Lý thuyết môn học Pháp luật bảo hiểm với nội dung về: Nhận thức giá trị của Bảo hiểm nhân thọ mang lại

Lý thuyết môn học Pháp luật bảo hiểm với nội dung về: Nhận thức giá trị của Bảo hiểm nhân thọ mang lại với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

 

Trường:

Học viện Tài chính 292 tài liệu

Thông tin:
5 trang 9 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Lý thuyết môn học Pháp luật bảo hiểm với nội dung về: Nhận thức giá trị của Bảo hiểm nhân thọ mang lại

Lý thuyết môn học Pháp luật bảo hiểm với nội dung về: Nhận thức giá trị của Bảo hiểm nhân thọ mang lại với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

 

88 44 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|38841209
Thái độ đối với rủi ro
Nếu “rủi ro” được định nghĩa là “sự không chắc chắn có thể có tác động
ch cực hoặc tiêu cực đến một hoặc nhiều mục tiêu hơn ”, và “ thái độ ”được
định nghĩa là “ trạng thái tâm trí, quan điểm tinh thần được lựa chọn hoặc bố
trí liên quan đến một sự kiện hoặc trạng thái ”, sau đó kết hợp cả hai để đưa ra
một định nghĩa hoạt động của "thái độ rủi ro" là "trạng thái tâm trí được lựa
chọn liên quan đến những điều không chắc chắn có thể có tác động tích cực
hoặc tiêu cực đến các mục tiêu ", hay đơn giản hơn là “ phản ứng được lựa
chọn đối với nhận thức về sự không chắc chắn đáng kể ”. (David Hillson/Ruth
Murray-Webster)
Trong cùng một tình huống, các thái độ khả thi có thể được áp dụng, và
những thái độ này dẫn đến các hành vi khác nhau, dẫn đến hậu quả, cả dự định
và ngoài ý muốn.
Mặc dù thái độ thể hiện qua hành vi, nhưng vẫn có những động lực khác
của hành vi mà có thể thay thế thái độ đã chọn hoặc ưu tiên. Mức độ mà điều
này xảy ra phụ thuộc về nhận thức của tình huống mà thái độ đang hướng tới.
Thái độ với rủi ro gồm: ghét rủi ro, thích rủi ro và trung lập với rủi ro.
Thang đo Thái độ rủi ro” được biểu diễn bởi các nhân tố:
- TĐ1: Tôi không quan tâm đến rủi ro khi đưa ra quyết định đầu tư.
- TĐ2: Tôi ít quan tâm đến rủi ro khi đưa ra quyết định đầu tư.
- TĐ3: Bình thường.
- TĐ4: Tôi quan tâm đến rủi ro.
- TĐ5: Tôi rất quan tâm đến rủi ro.
Nhận thức về giá trị của Bảo hiểm nhân thọ
Trước những năm 2000, khi thị trường bảo hiểm nhân thọ chưa phát
triển mạnh như bây giờ, việc dự phòng cho tương lai được mọi người suy nghĩ
chỉ là góp những khoản tiền tiết kiệm. Vì vậy, những khoản góp này khá tùy
hứng và thường không đủ để dùng khi rủi ro xảy ra. Hơn thế nữa, người tiêu
dùng có xu hướng không thích nhắc đến rủi ro, đề cập đến những việc không
may mắn. Điều này làm cho người ta không thực sự nghiêm túc nhìn nhận về
bảo hiểm nhân thọ.
Khi bảo hiểm nhân thọ dần xuất hiện ở Việt Nam, người dân cũng có rất
nhiều định kiến về nó. “Bảo hiểm mua dễ khó đòi” là tâm lý chung của rất
nhiều người khi đề cập đến vấn đề tham gia BHNT. Việc có cái nhìn định kiến
như vậy có rất nhiều nguyên nhân, do tâm lý người tiêu dùng, do công ty bảo
lOMoARcPSD|38841209
hiểm, do các đại lý và tư vấn viên,.. Sau những thập kỷ tồn tại và phát triển,
định kiến về bảo hiểm nhân thọ tuy vẫn còn tồn tại nhưng đã giảm đi nhiều,
mọi người dần có cái nhìn tích cực hơn về bảo hiểm.
