bị sẵn trong mỗi gia đình. Cần rượu được làm bằng cây trúc hoặc cành tre nhỏ,
được thông ruột ống, dài khoảng 1,3 m tùy từng loại ché lớn nhỏ. Ðoạn giữa của cần
được gắn một ống nhựa nhỏ trong suốt (dài khoảng 20 cm), nối với hai đầu cần để
người uống có thể xoay chuyển từ mọi hướng mà cần không bị gãy, cùng với đó tạo
cho người uống có cảm giác thoải mái, có thể thấy trực tiếp dòng chảy rượu cần từ
ché qua ống nhựa khi người dùng hút cần.
Đầu cần là mấu đã được khoét thành khe và đục 3-5 lỗ nhỏ, đủ để rượu thấm
mà không mang theo bã hoặc trấu. Mỗi ché rượu chỉ dùng một cần, khi nào đám cưới
mới sử dụng hai cần để cho cô dâu, chú rể cùng uống. Cần được cắm vào ché sao cho
vừa tầm của người ngồi uống và không bị tắc, đó cũng là cái khéo của người cắm
cần. Sau khi sử dụng cần được cất giữ để sử dụng trong các dịp lễ tiếp theo.
Cách uống rượu cần
Sau khi đọc lời cầu khấn thần (Yàng) mong muốn thần sẽ mang đến sức khỏe,
may mắn, tốt lành. Nữ gia chủ là người uống đầu tiên, sau đó đưa cần trao cho khách.
Thường thường khách đỡ lấy cần rượu bằng hai tay. Một tay cầm đầu cần, một tay lOMoAR cPSD| 60857655
cầm phần thân cần sát miệng ché; từ từ vuốt dọc lên rồi uống. Cần rượu cứ thế được
chuyền từ tay người này đến người khác, cho đến khi tàn cuộc vui.
Trong khi uống rượu cần, một người dùng sừng trâu có đục lỗ (hoặc dùng cái ca) rót
nước vào ché; còn phía bên kia là người uống. Có điều người đồng bào Ê-đê không
bao giờ uống rượu cần một mình. Nếu gia đình nào quý khách thì gia chủ sắp xếp
một người nữ rót nước. Còn bình thường mọi người đã quen biết nhau từ trước thì
không bắt buộc người nữ là người rót nước.
Mời rượu không được từ chối
Điều đặc biệt khi uống rượu cần người uống không được phép từ chối. Và họ
phải mời mọi người xung quanh như là cách để thể hiện phép lịch sự. Có một số buôn
làng người Ê-đê, trước khi uống rượu cần; người uống phải rót ra các ống tre nhỏ
(hoặc ly) để sẵn giữa nhà để mời mọi người xung quanh. Bao nhiêu rượu được rót
vào ống tre (hoặc ly) nghĩa là người đó có bao nhiêu con cái. Điều này cũng có nghĩa
là thay cho lời giới thiệu về gia đình, con cái của người uống.
Theo già làng Ama Bích (buôn Tring, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk); không gian
uống rượu cần khi tiếp khách của người Ê-đê cũng tùy thuộc vào hoàn cảnh. Nếu là
khách quý, khách là quan chức, có vai vế thì chủ nhà chọn nơi uống rượu là chỗ sang
trọng nhất trong nhà. Thường là chỗ rộng nhất trong ngôi nhà dài. Khi uống rượu cần
không đơn giản chỉ có chủ nhà với người khách đến chơi, mà chủ nhà thường mời
thêm hàng xóm, anh em, bà con láng giềng đến nhà cùng chung vui, uống rượu.
Những người được mời đến bao giờ cũng mang theo nhiều ché rượu cần của gia đình
mình để góp vui, chứ ít ai đi tay không…
Mỗi gia đình có mùi vị đặc trưng riêng
“Rượu cần ngon là khi uống vào lưỡi có mùi cay, vị ngọt nồng nàn, nóng ấm
râm ran! Có khi rượu cần ngon là uống vào trong miệng có vị lạt, một chút đắng….”,
già làng Ama Bích tấm tắc nói.
