Lễ hội và sự biến tướng của lễ hội trong thời đại ngày nay | Tiểu luận môn cơ sở văn hóa Việt Nam
Lễ hội là một trong những nét văn hóa nổi bật không chỉ riêng Việt Nam mà trên toàn thế giới hầu như nước nào cũng có lễ hội. Lễ hội ra đời là sự kết
tinh của niềm tin và nét văn hóa lâu đời của các dân tộc trên thế giới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam (IVNC320905)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Tiểu luận
Môn học: Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam TÊN ĐỀ TÀI
LỄ HỘI VÀ SỰ BIẾN TƯỚNG CỦA LỄ HỘI
TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
MÃ SỐ LỚP HP: IVNC320905_02
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu Danh sách sinh viên MSSV
1. Nguyễn Trần Hoàng Anh – 15141096 2. Lại Quang Phát – 19110424 3. Đặng Hữu Phúc – 19110432 4. Trần Duy Phương – 19110439 5. Trần Nhất Quang – 19110442 6. Võ Gia Thịnh – 19133053
TP.HỒ CHÍ MINH – 12/2020 Bảng phân công Thứ Nhiệm Vụ Thực Hiện Kết Quả Tự Trần Duy Phương Hoàn thành 1 Nội dung chương 1 Đặng Hữu Phúc 100% Nguyễn Trần Hoàng Anh Hoàn thành 2 Nội dung chương 2 Võ Gia Thịnh 70% Đặng Hữu Phúc Hoàn thành 3 Mở đầu, kết luận Lại Quang Phát 100% Tổng hợp nội dung và Hoàn thành 4 Trần Nhất Quang làm tiểu luận 100% ĐIỂM: TIÊU CHÍ NỘI DUNG BỐ CỤC TRÌNH BÀY TỔNG ĐIỂM SỐ NHẬN XÉT CỦA GV: GV ký tên Mục Lục
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài...............................................................1
3. Phương pháp thực hiện đề tài....................................................................2
4. Cấu trúc đề tài...........................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................3
CHƯƠNG 1: Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc......................................3
1.1. Quan điểm về vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin....................3
1.2. Quan điểm về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh..................3
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh.......................................................3
1.2.2. Thực chất vấn đề dân tộc là vấn đề thuộc địa..............................6
1.2.3. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước..................8
CHƯƠNG 2: Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc trong công
cuộc đổi mới hiện nay.........................................................................................10
2.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.....................................................10
2.2. Tầm quan trọng của quan điểm trong công cuộc đổi mới hiện nay.....12
2.3. Vận dụng vào trong công cuộc đổi mới hiện nay................................13
2.3.1. Cần quán triệt sâu sắc................................................................13
2.3.2.Quan điểm, đường lối trong việc giải quyết vấn đề dân tộc quốc
gia......................................................................................................................15
2.3.3. Quan điểm, đường lối giải quyết vấn đề dân tộc trong nước....17
2.3.4......Tiếp tục kiên trì giải quyết một số vấn đề cơ bản liên quan đến
dân tộc...............................................................................................................17
PHẦN KẾT LUẬN...........................................................................................19 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lễ hội là một trong những nét văn hóa nổi bật không chỉ riêng Việt Nam
mà trên toàn thế giới hầu như nước nào cũng có lễ hội. Lễ hội ra đời là sự kết
tinh của niềm tin và nét văn hóa lâu đời của các dân tộc trên thế giới. Lễ hội đã
làm thay đổi một phần trong cuộc sống của con người trong suốt chiều dài lịch
sử. Trải qua hàng ngàn năm phát triển, lễ hội đã không ngừng phát triển theo
nhiều cách khác nhau. Và đồng thời qua đó lễ hội cũng đang dần biến tướng
theo thời gian. Hiện nay tại Việt Nam, việc lễ hội bị biến tướng đang dần trở
thành một vấn nạn. Do đó nhiệm vụ của chúng ta là phải tim ra được nguyên
nhân và tìm cách khắc phục nó. Hiểu được vấn đề đó nhóm em quyết định chọn
đề tài : “Lễ hội và sự biến tướng của lễ hội trong thời đại ngày nay” làm đề tài
tiểu luận của nhóm mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của tiểu luận là giới thiệu sơ lược về lễ hội tại Việt Nam, làm rõ
được sự biến tướng lễ hội và qua đó đưa ra các biện pháp cụ thể nhằm khắc phục vấn đề này.
Nhiệm vụ của tiểu luận gồm 2 nhiệm vụ chính:
- Giới thiệu được một cách tổng quát và đầy đủ nhất về lễ hội tại Việt Nam
- Nêu lên thực trạng, nguyên nhân và đưa ra giải pháp ngăn chặn sự biến
tướng lễ hội hiện nay tại Việt Nam.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên một số phương pháp cụ thể như: lịch sử -
logic, phân tích, tổng hợp, quy nạp - diễn dịch…và được tham khảo từ các
nguồn trên sách và internet.
4. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu luận được chia làm 2 chương.