Nhận thức về BHNT của người dân đang dần được thay đổi. Họ hiểu rõ
rằng rủi ro là không ai lường trước được, vì vậy cần phải có những biện pháp
tài chính để trang trải và đảm bảo chất lượng cuộc sống khi rủi ro không may
xảy đến. Theo báo cáo của Cục giám sát và Quản lý bảo hiểm (Bộ tài chính),
tốc độ tăng trưởng của ngành bảo hiểm các năm qua đều rất khả quan, cụ thể
trong những năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm đều
đạt trên 20%. Đây là dấu hiệu tích cực, khả quan cho sự phát triển của thị
trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.
Nền kinh tế, văn hóa, xã hội ở nước ta ngày càng phát triển, đi cùng với
đó, nhận thức của mọi người về lợi ích của BHXH ngày càng được nâng cao.
Việc tham gia BHNT không chỉ bảo vệ khi rủi ro xảy ra, mà còn có sự an tâm
về vấn đề tài chính,đồng tiền đóng phí được đảm bảo vì đây là việc tiết kiệm
cho tương lai của bản thân cũng như giúp ích cho sự phát triển của đất nước.
Thang đo mức độ ảnh hưởng của yếu tố hiểu biết về BHNT
- TH1: Tôi không biết về BHNT
- TH2: Tôi ít tìm hiểu về BHNT
- TH3: Tôi thường xuyên tìm hiểu về BHNT
- TH4: Tôi hiểu rõ về BHNT
Thương hiệu công ty Bảo hiểm
Thương hiệu là tên gọi, thuật ngữ thiết kế, hình tượng hoặc dấu hiệu khác
giúp phân biệt một tổ chức hoặc một sản phẩm với đối thủ trong mắt của người
tiêu dùng. Có hai khía cạnh gắn với thương hiệu là tâm lý và trải nghiệm. Trên
khía cạnh tâm lý, hình ảnh của mt thương hiệu là một kiến tạo biểu tượng
được tạo ra trong tâm trí người tiêu dùng và gợi lên tất cả những thông tin và
trông đợi gắn với sản phẩm hoặc dịch vụ có thương hiệu đó. Trải nghiệm về
một thương hiệu là tổng hợp tất cả những gì người tiêu dùng cảm nhận được
khi tiếp xúc với sản phẩm mang thương hiệu đó. Thương hiệu là một thành
phần phi vật thể nhưng lại là thành phần thiết yếu của doanh nghiệp. Thương
hiệu công ty là cảm nhận của khách hàng. Cảm nhận này được hình thành qua
thời gian dựa trên các tương tác: trải nghiệm sản phẩm, dịch vụ; tương tác, tiếp
xúc với nhân viên; các hoạt động marketing và truyền thông. Trong một thị
trường có tới hàng ngàn sản phẩm đạt đến mức độ hầu như không thể phân biệt
được bằng tính chất, đặc điểm, công dụng, lợi ích thì thương hiệu trở thành yếu
tố đặc biệt quan trọng tạo ra sự khác biệt giữa các sản phẩm, thương hiệu tạo
lOMoARcPSD|38841209
nên sự an toàn, tin tưởng cho khách hàng. Tâm lý của khách hàng là ưu tiên
lựa chọn sản phẩm chất lượng từ các công ty có tiếng, được nhiều người tin
dùng và có sự phổ biến. Xây dựng một thương hiệu mạnh luôn là mục tiêu của
tất cả các doanh nghiệp.
Bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng là sản phẩm kinh doanh đặc thù,
vô hình, không thể cất trữ, là một sản phẩm “không mong muốn” và có “chu
trình hạch toán đảo ngược”. Khách hàng mua BHNT là mua sự bảo vệ trước
những rủi ro về thân thể, sức khỏe, tính mạng. Chính vì thế, việc mua BHNT
đòi hỏi sự tin tưởng của khách hàng vào sản phẩm và công ty cao hơn so với
nhiều sản phẩm khác. Khách hàng thường mong muốn được hợp tác với công
ty có sự vững mạnh về tài chính để có thể hoàn thành được nghĩa vụ trong hiện
tại và tương lai. Danh tiếng của công ty thể hiện qua chất lượng sản phẩm, chất
lượng dịch vụ, những thành tựu và vị thế của công ty cũng được nhiều khách
hàng quan tâm. Một thương hiệu mạnh có thể tạo ra sự yên tâm, lòng tin cho
khách hàng và trở thành một lợi thế trong việc xem xét và lựa chọn.
