Nhân tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam | Trường Đại học Phenikaa

Người lao động chính là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của bản thân cũng như sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Tư liệu sản xuất bao gồm cả tư liệu lao động và đối tượng lao động. Con người sẽ chẳng thể sản xuất ra vật chất nếu thiếu đi những nguyên tố có sẵn trong tự nhiên như nước, không khí, khoáng sản, đất,... đây cũng chính là các đối tượng lao động. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
BÀI TẬP LỚN
SẢN XUẤT VÀ CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM
Giảng viên: Tiến sĩ NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG
Sinh viên: NGUYỄN TRẦN PHƯƠNG THẢO
Lớp: K16 -Y đa khoa
Mã SV: 22014427
Năm học: 2022 - 2023
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu Trang 3
Nội dung
Phần I: Khái niệm lực lượng sản xuất và vai trò nhân tố
con người trong lực lượng sản xuất.
1. Khái niệm lực lượng sản xuất (LLSX) Trang 4 - 7
2. Vai trò của con người trong LLSX Trang 7 - 9
Phần II: Chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở nước ta hiện nay.
1. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao Trang 9 - 10
2. Tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao Trang 10 - 11
3. Vai trò và thực trạng của nguồn nhân lực của nước ta Trang 11 - 12
4. Phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo nguồn Trang 12 - 14
nhân lực chất lượng cao ở nước ta
Kết luận Trang 15
Tài liệu tham khảo Trang 16
Lời mở đầu
Hiện nay nhân loại chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên của nền kinh tế
tri thức, điều này đòi hỏi mỗi người trong số chúng ta đều phải được đào tạo
một cách đầy đủ về trình độ học vấn đồng thời phải luôn không ngừng nỗ lực
nâng cao năng lực các nhân cũng như những phẩm chất đạo đức, ý thức cần
có để có thể đáp ứng tốt những yêu cầu của nền văn minh đang ngày càng đi
lên mạnh mẽ và nhanh chóng.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay của đất nước ta đi
liền với khẩu hiệu mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Điều này có nghĩa là để thực hiện được mục tiêu này thì
nhân tố con người hay nói cụ thể hơn là nguồn nhân lực trẻ, dồi dào được đào
tạo đầy đủ chính là chìa khóa quyết định đất nước chúng ta có thể thực hiện
được mục tiêu này hay không. Đây là những yếu tố cấp thiết và cần được cập
nhật, không ngừng nâng cao để đáp ứng được những yêu cầu về con người
cũng như nguồn nhân lực trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Qua
các thời đại, chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng nhân tố con người
vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển nền kinh tế xã hội, như vậy con
người cần được trang bị một cách trọn vẹn cả về mặt tri thức và đạo đức.
Như vậy, vấn đề cốt lõi ở đây chính là nước ta phải thực hiện chiến lược đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thực hiện các biện pháp để con người có
thể phát triển toàn diện cả thể lực lẫn trí lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành nước phát triển trong tương lai.
I. KHÁI NIỆM LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ NHÂN TỐ
CON NGƯỜI TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
1. Khái niệm lực lượng sản xuất (LLSX)
a. Định nghĩa và tính chất của LLSX
Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu
sản xuất nhằm tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối
tượng vật chất trong giới tự nhiên dựa trên các nhu cầu tồn tại và phát triển
của xã hội nói chung và con người nói riêng.
