h phân phối truyền thống) đang chiếm ưu thế tuyệt đối,
CỬA HÀNG TIỆN LỢI VỀ ĐÂU?
Kết quả khảo sát của AT Kearney năm 2006, Chs phát triển bán l chung năm 2007
GRDI, (xếp hng 30 nền kinh tế có th trường n lẻ hấp dn nhất thế giới trong s185 nn kinh
tế thế giới), một trong nhng tập đoàn nghiên cứu thtrường hàng đầu thế giới ca Mỹ, Việt Nam
đã trở thành điểm đến hấp dẫn đứng hàng th3 thế giới đối với các tập đoàn bán lẻ. Một trong
những do thu hút các nhà n lẻ là dân s đông với một na n sVN i tuổi 30, chi tiêu
của người tiêu dùng tăng 16% và doanh số bán lẻ tăng 20% trong giai đoạn 2004-2005. thế mà
c h thống cửa hàng tiện ích, siêu ththu nhlần lượt ra đời…
Masan Mart là hthống chuỗi 25 su thtự chọn đầu tiên gia nhập thtrưng n lẻ, vi hi
vọng s đón đầu được xu hướng tiêu dùng mi, sau khi đã điều nghn rất kỹ về thtrường n
lẻ Việt Nam. Những bước chuẩn bị ban đầu của hkhá bài bản: thiết lập quan h với các nhà
cung cấp hàng hóa, kể cả hàng tươi sống như rau sạch, thịt sch; đào tạo đội ngũ nhân viên bán
hàng đầu tư cho khâu logictics kịp thời bằng phần mm quản lý riêng biệt.
Hơn một năm sau, lần t các cửa hàng Masan Mart đã phi đóng cửa. Các do được nêu
ra là thuế cửa hàng cao, chi phí phát triển h thống chuỗi rất lớn, chi phí vận hành hàng tháng
(bao gồm th mặt bằng, lương nhân viên, khấu hao thiết bị…) t quá định mức cho phép. Sự
thật ngầm hiểu rằng, cái chính vẫn ý thức mua sắm của người tiêu dùng chưa tht khỏi ch,
tiệm tạp hóa. Masant Mart lặng lẽ rời bỏ thtrường n lẻ Việt Nam.
i tên G7Mart l chẳng xa lạ gì với giới kinh doanh. Rầm rộ ra mắt vào ngày
05.08.2006 tại dinh Thống Nht bằng hàng loạt c hoạt động: tổng kết diễn đàn “Nước Việt ta
nh hay không nhỏ” trên báo Thanh Niên, cuộc đi bộ ủng hộ Ngày hành động nước Việt hùng
mạnh”…đã thu hút hơn 5.000 lượt người tham dự.
Theo công bố vi báo giới của Công ty Cổ phn& Thương mại Dịch vụ G7, đơn vị ch
quản của chuỗi cửa hàng tiện lợi G7Mart, h thống này ra đời sau hơn hai năm chuẩn bị, với
những kinh nghiệm được rút tỉa từ thất bại của Masan Mart, áp dụng nhng thành công của
Seven Eleven (7/11), tập đn bán lẻ hàng đầu của Thái Lan. Việc xuất hiện của G7Mart đã nhen
lên niềm tin cho nhng người đang hi vọng vào sự trỗi đy thần kỳ ca hthống phân phối Việt.
Tuy nhn, hthng cửa hàng tiện ích G7Mart, giống như Masan Mart trước đây, vốn đã bộc
lộ nhiều bất cập trong việc phát triển.
Mục tiêu chuyển đổi từ cửa hàng tạp hóa truyền thống đang hoạt động thành chuỗi cửa hàng
tiện lợi (pilot) nhm tiết giảm tối đa chi phí hoạt động đã gây không ít khó khăn trong việc thỏa
thuận về nguồn hàng, chủng loại hàng, gcảchiết khu. nhiều do, thực tế, hệ thống phân
phối gián tiếp (kên nhất trong ngành
hàng thực phm (Food& Beverages) tiêu dùng nhanh (FMCGs). Bằng cách này hay cách khác,
tất cả đều đi vào hình thức phân phối chiều sâu, rộng hỗn hợp theo đặc thù hệ thống phân phối,
thng nh huyết mạch thtrường. Kênh phân phối truyền thống chiếm khoảng 90% doanh scủa
th trường n lẻ Việt Nam, kênh phân phối hiện đại (siêu thị, trung m thương mi) ch giữ 10%
mức luân chuyển hàng hóa của cả nước.