Chương 1: Lễ hội tại Việt Nam 1
Chương 2: Sự biến tướng của lễ hội và biện pháp khắc phục 2 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LỄ HỘI TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm lễ hội
Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là
hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người
với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc
sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo,
của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. nghệ thuật
Lễ hội là hoạt động tập thể và thường có liên quan đến tín ngưỡng, tôn
giáo. Con người xưa kia rất tin vào trời đất, thần linh. Các lễ hội cổ truyền phản
ảnh hiện tượng đó. Tôn giáo rất có ảnh hưởng tới lễ hội. Tôn giáo thông qua lễ
hội đê phô trương thanh thế, lễ hội nhờ có tôn giáo đề thần linh hóa những thứ
trần tục. Nhưng trải qua thời gian, trong nhiều lễ hội, tính tôn giáo dần giảm bớt
và chỉ còn mang nặng tính văn hóa.
1.2. Tổng quan về lễ hội tại Việt Nam
Theo thống kê 2009, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có
7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ
hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 41 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn
lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc
Ninh, Hà Nam, Hải Dương và Phú Thọ.
Việt Nam là một quốc gia đã có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như nhiều
quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có một nền văn hóa mang bản sắc riêng.
Chính những nét đó làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là vùng văn
hóa rất đặc trưng. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian hầu như có mặt ở khắp
mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách đây hàng nghìn năm đến nay vẫn
được duy trì. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng
liêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Đó chính là hình ảnh hội tụ những 3
phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Giúp con người nhớ về nguồn cội,
hướng thiện và nhằm tạo dựng một cuộc sống tốt lành, yên vui.
Lễ hội truyền thống ở Việt Nam thường diễn ra vào mùa Xuân và số ít
vào mùa Thu là hai mùa đẹp nhất trong năm, đồng thời cũng là lúc nhà nông có
thời gian nhàn rỗi. Trong số các lễ hội Việt Nam thì phải kể đến những lễ hội chi
phối hầu hết các gia đình trên mọi miền tổ quốc, đó là Tết Nguyên Đán, Lễ Vu
Lan và tết Trung Thu. Gần đây một số lễ hội được nhà nước và nhân dân quan
tâm như: Lễ hội đền Hùng,Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, Giáng Sinh, Hội Phật Tích.
Một số lễ hội lớn ảnh hưởng cả một vùng rộng lớn, tiêu biểu như: hội
Gióng (xứ Kinh Bắc), lễ hội đền Hùng (Xứ Đoài), lễ hội chùa Bái Đính, Hội
Lim(Kinh Bắc) phủ Dày,(xứ Sơn Nam), lễ hội Yên Tử, lễ hội bà chúa Xứ (An
Giang), Lễ hội pháo hoa Quốc tế Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng)...
1.3. Phân cấp lễ hội
Khác với các di tích Việt Nam đã được kiểm kê và phân cấp theo quy định,
các lễ hội ở Việt Nam chưa được quy định phân cấp bài bản. Có những lễ hội bị
biến tướng, trần tục hoá, mở hội tràn lan... nhiều ý kiến đề xuất việc kiểm kê các
lễ hội trên toàn quốc để tiến tới phân cấp lễ hội theo các cấp: lễ hội cấp quốc gia,
lễ hội cấp tỉnh, lễ hội cấp huyện và lễ hội cấp làng. Theo bà Lê Thị Minh Lý -
Phó Cục trưởng Cục Di sản Văn hoá, điểm yếu trong việc quản lý lễ hội hiện
nay đó là chưa có cơ sở dữ liệu khoa học và quan điểm tiếp cận đúng.[3] Không
nên đánh đồng giữa lễ hội và festival.
Tùy vào từng thời điểm, vào chủ thể mà lễ hội hiện nay được tổ chức ở
nhiều cấp khác nhau. Ví dụ như lễ hội đền Hùng được tổ chức ở quy mô quốc
gia 5 năm/ lần. Những năm số lẻ thì lại được tổ chức ở quy mô cấp tỉnh. Các lễ
hội thường được tổ chức ở quy mô cấp tỉnh như hội Lim, lễ hội Lam Kinh
(Thanh Hóa), lễ hội đền Trần (Nam Định)... Các lễ hội ở quy mô cấp huyện tiêu
biểu như lễ hội đền Nguyễn Công Trứ ở Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái
Bình) để tưởng niệm người chiêu dân thành lập huyện. Các lễ hội diễn ra ở đình
Làng là lễ hội cấp nhỏ nhất, chỉ với quy mô làng, xã. 4
Đặc biệt, Việt Nam ta đã có rất nhiều lễ hội được công nhận là di sản của
Quốc gia. Tính đến hết năm 2014, Việt Nam có 27 lễ hội được đưa vào danh
mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia gồm:
- 12 lễ hội được công nhận theo Quyết định số 5079/QĐ-BVHTTDL ngày
27/12/2012 là: Hội Gióng đền Phù Đổng và đền Sóc (Hà Nội), hội Lim (Bắc
Ninh), Lễ hội Thổ Hà (Bắc Giang), Lễ hội Nhảy lửa của người Pà Thẻn (Hà
Giang), Lễ hội Kiếp Bạc (Hải Dương), Lễ hội Chọi trâu Đồ Sơn (Hải Phòng), Lễ
hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa (Khánh Hòa), Lễ hội Gầu Tào (Lào Cai, Hà Giang),
Lễ hội Kỳ Yên ở đình Gia Lộc (Tây Ninh), Lễ hội Tháp Bà (Ponagar) Nha Trang
(Khánh Hòa), Lễ hội Lồng Tông của người Tày (Tuyên Quang).
