-
Thông tin
-
Quiz
Một số giá trị quản lý của học thuyết Nho giáo về bản tính con người- Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Một số giá trị quản lý của học thuyết Nho giáo về bản tính con người- Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:












Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
Đề 2: Phân tích một số giá trị quản lý (quản trị) của học thuyết
nho giáo về bản tính con người.
I. Nho giáo và bản tính con người trong Nho giáo 1. Nho giáo là gì?
Như chúng ta đã biết, “Nho giáo là một trường phái triết học đã
đưa ra học thuyết chính trị - đạo đức để giáo hóa con người nhằm củng
cố, duy trì trật tự xã hội.” [Nguyễn Văn Thọ, 2005, Tạp chí Triết học số
1(164), tr. 24]. Đây là một trường phái tư tưởng triết học lớn nhất về con
người và cũng có tính ứng dụng và thực tiễn lớn nhất trong các trường phái triết học.
Cũng theo nhận định của Nguyễn Văn Thọ (2005) trong Tạp chí
Triết học số 1(164) trang 24, các giáo lý của Nho giáo thiên về việc xem
xét, tìm hiểu và lý giải về con người ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong
đó đặc biệt chú trọng xem xét vấn đề về bản chất con người.
2. Bản tính con người trong Nho giáo
Xét về bản tính con người trong Nho giáo, mỗi nhà triết học của
trường phái Nho giáo lại xem xét bản chất con người ở mỗi khía cạnh khác nhau.
Tuy Khổng Tử chưa thật sự đi sâu nghiên cứu bản chất con người
nhưng khi bàn về bản chất con người, Khổng Tử đã cho rằng “Tính
tương cận giã; tập tương viễn giã” [Khổng Tử, 1950, Luận ngữ (Đoàn
Trung Còn dịch), Trí đức tòng thơ xuất bản, Sài Gòn, tr.269], nghĩa là
bản tính của con người là tính thiện và nó gần giống nhau ở tất cả mọi
người. Con người khi mới sinh đều được trời phú cho bản tính gần giống
nhau, nhưng sau đó họ có sự khác nhau là do trong quá trình phát triển
họ có những điều kiện, môi trường tiếp xúc, học hành khác nhau, dẫn
đến có kẻ trí, người ngu. “Bản tính của con người là thiện nhưng vì con
người quen thói đời, mê vật dục nên mới thấy điều nhân xa mình. Vì
vậy, khi con người đã có nhân thì phải luôn giữ lấy điều nhân, đừng bao
giờ xa rời nó, dù chỉ trong một khoảnh khắc thời gian.” [Nguyễn Văn
Thọ, 2005, Tạp chí Triết học số 1(164), tr. 21].
Vào thời Chiến Quốc, do có sự tác động của hoàn cảnh lịch sử với
nhiều biến động, nên các Nho gia đã tuyệt đối hoá một mặt trong bản
chất con người khi xem xét bản chất con người, hoặc là thiện hoặc là ác.
Mặc dù, Mạnh Tử và Tuân Tử là đều môn đồ của trường phái triết học 1
Nho giáo, nhưng khi bàn về bản chất con người, hai ông đã có quan
điểm đối lập nhau, trái ngược nhau. Tuy vậy, dù là sự tuyệt đối hoá ở
mặt nào thì đều có sự kế thừa, bổ sung và phát triển tư tưởng của Khổng
Tử trên những góc độ khác nhau và ý kiến của hai nhà tư tưởng triết học
Nho giáo này cũng có sự bổ sung cho nhau khi xem xét bản chất con
người [Nguyễn Văn Thọ, 2005, Tạp chí Triết học số 1(164), tr. 21-22].
Về Mạnh Tử, khi bàn về bản chất con người, ông cho rằng, bản
chất con người là thiện và bốn đức lớn thể hiện tính thiện của con người
chính là: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí. Bốn đức lớn này được bắt nguồn từ “Tứ
đoan” (Trắc ẩn chi tâm; Tu ố chi tâm; Cung kính; Thị phi chi tâm): Lòng
trắc ẩn (lòng biết thương xót), lòng tu ố (lòng biết thẹn ghét), lòng từ
nhượng (lòng biết cung kính) và lòng thị phi (lòng biết phân biệt phải
trái). Tuy vậy, theo Mạnh Tử, dù con người sinh ra sẵn có tính thiện
nhưng tính thiện đó không phải là bất biến, con người có thể sa vào con
đường bất thiện, đánh mất tính thiện khi có ngoại cảnh xấu tác động
[Nguyễn Văn Thọ, 2005, Tạp chí Triết học số 1(164), tr. 23].