Như vậy, vic không chđộng được nguồn hàng của G7Mart không lấy gì làm khó hiểu.
c nhà sản xuất đã xây dựng hthống phân phối của chính mình hàng chục năm, hầu hết đã có
nhà phân phối riêng với những điều khoản thỏa thuận về tồn kho, chiết khấu, doanh s mà
muốn đạt được nó không đơn giản chút nào. Nlực của G7Mart trong việc đàm phán với các
đại gia sn xuất phân phối hàng tiêu dùng của Việt Nam cuộc chiến cân não mà G7Mart đã,
đang sẽ phải đối mặt.
Những tiêu chuẩn gia nhập hệ thng của G7Mart khá khắt khe khi quy định: cửa hàng mặt
tiền đường trên 4m, i 8m trở lên; đang hoạt động, có doanh thu cao 5-10 triệu/ ngày; mới xây
dựng hoặc đã xây dựng dưới 10 năm; quyền s hữu của chcửa hàng hoặc th dài hn; khu
vực trung tâm dân mi, khu đông dân cư; ngay trục lộ chính của c ngã ba, ngã đường
nội bộ các khu n cư; gần bệnh viện, bến xe, gần ch; gần khu công nghiệp, túc xá
Thông thường, c chcửa hàng tạp hóa cũng ch mặt bằng, hrất muốn có quyền t
chtrong kinh doanh. Nếu gia nhp hthống G7Mart, với những quy định ràng buộc chặt ch
trong hp đồng hp tác sẽ gây khó khăn trong vấn đề điều hành quản của họ. Rng tiêu chí
chọn lựa cửa hàng “có doanh thu cao 5-10 triu/ ngày” kh đã khó thuyết phục chca hàng,
khi với với doanh sđó, li nhận n hàng trung nh 10% thì vấn đề nâng cấp trang trí cửa
hàng không bài toán khó. Việc trang bị máy tính tiền khi các chca hàng chquen với việc
tính nhm hoặc ghi chép sổ sách cũng trở ngại khá lớn trong việc ứng dụng ng ngh thông
tin o quản cửa hàng; trong khi, cái mà hmong đợi nhất từ G7Mart, nguồn hàng đa dng,
phong phú với g cạnh tranh, đã không xảy ra.
Nhìn vào h thống nhận diện chuẩn của chuỗi cửa hàng tiện lợi G7Mart, nhng gam màu
mát mắt và ơi trẻ (xanh, trắng), có cảm giác đối ợng phục vụ chlực ca h thống này c
khách hàng trẻ tuổi. Yếu tố tâm tiêu dùng phn nào đã nh hưởng không nhđến hoạt động
kinh doanh của G7Mart nói riêng chi phối đến hệ thống bán lẻ Việt Nam nói chung, khi dân số
Việt Nam đến thời điểm hiện tại đã hơn 84 triệu, độ tuổi t 18-35 (chiếm tỉ lệ hơn 30%) di
chuyển nhiều, xu hướng thích mua sắm tại các cửa hàng chuyên doanh siêu thị, hthích
tham quan nhiều cửa hàng không ngại xa gn trước khi quyết định mua, quan trọng được
thụ hưởng các dịch vụ tiện ích của mô hình hiện đại. Điều này hn toàn hp lý.
