Nêu vai trò của sản xuất vật chất, phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội | Bài tiểu luận học phần Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Phenikaa

Phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ: Là một hình thức sản xuất trong lịch sử con người, trong đó một số người (chủ nô) sở hữu và kiểm soát các công cụ sản xuất, tài nguyên và lao động của những người khác (nô lệ). Trong hệ thống này, nô lệ bị buộc phải làm việc cho chủ nô mà không có sự lựa chọn hay sự tự do trong việc quyết định về cuộc sống và công việc của họ. Phong kiến: PTSX này được đặc trưng bởi mối quan hệ chủ-nô, trong đó các nông dân và thợ thủ công làm việc cho các quý tộc và đại gia. Các quý tộc và đại gia có quyền sở hữu phương tiện sản xuất và quản lý quá trình sản xuất. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
⸎⸎⸎⸎⸎
MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ BÀI: Nêu vai trò của sản xuất vật chất, phương thức sản xuất đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội
Giảng viên hướng dẫn : TS. Đồng Thị Tuyền
Sinh viên : Hà Ngọc Hoàng
Lớp : K16 – N13
Mã SV : 22010946
Nhóm sinh viên thực hiện : Nhóm 6
A. Phần Mở Đầu ..................................................................... 3
1. Nêu khái quát về các hình thức sản xuất sản xuất vật
chất sản xuất tinh thần và sản xuất ra con người : ........... 3
2. Nêu khái quát về các kiểu phương thức sản xuất công
xã nguyên thủy chiếm hữu nô lệ phong kiến tư bản chủ
nghĩa và xã hội chủ nghĩa : .................................................. 3
B. Phần Nội Dung ................................................................... 4
1.Định nghĩa .......................................................................... 4
1.1 Sản xuất vật chất ........................................................... 4
2.2 Phương thức sản xuất .................................................. 5
2. Vai trò của sản xuất vật chất ........................................... 5
2.1. Sản xuất là khách quan của sự sinh tồn xã hội ......... 5
2.2 Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội: . 6
3. Vai trò của phương thức sản xuất: ................................. 8
C. Phần kết luận .................................................................... 11
A. Phần Mở Đầu
1. Nêu khái quát về các hình thức sản xuất sản xuất vật chất sản xuất
tinh thần và sản xuất ra con người :
Trong khoa học xã hội, người ta thường chia sự sản xuất trong xã hội
thành ba loại chính: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất con người.
Sản xuất vật chất là quá trình tạo ra các sản phẩm vật chất như thực
phẩm, quần áo, đồ gia dụng, máy móc và các sản phẩm khác để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của con người. Các hình thức sản xuất vật chất có thể chia thành hai
loại: sản xuất thủ công và sản xuất công nghiệp.
Sản xuất tinh thần là quá trình tạo ra các giá trị văn hóa, tôn giáo,
nghệ thuật, triết học và các giá trị phi vật chất khác trong xã hội. Các hình thức
sản xuất tinh thần bao gồm giáo dục, nghiên cứu khoa học, nghệ thuật, truyền
thông và các hoạt động văn hóa khác.
Sản xuất con người là quá trình hình thành và phát triển con người
qua các yếu tố vật chất và tinh thần trong xã hội. Sản xuất con người bao gồm
các hoạt động về giáo dục, văn hóa, xã hội và gia đình.
Tất cả các hình thức sản xuất này đều đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành và phát triển của xã hội. Chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và
ảnh hưởng đến sự phát triển của con người và xã hội.
2. Nêu khái quát về các kiểu phương thức sản xuất công xã nguyên
thủy chiếm hữu nô lệ phong kiến tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa :
Các kiểu phương thức sản xuất (PTSX) được chia thành năm loại chính,
bao gồm:
Sản xuất công xã nguyên thủy: Đây là hình thức sản xuất đầu tiên của
con người, khi các thành viên trong xã hội cùng tham gia vào quá trình sản xuất
và phân phối. Các sản phẩm được sản xuất và chia sẻ theo nhu cầu và khả năng
của từng thành viên trong xã hội.
Phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ: Là một hình thức sản xuất
trong lịch sử con người, trong đó một số người (chủ nô) sở hữu và kiểm soát các
công cụ sản xuất, tài nguyên và lao động của những người khác (nô lệ). Trong hệ
thống này, nô lệ bị buộc phải làm việc cho chủ nô mà không có sự lựa chọn hay
sự tự do trong việc quyết định về cuộc sống và công việc của họ.
Phong kiến: PTSX này được đặc trưng bởi mối quan hệ chủ-nô, trong
đó các nông dân và thợ thủ công làm việc cho các quý tộc và đại gia. Các quý tộc
và đại gia có quyền sở hữu phương tiện sản xuất và quản lý quá trình sản xuất.
Tư bản chủ nghĩa: PTSX này dựa trên sự sở hữu của các tư bản gia
hoặc công ty. Các tư bản gia sở hữu các phương tiện sản xuất và quản lý quá
trình sản xuất để thu được lợi nhuận.
Xã hội chủ nghĩa: PTSX này dựa trên sự sở hữu chung của tất cả các
thành viên trong xã hội về phương tiện sản xuất. Các quyết định về quá trình sản
xuất được đưa ra dựa trên mục đích chung của xã hội.
B. Phần Nội Dung
1.Định nghĩa
1.1 Sản xuất vật chất
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của
cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người”.
2.2 Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là phương thức khai thác những của cải vật chất (tư
liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển xã
hội. Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất
vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức
sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và
quan hệ sản xuất tương ứng.
2. Vai trò của sản xuất vật chất
Thông qua lao động sản xuất, con người sáng tạo, biết vận dụng linh hoạt
hơn tư liệu, công cụ để tìm kiếm lợi ích. Con người được cải tạo, hoàn thiện và
phát triển về thể chất và tinh thần.
2.1. Sản xuất là khách quan của sự sinh tồn xã hội
Sản xuất vật chất có ý nghĩa và vai trò quan trọng
Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát
triển của con người và xã hội. Thông qua sản xuất con người mới có cái ăn, cái
mặc.
Cũng như vận dụng vào kinh doanh, mua bán để tìm kiếm các lợi ích kinh tế lớn
hơn.
Sản xuất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối
quan hệ xã hội của con người. Mang đến sự hợp tác, yếu tố cạnh tranh thúc đẩy
sản xuất nên một tầm cao mới. Nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và
phát triển của xã hội loài người. Tác động lên nhận thức, điều chỉnh các hành vi
và làm mới đời sống của con người, chất lượng của xã hội.
Trong bất kỳ xã hội nào, con người đều có những nhu cầu tiêu dùng
từ cấp độ tối thiểu đến cấp độ cao hơn. Từ đảm bảo cho các nhu cầu thiết yếu
đến thưởng thức, chiêm ngưỡng, tận hưởng. Như ăn, mặc, nghe nhạc, xem phim,
đi lại, đi du lịch,… Đó là ý thức được hình thành và phát triển, yêu cầu con
người cũng phải cố gắng phấn đấu cho các nhu cầu sở hữu thực tế
Tất yếu phải tiến hành sản xuất vật chất:
Muốn thỏa mãn những nhu cầu trên thì con người phản sản xuất. Sản
xuất là tất yếu để có được sản phẩm tiêu dùng, có được lợi nhuận mới để tham
gia các dịch vụ, tiếp cận các nhu cầu cao hơn. Bởi vì sản xuất là điều kiện của
tiêu dùng.
Sản xuất càng phát triển thì hàng hóa càng nhiều, càng đa dạng. Đáp
ứng được các nhu cầu khác nhau của thị trường. Tiêu dùng càng phong phú và
ngược lại. Bất cứ xã hội nào cũng không thể tồn tại, phát triển nếu không tiến
hành sản xuất vật chất.
2.2 Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội:
Suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, sản xuất đã hinh thành và phát
triển với các chuyển biến tích cực. Nền sản xuất của cải xã hội không ngừng phát
triển từ thấp đến cao.
Trong thời kỳ đồ đá ở xã hội nguyên thủy:
Con người chỉ dùng công cụ lao động bằng đá, thực hiện săn bắt và hái
lượm. Các hiệu quả lao động không cao. Con người chỉ tiếp cận tự nhiên trong
nhu cầu được ăn no. Họ chưa có suy nghĩ tiếp cận hiệu quả khai thác tự nhiên tốt
hơn. Như tìm kiếm một phương pháp, cách thức để tìm kiếm và có được nguồn
thức ăn ổn định, lâu dài.