- 4 lễ hội được công nhận theo Quyết định số 3084/QĐ-BVHTTDL ngày
9/9/2013: Lễ hội Phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định; Lễ
hội chùa Vĩnh Nghiêm, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang và Lễ hội
Nghinh Ông, huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh,hội làng Đồng Kị(Bắc Ninh)
- 2 lễ hội được công nhận theo Quyết định số 3820/QĐ-BVHTTDL ngày
31/10/2013: Lễ hội Roóng poọc của người Giáy (Tả Van, Sa Pa, Lào Cai) và Lễ
Pút tồng của người Dao đỏ (Sa Pa, Lào Cai).
- 10 lễ hội được công nhận theo Quyết định số 4205/QĐ-BVHTTDL ngày
22/12/2014: Lễ hội Đền Trần Nam Định, Lễ hội Hoa Lư Ninh Bình, Lễ hội miếu
Bà Chúa Xứ núi Sam An Giang, Lễ hội Lồng tồng Ba Bể Bắc Kạn, Lễ hội làng
Lệ Mật Hà Nội, Lễ hội Khô già của người Hà Nhì đen, Đại lễ Kỳ Yên đình Tân
Phước Tây - Long An, Lễ hội vía Bà Ngũ hành Long An, Lễ làm chay (Long
An), Lễ hội Rước cộ Bà chợ Được (Quảng Nam).
1.4. Một số lễ hội tiêu biểu của Việt Nam
1.4.1. Lễ hội tại vùng Tây Bắc và Việt Bắc
Lễ hội Lồng Tồng: Là lễ hội truyền thống đặc trưng của cộng đồng người
Tày, được tổ chức thường niên vào tháng Giêng, tháng Hai âm lịch theo từng địa
phương. Lễ hội là dịp để bà con khắp nơi cầu phúc lộc, mùa màng bội thu, cuộc 5
sống bình yên, no ấm hạnh phúc. Nhiều trò chơi dân gian cổ truyền như ném
còn, bịt mắt bắt dê, hát lượn… được tổ chức trong lễ hội này.
Lễ hội cầu an bản Mường: Là lễ hội truyền thống của bà con dân tộc Thái
ở Mai Châu, Thuận Châu, Mộc Châu và đồng bào dân tộc Mường. Lễ hội cầu an
bản Mường là sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có ý nghĩa quan trọng đối với cộng
đồng các dân tộc thiểu số ở vùng Tây Bắc. Lễ hội thường được tổ chức vào cuối
tháng Giêng, đầu tháng Hai âm lịch hằng năm; được gắn với tục giết trâu và tạ
thần linh thể hiện qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng… Lễ hội có nhiều
hoạt động liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh, mùa màng hay
sức khỏe của cả cộng đồng trong năm diễn ra lễ hội.
Lễ hội hoa ban: Hay còn được gọi là hội Xên bản, Xên mường – một lễ hội
của đồng bào dân tộc Thái. Lễ hội được tổ chức vào mùa hoa ban nở trắng núi
rừng Tây Bắc, tức là vào dịp tháng Hai âm lịch. Lễ hội hoa ban được mệnh danh
là ngày hội của tình yêu đôi lứa, ngày hội của hạnh phúc gia đình, hội cầu mùa
màng tươi tốt, cuộc sống no ấm nơi bản mường, và cũng là dịp để bà con và du
khách tham gia các trò chơi, thi tài, hát giao duyên trong những đêm trăng sáng.
1.4.2. Lễ hội tại vùng Châu thổ Bắc Bộ
Lễ hội Đền Hùng: Hẳn chúng ta đều đã quá quen thuộc với câu ca dao: “Dù
ai đi ngược về xuôi – Nhớ ngày Giỗ tổ mùng mười tháng ba”, và hễ nhắc đến
câu ca dao này là ai ai cũng nhớ đến ngày Giỗ tổ Hùng Vương. Đây là một trong
những lễ hội lớn mang tính chất quốc gia, được tổ chức hàng năm nhằm để
tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước. Không biết từ bao giờ, phong
tục giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành một truyền thống văn hoá ở nước ta. Cứ
vào mùa xuân là lễ hội diễn ra và kéo dài từ mùng 8 – 11/03 âm lịch, trong đó
mùng 10 là chính hội. Lễ hội hàng năm thu hút rất đông lượt khách du lịch trong
nước và quốc tế thành tâm về chiêm bái.