Tuy nhiên, kế hoạch hành động của G7Mart trong u tháng cuối năm 2007 đang những
chuyển biến tích cực: tiến hành lại hp đồng với các ch cửa hàng tại TP. Hồ Chí Minh để
giành quyền kiểm st 50% diện tích quầy k; loại bỏ những ch cửa hàng bất hợp tác; đầu c
cửa hàng chính chủ; cấp th khách hàng thân thiết trong bán kính 2km quanh cửa hàng; tung
chương trình khuyến mãi Cào và Trúng”, dán tem o trên mỗi SKU; điển hình ngày
09.08.2007 vừa qua đã hợp tác chiến lược với Microsoft trong việc s dụng hthng phn
mềm để quản cửa hàng. Nếu tiềm lực i chính của G7Mart đủ mạnh cho tầm nhìn 10 năm,
việc đầu này đúng tiến độ.
Chuỗi cửa hàng tiện lợi G7Mart cửa hàng n lẻ Coop Mart hoàn toàn khác nhau về bản
cht. Coop Mart đã đang phát triển h thng 20 siêu thvới 251 ngàn khách hàng thân thiết,
hơn 89 ngàn khách hàng thành. Khi đã hình thành chuỗi su thị, Coop Mart tiếp tục thiết lập tổng
kho trung tâm phân phối để chđộng trong việc điều hành hàng hóa cho các su thị, đồng thi,
nhà cung cấp cũng thuận lợi do đơn giản hóa khâu logistics cho các siêu thcủa Coop Mart. Sử
dụng hthng logistics với tổng kho phân phối, Coop Mart th lấn sang kênh bán lẻ truyền
thng, với vai trò như nhà phân phối cho c nhà cung cp. Hp nhất hoạt động quản hai
kênh n hàng truyền thống (traditional) hiện đại (Modern Trade) giúp Coop Mart mrộng
ảnh hưởng của mình đối với hthng phân phối Việt Nam. Việc m rộng hoạt động n lẻ ngi
hthống siêu th Coop Mart sthành công nếu hgiải quyết đưc mâu thuẫn bộ tam “Nhà sản
xuất Coop Mart Nhà phân phối khác”.
Không giống như G7Mart Coop Mart, hthống cửa hàng chuyên doanh Vissan ra đời
khá thành công vì đáp ứng đủ nhu cầu cho việc chuẩn bị một bữa ăn gia đình trong ngày: thịt, rau
quả, trái cây, gia vị… Dù vòng quay tiêu thsản phm bán kèm rất thp nhưng lại là các mặt
hàng chlực quay nhanh với hơn 100 SKUs mang thương hiệu Vissan. Việc m rộng hthống
chuỗi cửa hàng chuyên doanh Vissan của công ty mthuận lợi trong việc phát triển kênh phân
phối, trước sc ép từ các đối thcùng ngành. Ưu điểm của h thống này thanh toán thực bán
trong ngày.
Hthống phân phối bán lẻ của Việt Nam đang có nhng thay đổi mạnh m n bản với
việc xuất hiện nhng hthống bán hàng tiện lợi, đáp ứng tối đa nhu cầu ca khách hàng. Tính
trên thuyết, cmỗi 1.000 dân trong phạm vi 100m n kính th mmột cửa hàng tiện ích
với diện ch 50 - 70m2 thì các vùng đô thln như TP. HChí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng, Cần Thơ... cầnthêm hàng chục ngàn cửa hàng mi.
Tuy nhn, yếu tố tâm tiêu dùng tại Việt Nam vn o cản lớn nht, bên cạnh các yếu tố
về nguồn hàng, vốn đầu tư, địa điểmViệc xuất hiện c h thống bán lẻ, đa sra đi và phát
triển trong vòng hai năm trở lại đây như Day& Night, Hapro Mart, V-Mart, Best& Buy, 365
Days, Shop& Go, Small Mart 24g/7, Home… vẫn gặp nhiều khó khăn như G7Mart. Điu này
được giải bởi các hệ thống trên cần chiếm lĩnh các vị trí đẹp (locations) do khan hiếm mặt bằng,
trước khi Việt Nam mca hn toàn thtrường bán lẻ o đầu năm 2009. nhiên, yếu tố tài
chính quyết định những mặt bằng đẹp này, kể cả khi Seven Eleven đầu tư vào Việt Nam.
rằng, doanh số ước tính 20 tỷ USD/năm ng trưởng gn 30% mỗi năm của th trường
bán lẻ Việt Nam đang miếng nh ngon cho các nhà đầu nước ngoài, nhưng mô hình chuỗi
cửa hàng tiện lợi chưa đến lúc hội đủ các điều kiện để thành công tại thtrường Việt Nam hiện
nay. Để đứng vững phát triển, mô hình cửa hàng chuyên doanh như Medicare, Vissan khá
phù hp.