Như vậy, xét về mặt tính chất của khái niệm lực lượng sản xuất thì nó phản
ánh những tính chất cơ bản sau:
Trên hết, lực lượng sản xuất phản ánh rõ ràng mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên thông qua quá trình sản xuất. Con người vốn là động vật nằm ở bậc
cao nhất, là tinh hoa của tạo hóa, con người chính là kết tinh của một quá
trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Điều này cũng có nghĩa
rằng những điều kiện để tồn tại và phát triển của con người cũng vô cùng
phức tạp và khó khăn từ nơi trú ẩn cho đến nguồn thức ăn, thức uống. Tổ tiên
của loài người là loài vượn người từ khoảng 10 triệu năm trước đây đã biết
cách sử dụng các công cụ thô sơ để săn bắn, biết sử dụng lửa để nấu chín thức
ăn và xua đuổi các loài thú dữ. Tuy nhiên, dù thế nào đi chăng nữa thì cuộc
sống của tổ tiên chúng ta vẫn gắn liền với thiên nhiên. Đây là bản năng vốn có
của các loài sinh vật khi chúng sống hòa mình vào thiên nhiên. Qua các mốc
thời gian, từ loài vượn người dần tiến hóa trở thành con người hiện đại chúng
ta hiện tại. Thế nhưng sự tiến hóa này cũng chẳng hề làm thay đổi mối quan
hệ mật thiết giữa loài người với thiên nhiên vốn đã tồn tại từ thuở nguyên sơ.
Từ đây ta có thể thấy được rằng từ thuở sơ khai thì con người đã biết dựa vào
những thứ mà thiên nhiên ban tặng rồi cải tiến thêm sao cho phù hợp với nhu
cầu tồn tại và phát triển của mình. Đây cũng chính là minh chứng cho sự thật
khách quan là con người sẽ không thể tồn tại nếu thiếu đi mối quan hệ mật
thiết với tự nhiên.
Trong thời kì nguyên thủy khi con người mới chỉ biết sử dụng những công cụ
hết sức thô sơ và thủ công như gỗ, sỏi, đá vào quá trình sản xuất nên năng
suất lao động vô cùng thấp kém. Điều này là minh chứng rõ ràng nhất phản
ánh trình độ chinh phục tự nhiên còn non kém của con người ở thời điểm này.
Cho đến khi chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến thì con
người đã sáng tạo ra các công cụ tiến bộ hơn song về mặt bản chất thì các
dụng cụ này vẫn mang tính thủ công. Nhưng điều này cũng đã góp phần vào
việc tạo ra các sản phẩm ngày một phong phú hơn. Các sản phẩm lao động
làm ra tại thời điểm này tuy rằng đã có tính sáng tạo hơn tuy nhiên chủ yếu
vẫn là hoạt động chủ yếu dựa vào sức người và chưa đáp ứng được nhu cầu
ngày càng đa dạng của con người. Sang tới chế độ tư bản chủ nghĩa, hàng loạt
các loại máy móc, thiết bị hiện đại đã được con người tạo ra để phục vụ quá
trình lao động sản xuất cũng như khai thác tài nguyên thiên nhiên. Với sự đa
dạng về hình thức, mẫu mã cũng như sự vượt trội về tính năng cùng với cuộc
cách mạng công nghiệp diễn ra từ thế kỷ XVII cho đến ngày nay đã làm thay
đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế xã hội của thế giới. Như vậy, trình độ chinh
phục tự nhiên của con người đã bước lên một mốc son mới, đánh dấu bước
phát triển tiến bộ của nhân loại. Cũng trong chính giai đoạn này, con người đã
dần dần chiếm thế chủ động trong quá trình lao động sản xuất.
Mặt khác, lực lượng sản xuất có tính khách quan trong quá trình sản xuất bởi
chẳng có quá trình sản xuất nào mà lại không cần đến sức lao động của con
người hay các yếu tố sẵn có trong tự nhiên.
b. Cấu trúc của LLSX
LLSX bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Hoạt động lao động sản xuất không những là điều kiện cho sự tồn tại của con
người mà còn là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội
Người lao động chính là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức
mạnh và kĩ năng lao động của bản thân cũng như sử dụng tư liệu lao động,
trước hết là công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động để sản xuất
ra của cải vật chất.