Chính vì điều đó, một vấn đề rất được Mạnh Tử chú ý đến chính
là giáo hoá, làm sao để con người không bị mai một lương tâm. Đó cũng
là lý do vì sao con người cần phải có sự giáo dục. Giáo dục để làm cho
bản tính thiện trong con người không bị mờ tối và cần phải trau dồi cho
nó phát triển để trở thành một người tốt [Nguyễn Văn Thọ, 2005, Tạp
chí Triết học số 1(164), tr. 23].
Bắt đầu từ thời Hán, trên nền tảng “nhân, nghĩa, lễ, trí” được
Mạnh Tử phát triển, tư tưởng về “tín” được Đổng Trọng Thư bổ sung và
đưa ra khái niệm cơ bản về “ngũ thường” gồm “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”.
Trong khi Mạnh Tử cho rằng tính thiện (gồm nhân, nghĩa, lễ, trí)
là bản chất của tính người, thì Tuân Tử lại không đồng ý và cho rằng bản
tính con người sinh ra là ác với lòng hiếu lợi, lòng đố kỵ và lòng dục;
chính ba đầu mối này mới là bản tính sẵn có của con người; còn nhân,
nghĩa, lễ, trí là do con người đặt ra chứ không phải do trời sinh ra. Dù
vậy Tuân Tử vẫn nói rằng tính thiện có thể được tạo ra bởi con người, và
để làm được điều đó thì con người cần có thầy, có phép dạy bảo thì mới
thành thiện và cũng cần phải có lễ nghĩa để giáo hóa con người [Nguyễn
Văn Thọ, 2005, Tạp chí Triết học số 1(164), tr. 23].
Tuy ở Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử có sự khác nhau trong quan
niệm về bản tính con người, tuyệt đối hóa tính thiện hoặc tính ác của con 2
người nhưng về bản chất, những chiều tư tưởng này lại bổ sung cho
nhau, làm cho quan niệm về bản chất con người của trường phái triết học
Nho giáo Trung Quốc cổ đại thêm đa dạng, phong phú và ngày một hoàn
thiện hơn. Đó cũng là một bước phát triển đáng chú ý trong tư tưởng của
các Nho gia Trung quốc cổ đại. Dù vậy, nhìn chung, các nhà tư tưởng
của trường phái triết học Nho giáo Trung Quốc cổ đại cũng chỉ mới chỉ
mới bàn đến phẩm chất tinh thần, ý thức, tâm lý, tư tưởng, quan tâm đến
"tính người", "tâm người", "lý người" mà chưa thực sự đi sâu vào bản
chất đích thực của con người.
Tóm lại, vấn đề về bản tính con người rất được các nhà tư tưởng
của trường phái triết học Nho giáo Trung quốc cổ đại chú trọng và quan
tâm. Mặc dù Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử có những quan niệm khác
nhau về vấn đề này, đôi khi là đối lập, hoặc đề cao tính thiện hoặc đề cao
tính ác, cuối cùng đều có chung quan điểm là con người cần được giáo
hóa, hướng đến phát triển tính “Thiện” (trong đó 4 yếu tố thuộc phạm trù
đạo đức “Nhân, Nghĩa, Lễ, Tín” và một yếu tố khác là “Trí”) từ đó đề
cao giáo dục nhằm củng cố, duy trì trật tự xã hội.
Từ đó, một vấn đề rất quan trọng mang tính ứng dụng cao trong
Nho giáo được phát triển dựa trên những quan niệm xem xét về bản chất
con người đó là đường lối “Tề gia, trị quốc”, về cơ bản, là Đức trị (đôi
khi còn được gọi là Nhân trị, Lễ trị, Vương đạo). II.
Một số giá trị quản lý (quản trị) của học thuyết Nho giáo về bản tính con người
Có thể thấy rằng, học thuyết Nho giáo về bản tính con người có
một số giá trị quản lý (quản trị) có tính thực tiễn rất cao. Trên thực tế, xét
theo lịch sử, từ thời cổ đại cho đến hiện đại, Nho giáo đã được vận dụng
rất nhiều trong quản lý chính trị, xã hội cũng như trên phạm vi nhỏ hơn
là quản trị các tổ chức, công ty, đơn vị kinh doanh.