Lễ hội chùa Hương – Hà Nội (Mỹ Đức, Hà Tây cũ): Mùa xuân đi trảy hội
chùa Hương đã không còn xa lạ với nhiều người dân Việt Nam nói chung và
người dân miền Bắc nói riêng. Khi hội chùa Hương không phải chỉ để đi lễ Phật, 6
mà còn để thưởng ngoạn những cảnh đẹp của sông núi nơi đây, để cảm nhận
những sự tuyệt vời đến bình yên của thiên nhiên mang lại cho mỗi chúng ta ở
vùng đất này. Lễ hội Chùa Hương hàng năm đều diễn ra từ 6 tháng Giêng cho
đến hết tháng Ba âm lịch. Được đánh giá là một trong những lễ hội diễn ra trong
thời gian dài nhất, thu hút đông đảo du khách đổ về đây đề đi lễ cầu tài, cầu lộc
kết hợp với du lịch thưởng ngoạn.
Lễ hội Yên Tử – Quảng Ninh: Nhắc đến Yên Tử người ta lại nhớ đến câu:
“Trăm năm tích đức tu hành – Chưa đi Yên Tử chưa thành quả tu” quả không
sai. Đến Quảng Ninh, ngoài vịnh Hạ Long là một trong 7 kỳ quan thiên nhiên
của thế giới, thì không thể không nhắc đến Thiền Viện Trúc Lâm – chốn linh
thiêng mà bất cứ Phật tử nào cũng mong muốn được viếng thăm dù chỉ một lần.
Tương truyền, Yên Tử là trung tâm Phật giáo của nước Ðại Việt xa xưa, là nơi
phát tích của thiền phái Trúc Lâm. Đến lễ hội chùa Yên Tử, du khách sẽ có cơ
hội được thoát ra khỏi thế giới trần tục, để thực hiện cuộc hành hương tôn giáo
độc đáo giữa chốn thiên nhiên hùng vĩ. Hàng năm, lễ hội kéo dài từ ngày 10
tháng Giêng đến hết tháng Ba âm lịch, thu hút nhiều du khách thập phương đến
viếng Chùa vào mùa du lịch lễ hội tại Việt Nam.
1.4.3. Lễ hội tại vùng Trung Bộ
Lễ hội cầu Ngư: Là lễ hội của nhân dân làng Thái Dương hạ (thuộc thị trấn
Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế), được tổ chức vào ngày 12
tháng Giêng âm lịch hàng năm. Ba năm một lần làng lại tổ chức đại lễ rất linh
đình. Lễ hội để tưởng nhớ Trương Quý Công (biệt danh là Trương Thiều) – vị
thành hoàng của làng. Ông là người gốc Thanh Hoá, đã có công dạy cho dân
nghèo cách đánh cá và buôn bán ghe mành.
Lễ hội cầu Ngư có các trò chơi mô tả cảnh sinh hoạt của nghề đánh cá, đặc
sắc là hình ảnh “bủa lưới” mang ý nghĩa trình nghề, khắc họa đậm nét nghi lễ
dân gian của cư dân vùng ven biển.
Lễ hội Lam Kinh: Diễn ra tại khu di tích Lam Kinh (thuộc địa bàn xã Xuân
Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), mảnh đất quê hương của vị anh hùng 7
dân tộc Lê Lợi và nhiều danh tướng nổi tiếng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Địa
danh Lam Kinh còn là khu di tích có quy mô lớn về các đời vua, hoàng tộc của
thời nhà hậu Lê và các danh tướng đương thời.
Vào ngày 22 tháng 8 âm lịch hàng năm, nhân dân các vùng ở miền Bắc nô
nức kéo về điện Lam Kinh để dự lễ tưởng niệm Lê Lợi và các danh tướng nhà
Lê – những người đã có công lao đánh tan giặc Minh xâm lược, giành độc lập
cho dân tộc, và xây dựng đất nước.
Trong lễ hội, phần nghi thức rước kiệu từ lăng vua Lê Thái Tổ về đền thờ
được tổ chức rất trang trọng, uy nghiêm. Kết thúc phần lễ dâng hương tưởng
niệm, du khách sẽ có dịp tham quan quần thể di tích Lam Kinh, xem các điệu
múa như múa Xuân Phả hay chơi các trò chơi dân gian truyền thống như Bình Ngô phá trận…
Lễ hội Dinh Thầy – Thím: Từ lâu, lễ hội này đã trở thành nét văn hóa đặc
sắc riêng biệt của tỉnh Bình Thuận. Vào ngày 14 đến 16 tháng 9 âm lịch hàng
năm, ngay chính tại khu di tích lịch sử – văn hóa Dinh Thầy – Thím (xã Tân
Tiến, thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận) lại diễn ra lễ hội lớn nhân ngày giỗ của Thầy – Thím.
Vào dịp lễ hội, đông đảo người dân địa phương và du khách đến cầu
nguyện sức khỏe, hạnh phúc cho gia đình, họ hàng và công việc làm ăn hanh
thông. Ngoài các nghi lễ xưa vẫn được bảo tồn, trong phần hội còn có nhiều trò
chơi dân gian thu hút như: chèo Bả Trạo, diễn xướng tích Thầy, biểu diễn võ
thuật, thi lắc thúng, gánh cá đi bộ, múa rồng… tạo nên không khí lễ hội sôi động.