Áp lực từ cộc mốc 2009, giải pháp cho doanh nghiệp phân phối Việt là tập trung đầu o
nguồn nhân lực; liên kết, sáp nhập nhm tăng vốn mrộng hthống để cùng tồn tại. Những
rào cản nh hưởng đến sức cạnh tranh cơ hội phát triển của doanh nghiệp từ các quy định
thủ tục hành chính không phù hp chắc chắn phi được i bỏ.
Tlệ đầu o lĩnh vực bán lẻ và phân phối chiếm đến 72% nhưng đa phn c nhà phân
phối trong nước vốn ít (55% NPP vốn ới 6.211 USD ơng đương 14.179 NPP), quy mô
doanh nghiệp nh, hthng phân phối yếu m, nguồn nhân lực chưa qua đào tạo nhiều. Việc
chuyên môn hóa tính năng quản trị doanh nghiệp chưa tht sự được tập trung do khởi nghiệp
từ kinh doanh nhlẻ đi lên. Xác định lợi thế cạnh tranh tập trung vào xây dựng h thng phân
phối yếu tbức thiết, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trong thế giới phngngày
nay."
 phân   thành công   trong      hàng 




Preview text:

CỬA HÀNG TIỆN LỢI VỀ ĐÂU?
Kết quả khảo sát của AT Kearney năm 2006, “Chỉ số phát triển bán lẻ chung năm 2007 –
GRDI”, (xếp hạng 30 nền kinh tế có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới trong số 185 nền kinh
tế thế giới), một trong những tập đoàn nghiên cứu thị trường hàng đầu thế giới của Mỹ, Việt Nam
đã trở thành điểm đến hấp dẫn đứng hàng thứ 3 thế giới đối với các tập đoàn bán lẻ. Một trong
những lý do thu hút các nhà bán lẻ là dân số đông với một nửa dân số VN dưới tuổi 30, chi tiêu
của người tiêu dùng tăng 16% và doanh số bán lẻ tăng 20% trong giai đoạn 2004-2005. Vì thế mà
các hệ thống cửa hàng tiện ích, siêu thị thu nhỏ lần lượt ra đời…
Masan Mart là hệ thống chuỗi 25 siêu thị tự chọn đầu tiên gia nhập thị trường bán lẻ, với hi
vọng là sẽ đón đầu được xu hướng tiêu dùng mới, sau khi đã điều nghiên rất kỹ về thị trường bán
lẻ Việt Nam. Những bước chuẩn bị ban đầu của họ khá bài bản: thiết lập quan hệ với các nhà
cung cấp hàng hóa, kể cả hàng tươi sống như rau sạch, thịt sạch; đào tạo đội ngũ nhân viên bán
hàng và đầu tư cho khâu logictics kịp thời bằng phần mềm quản lý riêng biệt.
Hơn một năm sau, lần lượt các cửa hàng Masan Mart đã phải đóng cửa. Các lí do được nêu
ra là thuế cửa hàng cao, chi phí phát triển hệ thống chuỗi rất lớn, và chi phí vận hành hàng tháng
(bao gồm thuê mặt bằng, lương nhân viên, khấu hao thiết bị…) vượt quá định mức cho phép. Sự
thật ngầm hiểu rằng, cái chính vẫn là ý thức mua sắm của người tiêu dùng chưa thoát khỏi chợ,
tiệm tạp hóa. Masant Mart lặng lẽ rời bỏ thị trường bán lẻ Việt Nam.