1. Trong quản lý chính trị, xã hội
Về bản chất, Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội và đạo đức
mà giáo hoá, đào tạo, hoàn thiện con người và ổn định, hoàn thiện xã hội
chính là một trong những chức năng chủ yếu của nó. Do vậy, từ đời nhà
Hán trở đi, học thuyết Nho giáo đã trở thành công cụ thống trị được vận
dụng vào quản lý chính trị và phát triển con người của giai cấp địa chủ
phong kiến trong việc xây dựng, củng cố, duy trì bộ máy nhà nước
phong kiến tập quyền và chế độ phong kiến và trong việc bảo vệ, duy trì 3
cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ và xã hội phong kiến cũng như địa vị,
quyền lợi của giai cấp ấy [Đinh Ngọc Thạch, 2007 ,Tạp chí Triết học, số 1 (188)]
Bắt nguồn từ Trung Quốc, việc vận dụng tư tưởng Nho giáo trong
thể chế chính trị, quản lý xã hội sau đó đã lan ra các nước châu Á khác,
trong đó có Việt Nam. Đặc biệt trong thời đại nhà Lê - Nguyễn, Nho
giáo trở thành một tư tưởng nổi trội trong quản lý chính trị.
Vận dụng những quan niệm về bản tính con người làm gốc, đường
lối trị nước cơ bản trong Nho giáo là Đức trị (đôi khi còn được gọi là
Nhân trị, Lễ trị, Vương đạo); tức là dùng đạo đức để cai trị, tổ chức và
quản lý xã hội. Bên cạnh việc dùng Đức trị, Nho giáo cũng chủ trương
dùng Pháp trị, nghĩa là dùng hình phạt và pháp luật để cai trị, như Tuân
Tử chỉ rõ: “Từ bậc sĩ trở lên thì phải dùng lễ nhạc mà đối đãi; đối với
dân chúng trăm họ thì phải dùng pháp luật mà cai trị” [Lã Trấn Vũ, 1964,
Lịch sử các học thuyết chính trị Trung Quốc. Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.
270]. Tuy vậy, giữa Đức trị và Pháp trị, Nho giáo vẫn đề cao, coi trọng
Đức trị, còn pháp luật, hình phạt chỉ là biện pháp nhất thời, tiêu cực
nhằm hỗ trợ cho việc giáo hoá trong những lúc khốn cùng của việc cai trị
mà thôi, và chỉ áp dụng đối với những kẻ bất hiền, không chịu an phận,
không nghe theo giáo hoá, thích nổi dậy [Đinh Ngọc Thạch, 2007 ,Tạp
chí Triết học, số 1 (188)].
Để thi hành đường lối Đức trị và nhằm xây dựng một xã hội
phong kiến ổn định, có trật tự, kỷ cương và thái bình thịnh trị, trong quan
niệm về việc trị nước, Nho giáo đề cập đến nhiều vấn đề như đạo làm
vua, đạo bề tôi, mối quan hệ giữa vua - bề tôi - dân, dân và vai trò của dân,…
Thứ nhất, một vấn đề không thể không nhắc đến đó là “dân và vai
trò của dân”. Trước hết cũng cần khẳng định rằng, trong đời sống chính
trị ở Trung Quốc từ trước thời Khổng Tử và trong suốt thời Xuân Thu -
Chiến Quốc, các thế lực thống trị ở một mức độ nào đó, dù muốn hay
không, đều quan tâm đến đời sống và vai trò của người dân. Ngay trong
Kinh Thư của Khổng Tử đã cho thấy sự quan tâm của tầng lớp thống trị
đến đời sống và vai trò của dân. Chẳng hạn, “mệnh trời” tuy được thừa
nhận có uy quyền tối cao, tuyệt đối nhưng thậm chí lại bị đồng nhất với
“ý dân”, “lòng dân”. Điều đó nói lên rằng, việc quan tâm đến đời sống và
vai trò của dân còn có ý nghĩa như một hằng số trong đời sống chính trị
của các nước phương Đông. Bởi vậy mà cũng là tất yếu, dân và vai trò 4
của dân là một vấn đề được hầu hết các nhà Nho quan tâm, là một nội
dung cơ bản trong học thuyết chính trị - xã hội, trong đường lối Đức trị
của Nho giáo [Đinh Ngọc Thạch, 2007 ,Tạp chí Triết học, số 1 (188)].