1.4.4. Lễ hội tại vùng Tây Nguyên
Lễ cơm mới: Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây nguyên, thần lúa
là được tôn trọng không kém các thần khác. Sau khi thu hoạch hàng năm, người
ta tổ chức lễ ăn cơm mới, để tạ ơn thần, và thể hiện sự vui mừng chung hưởng
kết quả của một quá trình mệt nhọc. 8
Lễ mừng thu hoạch của người Mạ là lễ hội lớn nhất trong năm và thường
kéo dài 7 ngày. Lễ ăn cơm mới của người Bana chỉ diễn ra trong ba ngày, khi đã
bắt đầu thu hoạch. Và lễ Sơmắh Kek diễn ra khi gặt lúa đại trà. Cuối cùng là lễ đóng cửa kho.
Hội đua voi: Được tổ chức hằng năm vào tháng Ba âm lịch, hội diễn ra ở
Buôn Đôn hoặc ở những cánh rừng thưa nằm ven dòng sông Sêvepốc.
Trước khi vào cuộc đua, một tiếng tù và cất lên, từng tốp voi được nhưng người
quản tượng điều khiển đứng vào vị trí xuất phát. Khi có lệnh xuất phát, những
chú voi sẽ thi nhau phóng về phía trước trong tiếng chiêng, trống, hò reo cổ vũ vang cả núi rừng.
1.4.5. Lễ hội tại vùng Nam Bộ
Lễ hội Bà Chúa Xứ: Là lễ hội dân gian lớn nhất ở Nam Bộ. Lễ hội được tổ
chức từ đêm ngày 23 đến 27 tháng Tư âm lịch hàng năm. Trong những ngày lễ
diễn ra tại miếu Bà Chúa xứ ở núi Sam (tỉnh An Giang), nhiều hoạt động văn
hóa như múa bóng, hát bội diễn ra.
Đêm ngày 23, nghi thức tắm Bà diễn ra thu hút đông đảo người xem. Sau
đó tượng Bà được đưa xuống và dùng nước mưa pha với nước hoa để tắm. Lễ
vía Bà hàng năm thu hút du khách thập phương đến tham dự lễ hội dân gian, cầu
tài lộc, và cũng là dịp chiêm ngưỡng cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp ở núi Sam và
các di tích lịch sử xung quanh như: Lăng Thoại Ngọc Hầu, Chùa Tây An…
Lễ hội Ok Om Bok: Lễ hội có tên khác là lễ cúng Trăng của đồng bào dân
tộc Khmer Nam Bộ, được tổ chức vào đúng hôm rằm và được bắt đầu từ khi trăng lên.
Xuất phát từ tín ngưỡng dân gian, mặt trăng được biết là thần bảo vệ mùa
màng, nên người Khmer thường tổ chức lễ hội Ok Om Bok vào ngày rằm tháng
10 âm lịch hằng năm như để cảm ơn các vị thần đã cho mưa thuận, gió hòa và
mùa bội thu… Theo phong tục của người Khmer, sau lễ cúng Trăng sẽ là hội đua
nge ngo, thu hút hàng chục vạn người tham gia hưởng ứng 9
CHƯƠNG 2: Sự biến tướng của lễ hội và biện pháp khắc phục
2.1. Thực trạng về sự biến tướng của lễ hội
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, chúng ta đã
có phần buông lỏng chỉ đạo, quản lý trên một số lĩnh vực văn hóa - xã hội, xem
nhẹ việc giáo dục nếp sống và lối sống thiếu sự hướng dẫn kịp thời về phong
tục, thiếu những quy định cụ thể của Nhà nước đối với lễ hội nên đã để phát sinh
nhiều hiện tượng phản cảm trong xã hội.
Thực tế đã diễn ra nhiều tình huống đáng tiếc không đáng có như mất cắp
điện thoại, ví tiền, bị rạch túi, bị lừa đảo mua hàng hoặc ép giá, chèo kéo mồi
chài tham gia các trò chơi mang tính chất cá cược, v.v.. Nhiều vụ tai nạn, va
chạm xích mích chỉ từ sự lộn xộn, chật chội của địa hình, địa thế (như trong hậu
cung chật hẹp, nơi hóa vàng mã không rộng rãi, đường đi quanh co khúc khủy,
bãi đỗ xe lắt léo hoặc trên môi trường sông nước, bến bãi...) mà có thể dẫn đến
thương tật suốt đời hoặc án mạng tại chỗ... Điều đáng tiếc xảy ra do cả nguyên
nhân từ người đi dự hội, du khách... lẫn cơ quan, chính quyền địa phương sở tại.
