1. thuyết tăng trưởng:
1.1 Khái niệm:
Tăng trưởng kinh tế (Economic growth) sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
hoặc tổng thu nhập quốc dân (GNP) trong một thời gian nhất định.
Tổng sản phẩm quốc nội GDP (Gross Domestic Product): đo lường tổng giá trị thị
trường của tất cả các loại hàng hoá dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong lãnh thổ
kinh tế một quốc gia, trong một thời nhất định.
1.2 Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế :
5 nhân tố chính ảnh hưởng đến tăng trưởng kính tế nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên,
Nguồn nhân lực : kỹ năng, kiến thức, kỉ luật của đội ngũ lao động yếu tố quan trọng của
tăng trưởng kinh tế. Thực tế, một nền bản bị phá hủy vẫn thể phục hồi phát triển
mạnh mẽ một cách ngoạn mục nhờ nguồn lao động chất lượng cao.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên : những yếu tố sản xuất điển hình, những tài nguyên quan
trọng nhất đất đai, khoáng sản, đặc biệt dầu mỏ, rừng nguồn nước. Tài nguyên thiên
nhiên vai trò quan trọng để phát triển kinh tế.
bản : một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ bản người lao động
được sử dụng những máy móc, thiết bị... nhiều hay ít (tỷ lệ bản trên mỗi lao động) tạo
ra sản lượng cao hay thấp.
Công nghệ : việc vận dụng kiến thức khoa học kỹ thuật để cải tiến chất ợng sản phẩm
quá trình sản xuất.
Nguồn vốn: Nguồn vốn một yếu tố quan trọng khác để phát triển kinh tế. Quỹ đầu
thể đầu vào các doanh nghiệp các dự án kinh tế. Các quốc gia một hệ thống tài chính
phát triển thị trường chứng khoán phát triển sẽ cung cấp nhiều nguồn vốn cho doanh
nghiệp hỗ trợ sự phát triển của các ngành kinh tế khác nhau. Sự phát triển của các ngành
kinh tế phụ thuộc vào khả năng huy động vốn từ các nguồn khác nhau như vốn nội địa, vốn
FDI, tín dụng ngân hàng, thị trường chứng khoán.
2.2 Đánh giá các nguồn lực ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa Việt Nam Thái
Lan:
Trong một quốc gia, thể nhiều loại nguồn lực khác nhau. Trong đó, chúng ta thể xác
định dựa trên các tiêu chí sau:
Dựa vào nguồn gốc:
+ Vị trí địa lí: Tự nhiên; kinh tế, chính trị, giao thông,…
+ Tự nhiên: Địa hình, khí hậu, nước, sinh vật, khoáng sản, tài nguyên rừng,…
+ Kinh tế hội: Dân lao động, vốn, thị trường, khoa học thuật công nghệ, giá trị
truyền thống, chính sách xu thế phát triển.
Nhưng một trong những yếu tố ảnh hưởng cũng như tác động nhiều tới số lượng nhân lực được
cung cấp cho nền kinh tế của một đất nước vị trí địa lí. Vị trí địa của một quốc gia cũng tạo
ra thuận lợi khó khăn cho đất nước hoặc vùng lãnh thổ đó trong việc trao đổi tiếp cận các
nền kinh tế phát triển chuyển giao công nghệ cũng sẽ gặp nhiều khó khăn do địa hình ảnh
hưởng. Nguồn lực về vị trí địa rất quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế giữa các vùng
việc tiếp cận với các thông tin một cách nhanh chóng nhất để phát triển kinh tế hội.
VỀ GDP
Năm 2022, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,6%, thấp hơn vọng so với dự định đã đặt ra.
- Tổng sản phẩm quốc nội năm 2022 tăng so với năm trước, khi đó nền kinh tế chỉ tăng trưởng
1,5%. Tiêu dùng tăng 6,3% trong năm 2022 ngay cả khi lạm phát bản tăng 6,1%. Đầu
nhân cũng tăng 5,1% làm nâng GDP năm 2022. Ngành du lịch chiếm gần 20% GDP của Thái
Lan.
- Chính phủ Thái Lan đã điều chỉnh mức tăng trưởng GDP cho năm 2023 xuống từ 2,7% đến
3,7%, giảm từ mức dự báo 3% đến 4% vào tháng 11.
Từ sau khủng hoảng kinh tế năm tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế Thái Lan giảm1997 - 1998,
xuống mức âm 1,4 âm 10,5%. Tuy nhiên, từ năm 2000, nền kinh tế Thái Lan đã dấu hiệu
hồi phục, thể hiện GDP năm 2000 đạt 4,6%, năm 2001 đạt 5,2%, năm 2003 đạt 6,7% năm
2005 đạt 4%(3) tính đến năm 2017, tổng sản phẩm quốc nội của Thái Lan đạt mức tăng
trưởng 4,3%,…(4). Tốc độ tăng trưởng GDP khá cao đã kéo theo GDP bình quân đầu người của
Thái Lan sự cải thiện đáng kể, tăng từ 2.043 USD năm 2002 lên 2.580 USD năm 2005.
Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009 những tác động về chính trị
năm 2010 giai đoạn đã khiến cho tăng trưởng kinh tế của Thái Lan chậm lại, theo2013 - 2015
đó tăng trưởng chỉ đạt 0,7% vào năm 2014(5) năm 2019 còn khoảng 2,6%, thay dự báo
trước đó tăng 2,7 - 3,2%(6). ghi nhận tính chung cả năm nền kinh tế Thái Lan đã đạt2021,
mức tăng trưởng 1,6%.
So sánh
Thái Lan giống như Việt Nam cũng thuộc nhóm quốc gia đang phát triển nhưng nền kinh tế lại
được xếp vào nhóm các nước công nghiệp mới, nghĩa mức trung gian giữa các nước phát
triển các nước đang phát triển. Xét về quy thì đây nền kinh tế lớn thứ 2 trong khu vực
khu vực ASEAN, chỉ sau Indonesia, xếp hạng 25 thế giới về GDP danh nghĩa, xếp thứ 21 thế
giới xét theo sức mua thương đương. Theo số liệu được thu thập Thái Lan ghi nhận tính chung cả
năm 2021, nền kinh tế Thái Lan đã đạt mức tăng trưởng 1,6% trong khi đó, s liệu T cho thấy
Việt Nam đạt mức tăng trưởng 2,58% trong năm 2021 so với năm 2020.
Về thứ hạng tăng trưởng GDP trong năm 2021, Thái Lan vẫn giữ vị trí số 2 với 543,65 tỷ USD
trong khi Việt Nam đứng vị trí thứ 5 với 352 tỷ USD. Tức xét về quy nền kinh tế, Thái
Lan đang gấp đôi Việt Nam.
Nhiều năm qua, xứ sở chùa Vàng đã thoát khỏi nền kinh tế dựa vào nông nghiệp chuyển sang
nền kinh công nghiệp hóa, kinh tế đô thị. Đặc điểm chính của nền kinh tế Thái Lan phụ thuộc
lớn vào du lịch xuất khẩu với kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 60% GDP. Các mặt hàng
xuất khẩu chính dệt may, giày dép, thủy sản, gạo, cao su, đồ trang sức, xe hơi, máy vi tính
thiết bị điện.
Trong khi đó, kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, xuất khẩu thô đầu trực
tiếp nước ngoài. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam dầu thô, hàng may mặc, hải sản,
hàng điện tử, gạo, cao su, phê.
Người dân Thái Lan đang giàu gấp 3 lần n Việt
Theo báo cáo "Động thái thực trạng kinh tế hội Việt Nam 5 năm 2016 - 2020" của Tổng
cục Thống kê, GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2020 ước đạt 2.750USD, xếp thứ
120/187 quốc gia vùng lãnh thổ nhưng chỉ ngang bằng mức GDP bình quân đầu người của
Thái Lan năm 2003. Trong khi đó nếu so sánh tổng thu nhập quốc dân chia dân số hay còn gọi
hệ số GNI trên người của Việt Nam 2.540 USD/năm. GNI trên người của Thái Lan 7260
USD/năm. Tức người Thái đang giàu hơn người Việt gấp 3 lần Việt Nam thuộc nhóm trung
bình thấp, Thái Lan thuộc nhóm trung bình cao.
Mặc Việt Nam t lao động của
nước ta hiện nay vẫn ộng của Việt
Nam năm 2019 đạt 13,8 nghìn USD, chỉ bằng 41,5% của Thái Lan.
Việt Nam - ngôi sao đang lên
GDP chỉ bằng ½ Thái Lan thu nhập trên đầu người thì bằng 1/3 người Thái nhưng Việt
Nam lại đang được đánh giá ngôi sao đang lên thể vượt qua Thái Lan trong thời gian
ngắn sắp tới. Ông CK Tong - Tổng giám đốc BW Industrial Development JSC - cũng khẳng
định: "Dù Covid-19 hay không, Việt Nam vẫn giữ vị trí thuận lợi để đón làn sóng Trung
Quốc". Theo ông, kinh tế Việt Nam sẽ vượt qua Thái Lan, Indonesia, Philippines trong những
năm tới.
Dân số
Nguyên nhân chính làm động lực cho kinh tế Việt Nam sẽ sớm vượt Thái Lan chính nhờ
lực lượng dân số vàng. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), dân số Việt Nam năm 2020 là hơn 97
triệu người dự kiến sẽ đạt 120 triệu người vào năm 2050. Trong đó, 70% dân số dưới độ
tuổi 35 tuổi thọ trung bình 76 tuổi, cao nhất trong số các nước mức thu nhập tương tự
Asean. Chỉ số nhân lực của Việt Nam đứng thứ 48 trong tổng số 157 quốc gia đứng thứ 2
Asean sau Singapore.
Việt Nam một câu chuyện phát triển thành công. Những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp
với những xu hướng toàn cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong
những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp chỉ trong
vòng một thế hệ. Từ năm 2002 đến 2020, GDP đầu người tăng 3,6 lần, đạt gần 3.700 USD. Tỉ l
nghèo (theo chuẩn 3,65 USD/ngày, theo PPP năm 2017) giảm từ hơn 14% năm 2010 xuống còn
3,8% năm 2020.
Nhờ nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể trong
những giai đoạn khủng hoảng, mới đây đại dịch COVID-19. Tăng trưởng GDP giảm 2,6% vào
năm 2021 do sự xuất hiện của biến thể Delta của virus Sars-CoV-2 dự kiến sẽ phục hồi lên
7,2% vào năm 2022 6,7% vào năm 2023.