Tư liệu sản xuất bao gồm cả tư liệu lao động và đối tượng lao động. Con
người sẽ chẳng thể sản xuất ra vật chất nếu thiếu đi những nguyên tố có sẵn
trong tự nhiên như nước, không khí, khoáng sản, đất,... đây cũng chính là các
đối tượng lao động. Đặc trưng của công cụ sản xuất và đối tượng lao động
biểu hiện chủ yếu ở sự gia tăng hàm lượng công nghệ và khoa học, cuối cùng
là hàm lượng tri thức được kết tinh trong sản phẩm sau cuối ngày càng tăng
lên.
Tư liệu lao động là những phương tiện, công cụ lao động mà con người sử
dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm mục đích để sản xuất ra của
cải vật chất. Thông qua các công cụ của họ đã chứng tỏ họ có hoạt động lao
động và đây cũng chính là ranh giới làm cho loài người trở nên tách biệt so
với giới sinh vật nói chung và thế giới động vật nói riêng.
c. Tính chất đặc biệt của LLSX hiện đại
Đi cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đang ngày càng
chứng minh vai trò to lớn của mình. Sự phát triển của khoa học luôn gắn liền
với hoạt động sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của
nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, đời sống và trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp.
Những phát minh khoa học hiện đại đã trở thành bệ phóng cho những ngành
sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới cũng như công nghệ, nguyên vật
liệu, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào hoạt
động sản xuất, thể hiện rõ nhất ở đây là mối quan hệ chặt chẽ giữa người lao
động với tư liệu sản xuất đã trở thành yếu tố không thể thiếu trong sản xuất đã
giúp cho lực lượng sản xuất có những bước phát triển nhảy vọt, tạo thành
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
2. Vai trò của con người trong LLSX
a. Khái niệm con người
Vấn đề về con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ thời cổ
đại cho tới tận ngày nay. Trong đó quan niệm của triết học Mác – Lênin v
con người và bản chất của con người xuất phát từ những giác độ khái quát
nhất, đứng trên lập trường duy vật biện chứng, làm cơ sở phương pháp luận
cho phương pháp giải quyết những vấn đề khác của con người, có thể nói là
đúng đắn nhất cho tới hiện tại
Trước hết, con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã
hội. Trong những tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là
một sản phẩm của thế giới tự nhiên. Con người chính là một bộ phận của thế
giới tự nhiên. Con người sẽ chẳng thể tồn tại nếu thoát ly khỏi quá trình tất
yếu đó là sinh ra, lớn lên và chết đi. Những thuộc tính, đặc điểm sinh học, quá
trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau trong cuộc đời nói lên
bản chất sinh học của cá nhân mỗi con người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quyết định bản chất
của con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới
loài vật là mặt xã hội. Thông qua các hoạt động lao động sản xuất con người
đã làm ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình, từ đó hình
thành và phát triển ngôn ngữ, tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao
động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người đồng thời
hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của
con người luôn bị quyết định bởi các hệ thống quy luật khác nhau nhưng có
sự thống nhất với nhau. Chúng tác động lẫn nhau, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ giữa sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành các nhu cầu về sinh
học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như của ăn, thứ mặc, nhà ở,
nhu cầu về mặt tình cảm, thẩm mỹ, hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Con người chính là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Không có giới tự
nhiên, không có lịch sử xã hội thì sẽ chẳng tồn tại con người. Bởi vậy, con
người chính là chủ thể của lịch sử. Song điều quan trọng là con người luôn
luôn là chủ thể của lịch sử và xã hội.
b. Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định LLSX
Trong các yếu tố của LLSX thì lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân
loại và công nhân là người lao động. Con người là trọng tâm của lịch sử, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội. Nhân tố con người vừa là
phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật chất và tinh thần, sáng tạo và
hoàn thiện ngay chính bản thân mình đồng thời vừa là chủ nhân sử dụng một
cách có hiệu quả mọi tài sản vô giá ấy. Trên phương diện đó, vai trò nhân tố
con người lao động trong lực lượng sản xuất là yếu tố độc nhất, sáng tạo nhất.