Thời kỳ đồ đồng ở xã hội cổ đại:
Con người dần dần chế tạo được công cụ bằng đồng để ứng dụng trong
nông nghiệp, công nghiệp nhẹ.
Thời kỳ đồ sắt từ thời cổ đại đến trung đại:
Con người bắt đầu sử dụng, chế tạo đồ sắt. Phát triển với các nhu cầu
cũng như khả năng cao hơn trong lao động. Có được các phương tiện và công cụ
lao động hiệu quả, mang đến chất lượng sản xuất tốt hơn.
Thời cận đại và hiện đại
Sau đó, nhờ cuộc cách mạng công nghiệp mà các lĩnh vực hoạt động công
nghiệp bùng nổ. Để phục vụ sản xuất, con người đã biết dùng máy móc động cơ
hơi nước, các hệ thống cơ khí hóa, hiện đại hóa. Từ đó mà hiệu quả hoạt động,
sản xuất công nghiệp có nhiều chuyển biến, lợi ích tìm kiếm hơn.
Công nghiệp và dịch vụ được thúc đẩy phát triển cũng khẳng định giá trị
của sản xuất vật chất.
3. Vai trò của phương thức sản xuất:
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố
quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội loài người, là hoạt
động nền tảng làm phát sinh phát triển những mối quan hệ của con người. Nó
chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Khác với các quan điểm duy tâm về lịch sử, C.Mác đã xuất phát từ “ Con
người hiện thực” và đi đến kết luận rằng : “... tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại
của con người và do đó là tiền đề của mọi lịch sử đó là: người ta phải có khả
năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử, nhưng muốn sống được thì trước hết
cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như
vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những
nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất…”.
Cũng vì vậy, có thể khẳng định: con người với tư cách “Người” được bắt
đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình.
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự
nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất
không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến
đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp
đến cao. Như vậy, sự vận động phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, suy đến
cùng có nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nền sản xuất xã hội.
Do đó, để giải thích giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống hội
thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của từ tình trạng phát triển của nền
sản xuất vật chất của xã hội đó, mà căn bản là từ trình độ phát triển phương thức
sản xuất của nó.
Sản xuất vật chất không những là cơ sở cho mọi sự sinh tồn của xã hội mà
còn là cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác như nhà
nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật,… Theo C.Mác “ việc sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế
nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta
phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật, và thậm
chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta”.
Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội, không phải lúc nào sản
xuất cũng ở trong trình độ cũ mà nói chung là không ngừng tiến lên từ thấp đến
cao, mỗi khi sản xuất đến giai đoạn mới cách thức sản xuất cũng thay đổi theo,
kỹ thuật được cải tiến, năng suất lao động được nâng cao các quan hệ sản xuất
đều biến đổi theo.
Như chúng ta đã biết: trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, con người luôn phải nỗ lực sản xuất để tạo ra của cải vật chất để phục vụ
cuộc sống và thúc đẩy sự phát triển trong xã hội.
Từ thời nguyên thủy đến nay con người đã trải qua rất nhiều hình thức lao
động từ thô sơ lạc hậu nhưng qua quá trình biến đổi trong xã hội đến ngày nay
con người đã sáng tạo ra được nhiều hình thức lao động hết sức tinh xảo và hiện
đại. Ở tất cả các hình thức lao động mà con người đã tạo ra đó cũng chỉ nhằm
mục đích biến đổi tự nhiên để tạo ra những sản phẩm xã hội phục vụ cho nhu cầu
chính yếu cho họ và nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Trong quá trình phát triển, loài người đã vượt qua nhiều nấc thang lịch sử,
sở của việc chuyển từ nấc thang lịch sử này sang nấc thang lịch sử khác, rồi cơ
sở của tiến bộ xã hội là gì? C.Mác và Ăngghen đã có một phát minh vĩ đại đó là:
“sản xuất vật chất là cơ sở cho sự phát triển của xã hội loài người” vì:
Muốn sống trước hết con người phải có thức ăn, nhà ở và những của cải vật
chất khác.Những tư liệu sinh hoạt cho con người không có sẵn trong tự nhiên mà
chúng được tạo ra thông qua lao động của con người
Những tư liệu sinh hoạt cho con người không có sẵn trong tự nhiên mà chúng
được tạo ra thông qua lao động của con người.