Với tỉ lệ tăng trưởng mức 2,5% đến 3,5% mỗi năm trong suốt 30 năm qua, ngành nông nghiệp
đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đảm bảo an ninh lương thực. Năm 2020 nông nghiệp đóng góp
14% cho GDP 38% việc làm, năm 2021 xuất khẩu đạt hơn 48 tỷ USD giữa thời điểm đại dịch
COVID-19.
Y tế đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Tỉ suất tử vong trẻ sinh giảm từ
32,6 năm 1993 xuống còn 16,7 năm 2020 (trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5
năm 1990 lên 75,45 năm 2020. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân 73, cao hơn trung
bình khu vực trung bình thế giới, trong đó 87% dân số bảo hiểm y
tế. (https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview#1)
Tỷ lệ thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam giảm dần theo từng năm. So với các nước trong khu vực thì tỷ lệ
này thấp hơn nhiều. Sau 30 năm đổi mới chúng ta từ một nước nghèo đã trở thành một quốc gia
thu nhập mức trung bình.
I. Một số khái niệm về thất nghiệp
1. Khái niệm thất nghiệp tỉ lệ thất nghiệp
Thất nghiệp (Unemployment) tình trạng những người trong độ tuổi lao động, khả năng lao
động nhưng không việc làm hoặc đang tìm kiếm việc làm
Tỷ lệ thất nghiệp tỉ lệ % số người thất nghiệp so với tổng số người trong lực lượng lao động
lược về tình trạng
Trước đại dịch Covid-19, năm 2019 Việt Nam số người thất nghiệp tỷ lệ thất nghiệp duy
trì mức thấp giảm nhẹ so với năm 2018. Theo theo số liệu của Tổng cục Thống thì tỷ lệ
thất nghiệp chung cả nước năm 2019 1,98% (quý I 2,00%; quý II 1,98%; quý III
1,99%; quý IV 1,98%), trong đó tỷ lệ thất nghiệp chung khu vực thành thị 2,93%; khu vực
nông thôn 1,51%.
Tỷ lệ thất nghiệp Thái Lan đang tăng dần kể từ khi chịu tác động của đại dịch COVID-
19. Theo Cục Thống Quốc gia, tỷ lệ thất nghiệp Thái Lan đã tăng lên 1,95% trong quý 1
năm 2021, so với 1,86% trong quý 4 năm 2020. Các ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại
dịch du lịch, sản xuất kinh doanh
. bán lẻ. Những ngành này chiếm một phần lớn trong nền kinh tế Thái Lan đã chứng kiến nhu
cầu giảm mạnh do hạn chế đi lại toàn cầu giảm chi tiêu của người tiêu dùng.
Hơn nữa, đại dịch cũng dẫn đến tình trạng thiếu việc làm gia tăng, nhiều người lao động buộc
phải chấp nhận công việc bán thời gian hoặc công việc với mức lương thấp n để trang trải
cuộc sống.
Để giảm bớt tác động của tình trạng thất nghiệp, chính phủ Thái Lan đã đưa ra nhiều biện pháp,
bao gồm các gói kích thích tài chính, chương trình đào tạo nghề hỗ trợ doanh nghiệp vừa
nhỏ. Tuy nhiên, hiệu quả của các biện pháp này vẫn chưa được nhìn thấy thất nghiệp tiếp tục
một vấn đề cấp bách đối với Thái Lan. Tỷ lệ thất nghiệp của Thái Lan đã tăng lên 2,25% trong
quý III vừa qua, tương đương 870.000 người không việc làm, từ mức tương ứng 1,89% trong
quý trước đó.( cao nhất trong 16 năm qua )
- Năm 2010: Tăng lên 2,91%
- Năm 2011: Giảm xuống 2,18%
- Năm 2012: Tăng lên 2,44%
- Năm 2013: Giảm xuống 2,19%
- Năm 2014: Tăng lên 2,37%
- Năm 2015: Giảm xuống 2,38%
Nhân tố nguồn vốn
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã tác động tiêu cực đến thu hút FDI của Việt
Nam trong 6 năm (2009 - 2014); vốn đăng năm 2009 đạt 23,1 tỷ USD vốn thực hiện đạt 10
tỷ USD, từ 2010 đến 2014 các con số tương ứng hàng năm 20 tỷ USD 10 tỷ USD.
Năm 2015 ghi nhận thành quả rất ấn tượng của FDI: vốn đăng mới tăng thêm 24,11 tỷ
USD, tăng 12,5%, vốn thực hiện 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với năm 2014, nhiều dự án
FDI lớn.
Năm 2016 vốn đăng mới tăng thêm đạt 26,69 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 15,8 tỷ USD; hai
năm tiếp theo FDI tiếp tục tăng.
Năm 2019 vốn đăng mới, điều chỉnh góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt 38,02 tỷ
USD, tăng 17,2%, vốn thực hiện đạt 20,38 tỷ USD, tăng 6,7%. Điểm nổi bật nhà đầu nước
ngoài đã góp vốn, mua cổ phần 15,47tỷ USD, tăng 56,4% so với năm 2018, chiếm 40,7% tổng
vốn đăng ký.
