lOMoARcPSD| 45474828
1. MÔ HÌNH HÀNH CHÍNH CÔNG TRUYỀN THỐNG
những đặc điểm của hành chính công truyền thống. Có thể khái quát ở một số
phương diện sau:
Thứ nhất, coi hiệu quả kinh tế là mục tiêu duy nhất và cao nhất.: Ưu thế của
mô hình tổ chức hành chính của Max Weber chính là có thể khắc phục một
cách tối đa nhân tố tình cảm, sự tùy tiện và yếu tố kinh nghiệm trong quản lý,
qua đó nhằm thực hiện mục tiêu hiệu quả của tổ chức
Thứ hai, trực tuyến - chức năng là đặc trưng cơ bản về tổ chức bộ máy của
hành chính công truyền thống:
+có ưu điểm là đảm bảo tính liên tục và có lợi cho việc nâng cao hiệu quả hành
chính
+nhưng thiếu sót và hạn chế lớn nhất là sự cứng nhắc và khó thích ứng với sự
thay đổi của môi trường
Đặc trưng về cơ cấu tổ chức hành chính công truyền thống có những nét chủ
yếu sau:
Phân công lao động và chuyên môn hóa chức năng: Có nghĩa, theo chiều
ngang, bộ máy và tổ chức hành chính được phân chia thành các bộ phận chức
năng khác nhau, các bộ phận trong tổ chức được xác định rõ về quyền hạn và
nhiệm vụ cụ thể.
+Ưu điểm của việc phân công lao động và chuyên môn hóa chức năng là dễ xác
định trách nhiệm, giảm thiểu độ khó và mức độ phức tạp của công việc, tiết
kiệm chi phí đào tạo và bồi dưỡng;
+nhưng có mặt hạn chế là tạo ra khó khăn nhất định cho sự điều phối và phối
hợp hoạt động giữa các bộ phận chức năng khác nhau.
Chế độ cấp bậc: Có nghĩa, theo chiều dọc, bộ máy và tổ chức hành chính được
phân chia thành các cấp khác nhau, xác định rõ quan hệ trên dưới, tương ứng
với nó là quan hệ mệnh lệnh - phục tùng, mỗi một bộ phận, mỗi một thành viên
trong tổ chức đều biết rõ cần nhận lệnh và thực thi mệnh lệnh từ ai.
lOMoARcPSD| 45474828
+Ưu điểm của chế độ cấp bậc là đảm bảo tính trật tự của cả bộ máy cũng như
của tổ chức, đảm bảo việc thực thi ý chí và mệnh lệnh của cấp trên.
+Nhưng hạn chế là, trong bộ máy dễ xuất hiện nhiều tầng nấc, làm cho sự vận
hành thông tin trong hệ thống trở nên chậm hơn, thậm chí xuất hiện tình trạng
thông tin không chính xác; quyền lực dễ tập trung ở cấp trên, hạn chế tính năng
động, chủ động và sáng tạo của cấp dưới; cản trở việc tiếp nhận thông tin phản
hồi từ cấp dưới; cấp dưới có thiên hướng chịu trách nhiệm trước cấp trên, coi
nhẹ việc chịu trách nhiệm trước đối tượng phục vụ trực tiếp.
- Quy tắc hóa. nghĩa là tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính, tổ
chức hành chính, quan hệ giữa các bộ phận trong tổ chức và hoạt động của mỗi
thành viên đều được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật đầy đủ và rõ ràng.
+Điều này có ưu điểm là đảm bảo tính quy phạm trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy hành chính, có thể ngăn ngừa hiện tượng tùy tiện, tiêu cực và tham
nhũng...;
+ nhưng hạn chế là dễ tạo ra bệnh hình thức, nặng về “quy trình”, “thủ tục” gây
phiền hà cho người dân.
- Phi nhân cách hóa. Có nghĩa, các thành viên trong tổ chức hành chính phải
tuân thủ chặt chẽ, đầy đủ các quy định pháp luật cũng như các nội quy của tổ
chức; không được lạm dụng chức quyền, không để tình cảm cá nhân ảnh hưởng
đến việc lựa chọn chính sách và hoạt động của tổ chức; thành viên tổ chức đều
phải thực thi nhiệm vụ theo quy định pháp luật và quy định thành văn của tổ
chức để đảm bảo thực hiện mục tiêu của tổ chức. Hoạt động và trao đổi công
việc giữa các bộ phận trong tổ chức đều phải căn cứ vào quy định thành văn của
tổ chức.
+Điều này có ưu điểm là đảm bảo tính chặt chẽ, ngăn ngừa hiện tượng tùy tiện,
vô kỷ luật trong công việc.
+Tuy nhiên, cũng có hạn chế là cản trở việc hình thành bầu không khí tích cực
trong tổ chức, dễ nảy sinh hiện tượng “vô cảm” và tác phong quan liêu.
Kỹ thuật hóa. Có nghĩa, đội ngũ nhân viên trong tổ chức hành chính đòi hỏi
phải được trang bị tri thức và nghiệp vụ chuyên môn; căn cứ vào chuyên môn
và năng lực nghiệp vụ của mỗi thành viên để tiến hành bố trí và sắp xếp công
lOMoARcPSD| 45474828
việc; đồng thời, hiệu quả công việc và thâm niên công tác của nhân viên hành
chính là căn cứ cho việc nâng ngạch và tăng lương. Điều này nhằm thúc đẩy
tính tích cực trong công việc của mỗi cá nhân cũng như bảo đảm việc nâng cao
hiệu quả của tổ chức.
+Đặc điểm này có ưu điểm là bảo đảm tính khoa học và hiệu quả trong hoạt động
công vụ; tuy nhiên dễ có xu hướng tuyệt đối hóa vai trò của chuyên gia và đội ngũ
tham mưu trong bộ máy hành chính, coi nhẹ sự tham gia của công dân; dễ xuất
hiện hiện tượng “ngạo mạn hành chính”.