Vì vậy sản xuất vật chất là cơ sở của tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Việc chuyển từ nấc thang này sang nấc thang khác của sự phát triển ấy
trước hết gắn liền với sự phát triển của quá trình sản xuất.
Kết luận trên đây có ý nghĩa to lớn động viên sự hình thành giai cấp vô sản
nói chung và kinh tế chính trị của giai cấp vô sản nói riêng.
Ngày nay ý nghĩa của các nhân tố xã hội và tinh thần ngày càng được đề
cao trong xã hội. Lĩnh vực không sản xuất vật chất phát triển nhanh chóng nhưng
vai trò của sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội vẫn còn
nguyên giá trị. Một dân tộc, một đất nước sẽ bị diệt vong không phải trong một
năm mà chỉ trong vòng một tuần nếu ngừng sản xuất.
Sản xuất vật chất không chỉ tạo ra sản phẩm xã hội cần thiết phục vụ cho
nhu cầu của con người mà nó còn tạo ra sản phẩm thặng dư.
Sản phẩm cần thiết dùng để duy trì khả năng lao động và đào tạo thế hệ lao
động mới để thay thế những người mất khả năng lao động, rồi dùng để bù đắp
những chi phí về ăn, mặc, ở, để thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa, xã hội và các
nhu cầu kinh tế khác.
Sản phẩm thặng dư là kết quả và cũng là nguồn gốc của tiến bộ xã hội, là
điều kiện quyết định để nâng cao mức sống của nhân dân và mở rộng khả năng
phát triển của kinh tế xã hội trong tương lai. Nó bắt nguồn từ trình độ của năng
suất lao động tăng lên với quy cách là một quy luật kinh tế chung cho các xã hội
có trình độ sản xuất phát triển nhất định.
Qua sự phân tích trên ta có thể kết luận rằng: Sản xuất vật chất có vai trò
hết sức quan trọng. Nó có thể tạo ra tư liệu sản xuất, tạo ra các mặt các quan hệ xã
hội, rồi nó có thể cải biến tự nhiên - xã hội - bản thân con người và cuối cùng nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Tóm lại, dù được xét trong toàn bộ lịch sử của sự hình thành và phát triển
của xã hội loài người hay trong giai đoạn lịch sử cụ thể thì sản xuất vật chất vẫn
luôn đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
C. Phần kết luận
Nước ta là một nước đông dân, có nguồn lao động rất dồi dào, để tạo ra một
nguồn lực to lớn để phát triển nền kinh tế xã hội. Hơn nữa người lao động nước ta
rất trẻ trung, năng động, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất.
Từ sau năm 1945, sau khi giành được chính quyền, nhân dân ta đã rất hăng
hái tham gia lao động sản xuất. Từng trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ nhưng nước ta vẫn không ngừng sản xuất và vươn lên sau khi đất nước
được thống nhất năm 1975, nhân dân ta đã thực hiện chiến lược khôi phục kinh tế
và hàn gắn vết thương chiến tranh và đã đạt được những kết quả khả quan.
Từ năm 1986 đến nay thì ta tiến hành đổi mới, thực hiện những chiến lược
lâu dài, áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật lần thứ hai, theo phương châm
đi tắt đón đầu và chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn.
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của
nhân dân cả nước, nước ta đã từng bước a đói giảm nghèo từng bước nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đưa nước ta từ một nước nền kinh tế
kém phát triển thành một nước có nền kinh tế phát triển năng động trong khu vực
Đông Nam Á Châu Á Thái Bình Dương. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng
năm tương đối cao và ổn định vào khoảng hơn 7% một năm và cố gắng phấn đấu
đến năm 2020 sẽ trở thành một nước công nghiệp.
sinh viên, chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta cần phải hành động
ngay hôm nay, ngay bây giờ bằng cách cố gắng phấn đấu vươn lên tronghọc tập,
trau dồi rèn luyện phẩm chất đạo đức để trở thành một công dân có íchcho xã hội,
cùng tham gia lao động sản xuất với toàn dân để xây dựng nước Việt Nam ta ngày
càng văn minh, giàu đẹp hơn.