Thang đo mức độ ảnh hưởng của nhân tố thương hiệu của công ty:
TH1: Thương hiệu công ty rất quan trọng đối với tôi.
TH2: Thương hiệu công ty quan trọng đối với tôi.
TH3: Bình thường.
TH4: Tôi ít quan tâm đến thương hiệu công ty.
TH5: Tôi không quan tâm thương hiệu của công ty.
Nhân khẩu học
Nhân khẩu học là quá trình thu thập và nghiên cứu các dữ liệu liên quan
mật thiết đến con người. Các nhóm nhân khẩu học bao gồm: Giới tính, tuổi,
hôn nhân, con cái, thu nhập và tiết kiệm ảnh hưởng đến quyết định mua bảo
hiểm nhân thọ. Từ đó, dựa vào nhân khẩu học, người cung cấp dịch vụ bảo
hiểm có thể cung cấp cho các phân khúc khách hàng những thông tin về gói
bảo hiểm phù hợp, cách tiếp thị sản phẩm và mức độ hiệu quả cho người dùng.
Không những vậy, đây là nhân tố vô cùng quan trọng để dự đoán xu hướng,
hành vi của các nhóm khách hàng cũng như định hướng về chiến lược của
công ty bảo hiểm trong tương lai.
Trước hết, phân khúc khách hàng là chiến lược tiếp thị dựa vào việc xác
định các nhóm nhỏ trong đối tượng mục tiêu để tạo ra thông điệp, nội dung
phù hợp hơn để tiếp cận các đối tượng khách hàng khác nhau. Để tăng khả
năng tiếp cận được phân khúc khách hàng phù hợp cho các gói sản phẩm của
bảo hiểm nhân thọ để tăng thêm khả năng quyết định mua bảo hiểm nhân thọ
lOMoARcPSD|38841209
của khách hàng. Để khách hàng sẵn sàng chi trả một khoản tiền cho bảo hiểm
nhân thọ thì họ đòi hỏi quyền lợi của họ nhận được phù hợp với khách hàng
đó.
Thang đo “nhân khẩu học” được cấu thành bởi:
- TH1: Tôi rất quan tâm đến các yếu tố trong nhóm nhân khẩu học khi
quyết định mua bảo hiểm
- TH2: Tôi quan tâm đến các yếu tố trong nhóm nhân khẩu học khi quyết
định mua bảo hiểm
- TH3: Bình thường
- TH4: Tôi ít quan tâm đến các yếu tố trong nhóm nhân khẩu học khi
quyết định mua bảo hiểm
- TH5: Tôi không quan tâm đến các yếu tố trong nhóm nhân khẩu học khi
quyết định mua bảo hiểm
Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của khách hàng được hiểu là khả năng tạo tiền, phân
bổ tiền hợp lý và đảm bảo khả năng thanh toán. Năng lực tài chính được đánh
giá thông qua thu nhập, tài sản và tiết kiệm. Mức thu nhập của từng người là
khác nhau và việc sử dụng khoản thu nhập của mình cho sinh hoạt, giải trí và
tiết kiệm là không giống nhau. Người có khả năng tài chính tốt là sử dụng thu
nhập hợp lý và tiết kiệm có kế hoạch phòng trường hợp rủi ro. Họ có tỉ lệ mua
bảo hiểm nhân thọ cao.
Thang đo “Khả năng tài chính” được ký hiệu là TC với các nhân tố:
- TC1: Tôi gửi tiền tiết kiệm hàng tháng vào ngân hàng.
- TC2: Tôi không tiết kiệm đủ tiền hàng tháng để mua bảo hiểm.
- TC3: Tôi không có tiền tiết kiệm hàng tháng.
- TC4: Mức thu nhập của tôi không đủ chi tiêu cho bản thân.