Doanh nghiệp FDI Kim ngạch xuất khẩu (kể cả dầu thô) đạt 181,35 tỷ USD, tăng 4,2%
chiếm 68,8% kim ngạch xuất khẩu cả nước; Kim ngạch nhập khẩu đạt 145,5 tỷ USD, tăng
2,5% so với cùng kỳ năm 2018 chiếm 57,4% Kim ngạch nhập khẩu cả nước; xuất siêu gần
35,86 tỷ USD không những đắp được 25,96 tỷ USD nhập siêu của khu vực kinh tế trong
nước, còn tạo ra xuất siêu 9,9 tỷ USD.
Năm 2020 do tác động tiêu cực của Dịch Covid 19 nên thu hút FDI sụt giảm. Tính đến
20/8/2020, tổng vốn đăng cấp mới, điều chỉnh góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt
19,54 tỷ USD, bằng 86,3%, vốn thực hiện đạt 11,45 tỷ USD, bằng 95,7% so với cùng kỳ năm
2019.
Kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu thô) đạt 113,3 tỷ USD, bằng 95,5%, chiếm
65,1% kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch hập khẩu đạt 90,8 tỷ USD, bằng 94,7% so cùng kỳ,
chiếm 55,6% kim ngạch nhập khẩu cả nước. Mặc vậy, khu vực ĐTNN vẫn xuất siêu gần 22,6
tỷ USD đắp phần nhập siêu 11,6 tỷ USD của khu vực trong nước, giúp cả nước xuất siêu 10,9
tỷ USD.
ng đó giai đoạn 2011 - 2020 mặc mất 4 năm (2011 - 2014) năm 2020 thu hút FDI không
tăng, nhưng 5 năm 2015 - 2019 liên tục tăng cả về đầu mới, mở rộng đầu nhất mua cổ
phần của nhà đầu nước ngoài nên tổng vốn đăng ký, tăng thêm mua cổ phần đạt 270 tỷ
USD, bằng 67,5%, vốn thực hiện đạt 156 tỷ USD, bằng 66% của hơn 30 năm thu hút FDI của
nước ta.
Trong giai đoạn 2011 - 2020 bình quân vốn FDI thực hiện hàng năm chiếm khoảng 22 - 23%
vốn đầu hội.
Khu vực FDI đóng góp vào GDP năm 2010 15,15% năm 2015 18,07%, năm 2019
20%; so với trung bình của thế giới, khu vực FDI đóng góp vào GDP của Việt Nam cao hơn 9,4
điểm % (20% so với 10,6%).
Khu vực FDI nộp ngân sách nhà nước tăng nhanh, năm 2010 đạt 3 tỷ USD, năm 2015 đạt gần 6
tỷ USD, năm 2019 chiếm 20,28% tổng thu nội địa (không kể thu từ dầu thô xuất nhập khẩu).
rong 10 năm qua, Thái Lan đã thu hút một số lượng đầu nước ngoài (FDI) đáng kể, đặc biệt
trong các ngành công nghiệp liên quan đến công nghệ cao sản xuất.
Theo thống của Ủy ban đầu của Thái Lan, vào năm 2020, lượng FDI vào Thái Lan đạt
ินลุนต
ํา
นวน 845 tỷ BHT (tương đương 27,9 tỷ USD). Từ năm 2011 đến 2020,
lượng FDI trung bình vào Thái Lan đạt khoảng 1.000 tỷ BHT mỗi năm.
Năm 2010, vốn đầu thực hiện đạt 11 tỷ USD, tới năm 2015 đã đạt 14,5 tỷ USD, tới năm
2016 đã đạt 15,8 tỷ USD. Tính đến cuối năm 2017, Việt Nam đã thu hút được trên 25.000 dự án
đầu trực tiếp nước ngoài với tổng mức đầu đăng hơn 333 tỷ USD. Đến nay, 129 quốc
gia/vùng lãnh thổ đã đầu vào Việt Nam. Các dự án FDI đã hiện diện tại 63/63 địa phương,
vốn cũng đã được đầu vào 19/21 ngành nghề sản xuất kinh doanh của Việt Nam (Bộ Tài FDI
chính, 2018). Theo số liệu của Cục Đầu nước ngoài - Bộ Kế hoạch Đầu , năm 2019 vốn
FDI vào Việt Nam đạt 38,95 tỷ USD, tăng 7,2% so với năm 2018.
iai đoạn từ năm 2010 - 2014 vốn FDI đăng sự dao động liên tục tăng nhẹ từ 19,89 tỷ
USD năm 2010 lên 21,92 tỷ USD vào năm 2014. Từ sau năm 2015 tổng vốn FDI đăng vào
Việt Nam s gia tăng mạnh mẽ liên tục, với tổng vốn đầu vào Việt Nam năm 2015
22,7 tỷ USD, thì đến năm 2019 con số này tăng lên 38,95 tỷ USD.
Năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng
nên vốn đầu nước ngoài đăng vào Việt Nam sự sụt giảm, chỉ đạt 28,53 tỷ USD, giảm
25% so với năm 2019
Bước sang năm 2021, mặc tình hình dịch bệnh covid-19 tại VN diễn biến phức tạp hơn năm
2020, kết quả thu hút đầu FDI vào VN 11 tháng đầu năm 2021 vẫn tương đối khả quan. Tổng
lượng vốn đăng mới đạt 14,1 tỷ USD, tăng 3,76% so với cùng kỳ.