+Sự thống trị của “chủ nghĩa kỹ trị” không có lợi cho việc dân chủ hóa chính sách,
các phương án chính sách do đội ngũ tham mưu đề xuất nhiều khi không đáp ứng
được nhu cầu, mong muốn của công dân và xã hội.
Sự phân minh giữa công và tư. Trong tổ chức hành chính, có sự phân minh giữa
công và tư; các thành viên trong tổ chức không được chiếm hữu tài sản và nguồn
lực công, thực hiện sự phân tách hoàn toàn giữa tài sản của cơ quan với tài sản của
tư nhân(4). Nó còn có nghĩa là các thành viên trong tổ chức không được lợi dụng
quyền lực công vì mục đích tư, không được tham nhũng.
Trao đổi văn bản và công văn. Trong tổ chức hành chính, việc thực thi nhiệm vụ
đều cần phải dựa vào văn bản chính thức, việc thực thi các mệnh lệnh, quyết định
và quy định cũng dựa trên văn bản chính thức. Các văn bản này phải được lưu trữ
đầy đủ và theo đúng quy tắc nhất định.
+Điều này có ưu điểm là bảo đảm tính quy chuẩn của công việc và có lợi đối với
việc tích lũy kinh nghiệm;
+nhưng hạn chế là chậm trễ trong việc truyền đạt và chia sẻ thông tin.
Thứ ba, đặc điểm về mô hình chính sách.
Trình tự của mô hình chính sách lý tính là: trước hết, chuyên gia (hoặc đội ngũ
tham mưu trong bộ máy) tiến hành phân tích đối với vấn đề công, xác định mục
tiêu và đề xuất các phương án chính sách khác nhau, sau đó, quan chức chính
phủ (hoặc người có thẩm quyền quyết định chính sách) sẽ tiến hành đánh giá
lOMoARcPSD| 45474828
phương án chính sách và đưa ra lựa chọn cuối cùng đối với phương án chính
sách đó.
+Mô hình chính sách này có ưu điểm là xác lập nên khung khổ và các bước của
hoạt động thiết kế chính sách,
+nhưng hạn chế là tính khép kín, thiếu sự tham gia của công dân. Đặc biệt, việc
tuyệt đối hóa vai trò của chuyên gia trong bộ máy dễ dẫn đến “chủ nghĩa kỹ trị”
trong thiết kế chính sách; nhấn mạnh việc “đưa chính sách vào cuộc sống”, làm
cho chính sách được ban hành ra khó đáp ứng nhu cầu, mong muốn của xã hội,
ảnh hưởng không tốt đến việc thực thi chính sách cũng như dễ tạo ra sự xung
đột giữa “tri thức của chuyên gia” và “tri thức địa phương”.
thứ tư, về mức độ “mở” của hành chính nhà nước.
hành chính công truyền thống chủ yếu nghiên cứu các vấn đề bên trong và mối
quan hệ bên trong của bộ máy hành chính (chức năng hành chính, nguyên tắc tổ
chức và vận hành của tổ chức hành chính…), mà chưa quan tâm đến việc
nghiên cứu mối quan hệ giữa hành chính với xã hội và công dân. Tất cả điều
này tạo nên một đặc trưng quan trọng của hành chính công truyền thống là tính
khép kín. Hành chính công truyền thống chưa nghiên cứu một cách thỏa đáng
các vấn đề như công khai thông tin, trình tự và sự tham gia của công dân. Vì
vậy, trong thực tiễn hoạt động, hành chính công truyền thống thường đề cao
tính bảo mật về thông tin; hạn chế, thậm chí loại trừ sự tham gia của công dân.
Thứ năm, đặc điểm về mối quan hệ giữa hành chính nhà nước với xã hội và
công dân.
Hành chính công truyền thống coi hành chính nhà nước là chủ thể duy nhất
trong quản lý xã hội; việc thực thi quyền lực của hành chính nhà nước là từ trên
xuống dưới và một chiều; xã hội và công dân là bên tiếp nhận một cách bị động
chính sách và mệnh lệnh hành chính nhà nước. Đặc điểm này tạo nên một đặc
điểm khác của hành chính công truyền thống, đó chính là thiếu tính hợp tác
giữa hành chính nhà nước với xã hội và công dân trong quản lý xã hội; quan hệ
giữa chính phủ và xã hội là quan hệ đối lập, mà không phải là quan hệ đối tác
và hợp tác. Bên cạnh thiếu tính hợp tác, hành chính công truyền thống còn thiếu
lOMoARcPSD| 45474828
tính tích hợp, nhất là thiếu sự tích hợp giữa khu vực công và khu vực tư. Điều
này ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội.
MÔ HÌNH QUẢN TRỊ HÀNH CHÍNH CÔNG MS
#-quản trị công mới chỉ ra định hướng cải cách khu vực công từ một nền hành
chính công truyền thống sang một nền quản trị công mới, khi mà khu vực công
ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nới riêng tỏ ra còn quá nhiều
trì trệ và yếu kém. Lý thuyết quản trị công mới cho thấy rằng cần phải thay đổi
nhận thức về vai trò của nhà nước và cách thức sử dụng nguồn lực của quốc gia.
Nhà nước luôn là người chịu trách nhiệm cao nhất về sự tồn vong và phát triển
của quốc gia, dân tộc, nhưng nhà nước không cần làm tất cả mọi việc mà có thể
chuyển giao một phần công việc vho khu vực tư nhân đảm nhiệm. Từ việc nhận
thức lại vai trò của nhà nước, cách thức sử dụng nguồn lực cũng sẽ thay
đổi.Những hiện tượng tiêu cực trong nền hành chính công truyền thống như
lãng phí, vô trách nhiệm trong sử dụng tài sản công, lạm quyền, tham nhũng
cũng sẽ được hạn chế .