Nhân tố trung tâm của con người chính là sức lao động bao gồm thể lực và trí
lực.
Vai trò con người trong thời đại mới là cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao
và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi
nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia. Con
người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức chính là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội
mới, đồng thời là mục tiêu của CNXH.
II. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG
CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực là một nhân tố thiết yếu cấu thành nên lực lượng sản xuất.
Theo cách hiểu thông thường, nguồn nhân lực là nguồn lực con người của
một quốc gia hay một vùng lãnh thổ, một địa phương nhất định đang và có
khả năng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Có quan điểm cho
rằng, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người
tích lũy được có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai. Một quan điểm
khác lại cho rằng, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể các tiềm năng lao
động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị
ở các mức độ khác nhau sẵn sàng tham gia vào một công việc lao động nào
đó. Với các quan điểm về nguồn nhân lực như vậy nên đã có nhiều cách hiểu
khác nhau về nguồn lực chất lượng cao. Theo cách hiểu định tính thì nguồn
nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của lực lượng lao động, có khả năng
đáp ứng các nhu cầu phức tạp của công việc, từ đó tạo ra năng suất và hiệu
quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và
phát triển của cộng đồng cũng như toàn xã hội. Nếu tiếp cận theo cách hiểu
mang tính chất định lượng thì nguồn nhân lực được hiểu theo 2 cách khác
nhau: Một là, nguồn nhân lực chất lượng cao là những người lao động đã qua
đào tạo, có bằng cấp và trình độ chuyên môn kỹ thuật. Hai là, một cách hiểu
định lượng hẹp hơn là coi nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực
có trình độ đại học, cao đẳng, nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý và hoạch định
chính sách, nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đội ngũ giảng viên các
trường đại học, cao đẳng... Có thể thấy, về mặt khái niệm nguồn nhân lực chất
lượng cao chưa có sự thống nhất. Cả hai cách hiểu mang tính định tính và
định lượng đều có những hạn chế nhất định. Cách hiểu về mặt định tính sẽ
dẫn đến khó khăn trong việc thống kê nguồn nhân lực chất lượng cao. Cách
hiểu về mặt định lượng sẽ không tính đến những nghệ nhân, những người có
khả năng đặc biệt làm được những công việc mà ít người làm được nhưng lại
không qua trường lớp đào tạo nào. Mặt khác, không phải bất kì người lao
động nào đã qua đào tạo đều có khả năng đáp ứng được yêu cầu của các công
việc tương ứng với trình độ đào tạo nhưng vẫn được xem là nguồn nhân lực
chất lượng cao.
Vì vậy, nên hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của nguồn
nhân lực nói chung, nhưng là một bộ phận đặc biệt, bao gồm những người có
trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên đang làm việc trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho
sự phát triển bền vững của cộng đồng nói riêng và toàn xã hội nói chung.
2. Tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao
Với cách hiểu như vậy, ta có thể đưa ra 5 tiêu chí để đánh giá nguồn nhân lực
chất lượng cao đó là:
- Khả năng thích ứng nhanh với môi trường lao động và với các đổi mới, cải
tiến trong khoa học công nghệ, với năng lực chuyên môn và trình độ thành
thạo nghiệp vụ cao.
- Có đạo đức nghề nghiệp thể hiện qua ý thức trách nhiệm, tinh thần dân chủ,
kỷ luật, hợp tác và ý thức vì tập thể, vì cộng đồng cao.
- Có năng lực thực tế tạo nên kết quả cao và vượt trội trong công việc, có
năng lực cạnh tranh, có những đóng góp thực sự hữu ích cho xã hội.
- Có ý chí vượt khó, bền bỉ trong công việc, có năng lực kiềm chế bản thân.
- Có kỹ năng làm việc nhóm cũng như khả năng thay đổi, thích ứng nhanh,
hội nhập cao, có sáng kiến đột phá, sáng tạo trong công việc.