Preview text:

1. Lý thuyết tăng trưởng: 1.1 Khái niệm:
Tăng trưởng kinh tế (Economic growth) là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
hoặc tổng thu nhập quốc dân (GNP) trong một thời gian nhất định.
Tổng sản phẩm quốc nội GDP (Gross Domestic Product): đo lường tổng giá trị thị
trường của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong lãnh thổ
kinh tế một quốc gia, trong một thời kì nhất định.
1.2 Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế :
Có 5 nhân tố chính ảnh hưởng đến tăng trưởng kính tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ.
Nguồn nhân lực : kỹ năng, kiến thức, kỉ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng của
tăng trưởng kinh tế. Thực tế, một nền tư bản bị phá hủy vẫn có thể phục hồi và phát triển
mạnh mẽ một cách ngoạn mục là nhờ có nguồn lao động chất lượng cao.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên : là những yếu tố sản xuất điển hình, những tài nguyên quan
trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên
nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế.
Tư bản : là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động
được sử dụng những máy móc, thiết bị... nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo
ra sản lượng cao hay thấp.
Công nghệ : là việc vận dụng kiến thức khoa học và kỹ thuật để cải tiến chất lượng sản phẩm và quá trình sản xuất.
Nguồn vốn: Nguồn vốn là một yếu tố quan trọng khác để phát triển kinh tế. Quỹ đầu tư có
thể đầu tư vào các doanh nghiệp và các dự án kinh tế. Các quốc gia có một hệ thống tài chính
phát triển và thị trường chứng khoán phát triển sẽ cung cấp nhiều nguồn vốn cho doanh
nghiệp và hỗ trợ sự phát triển của các ngành kinh tế khác nhau. Sự phát triển của các ngành
kinh tế phụ thuộc vào khả năng huy động vốn từ các nguồn khác nhau như vốn nội địa, vốn
FDI, tín dụng ngân hàng, thị trường chứng khoán.
2.2 Đánh giá các nguồn lực ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa Việt Nam và Thái Lan:
Trong một quốc gia, có thể có nhiều loại nguồn lực khác nhau. Trong đó, chúng ta có thể xác
định dựa trên các tiêu chí sau: – Dựa vào nguồn gốc:
+ Vị trí địa lí: Tự nhiên; kinh tế, chính trị, giao thông,…
+ Tự nhiên: Địa hình, khí hậu, nước, sinh vật, khoáng sản, tài nguyên rừng,…
+ Kinh tế – xã hội: Dân cư và lao động, vốn, thị trường, khoa học – kĩ thuật và công nghệ, giá trị
truyền thống, chính sách và xu thế phát triển.
Nhưng một trong những yếu tố ảnh hưởng cũng như tác động nhiều tới số lượng nhân lực được
cung cấp cho nền kinh tế của một đất nước là vị trí địa lí. Vị trí địa lý của một quốc gia cũng tạo
ra thuận lợi và khó khăn cho đất nước hoặc vùng lãnh thổ đó trong việc trao đổi và tiếp cận các
nền kinh tế phát triển và chuyển giao công nghệ cũng sẽ gặp nhiều khó khăn do địa hình ảnh
hưởng. Nguồn lực về vị trí địa lý rất quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế giữa các vùng
và việc tiếp cận với các thông tin một cách nhanh chóng nhất để phát triển kinh tế – xã hội. VỀ GDP
Năm 2022, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,6%, thấp hơn kì vọng so với dự định đã đặt ra.
- Tổng sản phẩm quốc nội năm 2022 tăng so với năm trước, khi đó nền kinh tế chỉ tăng trưởng
1,5%. Tiêu dùng tăng 6,3% trong năm 2022 ngay cả khi lạm phát cơ bản tăng 6,1%. Đầu tư tư
nhân cũng tăng 5,1% và làm nâng GDP năm 2022. Ngành du lịch chiếm gần 20% GDP của Thái Lan.
- Chính phủ Thái Lan đã điều chỉnh mức tăng trưởng GDP cho năm 2023 xuống từ 2,7% đến
3,7%, giảm từ mức dự báo 3% đến 4% vào tháng 11.
Từ sau khủng hoảng kinh tế năm 1997 -
1998, tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế Thái Lan giảm
xuống mức âm 1,4 và âm 10,5%. Tuy nhiên, từ năm 2000, nền kinh tế Thái Lan đã có dấu hiệu
hồi phục, thể hiện GDP năm 2000 đạt 4,6%, năm 2001 đạt 5,2%, năm 2003 đạt 6,7% và năm
2005 đạt 4%(3) và tính đến năm 2017, tổng sản phẩm quốc nội của Thái Lan đạt ở mức tăng
trưởng 4,3%,…(4). Tốc độ tăng trưởng GDP khá cao đã kéo theo GDP bình quân đầu người của
Thái Lan có sự cải thiện đáng kể, tăng từ 2.043 USD năm 2002 lên 2.580 USD năm 2005.
Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009 và những tác động về chính trị năm 2010 và giai đoạn đã khiến cho 2013 - 2015
tăng trưởng kinh tế của Thái Lan chậm lại, theo
đó tăng trưởng chỉ đạt 0,7% vào năm 2014(5) và năm 2019 còn khoảng 2,6%, thay vì dự báo
trước đó là tăng 2,7 - 3,2%(6). ghi nhận tính chung cả năm 2021, nền kinh tế Thái Lan đã đạt mức tăng trưởng 1,6%. So sánh
Thái Lan giống như Việt Nam cũng thuộc nhóm quốc gia đang phát triển nhưng nền kinh tế lại
được xếp vào nhóm các nước công nghiệp mới, nghĩa là ở mức trung gian giữa các nước phát
triển và các nước đang phát triển. Xét về quy mô thì đây là nền kinh tế lớn thứ 2 trong khu vực
khu vực ASEAN, chỉ sau Indonesia, xếp hạng 25 thế giới về GDP danh nghĩa, xếp thứ 21 thế
giới xét theo sức mua thương đương. Theo số liệu được thu thập Thái Lan ghi nhận tính chung cả
năm 2021, nền kinh tế Thái Lan đã đạt mức tăng trưởng 1,6% trong khi đó, số liệu T cho thấy
Việt Nam đạt mức tăng trưởng 2,58% trong năm 2021 so với năm 2020.
Về thứ hạng tăng trưởng GDP trong năm 2021, Thái Lan vẫn giữ vị trí số 2 với 543,65 tỷ USD
trong khi Việt Nam đứng ở vị trí thứ 5 với 352 tỷ USD. Tức là xét về quy mô nền kinh tế, Thái
Lan đang gấp đôi Việt Nam.
Nhiều năm qua, xứ sở chùa Vàng đã thoát khỏi nền kinh tế dựa vào nông nghiệp và chuyển sang
nền kinh công nghiệp hóa, kinh tế đô thị. Đặc điểm chính của nền kinh tế Thái Lan là phụ thuộc
lớn vào du lịch và xuất khẩu với kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 60% GDP. Các mặt hàng
xuất khẩu chính là dệt may, giày dép, thủy sản, gạo, cao su, đồ trang sức, xe hơi, máy vi tính và thiết bị điện.
Trong khi đó, kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, xuất khẩu thô và đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam là dầu thô, hàng may mặc, hải sản,
hàng điện tử, gạo, cao su, cà phê.
Người dân Thái Lan đang giàu gấp 3 lần dân Việt
Theo báo cáo "Động thái và thực trạng kinh tế – xã hội Việt Nam 5 năm 2016 - 2020" của Tổng
cục Thống kê, GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2020 ước đạt 2.750USD, xếp thứ
120/187 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng chỉ ngang bằng mức GDP bình quân đầu người của
Thái Lan năm 2003. Trong khi đó nếu so sánh tổng thu nhập quốc dân chia dân số hay còn gọi là
hệ số GNI trên người của Việt Nam là 2.540 USD/năm. GNI trên người của Thái Lan 7260
USD/năm. Tức là người Thái đang giàu hơn người Việt gấp 3 lần và Việt Nam thuộc nhóm trung
bình thấp, Thái Lan thuộc nhóm trung bình cao. Mặc dù Việt Nam có t lao động của nước ta hiện nay vẫn ộng của Việt
Nam năm 2019 đạt 13,8 nghìn USD, chỉ bằng 41,5% của Thái Lan.
Việt Nam - ngôi sao đang lên
Dù GDP chỉ bằng ½ Thái Lan và thu nhập trên đầu người thì bằng 1/3 người Thái nhưng Việt
Nam lại đang được đánh giá là ngôi sao đang lên và có thể vượt qua Thái Lan trong thời gian
ngắn sắp tới. Ông CK Tong - Tổng giám đốc BW Industrial Development JSC - cũng khẳng
định: "Dù có Covid-19 hay không, Việt Nam vẫn giữ vị trí thuận lợi để đón làn sóng Trung
Quốc". Theo ông, kinh tế Việt Nam sẽ vượt qua Thái Lan, Indonesia, Philippines trong những năm tới. Dân số
Nguyên nhân chính làm động lực cho kinh tế Việt Nam sẽ sớm vượt Thái Lan chính là nhờ
lực lượng dân số vàng. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), dân số Việt Nam năm 2020 là hơn 97
triệu người và dự kiến sẽ đạt 120 triệu người vào năm 2050. Trong đó, 70% dân số dưới độ
tuổi 35 và tuổi thọ trung bình là 76 tuổi, cao nhất trong số các nước có mức thu nhập tương tự
ở Asean. Chỉ số nhân lực của Việt Nam đứng thứ 48 trong tổng số 157 quốc gia và đứng thứ 2 ở Asean sau Singapore.
Việt Nam là một câu chuyện phát triển thành công. Những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp
với những xu hướng toàn cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong
những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp chỉ trong
vòng một thế hệ. Từ năm 2002 đến 2020, GDP đầu người tăng 3,6 lần, đạt gần 3.700 USD. Tỉ lệ
nghèo (theo chuẩn 3,65 USD/ngày, theo PPP năm 2017) giảm từ hơn 14% năm 2010 xuống còn 3,8% năm 2020.
Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể trong
những giai đoạn khủng hoảng, mới đây là đại dịch COVID-19. Tăng trưởng GDP giảm 2,6% vào
năm 2021 do sự xuất hiện của biến thể Delta của virus Sars-CoV-2 và dự kiến sẽ phục hồi lên
7,2% vào năm 2022 và 6,7% vào năm 2023.
Với tỉ lệ tăng trưởng ở mức 2,5% đến 3,5% mỗi năm trong suốt 30 năm qua, ngành nông nghiệp
đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh lương thực. Năm 2020 nông nghiệp đóng góp
14% cho GDP và 38% việc làm, năm 2021 xuất khẩu đạt hơn 48 tỷ USD giữa thời điểm đại dịch COVID-19.
Y tế đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Tỉ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ
32,6 năm 1993 xuống còn 16,7 năm 2020 (trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5
năm 1990 lên 75,45 năm 2020. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73, cao hơn trung
bình khu vực và trung bình thế giới, trong đó 87% dân số có bảo hiểm y
tế. (https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview#1) Tỷ lệ thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam giảm dần theo từng năm. So với các nước trong khu vực thì tỷ lệ
này thấp hơn nhiều. Sau 30 năm đổi mới chúng ta từ một nước nghèo đã trở thành một quốc gia
có thu nhập ở mức trung bình.
I. Một số khái niệm về thất nghiệp
1. Khái niệm thất nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp
Thất nghiệp (Unemployment) là tình trạng những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao
động nhưng không có việc làm hoặc đang tìm kiếm việc làm
Tỷ lệ thất nghiệp là tỉ lệ % số người thất nghiệp so với tổng số người trong lực lượng lao động
Sơ lược về tình trạng
Trước đại dịch Covid-19, năm 2019 Việt Nam có số người thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp duy
trì ở mức thấp và giảm nhẹ so với năm 2018. Theo theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì tỷ lệ
thất nghiệp chung cả nước năm 2019 là 1,98% (quý I là 2,00%; quý II là 1,98%; quý III là
1,99%; quý IV là 1,98%), trong đó tỷ lệ thất nghiệp chung khu vực thành thị là 2,93%; khu vực nông thôn là 1,51%.
Tỷ lệ thất nghiệp ở Thái Lan đang tăng dần kể từ khi chịu tác động của đại dịch COVID-
19. Theo Cục Thống kê Quốc gia, tỷ lệ thất nghiệp ở Thái Lan đã tăng lên 1,95% trong quý 1
năm 2021, so với 1,86% trong quý 4 năm 2020. Các ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại
dịch là du lịch, sản xuất và kinh doanh
. bán lẻ. Những ngành này chiếm một phần lớn trong nền kinh tế Thái Lan và đã chứng kiến nhu
cầu giảm mạnh do hạn chế đi lại toàn cầu và giảm chi tiêu của người tiêu dùng.
Hơn nữa, đại dịch cũng dẫn đến tình trạng thiếu việc làm gia tăng, vì nhiều người lao động buộc
phải chấp nhận công việc bán thời gian hoặc công việc với mức lương thấp hơn để trang trải cuộc sống.
Để giảm bớt tác động của tình trạng thất nghiệp, chính phủ Thái Lan đã đưa ra nhiều biện pháp,
bao gồm các gói kích thích tài chính, chương trình đào tạo nghề và hỗ trợ doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Tuy nhiên, hiệu quả của các biện pháp này vẫn chưa được nhìn thấy và thất nghiệp tiếp tục
là một vấn đề cấp bách đối với Thái Lan. Tỷ lệ thất nghiệp của Thái Lan đã tăng lên 2,25% trong
quý III vừa qua, tương đương 870.000 người không có việc làm, từ mức tương ứng 1,89% trong
quý trước đó.( cao nhất trong 16 năm qua ) - Năm 2010: Tăng lên 2,91%
- Năm 2011: Giảm xuống 2,18% - Năm 2012: Tăng lên 2,44%
- Năm 2013: Giảm xuống 2,19% - Năm 2014: Tăng lên 2,37%
- Năm 2015: Giảm xuống 2,38% Nhân tố nguồn vốn
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã tác động tiêu cực đến thu hút FDI của Việt
Nam trong 6 năm (2009 - 2014); vốn đăng ký năm 2009 đạt 23,1 tỷ USD và vốn thực hiện đạt 10
tỷ USD, từ 2010 đến 2014 các con số tương ứng hàng năm là 20 tỷ USD và 10 tỷ USD.
Năm 2015 ghi nhận thành quả rất ấn tượng của FDI: vốn đăng ký mới và tăng thêm là 24,11 tỷ
USD, tăng 12,5%, vốn thực hiện là 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với năm 2014, có nhiều dự án FDI lớn.
Năm 2016 vốn đăng ký mới và tăng thêm đạt 26,69 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 15,8 tỷ USD; hai
năm tiếp theo FDI tiếp tục tăng.
Năm 2019 vốn đăng ký mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt 38,02 tỷ
USD, tăng 17,2%, vốn thực hiện đạt 20,38 tỷ USD, tăng 6,7%. Điểm nổi bật là nhà đầu tư nước
ngoài đã góp vốn, mua cổ phần 15,47tỷ USD, tăng 56,4% so với năm 2018, chiếm 40,7% tổng vốn đăng ký.