Không những vậy, lý thuyết quản trị công mới còn giúp các nhà quản lý nhận
thức được đầy đủ hơn về sự cần thiết phải không ngừng đổi mới trong quản lý.
Cải cách khu vực công không phải là làm một lần rồi xong, không bao giờ phải
làm lại nữa. Cải cách khu vực công là một quá trình mà như nhiều học giả đã so
sánh với công việc của người làm vườn. Họ không chờ cỏ mọc đầy vườn mới
tiến hành công việc. Cải cách cần nỗ lực bền bỉ và không ngừng. Điều này có ý
nghĩa quan trọng hơn là nhà quản lý luôn luôn hướng tới những giá trị cao hơn,
những kết quả cao hơn chứ không chỉ bằng lòng với những kết quả đạt được.
Quản trị công mới chỉ ra xu hướng cải cách mới cho nền hành chính nhà nước:
phi tập trung hóa, tư nhân hóa một phần các hoạt động của nhà nước nhưng vẫn
phải đảm bảo vai trò trung tâm cuat chính phủ và tính trách nhiệm cao nhất của
nhà nước. Thực tế hiện nay cho thấy, quá trình phi tập trung hóa nền hành chính
nhà nước đang được thực hiện. Hành chính trung ương chia bớt thẩm quyền cho
nh chính địa phương chủ động quản lý các nguồn lực trong phạm vi thẩm
quyền của mình, để những quyết sách gần dân, phù hợp với thực tiễn địa
phương hơn.
chỉ ra rằng cần phải đơn giản hóa hệ thống thủ tục trong giải quyết công việc
của công dân và tổ chức. Như chúng ta đã biết, quá trình áp dụng triệt để hệ
lOMoARcPSD| 45474828
thống hành chính quan liêu đã dẫn đến hình thành hệ thống các quy chế, thủ
thục hành chính phức tạp. Thủ tục phức tạp sẽ dẫn đến rất nhiều hậu quả, mà
một trong số đó là sự trì trệ trong giải quyết các công việc cho công dân. Thủ
tục phức tạp làm phát sinh nhiều tiêu cực, sự nhũng nhiễu, lạm quyền của cán
bộ công chức nhà nước. Chính vì vậy, cải cách thtục hành chính luôn là trọng
tâm trong nội dung cải cách hành chính ở nước ta nói riêng và các nước đang
phát triển nói chung. Phi quy chế hóa, giảm thiểu thủ tục, giấy tờ trong giải
quyết công việc cho công dân tổ chức sẽ đưa nền hành chính đến gần dân hơn.
#quản trị công mới đã không chú ý đúng mức đến sự khác biệt giữa khu vực
công và khu vực tư, quá nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân mà quên đi trách
nhiệm tập thể của cơ quan quản lý. Sự nhấn mạnh thái quá vào việc áp dụng các
kỹ thuật quản lý của khu vực tư vào khu vưc công có thể dẫn đến những xung
đột trong khu vực công. Các nhà quản trị công mới khởi đầu đề cập đến vấn đề
lựa chọn kỹ thuật quản lý khu vực tư để áp dụng cho khu vực công và hoàn toàn
không quên bản chất quản lý của khu vực công và khu vực tư.
Một hạn chế nữa của quản trị công mới được chỉ ra là xem công dân là khách
hàng của nền công vụ mà chưa chú ý đúng mức đến vai trò công dân của họ, vai
trò của một công dân trong một nhà nước dân chủ. Thực tế quan hệ giữa chính
phủ và người dân không hoàn toàn đồng nhất với quan hệ người cung cấp dịch
vụ và khách hàng. Mối quan hệ giữa chính phủ và công dân phức tạp hơn và vai
trò của công dân thực tế thể hiện ở 4 phạm trù: công dân, khách hàng, người sử
dụng dịch vụ và dân chúng. Vì vậy, việc chỉ nhấn mạnh vào quan hệ khách
hàng thì chưa thể hiện hết vai trò của công dân.
2. Thực trạng cải cách hành chính ở Việt Nam:
Những năm qua, Nhà nước đã chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng cung
ứng dịch vụ hành chính công, coi đó là một khâu quan trọng trong thực hiện
chương trình cải cách nền hành chính nhà nước theo hướng hiện đại, chuyên
nghiệp.
Nhiều nơi đã áp dụng các phương tiện kỹ thuật điện tử, tin học hiện đại để nâng
cao chất lượng dịch vụ công, như cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp
phép đầu tư, cấp đăng ký xe máy, chứng minh thư nhân dân…; tổ chức đấu thầu
lOMoARcPSD| 45474828
các dự án chi tiêu công; rà soát để loại bỏ những thủ tục hành chính (TTHC)
không cần thiết, các giấy phép còn gây phiền hà cho người dân khi tiếp cận dịch
vụ hành chính công (DVHCC), rút ngắn thời gian cung ứng dịch vụ…, đặc biệt
là sáp nhập các đơn vị hành chính theo hướng tinh gọn, ví dụ như việc tinh giản
biên chế tại các cơ quan hành chính nhà nước và sáp nhập một số cơ quan hành
chính tại Bộ Công thương.
Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hành chính nhà nước đang thực
hiện chuyển chức năng quản lý nhà nước sang các hình thức hoạt động cung
cấp dịch vụ công. Mặt khác, trong quá trình chuyển đổi, sự kết hợp giữa N
nước với các thành phần kinh tế trong hoạt động cung cấp dịch vụ diễn ra phổ
biến. Hoạt động cung cấp dịch vụ thu phí vốn nằm trong tay Nhà nước đang
được chuyển dịch dần sang khu vực tư (ví dụ như hoạt động của các văn phòng
công chứng tư), Nhà nước chỉ đóng vai trò xúc tiến
Trong điều kiện chung hiện nay, hoạt động cung cấp dịch vụ công đang được
Nhà nước thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau. Các cơ quan hành chính
nhà nước chỉ tập trung vào những loại hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần
nhưng thiếu người cung cấp hoặc không muốn cung cấp và trong nhiều trường
hợp cung cấp không hiệu quả.
Cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng cung cấp dịch vụ công từ phía cơ
quan nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Trong nền kinh tế thị trường, việc
cung cấp dịch vụ công thỏa mãn nhu cầu của người dân không chỉ do Nhà nước
đảm nhiệm, mà dần dần được xã hội hóa với vai trò tham gia của các thành
phần kinh tế khác dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Về mặt nguyên tắc, Nhà
nước không nhất thiết phải trực tiếp cung cấp các dịch vụ công mà có trách
nhiệm bảo đảm rằng các dịch vụ đó được cung cấp trên thực tế.
Song hành với những cải cách về kinh tế và những đổi mới quan trọng trong hệ
thống chính trị thì vấn đề CCHC luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định là
một khâu quan trọng mang tính đột phá, nhằm thực hiện chủ trương của Đảng
và Nhà nước trong việc xây dựng nền hành chính công vững mạnh, chuyên
nghiệp hóa, muốn đạt được mục tiêu đó phải cải cách nền hành chính quốc gia.
Điều này được phản ánh khá rõ nét qua việc triển khai Chương trình tổng thể
CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 với những nội dung cơ bản: từ cải cách
thể chế, tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
lOMoARcPSD| 45474828
cán bộ, công chức đến cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính
công.
Tuy nhiên, DVHCC Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, đó là:
DVHCC hoạt động kém hiệu quả do chịu sự cản trở và tác động của chính
các yếu tố của bộ máy quan liêu chậm được đổi mới, chẳng hạn: TTHC phức tạp,
phiền hà; quy trình cung ứng dịch vụ qua nhiều tầng nấc, phòng, ban, các quy trình
khác nhau; sự cửa quyền, nhũng nhiễu, quan liêu của những người trực tiếp cung
ứng dịch vụ…3.
Các thông tin cần thiết về thủ tục cũng như cách thức và quy trình thực hiện
DVHCC, các thông tin về quy hoạch, đất đai, tài nguyên… chưa được công khai rõ
ràng, minh bạch, do đó dễ bị những người cung ứng dịch vụ lợi dụng để sách
nhiễu, gây khó khăn, phiền hà. Các đơn vị, tổ chức và người dân chưa thực sự dễ
dàng, thuận tiện khi tiếp cận các thông tin trên và tiếp cận DVHCC.
Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về TTHC của các cơ quan nhà
nước từtrung ương đến địa phương còn quá rườm rà, phức tạp và chồng chéo. Có
đến 72% doanh nghiệp FDI cho biết, năm 2016, họ mất hơn 5% quỹ thời gian để
thực hiện các thủ tục hành chính. Tỷ lệ này cũng cao đáng kể so với con số 56%
trong điều tra PCI năm 2010. Đáng chú ý, tỷ lệ này ở tất cả các tỉnh không có sự
khác biệt lớn, đều rơi vào khoảng 70%. Các doanh nghiệp FDI cho biết, tiếp nhận
khoảng 2 cuộc thanh kiểm tra mỗi năm. Hơn 95% doanh nghiệp FDI bị thanh kiểm
tra dưới 8 lần; một số doanh nghiệp bị thanh kiểm tra hơn 8 lần/năm. Thủ tục
phiền hà nhất mà các doanh nghiệp FDI cho biết, đó là thuế (liên quan đến hóa đơn
thuế GTGT), bảo hiểm xã hội và thủ tục thông quan hàng hóa.
Hiện nay, sự phức tạp, rườm rà, thậm chí chồng chéo của các TTHC trong lĩnh vực
đầu tư xây dựng đang tạo nên gánh nặng rất lớn cho các doanh nghiệp, cũng như
làm mất cơ hội đầu tư, gây rủi ro cho doanh nghiệp. Ví như, xin thẩm định 1 dự án
đầu tư xây dựng tại địa phương, doanh nghiệp phải làm việc đồng thời với sở Xây
dựng, sở Tài nguyên và Môi trường, sở Quy hoạch – Kiến trúc, UBND tỉnh, thành
phố (tổng cộng với 4 – 5 cơ quan một cách độc lập, không có một cửa thống nhất,
một đầu mối giải quyết).
Sự phân công, phân cấp trong việc cung ứng dịch vụ công chưa thực sự
được đẩymạnh theo hướng “một công việc chỉ do một cơ quan giải quyết” và chịu
lOMoARcPSD| 45474828
trách nhiệm mà vẫn còn tình trạng cấp trên ôm đồm, chưa muốn giao quyền hoặc
chưa tin tưởng vào khả năng giải quyết công việc của cấp dưới.