2. Giá trị BHNT
mang lại dưới góc nhìn người tiêu dùng
Bảo hiểm nhân thọ giúp người tham gia chi trả những khoản chi phí khi rủi ro
xảy đến. Chẳng hạn khi không may mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn, tử vong,...những
khoản tiền bảo hiểm chi trả sẽ được sử dụng để trang trải những chi phí chữa bệnh,
mai táng, thanh toán nợ,.. giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho người thân và gia
đình. Tham gia bảo hiểm nhân thọ cũng là một hình thức tiết kiệm và quản lý chi
lOMoARcPSD|38841209
tiêu. Đó sẽ là một khoản tiết kiệm để lo cho tương lai sau này của con cái, hoặc an
nhàn tuổi già sau khi về hưu.
| 1/5

Preview text:

lOMoARcPSD| 38841209
Thái độ đối với rủi ro
Nếu “rủi ro” được định nghĩa là “sự không chắc chắn có thể có tác động
tích cực hoặc tiêu cực đến một hoặc nhiều mục tiêu hơn ”, và “ thái độ ”được
định nghĩa là “ trạng thái tâm trí, quan điểm tinh thần được lựa chọn hoặc bố
trí liên quan đến một sự kiện hoặc trạng thái ”, sau đó kết hợp cả hai để đưa ra
một định nghĩa hoạt động của "thái độ rủi ro" là "trạng thái tâm trí được lựa
chọn liên quan đến những điều không chắc chắn có thể có tác động tích cực
hoặc tiêu cực đến các mục tiêu ", hay đơn giản hơn là “ phản ứng được lựa
chọn đối với nhận thức về sự không chắc chắn đáng kể ”. (David Hillson/Ruth Murray-Webster)
Trong cùng một tình huống, các thái độ khả thi có thể được áp dụng, và
những thái độ này dẫn đến các hành vi khác nhau, dẫn đến hậu quả, cả dự định và ngoài ý muốn.
Mặc dù thái độ thể hiện qua hành vi, nhưng vẫn có những động lực khác
của hành vi mà có thể thay thế thái độ đã chọn hoặc ưu tiên. Mức độ mà điều
này xảy ra phụ thuộc về nhận thức của tình huống mà thái độ đang hướng tới.
Thái độ với rủi ro gồm: ghét rủi ro, thích rủi ro và trung lập với rủi ro.
Thang đo “Thái độ rủi ro” được biểu diễn bởi các nhân tố:
- TĐ1: Tôi không quan tâm đến rủi ro khi đưa ra quyết định đầu tư.
- TĐ2: Tôi ít quan tâm đến rủi ro khi đưa ra quyết định đầu tư. - TĐ3: Bình thường.
- TĐ4: Tôi quan tâm đến rủi ro.
- TĐ5: Tôi rất quan tâm đến rủi ro.
Nhận thức về giá trị của Bảo hiểm nhân thọ
Trước những năm 2000, khi thị trường bảo hiểm nhân thọ chưa phát
triển mạnh như bây giờ, việc dự phòng cho tương lai được mọi người suy nghĩ
chỉ là góp những khoản tiền tiết kiệm. Vì vậy, những khoản góp này khá tùy
hứng và thường không đủ để dùng khi rủi ro xảy ra. Hơn thế nữa, người tiêu
dùng có xu hướng không thích nhắc đến rủi ro, đề cập đến những việc không
may mắn. Điều này làm cho người ta không thực sự nghiêm túc nhìn nhận về bảo hiểm nhân thọ.
Khi bảo hiểm nhân thọ dần xuất hiện ở Việt Nam, người dân cũng có rất
nhiều định kiến về nó. “Bảo hiểm mua dễ khó đòi” là tâm lý chung của rất
nhiều người khi đề cập đến vấn đề tham gia BHNT. Việc có cái nhìn định kiến
như vậy có rất nhiều nguyên nhân, do tâm lý người tiêu dùng, do công ty bảo lOMoARcPSD| 38841209
hiểm, do các đại lý và tư vấn viên,.. Sau những thập kỷ tồn tại và phát triển,
định kiến về bảo hiểm nhân thọ tuy vẫn còn tồn tại nhưng đã giảm đi nhiều,
mọi người dần có cái nhìn tích cực hơn về bảo hiểm.
Nhận thức về BHNT của người dân đang dần được thay đổi. Họ hiểu rõ
rằng rủi ro là không ai lường trước được, vì vậy cần phải có những biện pháp
tài chính để trang trải và đảm bảo chất lượng cuộc sống khi rủi ro không may
xảy đến. Theo báo cáo của Cục giám sát và Quản lý bảo hiểm (Bộ tài chính),
tốc độ tăng trưởng của ngành bảo hiểm các năm qua đều rất khả quan, cụ thể
trong những năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm đều
đạt trên 20%. Đây là dấu hiệu tích cực, khả quan cho sự phát triển của thị
trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.