Nói về cách uống rượu cần của người Ê-đê, ông Y Kô Niê – Phó phòng nghiệp vụ
văn hóa – Sở Văn hóa – Thể Thao – Du lịch tỉnh Đắk Lắk, chia sẻ: “Sở dĩ người Êđê
chỉ dùng một cần trúc khi uống là thể hiện sự thân mật, gần gũi. Điều đó cho thấy
không hề có nghi vấn về bùa ngải, thuốc độc có trong rượu, tạo sự tin tưởng tuyệt
đối cho mọi người khi uống rượu. Người Ê-đê rất kiêng cữ khi uống rượu cần mà thả
cần giữa chừng, điều đó là mất lịch sự”.
Ông Y Kô Niê cho biết thêm, trong buôn làng người Ê-đê; rượu cần ở mỗi gia đình
có một mùi vị đặc trưng riêng, có tác dụng khác nhau. Có gia đình rượu cần làm ra
có vị chua, vị ngọt, vị đắng hoặc vị nhạt. Khi người đồng bào Ê-đê xếp từng ché rượu
cần uống đại trà thì xếp theo từng vị của rượu theo thứ tự ngọt, chua, đắng, nhạt… lOMoAR cPSD| 60857655
các vị rượu này sẽ giải vị cho nhau. Cho nên mọi người có thể vui chơi, uống rượu
thâu đêm mà không say; sáng dậy không hề bị đau đầu.
3.3. Trang phục Trang phục nam giới:
Đàn ông Ê đê đóng khố và mặc áo cánh, choàng tấm mền, mang một số đồ trang sức. Khố (kpin)
Khố được dệt sẵn trên khung dệt. Chất liệu vải, trang trí hoa văn và độ dài ngắn
có khác nhau. Màu nền của khố là màu chàm sẫm, trang trí hoao văn dọc rìa khố, hai
đầu vạt khố. Loại khố sang và đẹp nhất của đàn ông Ê đê là khố kteh và đrai, dệt bằng
sợi vải đẹp, dài, hai đầu khố có trang trí hoa văn và đính thêm tua khố dài tới 25cm.
Đây là loại khố dùng trong ngày hội, của những người có vị trí cao trong buôn làng.
Khi mặc, hai đầu khố rủ dài phía trước và sauu đùi. Loại khố pirêk trang trí hoa văn
trên hai vạt khố, nhưng không có tua màu. Hai loại khố dùng thường ngày trong nhà
hay đi nương là khô bơng và mlang, loại này ngắn, ít hoa văn trang trí, không có tua
màu. Ngày nay chỉ có những người già sinh sống ở vùng xa đường giao thông, đô thị
thì mới đóng khố, còn lại đã chuyển sang mặc quần như người Kinh. Áo cánh
Áo nam giới là loại áo cánh, may kiểu chui đầu, tay dài hay tay ngắn, gấu áo
phủ quá mông, thân sau dài hơn thân trước, xẻ tà, cổ áo tròn, mở rộng hơn về phía
ngực áo trước, giữa ngực mở ra một đoạn, có hàng khuyết và khuy cái tết bằng chỉ đỏ.
Trên áo cánh này, những đường chỉ màu trang trí thường thấy ở rìa hai nách áo, gấu
áo, vai và cổ tay áo. Áo cánh đẹp nhất là áo kteh hay còn gọi là đếch kvưh grư, trước
ngực áo có mảng hoa văn gọi là “đại bàng dang cánh”. Gấu áo phía sau đường viền
chỉ màu, gài thêm những hạt cườm trắng và tua chỉ màu dài tới 12cm. Mảng trang trí
trước ngực, là những đoạn sợi chỉ đỏ đan sít vào nhau thành từng mảnh hình thang cân
lộn ngược. Dọc đường xẻ cổ ngực, có dính thêm nhiều khuy đồng (15 chiếc). Loại áo
cánh ngắn mặc thường ngày, tuy cách cắt may giống hệt như áo kteh trên, nhưng không
có trang trí cánh đại bàng, viền chỉ màu, hạt cườm và tua chỉ.
Loại áo đó đó gọi là ao bal. Loại áo không có tay mặc thường ngày gọi là ao kok, áo
làm bằng vỏ cây gọi là ao kroh, mà ngày nay hãn hữu còn thấy ở vùng xa xôi.