3. Vai trò và thực trạng của nguồn nhân lực của nước ta
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa
học công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định
nhất bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn
lực con người được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt,
ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú.
Nói đến nguồn lực con người là nói đến chất lượng và số lượng nguồn nhân
lực. Chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Thực trạng đó ở nước ta như sau:
- Cơ cấu ngành còn bất hợp lý
- Cơ cấu vùng miền còn nhiều bất cập.
- Tỉ lệ giáo viên/ sinh viên còn cao dẫn đến việc nhiều giáo viên phải làm
việc“chạy xô”.
- Trong dạy nghề phần lớn các trường đại học tuy nhiên mức đầu tư kinh tế
vẫn còn chưa cao.
Như vậy nền kinh tế nước ta chủ yếu dùng sức người với một số yếu tố tri
thức.
4. Phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao ở nước ta
Phát triển toàn diện con người cần đạt tới những giá trị xã hội sau đây:
- Con người có bản lĩnh, lý tưởng, niềm tin và quyết tâm thực hiện sứ mệnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Con người cần có tác phong công nghiệp.
- Con người có đủ trí tuệ, đầu óc duy lý của thời đại và kĩ năng lao động hành
nghề.
- Có nhân cách đậm đà bản sắc dân tộc tiếp thu tinh hoa văn minh nhân loại,
sống nhân ái, tình nghĩa.
- Có tinh thần công dân sống và làm việc theo pháp luật, thực hiện đúng
quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
- Có sức khỏe cường tráng.
Ngoài ra còn cần chú ý đến sự công bằng trong giáo dục, chú ý đến vai trò của
người thầy.
Cần đổi mới nền giáo dục nước ta, vừa phù hợp với hoàn cảnh riêng của đất
nước, vừa thống nhất chung với văn hóa và văn minh nhân loại. Tổ chức
UNESCO đã đưa ra “bốn trụ cột của giáo dục” thế kỉ XXI:
- Học để biết
- Học để làm. Chú ý tới học đi đôi với hành.
- Học cùng chung sống, học cách sống với người khác.
- Học để tự khẳng định mình.
Toàn bộ hệ thống GDĐT ở nước ta, từ tiểu học đến đại học, phải tập trung
phục vụ mục tiêu cao cả này, làm cho tinh thần hướng nghiệp cùng với hướng
học đi vào từ giờ học. Các môn học, bao gồm cả khoa học xã hội lẫn khoa học
tự nhiên, đều phải được giảng dạy theo tinh thần kỹ thuật tổng hợp, gắn bó
với các nội dung khoa học. Thời đại ngày nay là một thời đại mà quá trình lao
động ngày càng căng thẳng, đòi hỏi trí tuệ cao và có ý thức cao trong công
việc. Bởi vậy, việc phát triển nền giáo dục trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Nhân tài nói chung và nhân tài trong quản lý nói riêng không phải tự nhiên mà
có mà nhân tài chính là sản phẩm của một quá trình đào tạo rèn luyện và tự
rèn luyện rất lâu dài và công phu. Cần nhận dạng nhân tài bằng hình thức thi
cử và đặt ra nhiều tiêu chí.
Để nhân tài có thể phát triển được thì phải có điều kiện: Đầu tiên nhân tài phải
được đào tạo rất cẩn thân, tu dưỡng, rèn luyện, tự tích lũy kinh nghiệm và
kiến thức trong một môi trường thuận lợi thúc đẩy con người luôn sáng tạo và
hành động. Tiếp đó, phải có các nguồn lực và dành cho mỗi người một khả
năng lựa chọn và huy động tổ chức các nguồn lực thực hiện có hiệu quả mục
đích đã đề ra. Tóm lại, điều kiện nảy sinh và phát triển nhân tài là phải có một
nền giáo dục tiên tiến có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố nhà trường, gia
đình và xã hội cùng quan tâm và giáo dục thế hệ trẻ.