Cái tên G7Mart có lẽ chẳng xa lạ gì với giới kinh doanh. Rầm rộ ra mắt vào ngày
05.08.2006 tại dinh Thống Nhất bằng hàng loạt các hoạt động: tổng kết diễn đàn “Nước Việt ta
nhỏ hay không nhỏ” trên báo Thanh Niên, cuộc đi bộ ủng hộ “Ngày hành động vì nước Việt hùng
mạnh”…đã thu hút hơn 5.000 lượt người tham dự.
Theo công bố với báo giới của Công ty Cổ phần& Thương mại Dịch vụ G7, đơn vị chủ
quản của chuỗi cửa hàng tiện lợi G7Mart, hệ thống này ra đời sau hơn hai năm chuẩn bị, với
những kinh nghiệm được rút tỉa từ thất bại của Masan Mart, và áp dụng những thành công của
Seven Eleven (7/11), tập đoàn bán lẻ hàng đầu của Thái Lan. Việc xuất hiện của G7Mart đã nhen
lên niềm tin cho những người đang hi vọng vào sự trỗi đậy thần kỳ của hệ thống phân phối Việt.
Tuy nhiên, hệ thống cửa hàng tiện ích G7Mart, giống như Masan Mart trước đây, vốn dĩ đã bộc
lộ nhiều bất cập trong việc phát triển.
Mục tiêu chuyển đổi từ cửa hàng tạp hóa truyền thống đang hoạt động thành chuỗi cửa hàng
tiện lợi (pilot) nhằm tiết giảm tối đa chi phí hoạt động đã gây không ít khó khăn trong việc thỏa
thuận về nguồn hàng, chủng loại hàng, giá cả và chiết khấu. Vì nhiều lí do, thực tế, hệ thống phân
phối gián tiếp (kênh phân phối truyền thống) đang chiếm ưu thế tuyệt đối, nhất là trong ngành
hàng thực phẩm (Food& Beverages) và tiêu dùng nhanh (FMCGs). Bằng cách này hay cách khác,
tất cả đều đi vào hình thức phân phối chiều sâu, rộng và hỗn hợp theo đặc thù hệ thống phân phối,
thống lĩnh huyết mạch thị trường. Kênh phân phối truyền thống chiếm khoảng 90% doanh số của
thị trường bán lẻ Việt Nam, kênh phân phối hiện đại (siêu thị, trung tâm thương mại) chỉ giữ 10%
mức luân chuyển hàng hóa của cả nước.
Như vậy, việc không chủ động được nguồn hàng của G7Mart không lấy gì làm khó hiểu.
Các nhà sản xuất đã xây dựng hệ thống phân phối của chính mình hàng chục năm, hầu hết đã có
nhà phân phối riêng với những điều khoản thỏa thuận về tồn kho, chiết khấu, doanh số… mà
muốn đạt được nó là không đơn giản chút nào. Nỗ lực của G7Mart trong việc đàm phán với các
đại gia sản xuất và phân phối hàng tiêu dùng của Việt Nam là cuộc chiến cân não mà G7Mart đã,
đang và sẽ phải đối mặt.
Những tiêu chuẩn gia nhập hệ thống của G7Mart khá khắt khe khi quy định: cửa hàng ở mặt
tiền đường trên 4m, dài 8m trở lên; đang hoạt động, có doanh thu cao 5-10 triệu/ ngày; mới xây
dựng hoặc đã xây dựng dưới 10 năm; quyền sở hữu của chủ cửa hàng hoặc thuê dài hạn; ở khu
vực trung tâm dân cư mới, khu đông dân cư; ở ngay trục lộ chính của các ngã ba, ngã tư đường
nội bộ các khu dân cư; gần bệnh viện, bến xe, gần chợ; gần khu công nghiệp, ký túc xá…
Thông thường, các chủ cửa hàng tạp hóa cũng là chủ mặt bằng, và họ rất muốn có quyền tự
chủ trong kinh doanh. Nếu gia nhập hệ thống G7Mart, với những quy định ràng buộc chặt chẽ
trong hợp đồng hợp tác sẽ gây khó khăn trong vấn đề điều hành và quản lý của họ. Riêng tiêu chí
chọn lựa cửa hàng “có doanh thu cao 5-10 triệu/ ngày” khả dĩ đã khó thuyết phục chủ cửa hàng,
khi với với doanh số đó, lợi nhận bán hàng trung bình 10% thì vấn đề nâng cấp và trang trí cửa
hàng không là bài toán khó. Việc trang bị máy tính tiền khi các chủ cửa hàng chỉ quen với việc
tính nhẩm hoặc ghi chép sổ sách cũng là trở ngại khá lớn trong việc ứng dụng công nghệ thông
tin vào quản lý cửa hàng; trong khi, cái mà họ mong đợi nhất từ G7Mart, nguồn hàng đa dạng,
phong phú với giá cạnh tranh, đã không xảy ra.