Tệ nạn ở các lễ hội, đặc biệt là trong các lễ hội truyền thống tập trung đông
người đang gia tăng. Những đối tượng cờ bạc thường lợi dụng tâm lý tò mò, cả
tin, cầu may và hám lợi của người dân để dụ dỗ cò mồi người đi lễ hội, tham
quan di tích chơi xóc đĩa, đánh bài, đánh cờ thế, hoặc đánh bạc theo hình thức
“tôm, cua, cá, bầu", thò lò, tung vòng trúng thưởng, v.v.. Mùa lễ hội cũng là mùa
cờ bạc ẩn hình bằng nhiều trò vui chơi có thưởng, thu hút nhiều người, được coi
như một hình thức tiêu khiển vui vẻ được thua là “lì xì” đầu năm hay “tán lộc”,
xua đuổi vận đen để đón năm mới.
Tệ nạn xã hội tại di tích, lễ hội, dù dưới hình thức công khai hay trá hình,
lén lút, giấu giếm... đều là “mặt xám” của tổng thể các hoạt động văn hóa và tâm
linh xảy ra trong kỳ dịp hoặc thường xuyên, khiến chất lượng và uy tín của lễ
hội bị ảnh hưởng, giảm sút, thậm chí tạo nên hiệu ứng tâm lý không tốt cho đối
tượng người hành lễ, du khách tham quan (nhất là trong trường hợp chính họ là nạn nhân). 10
Đối với các di tích, những cổ vật, bảo vật thường liên quan tới quá trình thờ
phụng thần thánh ở địa phương. Sự “vô tư” của người dân trong ứng xử với hiện
vật, cổ vật, không quan tâm đến giá trị trao đổi với tư cách là hàng hóa đặc biệt -
di sản văn hóa lâu đời do cha ông để lại - đã vô tình trở thành mồi ngon cho
những kẻ bất lương (trộm cắp hoặc mua rẻ), những người buôn bán trái phép cổ
vật, báu vật quốc gia có cơ hội hành nghề. Hoặc giả sự “vô tư’ của người dân sẽ
tạo cơ hội cho những kẻ xấu tráo đổi cổ vật bằng hình thức dâng tiến đồ tế tự
mới (thay cho đồ cũ) nhằm trục lợi, v.v..
Thực trạng này đang ở mức báo động vì sự thất thoát và hư hại di vật, cổ
vật ngày càng gia tăng. Nếu tiếp tục buông lỏng quản lý, thiếu kiểm soát chặt
chẽ sẽ làm thất thoát đi một khối, lượng không nhỏ di sản cổ vật, hiện vật,
những tài sản đặc biệt đang nằm rải rác trong các di tích, trong đời sống cộng đồng rất nhiều.
Tình trạng ô nhiễm môi trường thường xuyên xảy ra ở các di tích, danh
thắng và trong các lễ hội
Nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến môi trường khu di tích
và danh thắng là do tốc độ đô thị hóa nhanh, hạ tầng cơ sở kém, nhà dân lấn
chiếm khuôn viên di tích sát khu thờ cúng tạo nên khung cảnh phản cảm, gây
mất mỹ quan và những hành vi thiếu ý thức của người dân khi lấn chiếm di tích,
hành lang, lề đường làm nơi buôn bán, tập kết hàng hóa làm dịch vụ buôn bán.
Một bộ phận du khách thiếu ý thức khi xả rác sinh hoạt bừa bãi, đốt hương, đốt
vàng lạm dụng vượt quá sinh hoạt tín ngưỡng. Hoặc viết, vẽ bậy lên tường, vách
đá, gốc cây, nói tục, xúc phạm tâm linh… ảnh hưởng xấu tới không khí trang
nghiêm của lễ hội, di tích và danh thắng.
Thương mại, dịch vụ trong lễ hội bị “biến tướng”. Dịch vụ trong các lễ hội
gồm có: dịch vụ ăn nghỉ (quán ăn uống, quán trọ, nhà hàng, khách sạn); dịch vụ
phục vụ phương tiện đi lại như xe cộ, xuồng, đò, trông giữ xe máy, xe đạp, ô
tô...; dịch vụ vệ sinh môi trường, thu gom rác thải; dịch vụ văn hóa, tín ngưỡng:
chụp ảnh, tổ chức các trò chơi xem biểu diễn nghệ thuật, mua bán đồ lễ, sách và 11
các loại văn hóa phẩm, đồ lưu niệm... ở nhiều nơi trong thời gian diễn ra lễ hội
đã bị “biến tướng” lạm dụng quá mức khiến cho không gian chợ búa thương mại
lấn át không gian văn hóa, làm xấu đi hình ảnh đẹp của di tích và lễ hội. Vì vậy
cần xem xét nhu cầu của người dự lễ hội, khách hành hương về đi lại, ăn, ở,
hướng dẫn tham quan, mua sắm, vui chơi giải trí để phục vụ, bảo đảm chất
lượng, đem lại danh tiếng và uy tín cho di tích, lễ hội.