Đề cập đến vấn đề này, các nhà Nho Trung Quốc từ Khổng Tử trở
đi đều đặc biệt quan tâm đến dân, đề cao vai trò của dân, đều đòi hỏi nhà
vua, người cầm quyền phải thật sự yêu thương, chăm sóc dân như cha
mẹ đối với con cái. Từ một quan niệm cho rằng, thần dân trong thiên hạ
đều là con Trời, đều là của Thiên tử, vua thay Trời trị dân, chăm sóc dân,
Khổng Tử, Mạnh Tử đều coi dân là gốc nước (dân vi bang bản), dân là
đáng quý nhất (dân vi quý), đều nhấn mạnh đến vai trò của dân như coi
dân là nước, vua chỉ là thuyền. Từ đó, các nhà Nho đều coi “dưỡng dân”
là một trong những nhiệm vụ chính trị cơ bản nhất của người cầm quyền
[Đinh Ngọc Thạch, 2007 ,Tạp chí Triết học, số 1 (188)]. Mạnh Tử đã
từng nói: “Các vua chư hầu có ba điều phải coi là quý trọng: đất đai, dân
chúng và việc chính trị. Người nào coi trọng châu ngọc, tai ương ắt tới
thân”[Chu Hy, 1998, Tứ thư tập chú (Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải),
Nxb Văn hoá - Thông tin, tr.1361]. Đồng thời, các nhà Nho luôn coi việc
được lòng dân, hợp ý dân, được dân tin hay không có quan hệ chặt chẽ
tới sự hưng - vong, an - nguy của triều đại, của chế độ. Vì vậy, không
phải ngẫu nhiên, các nhà Nho đều khuyên nhà cầm quyền: muốn được
lòng dân, được dân tin thì phải lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, phải giúp họ
làm giàu, phải để cho dân có tài sản riêng; đối xử với dân phải giữ chữ
Tín, sai khiến dân phải hợp thời. Có thể dẫn ra nhiều câu nói của các nhà
Nho để minh chứng cho những tư tưởng trên. Song dân trong quan niệm
của các nhà Nho không phải là tất cả những người dân nói chung, mà chỉ
là những người dân nào biết nghe và hành động theo giáo hoá của kẻ
thống trị, biết tuân phục và an phận với địa vị của mình. Còn ngược lại,
họ chỉ là những kẻ bất hiền, tiểu nhân, hèn kém về đạo đức và trí tuệ.
Với những người như vậy, các nhà Nho đều chủ trương nhà cầm quyền
phải dùng pháp luật, hình phạt đối với họ [Đinh Ngọc Thạch, 2007 ,Tạp
chí Triết học, số 1 (188)].
Tóm lại, trong quan niệm của nhiều nhà Nho Trung Quốc, họ luôn
đề cao vai trò của dân nhưng với họ, dân cũng chỉ mãi mãi là thần dân
của kẻ cầm quyền thống trị mà thôi.
Quan điểm đề cao vai trò của dân trong đạo trị nước của Nho giáo
qua thời gian đã được kế thừa và phát triển, cho đến nay vẫn được lưu
truyền và vận dụng trong chính sách điều hành và quản lý xã hội ở nhiều 5
nước châu Á, đặc biệt là Việt Nam với cốt lõi “lấy dân làm gốc”. Đây là
một tư tưởng có ảnh hưởng rất tích cực đến công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Vấn đề thứ hai trong đạo trị nước đó là đạo làm vua, đạo bề tôi,
quan hệ vua - dân và vua - bề tôi. Nói tới đạo trị nước cũng là nói đến
đạo làm vua, đạo làm bề tôi, vì chủ thể trị nước là vua, bề tôi (quan lại).
Nhà Nho khi đề cập tới đạo làm vua là đề cập đến tư cách đạo đức của
vua, quan hệ giữa vua với bề tôi và thần dân trong nước, trong thiên hạ.
Nho giáo đặc biệt đề cao vai trò của đạo đức, sự tu dưỡng đạo đức
của nhà vua đối với sự hưng - vong, an - nguy, trị - loạn của triều đại,
của chế độ, thành - bại của công việc trị nước, trị dân. Khổng Tử đã từng
nói: “Vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần cư kỳ sở, nhi chúng tinh củng
chi”(Lấy đức để làm việc chính trị, cũng như ngôi sao Bắc thần, ở yên vị
mà các ngôi sao khác đều châu về) [Chu Hy, 1998, Tứ thư tập chú
(Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải). Nxb Văn hoá - Thông tin, tr.215].