Nhìn vào hệ thống nhận diện chuẩn của chuỗi cửa hàng tiện lợi G7Mart, những gam màu
mát mắt và tươi trẻ (xanh, trắng), có cảm giác đối tượng phục vụ chủ lực của hệ thống này là các
khách hàng trẻ tuổi. Yếu tố tâm lý tiêu dùng phần nào đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
kinh doanh của G7Mart nói riêng và chi phối đến hệ thống bán lẻ Việt Nam nói chung, khi dân số
Việt Nam đến thời điểm hiện tại đã hơn 84 triệu, độ tuổi từ 18-35 (chiếm tỉ lệ hơn 30%) di
chuyển nhiều, có xu hướng thích mua sắm tại các cửa hàng chuyên doanh và siêu thị, họ thích
tham quan nhiều cửa hàng không ngại xa gần trước khi quyết định mua, và quan trọng là được
thụ hưởng các dịch vụ tiện ích của mô hình hiện đại. Điều này hoàn toàn hợp lý.
Tuy nhiên, kế hoạch hành động của G7Mart trong sáu tháng cuối năm 2007 đang có những
chuyển biến tích cực: tiến hành ký lại hợp đồng với các chủ cửa hàng tại TP. Hồ Chí Minh để
giành quyền kiểm soát 50% diện tích quầy kệ; loại bỏ những chủ cửa hàng bất hợp tác; đầu tư các
cửa hàng chính chủ; cấp thẻ khách hàng thân thiết trong bán kính 2km quanh cửa hàng; tung
chương trình khuyến mãi “Cào và Trúng”, dán tem cào trên mỗi SKU; điển hình là ngày
09.08.2007 vừa qua đã ký hợp tác chiến lược với Microsoft trong việc sử dụng hệ thống phần
mềm để quản lý cửa hàng. Nếu tiềm lực tài chính của G7Mart đủ mạnh cho tầm nhìn 10 năm,
việc đầu tư này là đúng tiến độ.
Chuỗi cửa hàng tiện lợi G7Mart và cửa hàng bán lẻ Coop Mart hoàn toàn khác nhau về bản
chất. Coop Mart đã và đang phát triển hệ thống 20 siêu thị với 251 ngàn khách hàng thân thiết,
hơn 89 ngàn khách hàng thành. Khi đã hình thành chuỗi siêu thị, Coop Mart tiếp tục thiết lập tổng
kho trung tâm phân phối để chủ động trong việc điều hành hàng hóa cho các siêu thị, đồng thời,
nhà cung cấp cũng thuận lợi do đơn giản hóa khâu logistics cho các siêu thị của Coop Mart. Sử
dụng hệ thống logistics với tổng kho phân phối, Coop Mart có thể lấn sang kênh bán lẻ truyền
thống, với vai trò như là nhà phân phối cho các nhà cung cấp. Hợp nhất hoạt động quản lý hai
kênh bán hàng truyền thống (traditional) và hiện đại (Modern Trade) giúp Coop Mart mở rộng
ảnh hưởng của mình đối với hệ thống phân phối Việt Nam. Việc mở rộng hoạt động bán lẻ ngoài
hệ thống siêu thị Coop Mart sẽ thành công nếu họ giải quyết được mâu thuẫn bộ tam “Nhà sản
xuất – Coop Mart – Nhà phân phối khác”.