KẾT LUẬN
Hiện nay, với sự diễn ra của cuộc cách mạng công nghệ hiện đại đã dần khẳng
định rõ ràng sự phát triển của con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát
triển. Trong sự phát triển đó, con người nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi
liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay thì nước ta phải coi
nhân tố con người là một trong những nhân tố then chốt để từ đây củng cố,
nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cao có đủ trí lưch, tay
nghề và công nghệ cũng như ý thức và một tâm hồn đậm đà bản sắc văn hóa
dân tộc, khoa học và ý chí để thực hiện sự chuyển mình từ xã hội nông nghiệp
thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những chiến
thắng giặc ngoại xâm lẫy lừng xưa kia của cha ông ta đã để lại những bài học
giá trị sâu sắc cho con cháu sau này. Với chiến lược giáo dục đào tạo đúng
đắn và khoa học của Đảng – Nhà nước cùng với trí tuệ, phẩm chất của con
người Việt Nam, chúng ta có thể thực hiện thành công thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với kiến thức và sự cố gắng, em đã hoàn thành xong bài tiểu luận song do
khuôn khổ thời gian hạn hẹp nên sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót,
khuyết điểm. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô giảng
dạy và đồng thời em cũng kính mong thầy cô bỏ qua những thiếu sót ấy của
em!
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Đình Giao, Suy nghĩ về công nghiệp hóa, hiên đại hóa ở nước ta,
NXBChính trị quốc gia, 1996.
2. Nguồn chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010, NXB Khoa giáo
Trung ương, Hà Nội, 2000.
3. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Triết học Mác Lênin (dành cho hệkhông
chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.
| 1/15

Preview text:


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI: NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VÀ CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM
Giảng viên: Tiến sĩ NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG
Sinh viên: NGUYỄN TRẦN PHƯƠNG THẢO Lớp: K16 -Y đa khoa Mã SV: 22014427 Năm học: 2022 - 2023 1
MỤC LỤC Lời mở đầu Trang 3 Nội dung
Phần I: Khái niệm lực lượng sản xuất và vai trò nhân tố
con người trong lực lượng sản xuất.
1. Khái niệm lực lượng sản xuất (LLSX) Trang 4 - 7
2. Vai trò của con người trong LLSX Trang 7 - 9
Phần II: Chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở nước ta hiện nay.
1. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao Trang 9 - 10
2. Tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao Trang 10 - 11
3. Vai trò và thực trạng của nguồn nhân lực của nước ta Trang 11 - 12
4. Phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo nguồn Trang 12 - 14
nhân lực chất lượng cao ở nước ta Kết luận Trang 15 Tài liệu tham khảo Trang 16
Lời mở đầu
Hiện nay nhân loại chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên của nền kinh tế
tri thức, điều này đòi hỏi mỗi người trong số chúng ta đều phải được đào tạo
một cách đầy đủ về trình độ học vấn đồng thời phải luôn không ngừng nỗ lực
nâng cao năng lực các nhân cũng như những phẩm chất đạo đức, ý thức cần
có để có thể đáp ứng tốt những yêu cầu của nền văn minh đang ngày càng đi
lên mạnh mẽ và nhanh chóng.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay của đất nước ta đi
liền với khẩu hiệu mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Điều này có nghĩa là để thực hiện được mục tiêu này thì
nhân tố con người hay nói cụ thể hơn là nguồn nhân lực trẻ, dồi dào được đào
tạo đầy đủ chính là chìa khóa quyết định đất nước chúng ta có thể thực hiện
được mục tiêu này hay không. Đây là những yếu tố cấp thiết và cần được cập
nhật, không ngừng nâng cao để đáp ứng được những yêu cầu về con người
cũng như nguồn nhân lực trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Qua
các thời đại, chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng nhân tố con người
vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển nền kinh tế xã hội, như vậy con
người cần được trang bị một cách trọn vẹn cả về mặt tri thức và đạo đức.