Nền kinh tế, văn hóa, xã hội ở nước ta ngày càng phát triển, đi cùng với
đó, nhận thức của mọi người về lợi ích của BHXH ngày càng được nâng cao.
Việc tham gia BHNT không chỉ bảo vệ khi rủi ro xảy ra, mà còn có sự an tâm
về vấn đề tài chính,đồng tiền đóng phí được đảm bảo vì đây là việc tiết kiệm
cho tương lai của bản thân cũng như giúp ích cho sự phát triển của đất nước.
Thang đo mức độ ảnh hưởng của yếu tố hiểu biết về BHNT
- TH1: Tôi không biết về BHNT
- TH2: Tôi ít tìm hiểu về BHNT
- TH3: Tôi thường xuyên tìm hiểu về BHNT
- TH4: Tôi hiểu rõ về BHNT
Thương hiệu công ty Bảo hiểm
Thương hiệu là tên gọi, thuật ngữ thiết kế, hình tượng hoặc dấu hiệu khác
giúp phân biệt một tổ chức hoặc một sản phẩm với đối thủ trong mắt của người
tiêu dùng. Có hai khía cạnh gắn với thương hiệu là tâm lý và trải nghiệm. Trên
khía cạnh tâm lý, hình ảnh của một thương hiệu là một kiến tạo biểu tượng
được tạo ra trong tâm trí người tiêu dùng và gợi lên tất cả những thông tin và
trông đợi gắn với sản phẩm hoặc dịch vụ có thương hiệu đó. Trải nghiệm về
một thương hiệu là tổng hợp tất cả những gì người tiêu dùng cảm nhận được
khi tiếp xúc với sản phẩm mang thương hiệu đó. Thương hiệu là một thành
phần phi vật thể nhưng lại là thành phần thiết yếu của doanh nghiệp. Thương
hiệu công ty là cảm nhận của khách hàng. Cảm nhận này được hình thành qua
thời gian dựa trên các tương tác: trải nghiệm sản phẩm, dịch vụ; tương tác, tiếp
xúc với nhân viên; các hoạt động marketing và truyền thông. Trong một thị
trường có tới hàng ngàn sản phẩm đạt đến mức độ hầu như không thể phân biệt
được bằng tính chất, đặc điểm, công dụng, lợi ích thì thương hiệu trở thành yếu
tố đặc biệt quan trọng tạo ra sự khác biệt giữa các sản phẩm, thương hiệu tạo lOMoARcPSD| 38841209
nên sự an toàn, tin tưởng cho khách hàng. Tâm lý của khách hàng là ưu tiên
lựa chọn sản phẩm chất lượng từ các công ty có tiếng, được nhiều người tin
dùng và có sự phổ biến. Xây dựng một thương hiệu mạnh luôn là mục tiêu của
tất cả các doanh nghiệp.
Bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng là sản phẩm kinh doanh đặc thù,
vô hình, không thể cất trữ, là một sản phẩm “không mong muốn” và có “chu
trình hạch toán đảo ngược”. Khách hàng mua BHNT là mua sự bảo vệ trước
những rủi ro về thân thể, sức khỏe, tính mạng. Chính vì thế, việc mua BHNT
đòi hỏi sự tin tưởng của khách hàng vào sản phẩm và công ty cao hơn so với
nhiều sản phẩm khác. Khách hàng thường mong muốn được hợp tác với công
ty có sự vững mạnh về tài chính để có thể hoàn thành được nghĩa vụ trong hiện
tại và tương lai. Danh tiếng của công ty thể hiện qua chất lượng sản phẩm, chất
lượng dịch vụ, những thành tựu và vị thế của công ty cũng được nhiều khách
hàng quan tâm. Một thương hiệu mạnh có thể tạo ra sự yên tâm, lòng tin cho
khách hàng và trở thành một lợi thế trong việc xem xét và lựa chọn.
Thang đo mức độ ảnh hưởng của nhân tố thương hiệu của công ty:
TH1: Thương hiệu công ty rất quan trọng đối với tôi.
TH2: Thương hiệu công ty quan trọng đối với tôi. TH3: Bình thường.