Tài liệu tham khảo https://luatduonggia.vn/san-xuat-vat-chat-la-gi-vai-tro-
cua-san-xuat-vat-chatvi-du/ chat gpt
| 1/12

Preview text:


TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN ⸎⸎⸎⸎⸎
MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ BÀI: Nêu vai trò của sản xuất vật chất, phương thức sản xuất đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội
Giảng viên hướng dẫn : TS. Đồng Thị Tuyền Sinh viên : Hà Ngọc Hoàng Lớp : K16 – N13 Mã SV : 22010946
Nhóm sinh viên thực hiện : Nhóm 6
A. Phần Mở Đầu ..................................................................... 3
1. Nêu khái quát về các hình thức sản xuất sản xuất vật
chất sản xuất tinh thần và sản xuất ra con người : ........... 3
2. Nêu khái quát về các kiểu phương thức sản xuất công
xã nguyên thủy chiếm hữu nô lệ phong kiến tư bản chủ
nghĩa và xã hội chủ nghĩa : .................................................. 3

B. Phần Nội Dung ................................................................... 4
1.Định nghĩa .......................................................................... 4
1.1 Sản xuất vật chất ........................................................... 4
2.2 Phương thức sản xuất .................................................. 5
2. Vai trò của sản xuất vật chất ........................................... 5
2.1. Sản xuất là khách quan của sự sinh tồn xã hội ......... 5
2.2 Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội: . 6
3. Vai trò của phương thức sản xuất: ................................. 8
C. Phần kết luận .................................................................... 11 A. Phần Mở Đầu
1. Nêu khái quát về các hình thức sản xuất sản xuất vật chất sản xuất
tinh thần và sản xuất ra con người :
Trong khoa học xã hội, người ta thường chia sự sản xuất trong xã hội
thành ba loại chính: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất con người. •
Sản xuất vật chất là quá trình tạo ra các sản phẩm vật chất như thực
phẩm, quần áo, đồ gia dụng, máy móc và các sản phẩm khác để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của con người. Các hình thức sản xuất vật chất có thể chia thành hai
loại: sản xuất thủ công và sản xuất công nghiệp. •
Sản xuất tinh thần là quá trình tạo ra các giá trị văn hóa, tôn giáo,
nghệ thuật, triết học và các giá trị phi vật chất khác trong xã hội. Các hình thức
sản xuất tinh thần bao gồm giáo dục, nghiên cứu khoa học, nghệ thuật, truyền
thông và các hoạt động văn hóa khác. •
Sản xuất con người là quá trình hình thành và phát triển con người
qua các yếu tố vật chất và tinh thần trong xã hội. Sản xuất con người bao gồm
các hoạt động về giáo dục, văn hóa, xã hội và gia đình.
Tất cả các hình thức sản xuất này đều đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành và phát triển của xã hội. Chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và
ảnh hưởng đến sự phát triển của con người và xã hội.
2. Nêu khái quát về các kiểu phương thức sản xuất công xã nguyên
thủy chiếm hữu nô lệ phong kiến tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa :
Các kiểu phương thức sản xuất (PTSX) được chia thành năm loại chính, bao gồm: •
Sản xuất công xã nguyên thủy: Đây là hình thức sản xuất đầu tiên của
con người, khi các thành viên trong xã hội cùng tham gia vào quá trình sản xuất
và phân phối. Các sản phẩm được sản xuất và chia sẻ theo nhu cầu và khả năng
của từng thành viên trong xã hội. •
Phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ: Là một hình thức sản xuất
trong lịch sử con người, trong đó một số người (chủ nô) sở hữu và kiểm soát các
công cụ sản xuất, tài nguyên và lao động của những người khác (nô lệ). Trong hệ
thống này, nô lệ bị buộc phải làm việc cho chủ nô mà không có sự lựa chọn hay
sự tự do trong việc quyết định về cuộc sống và công việc của họ. •
Phong kiến: PTSX này được đặc trưng bởi mối quan hệ chủ-nô, trong
đó các nông dân và thợ thủ công làm việc cho các quý tộc và đại gia. Các quý tộc
và đại gia có quyền sở hữu phương tiện sản xuất và quản lý quá trình sản xuất. •
Tư bản chủ nghĩa: PTSX này dựa trên sự sở hữu của các tư bản gia
hoặc công ty. Các tư bản gia sở hữu các phương tiện sản xuất và quản lý quá
trình sản xuất để thu được lợi nhuận. •
Xã hội chủ nghĩa: PTSX này dựa trên sự sở hữu chung của tất cả các
thành viên trong xã hội về phương tiện sản xuất. Các quyết định về quá trình sản
xuất được đưa ra dựa trên mục đích chung của xã hội. B. Phần Nội Dung 1.Định nghĩa
1.1 Sản xuất vật chất
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của
cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người”.