Tình trạng bất bình đẳng, phân biệt đối xử trong việc tiếp cận DVHCC còn
khá phổ biến: doanh nghiệp nhà nước được ưu ái hơn so với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh; người có chức quyền hoặc thân quen dễ tiếp cận các dịch vụ hơn
người dân bình thường…
Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của người cung ứng dịch vụ còn nhiều bất
cập, hạn chế; đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức nhất là người trực tiếp
giải quyết các nhu cầu về DVHCC có biểu hiện sa sút, biến chất; kỷ luật, kỷ cương
công vụ chưa được thực hiện nghiêm túc.
lOMoARcPSD| 45474828
lOMoARcPSD| 45474828

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45474828
1. MÔ HÌNH HÀNH CHÍNH CÔNG TRUYỀN THỐNG
những đặc điểm của hành chính công truyền thống. Có thể khái quát ở một số phương diện sau:
Thứ nhất, coi hiệu quả kinh tế là mục tiêu duy nhất và cao nhất.: Ưu thế của
mô hình tổ chức hành chính của Max Weber chính là có thể khắc phục một
cách tối đa nhân tố tình cảm, sự tùy tiện và yếu tố kinh nghiệm trong quản lý,
qua đó nhằm thực hiện mục tiêu hiệu quả của tổ chức
Thứ hai, trực tuyến - chức năng là đặc trưng cơ bản về tổ chức bộ máy của
hành chính công truyền thống:
+có ưu điểm là đảm bảo tính liên tục và có lợi cho việc nâng cao hiệu quả hành chính
+nhưng thiếu sót và hạn chế lớn nhất là sự cứng nhắc và khó thích ứng với sự
thay đổi của môi trường
Đặc trưng về cơ cấu tổ chức hành chính công truyền thống có những nét chủ yếu sau:
Phân công lao động và chuyên môn hóa chức năng: Có nghĩa, theo chiều
ngang, bộ máy và tổ chức hành chính được phân chia thành các bộ phận chức
năng khác nhau, các bộ phận trong tổ chức được xác định rõ về quyền hạn và nhiệm vụ cụ thể.
+Ưu điểm của việc phân công lao động và chuyên môn hóa chức năng là dễ xác
định trách nhiệm, giảm thiểu độ khó và mức độ phức tạp của công việc, tiết
kiệm chi phí đào tạo và bồi dưỡng;
+nhưng có mặt hạn chế là tạo ra khó khăn nhất định cho sự điều phối và phối
hợp hoạt động giữa các bộ phận chức năng khác nhau.
Chế độ cấp bậc: Có nghĩa, theo chiều dọc, bộ máy và tổ chức hành chính được
phân chia thành các cấp khác nhau, xác định rõ quan hệ trên dưới, tương ứng
với nó là quan hệ mệnh lệnh - phục tùng, mỗi một bộ phận, mỗi một thành viên
trong tổ chức đều biết rõ cần nhận lệnh và thực thi mệnh lệnh từ ai. lOMoAR cPSD| 45474828
+Ưu điểm của chế độ cấp bậc là đảm bảo tính trật tự của cả bộ máy cũng như
của tổ chức, đảm bảo việc thực thi ý chí và mệnh lệnh của cấp trên.
+Nhưng hạn chế là, trong bộ máy dễ xuất hiện nhiều tầng nấc, làm cho sự vận
hành thông tin trong hệ thống trở nên chậm hơn, thậm chí xuất hiện tình trạng
thông tin không chính xác; quyền lực dễ tập trung ở cấp trên, hạn chế tính năng
động, chủ động và sáng tạo của cấp dưới; cản trở việc tiếp nhận thông tin phản
hồi từ cấp dưới; cấp dưới có thiên hướng chịu trách nhiệm trước cấp trên, coi
nhẹ việc chịu trách nhiệm trước đối tượng phục vụ trực tiếp.
- Quy tắc hóa. Có nghĩa là tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính, tổ
chức hành chính, quan hệ giữa các bộ phận trong tổ chức và hoạt động của mỗi
thành viên đều được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật đầy đủ và rõ ràng.
+Điều này có ưu điểm là đảm bảo tính quy phạm trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy hành chính, có thể ngăn ngừa hiện tượng tùy tiện, tiêu cực và tham nhũng...;
+ nhưng hạn chế là dễ tạo ra bệnh hình thức, nặng về “quy trình”, “thủ tục” gây
phiền hà cho người dân.
- Phi nhân cách hóa. Có nghĩa, các thành viên trong tổ chức hành chính phải
tuân thủ chặt chẽ, đầy đủ các quy định pháp luật cũng như các nội quy của tổ
chức; không được lạm dụng chức quyền, không để tình cảm cá nhân ảnh hưởng
đến việc lựa chọn chính sách và hoạt động của tổ chức; thành viên tổ chức đều
phải thực thi nhiệm vụ theo quy định pháp luật và quy định thành văn của tổ
chức để đảm bảo thực hiện mục tiêu của tổ chức. Hoạt động và trao đổi công
việc giữa các bộ phận trong tổ chức đều phải căn cứ vào quy định thành văn của tổ chức.
+Điều này có ưu điểm là đảm bảo tính chặt chẽ, ngăn ngừa hiện tượng tùy tiện,
vô kỷ luật trong công việc.
+Tuy nhiên, cũng có hạn chế là cản trở việc hình thành bầu không khí tích cực
trong tổ chức, dễ nảy sinh hiện tượng “vô cảm” và tác phong quan liêu.
Kỹ thuật hóa. Có nghĩa, đội ngũ nhân viên trong tổ chức hành chính đòi hỏi
phải được trang bị tri thức và nghiệp vụ chuyên môn; căn cứ vào chuyên môn
và năng lực nghiệp vụ của mỗi thành viên để tiến hành bố trí và sắp xếp công lOMoAR cPSD| 45474828
việc; đồng thời, hiệu quả công việc và thâm niên công tác của nhân viên hành
chính là căn cứ cho việc nâng ngạch và tăng lương. Điều này nhằm thúc đẩy
tính tích cực trong công việc của mỗi cá nhân cũng như bảo đảm việc nâng cao
hiệu quả của tổ chức.
+Đặc điểm này có ưu điểm là bảo đảm tính khoa học và hiệu quả trong hoạt động
công vụ; tuy nhiên dễ có xu hướng tuyệt đối hóa vai trò của chuyên gia và đội ngũ
tham mưu trong bộ máy hành chính, coi nhẹ sự tham gia của công dân; dễ xuất
hiện hiện tượng “ngạo mạn hành chính”.