Ông còn nói: “Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ trật tự, dân biết hổ
thẹn mà tiến tới chỗ tốt lành” hay “Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành, kỳ
thân bất chính, tuy lệnh bất tùng” (Bản thân nhà cầm quyền ngay thẳng,
tuy không ra lệnh, mọi việc vẫn trôi chảy; bản thân không ngay thẳng, có
ra lệnh dân cũng chẳng theo) [Chu Hy, 1998, Tứ thư tập chú (Nguyễn
Đức Lân dịch và chú giải), sđd, tr.502], còn Mạnh Tử thì khẳng định:
“Hễ vua có nhân thì không ai dám bất nhân, hễ vua có nghĩa thì không ai
dám bất nghĩa [Chu Hy, 1998, Tứ thư tập chú (Nguyễn Đức Lân dịch và
chú giải), Sđd., tr. 1065].
Bàn về đạo làm vua, quan niệm của các nhà Nho Việt Nam cũng
không ngoài những vấn đề cơ bản trên. Nhưng từ tình hình thực tiễn của
đất nước và những yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn đặt ra trong mỗi một thời
kỳ; đồng thời xuất phát từ quan niệm rằng, vua chỉ đại diện cho đất nước
chứ đất nước không phải là của riêng vua, nên các nhà Nho Việt Nam
không chỉ chú ý đến mặt tu dưỡng đạo đức mà còn chủ yếu nhấn mạnh
tới thái độ, trách nhiệm của vua đối với nước, với dân, với bề tôi. Đó
không chỉ là yêu cầu cần có mà là tiêu chuẩn đạo đức để nhà vua tu
dưỡng, răn mình. Chính vì vậy, ngay từ thời Lý - Trần và cả sau này, các
nhà Nho Việt Nam đều khẳng định, trị hay loạn chủ yếu là phụ thuộc vào
hành vi, đức độ của nhà vua, vào việc tu thân trau đức, sửa mình của nhà
vua [Đinh Ngọc Thạch, 2007 ,Tạp chí Triết học, số 1 (188)] 6
Tư tưởng này còn được vận dụng vào việc quản lý xã hội thời hiện
đại ngày nay, trong đường lối của Đảng ta, thể hiện ở quan điểm các cán
bộ lãnh đạo, quản lý luôn phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, noi gương cho dân.
Ưu điểm của tư tưởng quản lý (quản trị) trong Nho giáo
Tư tưởng của Khổng Tử đã đưa ra được các phương pháp rất cơ
bản để giáo dục uốn nắn, điều chỉnh hành vi con người, đưa con người
hướng đến bản tính thiện. Hai phương pháp giáo hóa và nêu gương luôn
có ý nghĩa và giá trị trong mọi thời đại. Phương pháp giáo hóa mang tính
giáo dục và nhân đạo cao, với mong muốn cải tạo nhân tính, dẫn nhân
loại về tính gần nhau, theo Khổng Tử phải bỏ công vào giáo dục vì giáo
dục có thể hóa ác thành thiện. Quan điểm Đức trị bắt đầu từ Khổng Tử
và đã được quán triệt trong lịch sử nhiều nước phương Đông hàng nghìn
năm nay tại Trung Quốc, Việt Nam, Nhật bản, Triều Tiên… Song hành
với đó, phương pháp noi gương có ý nghĩa rất tích cực cho xã hội, áp
dụng vào xã hội Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hiện nay Đảng ta đang
đẩy mạnh công cuộc phòng chống tham nhũng. Mỗi cán bộ, đảng viên
hiện nay được yêu cầu phải làm tấm gương sáng cho cấp dưới và nhân
dân noi theo trên tất cả các phương diện từ lối sống đến phong cách làm việc.
Một số tư tưởng của Khổng Tử vẫn còn nguyên giá trị cho đến
ngày nay. Tư tưởng Khổng Tử có giá trị nhân đạo, nhân văn, đề cao giá
trị mỗi cá nhân con người với đường lối đức trị lấy nhân nghĩa làm gốc,
coi trọng vai trò của con người. Tư tưởng ấy được các nhà Nho Việt
Nam kế thừa có chọn lọc, bổ sung và phát triển tùy theo từng thời kỳ xã
hội ở Việt Nam. Chính vì vậy, tư tưởng về “đạo trị nước” của các nhà
Nho Việt Nam, ở một chừng mực nhất định, đã góp phần giải đáp được
những yêu cầu và nhiệm vụ của công cuộc dựng nước, giữ nước đặt ra.