2.2 Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là phương thức khai thác những của cải vật chất (tư
liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển xã
hội. Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất
vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức
sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và
quan hệ sản xuất tương ứng.
2. Vai trò của sản xuất vật chất
Thông qua lao động sản xuất, con người sáng tạo, biết vận dụng linh hoạt
hơn tư liệu, công cụ để tìm kiếm lợi ích. Con người được cải tạo, hoàn thiện và
phát triển về thể chất và tinh thần.
2.1. Sản xuất là khách quan của sự sinh tồn xã hội
Sản xuất vật chất có ý nghĩa và vai trò quan trọng
Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát
triển của con người và xã hội. Thông qua sản xuất con người mới có cái ăn, cái mặc.
Cũng như vận dụng vào kinh doanh, mua bán để tìm kiếm các lợi ích kinh tế lớn hơn. •
Sản xuất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối
quan hệ xã hội của con người. Mang đến sự hợp tác, yếu tố cạnh tranh thúc đẩy
sản xuất nên một tầm cao mới. Nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và
phát triển của xã hội loài người. Tác động lên nhận thức, điều chỉnh các hành vi
và làm mới đời sống của con người, chất lượng của xã hội. •
Trong bất kỳ xã hội nào, con người đều có những nhu cầu tiêu dùng
từ cấp độ tối thiểu đến cấp độ cao hơn. Từ đảm bảo cho các nhu cầu thiết yếu
đến thưởng thức, chiêm ngưỡng, tận hưởng. Như ăn, mặc, nghe nhạc, xem phim,
đi lại, đi du lịch,… Đó là ý thức được hình thành và phát triển, yêu cầu con
người cũng phải cố gắng phấn đấu cho các nhu cầu sở hữu thực tế
Tất yếu phải tiến hành sản xuất vật chất:
Muốn thỏa mãn những nhu cầu trên thì con người phản sản xuất. Sản
xuất là tất yếu để có được sản phẩm tiêu dùng, có được lợi nhuận mới để tham
gia các dịch vụ, tiếp cận các nhu cầu cao hơn. Bởi vì sản xuất là điều kiện của tiêu dùng. •
Sản xuất càng phát triển thì hàng hóa càng nhiều, càng đa dạng. Đáp
ứng được các nhu cầu khác nhau của thị trường. Tiêu dùng càng phong phú và
ngược lại. Bất cứ xã hội nào cũng không thể tồn tại, phát triển nếu không tiến
hành sản xuất vật chất.
2.2 Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội:
Suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, sản xuất đã hinh thành và phát
triển với các chuyển biến tích cực. Nền sản xuất của cải xã hội không ngừng phát
triển từ thấp đến cao.
• Trong thời kỳ đồ đá ở xã hội nguyên thủy:
Con người chỉ dùng công cụ lao động bằng đá, thực hiện săn bắt và hái
lượm. Các hiệu quả lao động không cao. Con người chỉ tiếp cận tự nhiên trong
nhu cầu được ăn no. Họ chưa có suy nghĩ tiếp cận hiệu quả khai thác tự nhiên tốt
hơn. Như tìm kiếm một phương pháp, cách thức để tìm kiếm và có được nguồn
thức ăn ổn định, lâu dài.
• Thời kỳ đồ đồng ở xã hội cổ đại:
Con người dần dần chế tạo được công cụ bằng đồng để ứng dụng trong
nông nghiệp, công nghiệp nhẹ.