+Sự thống trị của “chủ nghĩa kỹ trị” không có lợi cho việc dân chủ hóa chính sách,
các phương án chính sách do đội ngũ tham mưu đề xuất nhiều khi không đáp ứng
được nhu cầu, mong muốn của công dân và xã hội.
Sự phân minh giữa công và tư. Trong tổ chức hành chính, có sự phân minh giữa
công và tư; các thành viên trong tổ chức không được chiếm hữu tài sản và nguồn
lực công, thực hiện sự phân tách hoàn toàn giữa tài sản của cơ quan với tài sản của
tư nhân(4). Nó còn có nghĩa là các thành viên trong tổ chức không được lợi dụng
quyền lực công vì mục đích tư, không được tham nhũng.
Trao đổi văn bản và công văn. Trong tổ chức hành chính, việc thực thi nhiệm vụ
đều cần phải dựa vào văn bản chính thức, việc thực thi các mệnh lệnh, quyết định
và quy định cũng dựa trên văn bản chính thức. Các văn bản này phải được lưu trữ
đầy đủ và theo đúng quy tắc nhất định.
+Điều này có ưu điểm là bảo đảm tính quy chuẩn của công việc và có lợi đối với
việc tích lũy kinh nghiệm;
+nhưng hạn chế là chậm trễ trong việc truyền đạt và chia sẻ thông tin.
Thứ ba, đặc điểm về mô hình chính sách.
Trình tự của mô hình chính sách lý tính là: trước hết, chuyên gia (hoặc đội ngũ
tham mưu trong bộ máy) tiến hành phân tích đối với vấn đề công, xác định mục
tiêu và đề xuất các phương án chính sách khác nhau, sau đó, quan chức chính
phủ (hoặc người có thẩm quyền quyết định chính sách) sẽ tiến hành đánh giá lOMoAR cPSD| 45474828
phương án chính sách và đưa ra lựa chọn cuối cùng đối với phương án chính sách đó.
+Mô hình chính sách này có ưu điểm là xác lập nên khung khổ và các bước của
hoạt động thiết kế chính sách,
+nhưng hạn chế là tính khép kín, thiếu sự tham gia của công dân. Đặc biệt, việc
tuyệt đối hóa vai trò của chuyên gia trong bộ máy dễ dẫn đến “chủ nghĩa kỹ trị”
trong thiết kế chính sách; nhấn mạnh việc “đưa chính sách vào cuộc sống”, làm
cho chính sách được ban hành ra khó đáp ứng nhu cầu, mong muốn của xã hội,
ảnh hưởng không tốt đến việc thực thi chính sách cũng như dễ tạo ra sự xung
đột giữa “tri thức của chuyên gia” và “tri thức địa phương”.
thứ tư, về mức độ “mở” của hành chính nhà nước.
hành chính công truyền thống chủ yếu nghiên cứu các vấn đề bên trong và mối
quan hệ bên trong của bộ máy hành chính (chức năng hành chính, nguyên tắc tổ
chức và vận hành của tổ chức hành chính…), mà chưa quan tâm đến việc
nghiên cứu mối quan hệ giữa hành chính với xã hội và công dân. Tất cả điều
này tạo nên một đặc trưng quan trọng của hành chính công truyền thống là tính
khép kín. Hành chính công truyền thống chưa nghiên cứu một cách thỏa đáng
các vấn đề như công khai thông tin, trình tự và sự tham gia của công dân. Vì
vậy, trong thực tiễn hoạt động, hành chính công truyền thống thường đề cao
tính bảo mật về thông tin; hạn chế, thậm chí loại trừ sự tham gia của công dân.
Thứ năm, đặc điểm về mối quan hệ giữa hành chính nhà nước với xã hội và công dân.
Hành chính công truyền thống coi hành chính nhà nước là chủ thể duy nhất
trong quản lý xã hội; việc thực thi quyền lực của hành chính nhà nước là từ trên
xuống dưới và một chiều; xã hội và công dân là bên tiếp nhận một cách bị động
chính sách và mệnh lệnh hành chính nhà nước. Đặc điểm này tạo nên một đặc
điểm khác của hành chính công truyền thống, đó chính là thiếu tính hợp tác
giữa hành chính nhà nước với xã hội và công dân trong quản lý xã hội; quan hệ
giữa chính phủ và xã hội là quan hệ đối lập, mà không phải là quan hệ đối tác
và hợp tác. Bên cạnh thiếu tính hợp tác, hành chính công truyền thống còn thiếu lOMoAR cPSD| 45474828
tính tích hợp, nhất là thiếu sự tích hợp giữa khu vực công và khu vực tư. Điều
này ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội.
MÔ HÌNH QUẢN TRỊ HÀNH CHÍNH CÔNG MS
#-quản trị công mới chỉ ra định hướng cải cách khu vực công từ một nền hành
chính công truyền thống sang một nền quản trị công mới, khi mà khu vực công
ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nới riêng tỏ ra còn quá nhiều
trì trệ và yếu kém. Lý thuyết quản trị công mới cho thấy rằng cần phải thay đổi
nhận thức về vai trò của nhà nước và cách thức sử dụng nguồn lực của quốc gia.
Nhà nước luôn là người chịu trách nhiệm cao nhất về sự tồn vong và phát triển
của quốc gia, dân tộc, nhưng nhà nước không cần làm tất cả mọi việc mà có thể
chuyển giao một phần công việc vho khu vực tư nhân đảm nhiệm. Từ việc nhận
thức lại vai trò của nhà nước, cách thức sử dụng nguồn lực cũng sẽ thay
đổi.Những hiện tượng tiêu cực trong nền hành chính công truyền thống như
lãng phí, vô trách nhiệm trong sử dụng tài sản công, lạm quyền, tham nhũng
cũng sẽ được hạn chế .