Nó có những giá trị tích cực không thể phủ nhận.
Những mặt hạn chế của tư tưởng quản lý (quản trị) trong Nho giáo
Tư tưởng quản lý của Khổng tử còn tồn tại một số tư tưởng
nghiêm khắc, bảo thủ khi đặt nặng con người trong các mối quan hệ
“tam cương, ngũ thường”. Tuy nó giúp củng cố các mối quan hệ, duy trì
trật tự xã hội nhưng lại cho thấy sự quá cứng nhắc, khô khan. Tư tưởng
về “Lễ” trong quan niệm của đạo Nho là sợi dây ràng buộc con người 7
làm cho suy nghĩ và hành động của con người trở nên cứng nhắc theo
một khuôn phép cũ, con người trở nên e dè, không dám bộc lộ sự sáng
tạo, quan điểm mới, kìm hãm sự phát triển của xã hội, làm xã hội trở nên trì trệ.
Ngoài ra, nội dung thuyết Đức trị có hạn chế là vị thế và vai trò
của pháp chế và lợi ích kinh tế đối với xã hội không được coi trọng, dẫn
đến sự thiếu tính răn đe trong quản lý và kìm hãm phát triển kinh tế.
Trường phái tư tưởng quản lý của Khổng Tử chỉ đề ra nguyên lý, không
cụ thể hóa thành thao tác và quy trình. Một số phương pháp ảo tưởng,
không thực tế và có phần duy tâm. Điều này nói lên rằng, tư tưởng Nho
giáo mang tính bảo thủ và một vài khía cạnh tiêu cực. Tuy nhiên, khách
quan mà đánh giá, hạn chế của Nho giáo cũng có lý do riêng do lịch sử
thời thế sinh thời, hoàn cảnh. Bởi vì, Khổng Tử sống trong thời đại xã
hội loạn lạc, người ta tranh giành nhau, chém giết nhau không từ một thủ
đoạn tàn ác nào để tranh bá, tranh vương, để có bổng lộc chức tước. Ông
hoài cổ, muốn quay ngược bánh xe lịch sử cũng là điều dễ hiểu. Tuy
nhiên, chính mặt hạn chế này của Nho giáo đã để lại tàn dư cho đến tận
ngày nay, nó trở thành phong tục, lối sống, nó thấm sâu vào suy nghĩ và
hành động của không ít người ở các nước phương Đông, nơi tiếp nhận và
chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
2. Trong quản trị mô hình doanh nghiệp
Ngoài ứng dụng trong quản lý chính trị, xã hội, tư tưởng của
thuyết Nho giáo về bản tính con người còn có thể vận dụng vào quy mô
nhỏ hơn như các tổ chức doanh nghiệp trong việc xây dựng hệ thống
quản trị, văn hóa doanh nghiệp, công tác quản trị nhân lực và quản trị
mối quan hệ với khách hàng, đối tác của doanh nghiệp.
2.1. Trong xây dựng hệ thống quản trị, văn hóa doanh nghiệp
Đường lối đức trị trong quản lý, chủ yếu là dựa vào xây dựng quan
niệm giá trị chung của mọi người, dựa danh nghĩa người lãnh đạo và bản
thân người lãnh đạo như phẩm chất đạo đức, tài năng, tình cảm… mà
dẫn dắt mọi người tu dưỡng đạo đức, trên cơ sở đó, thực hiện khống chế
bên trong của hành vi, khiến cho hành vi của mọi người tự giác đảm bảo
nhất trí với mục tiêu tổ chức.
Tuy nhiên, Đức trị dựa vào giáo hoá, dựa vào tư tưởng để giải
quyết vấn đề, vì vậy mặt hạn chế là hiệu quả sẽ nhìn thấy chậm do hình 8
thành đạo đức, lý tưởng, xây dựng quan niệm giá trị chung thì sẽ không
thể một sớm một chiều mà chắc chắn sẽ mất thời gian..