Công tác tuyên truyền, quảng bá cho di tích, danh thắng và lễ hội ở một số
địa phương chưa được chú trọng, thông tin về di tích, danh thắng còn hạn chế
Còn thiếu những tài liệu cẩm nang về khu di tích, danh thắng để phục vụ du
khách. Văn hóa phẩm, đồ lưu niệm phục vụ khách tham quan còn mang tính tự
phát, do dân nghĩ, dân làm nên thiếu định hướng, thiếu bàn tay chuyên môn. Sản
phẩm lưu niệm còn xấu, thiếu sự đa dạng, vật liệu mong hỏng và không thể hiện
được đặc trưng của khu di tích, danh thắng, lễ hội. Hiện tượng các “hướng dẫn
viên không chuyên” tranh giành giới thiệu di tích để áp đặt thù lao bất hợp lý
dẫn đến làm mất trật tự và tình cảm tốt đẹp của du khách thập phương, ảnh
hưởng xấu tới việc thu hút khách tham quan di tích.
Thực trạng xấu trong lễ hội có khi còn bắt nguồn từ phía du khách khi họ
tham dự các lễ hội truyền thống ở địa phương. Du khách đến tham quan di tích,
di sản văn hóa ở mọi miền đất nước nhằm thỏa mãn nhiều nhu cầu, trong đó có
nhu cầu nâng cao tri thức, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu hiểu biết về văn hóa, du
lịch, tâm linh ở vùng đất mới...
Đã có không ít trường hợp trớ trêu xảy ra khi du khách, người hành hương
tới di tích, danh thắng và lễ hội với tâm thế và thái độ trịch thượng của người
lắm tiền nhiều của, muốn dùng đồng tiền để tha hóa hành vi và nhân cách người
dân sở tại. Thái độ cư xử không đúng mực, tùy tiện, không tôn trọng cộng đồng
qua lời ăn tiếng nói, giao tiếp thông thường cũng xảy ra khá thường xuyên.
Thực tế đã diễn ra ở nhiều địa phương cho thấy tác động tiêu cực từ hoạt
động mở cửa đón khách du lịch và khách hành hương đến các di tích, danh
thắng và lễ hội. Họ đã để lại cho địa phương có di sản văn hóa nhiều hệ lụy về 12
môi trường, đặc biệt là cảnh quan môi trường sinh thái tự nhiên. Sự thiếu ý thức
của du khách, nhất là du khách đến và đi với số lượng lớn đã tạo ra “núi rác”
khổng lồ từ vỏ lon bia, vỏ chai đựng nước, các loại bao bì, giấy gói đủ loại
lương thực và thực phẩm họ mang theo trên đường đến với các vùng miền trên
đất nước. Bên cạnh các chất thải vô cơ đã nêu, những chất thải hữu cơ để lại như
thức ăn thừa, các loại sản phẩm của quá trình đồng hóa và dị hóa tự nhiên của
con người… cũng góp phần tạo ra bầu không khí bị ô nhiễm và gây mất vệ sinh
cho địa điểm họ vừa tạm thời dừng chân trên hành trình của mình - nhưng đó là
vùng đất sinh tồn của biết bao người dân tại chỗ.
Chúng ta cũng còn thấy cây cối, vườn tược, đồng ruộng, nương, rừng... có
thể trở nên xác xơ vì bị du khách tham quan, người đi hành lễ, du xuân… vịn
cây bẻ cành, ngắt hoa, hái lá, hái lộc. Sông suối, ao hồ có thế bị ô nhiễm nghiêm
trọng vì các loại chất thải vứt vô tội vạ xuống dòng nước, mà có khi đó là hệ quả
của hành động vô tư của khách tham quan (ví dụ thả mồi cho cá ăn; lội nước
nghịch vui, hoặc tham gia trò chơi dưới nước, hoặc tham gia câu cá giải trí, v.v.).
Di tích có thể bị chặt, cắt, cưa xẻ, vẽ bậy hoặc tráo đổi vị trí, hoặc can thiệp
làm cho tươi mới theo quan điểm hiện đại... khiến diện mạo di tích cổ kính quý
giá với khung cảnh cây cối, ao, hồ, sông suối, đường đi, bến bãi... bị biến dạng
theo chiều hướng phá hoại di tích, danh thắng và lễ hội không phải là hiếm gặp
sau mỗi kỳ tổ chức lễ hội; hoặc sau mỗi đợt du khách tham quan ghé qua trong
các dịp cao điểm trong năm.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến sự biến tướng
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc lễ hội bị biến tướng tiêu biểu như:
Chính vì nếp sống tùy tiện, thiếu ý thức của một bộ phận du khách và
người dân, sự buông lỏng quản lý của cơ quan quản lý văn hóa và các cấp chính
quyền là nguyên nhân gây nên sự xô bồ, mất trật tự, khiến cho trật tự an toàn
chưa đảm bảo, nạn trộm cắp, lừa đảo, ăn xin, ùn tắc giao thông, chen lấn xô đẩy
diễn ra khá phổ biến trong các lễ hội và khu di tích danh thắng. 13
Những hình thức lễ lạt tốn kém, rườm rà, bất nhã có xu hướng phục
hồi. Những nhận thức lệch lạc dẫn đến những hành động khiến xã hội phải
“phàn nàn” nhiều như là rắt tiền lên tay tượng Phật, đặt tiền lẻ không chỉ lên nơi
quy định mà hầu như bất cứ vị trí nào trên ban thờ, trên bệ tượng, chuông,
khánh, dưới giếng nước… Đồ hàng mã (voi, ngựa, hình nhân thế mạng, xe cộ,
nhà cửa, điện thoại, vv.) đều làm to hơn hoặc to bằng đồ thật; tiền vàng mã chất
đống chờ tiêu hóa, kim ngân, v.v…Dịch vụ sắm lễ, đội lễ, khấn thuê trở nên phổ
biến công khai và trở thành một trong những dịch vụ ăn khách. Xin xăm, xóc
thẻ, giải quẻ thẻ là hiện tượng không hiếm gặp ở các di tích trong kỳ lễ hội.