TH4: Tôi ít quan tâm đến thương hiệu công ty.
TH5: Tôi không quan tâm thương hiệu của công ty. Nhân khẩu học
Nhân khẩu học là quá trình thu thập và nghiên cứu các dữ liệu liên quan
mật thiết đến con người. Các nhóm nhân khẩu học bao gồm: Giới tính, tuổi,
hôn nhân, con cái, thu nhập và tiết kiệm ảnh hưởng đến quyết định mua bảo
hiểm nhân thọ. Từ đó, dựa vào nhân khẩu học, người cung cấp dịch vụ bảo
hiểm có thể cung cấp cho các phân khúc khách hàng những thông tin về gói
bảo hiểm phù hợp, cách tiếp thị sản phẩm và mức độ hiệu quả cho người dùng.
Không những vậy, đây là nhân tố vô cùng quan trọng để dự đoán xu hướng,
hành vi của các nhóm khách hàng cũng như định hướng về chiến lược của
công ty bảo hiểm trong tương lai.
Trước hết, phân khúc khách hàng là chiến lược tiếp thị dựa vào việc xác
định các nhóm nhỏ trong đối tượng mục tiêu để tạo ra thông điệp, nội dung
phù hợp hơn để tiếp cận các đối tượng khách hàng khác nhau. Để tăng khả
năng tiếp cận được phân khúc khách hàng phù hợp cho các gói sản phẩm của
bảo hiểm nhân thọ để tăng thêm khả năng quyết định mua bảo hiểm nhân thọ lOMoARcPSD| 38841209
của khách hàng. Để khách hàng sẵn sàng chi trả một khoản tiền cho bảo hiểm
nhân thọ thì họ đòi hỏi quyền lợi của họ nhận được phù hợp với khách hàng đó.
Thang đo “nhân khẩu học” được cấu thành bởi:
- TH1: Tôi rất quan tâm đến các yếu tố trong nhóm nhân khẩu học khi
quyết định mua bảo hiểm
- TH2: Tôi quan tâm đến các yếu tố trong nhóm nhân khẩu học khi quyết định mua bảo hiểm - TH3: Bình thường
- TH4: Tôi ít quan tâm đến các yếu tố trong nhóm nhân khẩu học khi
quyết định mua bảo hiểm
- TH5: Tôi không quan tâm đến các yếu tố trong nhóm nhân khẩu học khi
quyết định mua bảo hiểm Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của khách hàng được hiểu là khả năng tạo tiền, phân
bổ tiền hợp lý và đảm bảo khả năng thanh toán. Năng lực tài chính được đánh
giá thông qua thu nhập, tài sản và tiết kiệm. Mức thu nhập của từng người là
khác nhau và việc sử dụng khoản thu nhập của mình cho sinh hoạt, giải trí và
tiết kiệm là không giống nhau. Người có khả năng tài chính tốt là sử dụng thu
nhập hợp lý và tiết kiệm có kế hoạch phòng trường hợp rủi ro. Họ có tỉ lệ mua bảo hiểm nhân thọ cao.
Thang đo “Khả năng tài chính” được ký hiệu là TC với các nhân tố:
- TC1: Tôi gửi tiền tiết kiệm hàng tháng vào ngân hàng.
- TC2: Tôi không tiết kiệm đủ tiền hàng tháng để mua bảo hiểm.
- TC3: Tôi không có tiền tiết kiệm hàng tháng.
- TC4: Mức thu nhập của tôi không đủ chi tiêu cho bản thân. 2. Giá trị BHNT
mang lại dưới góc nhìn người tiêu dùng
Bảo hiểm nhân thọ giúp người tham gia chi trả những khoản chi phí khi rủi ro
xảy đến. Chẳng hạn khi không may mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn, tử vong,...những
khoản tiền bảo hiểm chi trả sẽ được sử dụng để trang trải những chi phí chữa bệnh,
mai táng, thanh toán nợ,.. giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho người thân và gia
đình. Tham gia bảo hiểm nhân thọ cũng là một hình thức tiết kiệm và quản lý chi lOMoARcPSD| 38841209
tiêu. Đó sẽ là một khoản tiết kiệm để lo cho tương lai sau này của con cái, hoặc an
nhàn tuổi già sau khi về hưu.