Doanh nghiệp FDI có Kim ngạch xuất khẩu (kể cả dầu thô) đạt 181,35 tỷ USD, tăng 4,2% và
chiếm 68,8% kim ngạch xuất khẩu cả nước; có Kim ngạch nhập khẩu đạt 145,5 tỷ USD, tăng
2,5% so với cùng kỳ năm 2018 và chiếm 57,4% Kim ngạch nhập khẩu cả nước; xuất siêu gần
35,86 tỷ USD không những bù đắp được 25,96 tỷ USD nhập siêu của khu vực kinh tế trong
nước, mà còn tạo ra xuất siêu 9,9 tỷ USD.
Năm 2020 do tác động tiêu cực của Dịch Covid 19 nên thu hút FDI sụt giảm. Tính đến
20/8/2020, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt
19,54 tỷ USD, bằng 86,3%, vốn thực hiện đạt 11,45 tỷ USD, bằng 95,7% so với cùng kỳ năm 2019.
Kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu thô) đạt 113,3 tỷ USD, bằng 95,5%, chiếm
65,1% kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch hập khẩu đạt 90,8 tỷ USD, bằng 94,7% so cùng kỳ,
chiếm 55,6% kim ngạch nhập khẩu cả nước. Mặc dù vậy, khu vực ĐTNN vẫn xuất siêu gần 22,6
tỷ USD bù đắp phần nhập siêu 11,6 tỷ USD của khu vực trong nước, giúp cả nước xuất siêu 10,9 tỷ USD.
ng đó giai đoạn 2011 - 2020 mặc dù mất 4 năm (2011 - 2014) và năm 2020 thu hút FDI không
tăng, nhưng 5 năm 2015 - 2019 liên tục tăng cả về đầu tư mới, mở rộng đầu tư và nhất là mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài nên tổng vốn đăng ký, tăng thêm và mua cổ phần đạt 270 tỷ
USD, bằng 67,5%, vốn thực hiện đạt 156 tỷ USD, bằng 66% của hơn 30 năm thu hút FDI của nước ta.
Trong giai đoạn 2011 - 2020 bình quân vốn FDI thực hiện hàng năm chiếm khoảng 22 - 23% vốn đầu tư xã hội.
Khu vực FDI đóng góp vào GDP năm 2010 là 15,15% và năm 2015 là 18,07%, năm 2019 là
20%; so với trung bình của thế giới, khu vực FDI đóng góp vào GDP của Việt Nam cao hơn 9,4
điểm % (20% so với 10,6%).
Khu vực FDI nộp ngân sách nhà nước tăng nhanh, năm 2010 đạt 3 tỷ USD, năm 2015 đạt gần 6
tỷ USD, năm 2019 chiếm 20,28% tổng thu nội địa (không kể thu từ dầu thô và xuất nhập khẩu).
rong 10 năm qua, Thái Lan đã thu hút một số lượng đầu tư nước ngoài (FDI) đáng kể, đặc biệt là
trong các ngành công nghiệp liên quan đến công nghệ cao và sản xuất.
Theo thống kê của Ủy ban đầu tư của Thái Lan, vào năm 2020, lượng FDI vào Thái Lan đạt ยอด
เงินลงทุนต่างประเทศจําานวน 845 tỷ BHT (tương đương 27,9 tỷ USD). Từ năm 2011 đến 2020,
lượng FDI trung bình vào Thái Lan đạt khoảng 1.000 tỷ BHT mỗi năm.
Năm 2010, vốn đầu tư thực hiện đạt 11 tỷ USD, tới năm 2015 đã đạt 14,5 tỷ USD, và tới năm
2016 đã đạt 15,8 tỷ USD. Tính đến cuối năm 2017, Việt Nam đã thu hút được trên 25.000 dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng mức đầu tư đăng ký hơn 333 tỷ USD. Đến nay, 129 quốc
gia/vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam. Các dự án FDI đã hiện diện tại 63/63 địa phương,
vốn FDI cũng đã được đầu tư vào 19/21 ngành nghề sản xuất kinh doanh của Việt Nam (Bộ Tài
chính, 2018). Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2019 vốn
FDI vào Việt Nam đạt 38,95 tỷ USD, tăng 7,2% so với năm 2018.
iai đoạn từ năm 2010 - 2014 vốn FDI đăng ký có sự dao động liên tục và tăng nhẹ từ 19,89 tỷ
USD năm 2010 lên 21,92 tỷ USD vào năm 2014. Từ sau năm 2015 tổng vốn FDI đăng ký vào
Việt Nam có sự gia tăng mạnh mẽ và liên tục, với tổng vốn đầu tư vào Việt Nam năm 2015 là
22,7 tỷ USD, thì đến năm 2019 con số này tăng lên 38,95 tỷ USD.
Năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng
nên vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam có sự sụt giảm, chỉ đạt 28,53 tỷ USD, giảm 25% so với năm 2019
Bước sang năm 2021, mặc dù tình hình dịch bệnh covid-19 tại VN diễn biến phức tạp hơn năm
2020, kết quả thu hút đầu tư FDI vào VN 11 tháng đầu năm 2021 vẫn tương đối khả quan. Tổng
lượng vốn đăng ký mới đạt 14,1 tỷ USD, tăng 3,76% so với cùng kỳ.