Như vậy, vấn đề cốt lõi ở đây chính là nước ta phải thực hiện chiến lược đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thực hiện các biện pháp để con người có
thể phát triển toàn diện cả thể lực lẫn trí lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành nước phát triển trong tương lai.
I. KHÁI NIỆM LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ NHÂN TỐ
CON NGƯỜI TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
1. Khái niệm lực lượng sản xuất (LLSX)
a. Định nghĩa và tính chất của LLSX
Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu
sản xuất nhằm tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối
tượng vật chất trong giới tự nhiên dựa trên các nhu cầu tồn tại và phát triển
của xã hội nói chung và con người nói riêng.
Như vậy, xét về mặt tính chất của khái niệm lực lượng sản xuất thì nó phản
ánh những tính chất cơ bản sau:
Trên hết, lực lượng sản xuất phản ánh rõ ràng mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên thông qua quá trình sản xuất. Con người vốn là động vật nằm ở bậc
cao nhất, là tinh hoa của tạo hóa, con người chính là kết tinh của một quá
trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Điều này cũng có nghĩa
rằng những điều kiện để tồn tại và phát triển của con người cũng vô cùng
phức tạp và khó khăn từ nơi trú ẩn cho đến nguồn thức ăn, thức uống. Tổ tiên
của loài người là loài vượn người từ khoảng 10 triệu năm trước đây đã biết
cách sử dụng các công cụ thô sơ để săn bắn, biết sử dụng lửa để nấu chín thức
ăn và xua đuổi các loài thú dữ. Tuy nhiên, dù thế nào đi chăng nữa thì cuộc
sống của tổ tiên chúng ta vẫn gắn liền với thiên nhiên. Đây là bản năng vốn có
của các loài sinh vật khi chúng sống hòa mình vào thiên nhiên. Qua các mốc
thời gian, từ loài vượn người dần tiến hóa trở thành con người hiện đại chúng
ta hiện tại. Thế nhưng sự tiến hóa này cũng chẳng hề làm thay đổi mối quan
hệ mật thiết giữa loài người với thiên nhiên vốn đã tồn tại từ thuở nguyên sơ.
Từ đây ta có thể thấy được rằng từ thuở sơ khai thì con người đã biết dựa vào
những thứ mà thiên nhiên ban tặng rồi cải tiến thêm sao cho phù hợp với nhu
cầu tồn tại và phát triển của mình. Đây cũng chính là minh chứng cho sự thật
khách quan là con người sẽ không thể tồn tại nếu thiếu đi mối quan hệ mật thiết với tự nhiên.
Trong thời kì nguyên thủy khi con người mới chỉ biết sử dụng những công cụ
hết sức thô sơ và thủ công như gỗ, sỏi, đá vào quá trình sản xuất nên năng
suất lao động vô cùng thấp kém. Điều này là minh chứng rõ ràng nhất phản
ánh trình độ chinh phục tự nhiên còn non kém của con người ở thời điểm này.
Cho đến khi chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến thì con
người đã sáng tạo ra các công cụ tiến bộ hơn song về mặt bản chất thì các
dụng cụ này vẫn mang tính thủ công. Nhưng điều này cũng đã góp phần vào
việc tạo ra các sản phẩm ngày một phong phú hơn. Các sản phẩm lao động
làm ra tại thời điểm này tuy rằng đã có tính sáng tạo hơn tuy nhiên chủ yếu
vẫn là hoạt động chủ yếu dựa vào sức người và chưa đáp ứng được nhu cầu
ngày càng đa dạng của con người. Sang tới chế độ tư bản chủ nghĩa, hàng loạt
các loại máy móc, thiết bị hiện đại đã được con người tạo ra để phục vụ quá
trình lao động sản xuất cũng như khai thác tài nguyên thiên nhiên. Với sự đa
dạng về hình thức, mẫu mã cũng như sự vượt trội về tính năng cùng với cuộc
cách mạng công nghiệp diễn ra từ thế kỷ XVII cho đến ngày nay đã làm thay
đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế xã hội của thế giới. Như vậy, trình độ chinh
phục tự nhiên của con người đã bước lên một mốc son mới, đánh dấu bước
phát triển tiến bộ của nhân loại. Cũng trong chính giai đoạn này, con người đã
dần dần chiếm thế chủ động trong quá trình lao động sản xuất.