• Thời kỳ đồ sắt từ thời cổ đại đến trung đại:
Con người bắt đầu sử dụng, chế tạo đồ sắt. Phát triển với các nhu cầu
cũng như khả năng cao hơn trong lao động. Có được các phương tiện và công cụ
lao động hiệu quả, mang đến chất lượng sản xuất tốt hơn.
• Thời cận đại và hiện đại
Sau đó, nhờ cuộc cách mạng công nghiệp mà các lĩnh vực hoạt động công
nghiệp bùng nổ. Để phục vụ sản xuất, con người đã biết dùng máy móc động cơ
hơi nước, các hệ thống cơ khí hóa, hiện đại hóa. Từ đó mà hiệu quả hoạt động,
sản xuất công nghiệp có nhiều chuyển biến, lợi ích tìm kiếm hơn.
Công nghiệp và dịch vụ được thúc đẩy phát triển cũng khẳng định giá trị
của sản xuất vật chất.
3. Vai trò của phương thức sản xuất:
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố
quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội loài người, là hoạt
động nền tảng làm phát sinh phát triển những mối quan hệ của con người. Nó
chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Khác với các quan điểm duy tâm về lịch sử, C.Mác đã xuất phát từ “ Con
người hiện thực” và đi đến kết luận rằng : “... tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại
của con người và do đó là tiền đề của mọi lịch sử đó là: người ta phải có khả
năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử, nhưng muốn sống được thì trước hết
cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như
vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những
nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất…”.
Cũng vì vậy, có thể khẳng định: con người với tư cách “Người” được bắt
đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình.
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự
nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất
không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến
đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp
đến cao. Như vậy, sự vận động phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, suy đến
cùng có nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nền sản xuất xã hội.
Do đó, để giải thích và giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội
thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát triển của nền
sản xuất vật chất của xã hội đó, mà căn bản là từ trình độ phát triển phương thức sản xuất của nó.
Sản xuất vật chất không những là cơ sở cho mọi sự sinh tồn của xã hội mà
còn là cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác như nhà
nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật,… Theo C.Mác “ việc sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế
nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta
phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật, và thậm
chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta”.
Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội, không phải lúc nào sản
xuất cũng ở trong trình độ cũ mà nói chung là không ngừng tiến lên từ thấp đến
cao, mỗi khi sản xuất đến giai đoạn mới cách thức sản xuất cũng thay đổi theo,
kỹ thuật được cải tiến, năng suất lao động được nâng cao các quan hệ sản xuất đều biến đổi theo.
Như chúng ta đã biết: trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, con người luôn phải nỗ lực sản xuất để tạo ra của cải vật chất để phục vụ
cuộc sống và thúc đẩy sự phát triển trong xã hội.
Từ thời nguyên thủy đến nay con người đã trải qua rất nhiều hình thức lao
động từ thô sơ lạc hậu nhưng qua quá trình biến đổi trong xã hội đến ngày nay
con người đã sáng tạo ra được nhiều hình thức lao động hết sức tinh xảo và hiện
đại. Ở tất cả các hình thức lao động mà con người đã tạo ra đó cũng chỉ nhằm
mục đích biến đổi tự nhiên để tạo ra những sản phẩm xã hội phục vụ cho nhu cầu
chính yếu cho họ và nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Trong quá trình phát triển, loài người đã vượt qua nhiều nấc thang lịch sử, cơ
sở của việc chuyển từ nấc thang lịch sử này sang nấc thang lịch sử khác, rồi cơ
sở của tiến bộ xã hội là gì? C.Mác và Ăngghen đã có một phát minh vĩ đại đó là:
“sản xuất vật chất là cơ sở cho sự phát triển của xã hội loài người” vì:
Muốn sống trước hết con người phải có thức ăn, nhà ở và những của cải vật
chất khác.Những tư liệu sinh hoạt cho con người không có sẵn trong tự nhiên mà
chúng được tạo ra thông qua lao động của con người
Những tư liệu sinh hoạt cho con người không có sẵn trong tự nhiên mà chúng
được tạo ra thông qua lao động của con người.