Ý thức thực hiện nếp sống văn minh tại di tích, danh thắng và đặc biệt là
khi tham gia lễ hội của một bộ phận người dân vẫn còn hạn chế.
Những hành vi vi phạm, làm sai lệch hoặc hủy hoại và thất thoát cổ vật,
hiện vật chủ yếu từ những nguyên nhân sau: Do thiếu hiểu biết về giá trị của
hiện vật, cổ vật nên không coi trọng, không có ý thức bảo vệ, bị lừa gạt đem đổi
những thứ không có giá trị, hoặc sửa chữa, sơn phết không có căn cứ khoa học
làm biến dạng so với nguyên bản. Do tâm lý chủ quan của chính quyền địa
phương và người dân trong công tác bảo vệ di tích, cổ vật. Các vụ mất trộm cổ
vật khó tìm được thủ phạm để trừng trị trước pháp luật vì hoat động tinh vi
khiến cho tính răn đe trong công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này
chưa cao. Do hám lợi, những cổ vật, di vật bị ăn cắp tại các di tích thường được
một nhóm người tiến hành thu gom nhiếu vật quý trong cộng đồng để móc nối,
buôn bán kiếm lợi bất chính.
Một bộ phận người dân không được hướng dẫn rõ ràng về ý thức giữ gìn
nét văn hóa trong xã hội nên đã thuận theo số đông mà làm.
Công tác tuyên truyền, vận động vẫn chưa thật sự hiệu quả.
Chưa có hình phạt cũng như biện pháp răn đe hiệu quả hơn cho các hành
động làm mất văn hóa trong lễ hội. 14
Một phần là do chúng ta đang thương mại hóa lễ hội quá nhiều từ một lễ
hội truyền thống, mang tính dân tộc chúng ta đang dần biến lễ hội thành một
ngành dịch vụ kiếm ra tiền.
2.3. Biện pháp khắc phục
Từ thực trạng đã nêu (một cách chưa thực sự đầy đủ và đa dạng) ở trên
đang đặt ra vấn đề quản lý và tổ chức lễ hội truyền thống hiện nay phải có
những đổi thay theo kịp sự đổi thay của thực trạng lễ hội. Để lễ hội vẫn giữ được
bản sắc văn hóa, công tác tổ chức và quản lý lễ hội hiện nay đòi hỏi phải giải
quyết đồng bộ mối quan hệ nhiều chiều trong đời sống văn hóa - xã hội, giữa du
lịch, kinh tế... và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Để làm được điều đó điều ta cần làm đó là:
Tổ chức tuyên truyền, vận động mọi người về việc giữ gìn nét văn hóa đẹp
trong lễ hội. Kết hợp cả vào việc giảng dạy trong nhà trường để rèn luyện ý thức
của lớp trẻ phải biết giữ gìn nét văn hóa đẹp trong lễ hội.
Mọi người ra sức thực hiện tốt các chỉ đạo của nhà nước và cộng đồng
nhằm nâng cao nhận thức cũng như hành động của mình trong các hoạt động văn hóa lễ hội.
Các tổ chức cá nhân đang lợi dụng lợi hình lễ hội để kinh doanh, chuộc lợi
mà không để ý đến những biến tướng đang diễn ra, thì cần phải nhận thức ra
được điều này để chấn chỉnh lại càng sớm càng tốt. Nhằm góp phần nâng cao
chất lượng lễ hội trong mắt không chỉ người dân trong nước mà còn cả bạn bè quốc tế.
Nhà nước và cộng động cần ra các hình phạt nhằm tăng tính răn đe hơn.
Cũng như tổ chức tăng cường an ninh tại các khu vực lễ hội. Ra sức bài trừ các
hiện tượng tiêu cực tại lễ hội. Cần bắt đúng người truy đúng tội, hạn chế tham
nhũng trong bộ máy gây sự lỏng lẻo về an ninh khiến các cá nhân, tổ chức lách luật. 15
Quan trọng hơn hết đó là thế hệ trẻ chúng ta, những người đang nắm giữ
tương lai đất nước, phải ra sức học tập thật chăm chỉ. Không ngừng học hỏi
những điều tốt đẹp của bạn bè trong và ngoài nước. Cố gắng giữ gìn các lễ hội
cũng như những nét văn hóa tốt đẹp trong lễ hội để cho thế hệ mai sau. 16