Đối với cai trị, trong ngũ thường, Khổng Tử đề cao dùng “lễ -
nghĩa” coi đây là chuẩn mực ứng xử, những quy định bắt buộc trong xã
hội. Khi thực hiện các quan hệ trong xã hội mọi người đều phải tuân theo
“lễ” tương ứng với vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình (chính danh) thì
xã hội mới trật tự, thực hiện được cai trị vương đạo.
Có thể thấy, tư tưởng này đã và vẫn đang được vận dụng trong văn hóa
của nhiều tổ chức, doanh nghiệp các nước phương Đông, đặc biệt là Hàn
Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản và cả Việt Nam. Điều này thể hiện ở chỗ,
trong doanh nghiệp, quan hệ cấp trên - cấp dưới được phân biệt rất rõ
ràng và rất coi trọng lễ - nghĩa. Ví dụ, trái với văn hóa doanh nghiệp Hàn
Quốc thể hiện rõ văn hóa cấp bậc, cấp dưới phục tùng mệnh lệnh và
được điều hành bởi cấp trên, cấp dưới cũng ít có tiếng nói trong doanh
nghiệp. Ngoài ra, văn hóa doanh nghiệp Hàn Quốc còn rất quan trọng lễ nghi, sự lễ phép.
Mặt tích cực của việc áp dụng tư tưởng này trong doanh nghiệp là sẽ
giúp hệ thống tổ chức, doanh nghiệp có tôn ti trật tự chặt chẽ, mọi người
tuân theo khuôn phép, dễ quản lý. Mặt khác, nó sẽ hạn chế sức sáng tạo,
phát triển của con người, làm cho nhân viên trong doanh nghiệp trở nên
e dè, không dám bộc lộ quan điểm, đóng góp ý kiến. Từ đó, doanh
nghiệp cũng sẽ khó có sự phát triển đột phá do thiếu ý tưởng sáng tạo, ý
kiến đóng góp. Đặc biệt, văn hóa này sẽ không còn thực sự phù hợp nếu
doanh nghiệp là mô hình công ty đa quốc gia, làm việc với nhiều nhân
viên và đối tác từ phương Tây với sự khác biệt văn hóa Đông - Tây.
2.2. Trong quản trị nhân lực
2.2.1 Mảng đào tạo
Vận dụng thuyết Đức trị của Nho giáo, để quản lý doanh nghiệp
hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người lãnh kiểu
mẫu - theo thuyết Nho giáo, người lý tưởng này gọi là “quân tử”. Trước
hết, người lãnh đạo phải "tự đào tạo", "tu thân, dưỡng tính”, rèn luyện
đạo đức để làm gương cho cấp dưới. Sau người lãnh đạo, quản lý, doanh
nghiệp cần đào tạo nhân viên không chỉ về nghiệp vụ, kiến thức mà cả
về đạo đức, trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, “lễ - nghĩa” đối với văn
hóa doanh nghiệp Á Đông và giữ chữ “tín” trong công việc. Đây là một
phần đôi khi vẫn bị lãng quên trong mảng đào tạo ở các doanh nghiệp. 9 2.2.2. Quản lý
Vận dụng thuyết Đức Trị của Khổng Tử vào việc thu phục người
khác bằng cái Đức của nhà quản lý hoàn toàn có giá trị. “Trong học
thuyết Đức trị, Khổng Tử chủ trương “sử dân dĩ thời” có nghĩa là sử
dụng người đúng lúc, biết đánh giá bản chất con người, đề bạt người
chính trực lên trên người cong queo; khách quan, không thành kiến, sử
dụng tùy theo tài năng, đạo đức của từng người. Để thu phục người khác,
các tổ chức phải xác định yếu tố con người là cốt lõi của sự phát triển, là
nguyên khí của tổ chức” [Nguyễn Thị Hoa, Hoàng Thị Công, Tạp chí
Công thương, số 16 tháng 7/2021, tr.238]. Vì vậy, nhà quản trị phải có
con mắt tinh tường để chọn người, đồng thời phải biết dùng người, tức là
phải "chính danh” để giữ chân người tài. Do vậy, việc đánh giá công
bằng, dành đãi ngộ xứng đáng cho người tài là điều rất cần thiết.