Vì vậy sản xuất vật chất là cơ sở của tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Việc chuyển từ nấc thang này sang nấc thang khác của sự phát triển ấy
trước hết gắn liền với sự phát triển của quá trình sản xuất.
Kết luận trên đây có ý nghĩa to lớn động viên sự hình thành giai cấp vô sản
nói chung và kinh tế chính trị của giai cấp vô sản nói riêng.
Ngày nay ý nghĩa của các nhân tố xã hội và tinh thần ngày càng được đề
cao trong xã hội. Lĩnh vực không sản xuất vật chất phát triển nhanh chóng nhưng
vai trò của sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội vẫn còn
nguyên giá trị. Một dân tộc, một đất nước sẽ bị diệt vong không phải trong một
năm mà chỉ trong vòng một tuần nếu ngừng sản xuất.
Sản xuất vật chất không chỉ tạo ra sản phẩm xã hội cần thiết phục vụ cho
nhu cầu của con người mà nó còn tạo ra sản phẩm thặng dư.
Sản phẩm cần thiết dùng để duy trì khả năng lao động và đào tạo thế hệ lao
động mới để thay thế những người mất khả năng lao động, rồi dùng để bù đắp
những chi phí về ăn, mặc, ở, để thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa, xã hội và các nhu cầu kinh tế khác.
Sản phẩm thặng dư là kết quả và cũng là nguồn gốc của tiến bộ xã hội, là
điều kiện quyết định để nâng cao mức sống của nhân dân và mở rộng khả năng
phát triển của kinh tế xã hội trong tương lai. Nó bắt nguồn từ trình độ của năng
suất lao động tăng lên với quy cách là một quy luật kinh tế chung cho các xã hội
có trình độ sản xuất phát triển nhất định.
Qua sự phân tích trên ta có thể kết luận rằng: Sản xuất vật chất có vai trò
hết sức quan trọng. Nó có thể tạo ra tư liệu sản xuất, tạo ra các mặt các quan hệ xã
hội, rồi nó có thể cải biến tự nhiên - xã hội - bản thân con người và cuối cùng nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Tóm lại, dù được xét trong toàn bộ lịch sử của sự hình thành và phát triển
của xã hội loài người hay trong giai đoạn lịch sử cụ thể thì sản xuất vật chất vẫn
luôn đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã hội. C. Phần kết luận
Nước ta là một nước đông dân, có nguồn lao động rất dồi dào, để tạo ra một
nguồn lực to lớn để phát triển nền kinh tế xã hội. Hơn nữa người lao động nước ta
rất trẻ trung, năng động, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất.
Từ sau năm 1945, sau khi giành được chính quyền, nhân dân ta đã rất hăng
hái tham gia lao động sản xuất. Từng trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ nhưng nước ta vẫn không ngừng sản xuất và vươn lên sau khi đất nước
được thống nhất năm 1975, nhân dân ta đã thực hiện chiến lược khôi phục kinh tế
và hàn gắn vết thương chiến tranh và đã đạt được những kết quả khả quan.
Từ năm 1986 đến nay thì ta tiến hành đổi mới, thực hiện những chiến lược
lâu dài, áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật lần thứ hai, theo phương châm
đi tắt đón đầu và chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn.
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của
nhân dân cả nước, nước ta đã từng bước xóa đói giảm nghèo và từng bước nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đưa nước ta từ một nước có nền kinh tế
kém phát triển thành một nước có nền kinh tế phát triển năng động trong khu vực
Đông Nam Á và Châu Á Thái Bình Dương. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng
năm tương đối cao và ổn định vào khoảng hơn 7% một năm và cố gắng phấn đấu
đến năm 2020 sẽ trở thành một nước công nghiệp.
Là sinh viên, là chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta cần phải hành động
ngay hôm nay, ngay bây giờ bằng cách cố gắng phấn đấu vươn lên tronghọc tập,
trau dồi rèn luyện phẩm chất đạo đức để trở thành một công dân có íchcho xã hội,
cùng tham gia lao động sản xuất với toàn dân để xây dựng nước Việt Nam ta ngày
càng văn minh, giàu đẹp hơn.
Tài liệu tham khảo https://luatduonggia.vn/san-xuat-vat-chat-la-gi-vai-tro-
cua-san-xuat-vat-chatvi-du/ chat gpt