Không những vậy, lý thuyết quản trị công mới còn giúp các nhà quản lý nhận
thức được đầy đủ hơn về sự cần thiết phải không ngừng đổi mới trong quản lý.
Cải cách khu vực công không phải là làm một lần rồi xong, không bao giờ phải
làm lại nữa. Cải cách khu vực công là một quá trình mà như nhiều học giả đã so
sánh với công việc của người làm vườn. Họ không chờ cỏ mọc đầy vườn mới
tiến hành công việc. Cải cách cần nỗ lực bền bỉ và không ngừng. Điều này có ý
nghĩa quan trọng hơn là nhà quản lý luôn luôn hướng tới những giá trị cao hơn,
những kết quả cao hơn chứ không chỉ bằng lòng với những kết quả đạt được.
Quản trị công mới chỉ ra xu hướng cải cách mới cho nền hành chính nhà nước:
phi tập trung hóa, tư nhân hóa một phần các hoạt động của nhà nước nhưng vẫn
phải đảm bảo vai trò trung tâm cuat chính phủ và tính trách nhiệm cao nhất của
nhà nước. Thực tế hiện nay cho thấy, quá trình phi tập trung hóa nền hành chính
nhà nước đang được thực hiện. Hành chính trung ương chia bớt thẩm quyền cho
hành chính địa phương chủ động quản lý các nguồn lực trong phạm vi thẩm
quyền của mình, để những quyết sách gần dân, phù hợp với thực tiễn địa phương hơn.
chỉ ra rằng cần phải đơn giản hóa hệ thống thủ tục trong giải quyết công việc
của công dân và tổ chức. Như chúng ta đã biết, quá trình áp dụng triệt để hệ lOMoAR cPSD| 45474828
thống hành chính quan liêu đã dẫn đến hình thành hệ thống các quy chế, thủ
thục hành chính phức tạp. Thủ tục phức tạp sẽ dẫn đến rất nhiều hậu quả, mà
một trong số đó là sự trì trệ trong giải quyết các công việc cho công dân. Thủ
tục phức tạp làm phát sinh nhiều tiêu cực, sự nhũng nhiễu, lạm quyền của cán
bộ công chức nhà nước. Chính vì vậy, cải cách thủ tục hành chính luôn là trọng
tâm trong nội dung cải cách hành chính ở nước ta nói riêng và các nước đang
phát triển nói chung. Phi quy chế hóa, giảm thiểu thủ tục, giấy tờ trong giải
quyết công việc cho công dân tổ chức sẽ đưa nền hành chính đến gần dân hơn.
#quản trị công mới đã không chú ý đúng mức đến sự khác biệt giữa khu vực
công và khu vực tư, quá nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân mà quên đi trách
nhiệm tập thể của cơ quan quản lý. Sự nhấn mạnh thái quá vào việc áp dụng các
kỹ thuật quản lý của khu vực tư vào khu vưc công có thể dẫn đến những xung
đột trong khu vực công. Các nhà quản trị công mới khởi đầu đề cập đến vấn đề
lựa chọn kỹ thuật quản lý khu vực tư để áp dụng cho khu vực công và hoàn toàn
không quên bản chất quản lý của khu vực công và khu vực tư.
Một hạn chế nữa của quản trị công mới được chỉ ra là xem công dân là khách
hàng của nền công vụ mà chưa chú ý đúng mức đến vai trò công dân của họ, vai
trò của một công dân trong một nhà nước dân chủ. Thực tế quan hệ giữa chính
phủ và người dân không hoàn toàn đồng nhất với quan hệ người cung cấp dịch
vụ và khách hàng. Mối quan hệ giữa chính phủ và công dân phức tạp hơn và vai
trò của công dân thực tế thể hiện ở 4 phạm trù: công dân, khách hàng, người sử
dụng dịch vụ và dân chúng. Vì vậy, việc chỉ nhấn mạnh vào quan hệ khách
hàng thì chưa thể hiện hết vai trò của công dân.
2. Thực trạng cải cách hành chính ở Việt Nam:
Những năm qua, Nhà nước đã chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng cung
ứng dịch vụ hành chính công, coi đó là một khâu quan trọng trong thực hiện
chương trình cải cách nền hành chính nhà nước theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp.
Nhiều nơi đã áp dụng các phương tiện kỹ thuật điện tử, tin học hiện đại để nâng
cao chất lượng dịch vụ công, như cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp
phép đầu tư, cấp đăng ký xe máy, chứng minh thư nhân dân…; tổ chức đấu thầu lOMoAR cPSD| 45474828
các dự án chi tiêu công; rà soát để loại bỏ những thủ tục hành chính (TTHC)
không cần thiết, các giấy phép còn gây phiền hà cho người dân khi tiếp cận dịch
vụ hành chính công (DVHCC), rút ngắn thời gian cung ứng dịch vụ…, đặc biệt
là sáp nhập các đơn vị hành chính theo hướng tinh gọn, ví dụ như việc tinh giản
biên chế tại các cơ quan hành chính nhà nước và sáp nhập một số cơ quan hành
chính tại Bộ Công thương.
Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hành chính nhà nước đang thực
hiện chuyển chức năng quản lý nhà nước sang các hình thức hoạt động cung
cấp dịch vụ công. Mặt khác, trong quá trình chuyển đổi, sự kết hợp giữa Nhà
nước với các thành phần kinh tế trong hoạt động cung cấp dịch vụ diễn ra phổ
biến. Hoạt động cung cấp dịch vụ thu phí vốn nằm trong tay Nhà nước đang
được chuyển dịch dần sang khu vực tư (ví dụ như hoạt động của các văn phòng
công chứng tư), Nhà nước chỉ đóng vai trò xúc tiến
Trong điều kiện chung hiện nay, hoạt động cung cấp dịch vụ công đang được
Nhà nước thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau. Các cơ quan hành chính
nhà nước chỉ tập trung vào những loại hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần
nhưng thiếu người cung cấp hoặc không muốn cung cấp và trong nhiều trường
hợp cung cấp không hiệu quả.
Cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng cung cấp dịch vụ công từ phía cơ
quan nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Trong nền kinh tế thị trường, việc
cung cấp dịch vụ công thỏa mãn nhu cầu của người dân không chỉ do Nhà nước
đảm nhiệm, mà dần dần được xã hội hóa với vai trò tham gia của các thành
phần kinh tế khác dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Về mặt nguyên tắc, Nhà
nước không nhất thiết phải trực tiếp cung cấp các dịch vụ công mà có trách
nhiệm bảo đảm rằng các dịch vụ đó được cung cấp trên thực tế.
Song hành với những cải cách về kinh tế và những đổi mới quan trọng trong hệ
thống chính trị thì vấn đề CCHC luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định là
một khâu quan trọng mang tính đột phá, nhằm thực hiện chủ trương của Đảng
và Nhà nước trong việc xây dựng nền hành chính công vững mạnh, chuyên
nghiệp hóa, muốn đạt được mục tiêu đó phải cải cách nền hành chính quốc gia.
Điều này được phản ánh khá rõ nét qua việc triển khai Chương trình tổng thể
CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 với những nội dung cơ bản: từ cải cách
thể chế, tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ lOMoAR cPSD| 45474828
cán bộ, công chức đến cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính công.
Tuy nhiên, DVHCC Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, đó là: –
DVHCC hoạt động kém hiệu quả do chịu sự cản trở và tác động của chính
các yếu tố của bộ máy quan liêu chậm được đổi mới, chẳng hạn: TTHC phức tạp,
phiền hà; quy trình cung ứng dịch vụ qua nhiều tầng nấc, phòng, ban, các quy trình
khác nhau; sự cửa quyền, nhũng nhiễu, quan liêu của những người trực tiếp cung ứng dịch vụ…3. –
Các thông tin cần thiết về thủ tục cũng như cách thức và quy trình thực hiện
DVHCC, các thông tin về quy hoạch, đất đai, tài nguyên… chưa được công khai rõ
ràng, minh bạch, do đó dễ bị những người cung ứng dịch vụ lợi dụng để sách
nhiễu, gây khó khăn, phiền hà. Các đơn vị, tổ chức và người dân chưa thực sự dễ
dàng, thuận tiện khi tiếp cận các thông tin trên và tiếp cận DVHCC. –
Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về TTHC của các cơ quan nhà
nước từtrung ương đến địa phương còn quá rườm rà, phức tạp và chồng chéo. Có
đến 72% doanh nghiệp FDI cho biết, năm 2016, họ mất hơn 5% quỹ thời gian để
thực hiện các thủ tục hành chính. Tỷ lệ này cũng cao đáng kể so với con số 56%
trong điều tra PCI năm 2010. Đáng chú ý, tỷ lệ này ở tất cả các tỉnh không có sự
khác biệt lớn, đều rơi vào khoảng 70%. Các doanh nghiệp FDI cho biết, tiếp nhận
khoảng 2 cuộc thanh kiểm tra mỗi năm. Hơn 95% doanh nghiệp FDI bị thanh kiểm
tra dưới 8 lần; một số doanh nghiệp bị thanh kiểm tra hơn 8 lần/năm. Thủ tục
phiền hà nhất mà các doanh nghiệp FDI cho biết, đó là thuế (liên quan đến hóa đơn
thuế GTGT), bảo hiểm xã hội và thủ tục thông quan hàng hóa.
Hiện nay, sự phức tạp, rườm rà, thậm chí chồng chéo của các TTHC trong lĩnh vực
đầu tư xây dựng đang tạo nên gánh nặng rất lớn cho các doanh nghiệp, cũng như
làm mất cơ hội đầu tư, gây rủi ro cho doanh nghiệp. Ví như, xin thẩm định 1 dự án
đầu tư xây dựng tại địa phương, doanh nghiệp phải làm việc đồng thời với sở Xây
dựng, sở Tài nguyên và Môi trường, sở Quy hoạch – Kiến trúc, UBND tỉnh, thành
phố (tổng cộng với 4 – 5 cơ quan một cách độc lập, không có một cửa thống nhất,
một đầu mối giải quyết). –
Sự phân công, phân cấp trong việc cung ứng dịch vụ công chưa thực sự
được đẩymạnh theo hướng “một công việc chỉ do một cơ quan giải quyết” và chịu lOMoAR cPSD| 45474828
trách nhiệm mà vẫn còn tình trạng cấp trên ôm đồm, chưa muốn giao quyền hoặc
chưa tin tưởng vào khả năng giải quyết công việc của cấp dưới. –
Tình trạng bất bình đẳng, phân biệt đối xử trong việc tiếp cận DVHCC còn
khá phổ biến: doanh nghiệp nhà nước được ưu ái hơn so với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh; người có chức quyền hoặc thân quen dễ tiếp cận các dịch vụ hơn
người dân bình thường… –
Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của người cung ứng dịch vụ còn nhiều bất
cập, hạn chế; đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức nhất là người trực tiếp
giải quyết các nhu cầu về DVHCC có biểu hiện sa sút, biến chất; kỷ luật, kỷ cương
công vụ chưa được thực hiện nghiêm túc. lOMoAR cPSD| 45474828 lOMoAR cPSD| 45474828