2.3. Trong quản trị mối quan hệ với khách hàng, đối tác
Trong Luận ngữ, “tín” là một phạm trù đạo đức rất quan trọng,
Khổng Tử nói: “Người không có chữ tín, chẳng làm chi nên việc” (Luận
Ngữ, Vi Chính), hay “Tín gần với điều nghĩa thì lời nói mới có thể thực
hiện được” (Luận Ngữ, Học Nhi), Tử Hạ nói: “Giao thiệp với bạn bè thì
lời nói phải có chữ tín” (Luận Ngữ, Học Nhi). “Tín” là phẩm chất đạo
đức thành thực không dối trá, cũng là sự khái quát về lòng trung thành
tín nghĩa, nó yêu cầu con người chân thành từ trong tâm, lời nói hành
động phải đồng nhất; “tín” và “trung” tương thông với nhau và cũng có
quan hệ với “nhân” và “nghĩa”.
Bắt đầu từ thời Hán, trên nền tảng “nhân, nghĩa, lễ, trí” được
Mạnh Tử phát triển, Đổng Trọng Thư đã bổ sung thêm tư tưởng “tín”, và
đưa ra khái niệm cơ bản về “ngũ thường”, trong đó “tín” là một nét đạo
đức quan trọng của tư tưởng Nho gia, hàm nghĩa cơ bản của “tín” là son
sắt thủy chung, chân thành không ảo vọng.
Trong thực tiễn làm ăn kinh doanh, “tín” thực sự là một phẩm chất
đạo đức vô cùng quan trọng. Muốn có những đối tác, khách hàng lâu dài
bền vững nhất định phải giữ được chữ “tín”. Nếu làm ăn dối trá, đánh
mất niềm tin của đối phương, rất khó để việc kinh doanh được bền vững,
về lâu dài sẽ mất hết khách hàng, đối tác quan trọng, doanh nghiệp cũng
sẽ khó có chỗ đứng trong giới kinh doanh. Giữ chữ tín nên được coi là
một trong những tinh thần cốt lõi trong quản trị mối quan hệ với đối tác, khách hàng. 10
Ngoài ra, đối với văn hóa phương Đông, một số nước châu Á như
Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc hay kể cả Việt Nam, lễ nghi rất được
chú trọng trong giao tiếp ứng xử. Vì vậy, đối với những đối tác trọng lễ
nghi, cân giữ đúng lễ nghĩa trong giao tiếp, ứng xử đối ngoại. III. Kết luận
Tóm lại, có thể thấy rằng, học thuyết Nho giáo về bản tính con
người có rất nhiều những giá trị về quản lý (quản trị) có tính thực tiễn
cao. Những giá trị đó đã được vận dụng từ lịch sử thời Trung Quốc cổ
đại cho đến ngày nay, từ Trung Quốc lan ra các nước phương Đông khác
như Hàn Quốc, Nhật Bản,… và cả Việt Nam trong quản lý chính trị, xã
hội hay với quy mô nhỏ hơn như các tổ chức doanh nghiệp. Tuy nhiên,
việc áp dụng thuyết Nho giáo về bản tính con người vào quản lý (quản
trị) ngoài những mặt tích cực vẫn còn rất nhiều mặt hạn chế. Vì vậy,
trong thực tiễn, để áp dụng học thuyết này vào công tác quản lý, quản trị,
các nhà lãnh đạo cần xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng để áp dụng một cách
phù hợp; tránh áp dụng cứng nhắc, gò ép, không phù hợp dẫn đến tác dụng ngược. 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Hoàng Thị Công, Nguyễn Thị Hoa, (2021). Vận dụng tư tưởng quản lý
của Khổng Tử vào quản trị nhân lực ở Việt Nam. Tạp chí Công thương, (16), tr.238.
2. Chu Hy, (1998). Tứ thư tập chú (Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải). Nhà
xuất bản Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, tr.215.
3. Đinh Ngọc Thạch, (2007). Tư tưởng về "đạo trị nước" ở các nhà nho Việt Nam.
Tạp chí Triết học, 1(188). Từ
http://philosophy.vass.gov.vn/triet-hoc-vietnam/Tu-tuong-ve-dao-tri-
nuoc-o-cac-nha-nho-Viet-Nam-38.0.html
4. Nguyễn Văn Thọ, (2005). Vấn đề bản chất con người trong Nho giáo
Trung quốc cổ đại. Tạp chí Triết học, 1(164), 21-24. Từ
https://vjol.info.vn/index.php/phil/article/view/8011/7505
5. Lã Trấn Vũ, (1964). Lịch sử các học thuyết chính trị Trung Quốc. Nhà
xuất bản Sự thật; Hà Nội. 12