Không giống như G7Mart và Coop Mart, hệ thống cửa hàng chuyên doanh Vissan ra đời
khá thành công vì đáp ứng đủ nhu cầu cho việc chuẩn bị một bữa ăn gia đình trong ngày: thịt, rau
quả, trái cây, gia vị… Dù vòng quay tiêu thụ sản phẩm bán kèm rất thấp nhưng bù lại là các mặt
hàng chủ lực quay nhanh với hơn 100 SKUs mang thương hiệu Vissan. Việc mở rộng hệ thống
chuỗi cửa hàng chuyên doanh Vissan của công ty mẹ thuận lợi trong việc phát triển kênh phân
phối, trước sức ép từ các đối thủ cùng ngành. Ưu điểm của hệ thống này là thanh toán thực bán trong ngày.
Hệ thống phân phối bán lẻ của Việt Nam đang có những thay đổi mạnh mẽ và căn bản với
việc xuất hiện những hệ thống bán hàng tiện lợi, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Tính
trên lý thuyết, cứ mỗi 1.000 dân trong phạm vi 100m bán kính có thể mở một cửa hàng tiện ích
với diện tích 50 - 70m2 thì các vùng đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng, Cần Thơ... cần có thêm hàng chục ngàn cửa hàng mới.
Tuy nhiên, yếu tố tâm lý tiêu dùng tại Việt Nam vẫn là rào cản lớn nhất, bên cạnh các yếu tố
về nguồn hàng, vốn đầu tư, địa điểm… Việc xuất hiện các hệ thống bán lẻ, đa số ra đời và phát
triển trong vòng hai năm trở lại đây như Day& Night, Hapro Mart, V-Mart, Best& Buy, 365
Days, Shop& Go, Small Mart 24g/7, Home… vẫn gặp nhiều khó khăn như G7Mart. Điều này
được lí giải bởi các hệ thống trên cần chiếm lĩnh các vị trí đẹp (locations) do khan hiếm mặt bằng,
trước khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ vào đầu năm 2009. Dĩ nhiên, yếu tố tài
chính quyết định những mặt bằng đẹp này, kể cả khi Seven Eleven đầu tư vào Việt Nam.
Dù rằng, doanh số ước tính 20 tỷ USD/năm và tăng trưởng gần 30% mỗi năm của thị trường
bán lẻ Việt Nam đang là miếng bánh ngon cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng mô hình chuỗi
cửa hàng tiện lợi chưa đến lúc hội đủ các điều kiện để thành công tại thị trường Việt Nam hiện
nay. Để đứng vững và phát triển, mô hình cửa hàng chuyên doanh như Medicare, Vissan là khá phù hợp.
Áp lực từ cộc mốc 2009, giải pháp cho doanh nghiệp phân phối Việt là tập trung đầu tư vào
nguồn nhân lực; liên kết, sáp nhập nhằm tăng vốn và mở rộng hệ thống để cùng tồn tại. Những
rào cản ảnh hưởng đến sức cạnh tranh và cơ hội phát triển của doanh nghiệp từ các quy định và
thủ tục hành chính không phù hợp chắc chắn phải được bãi bỏ.
“Tỉ lệ đầu tư vào lĩnh vực bán lẻ và phân phối chiếm đến 72% nhưng đa phần các nhà phân
phối trong nước vốn ít (55% NPP có vốn dưới 6.211 USD tương đương 14.179 NPP), quy mô
doanh nghiệp nhỏ, hệ thống phân phối yếu kém, nguồn nhân lực chưa qua đào tạo nhiều. Việc
chuyên môn hóa và tính năng quản trị doanh nghiệp chưa thật sự được tập trung do khởi nghiệp
từ kinh doanh nhỏ lẻ đi lên. Xác định lợi thế cạnh tranh và tập trung vào xây dựng hệ thống phân
phối là yếu tố bức thiết, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trong “thế giới phẳng” ngày nay."
phân n ững thành công và ấ bại trong việ iế lập mạng lưới ửa hàng iện
iệ am ng i gian a n gi v i n v ng a ệ ng ửa ng iện
ại iệ am ng i gian ới v ưa a n ững iến ng g an ng iệp iệ
am ng ệ ng ửa ng iện