Mặt khác, lực lượng sản xuất có tính khách quan trong quá trình sản xuất bởi
chẳng có quá trình sản xuất nào mà lại không cần đến sức lao động của con
người hay các yếu tố sẵn có trong tự nhiên.
b. Cấu trúc của LLSX
LLSX bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Hoạt động lao động sản xuất không những là điều kiện cho sự tồn tại của con
người mà còn là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội
Người lao động chính là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức
mạnh và kĩ năng lao động của bản thân cũng như sử dụng tư liệu lao động,
trước hết là công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Tư liệu sản xuất bao gồm cả tư liệu lao động và đối tượng lao động. Con
người sẽ chẳng thể sản xuất ra vật chất nếu thiếu đi những nguyên tố có sẵn
trong tự nhiên như nước, không khí, khoáng sản, đất,... đây cũng chính là các
đối tượng lao động. Đặc trưng của công cụ sản xuất và đối tượng lao động
biểu hiện chủ yếu ở sự gia tăng hàm lượng công nghệ và khoa học, cuối cùng
là hàm lượng tri thức được kết tinh trong sản phẩm sau cuối ngày càng tăng lên.
Tư liệu lao động là những phương tiện, công cụ lao động mà con người sử
dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm mục đích để sản xuất ra của
cải vật chất. Thông qua các công cụ của họ đã chứng tỏ họ có hoạt động lao
động và đây cũng chính là ranh giới làm cho loài người trở nên tách biệt so
với giới sinh vật nói chung và thế giới động vật nói riêng.
c. Tính chất đặc biệt của LLSX hiện đại
Đi cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đang ngày càng
chứng minh vai trò to lớn của mình. Sự phát triển của khoa học luôn gắn liền
với hoạt động sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của
nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, đời sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Những phát minh khoa học hiện đại đã trở thành bệ phóng cho những ngành
sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới cũng như công nghệ, nguyên vật
liệu, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào hoạt
động sản xuất, thể hiện rõ nhất ở đây là mối quan hệ chặt chẽ giữa người lao
động với tư liệu sản xuất đã trở thành yếu tố không thể thiếu trong sản xuất đã
giúp cho lực lượng sản xuất có những bước phát triển nhảy vọt, tạo thành
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
2. Vai trò của con người trong LLSX
a. Khái niệm con người
Vấn đề về con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ thời cổ
đại cho tới tận ngày nay. Trong đó quan niệm của triết học Mác – Lênin về
con người và bản chất của con người xuất phát từ những giác độ khái quát
nhất, đứng trên lập trường duy vật biện chứng, làm cơ sở phương pháp luận
cho phương pháp giải quyết những vấn đề khác của con người, có thể nói là
đúng đắn nhất cho tới hiện tại
Trước hết, con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã
hội. Trong những tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là
một sản phẩm của thế giới tự nhiên. Con người chính là một bộ phận của thế
giới tự nhiên. Con người sẽ chẳng thể tồn tại nếu thoát ly khỏi quá trình tất
yếu đó là sinh ra, lớn lên và chết đi. Những thuộc tính, đặc điểm sinh học, quá
trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau trong cuộc đời nói lên
bản chất sinh học của cá nhân mỗi con người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quyết định bản chất
của con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới
loài vật là mặt xã hội. Thông qua các hoạt động lao động sản xuất con người
đã làm ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình, từ đó hình
thành và phát triển ngôn ngữ, tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao
động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người đồng thời
hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của
con người luôn bị quyết định bởi các hệ thống quy luật khác nhau nhưng có
sự thống nhất với nhau. Chúng tác động lẫn nhau, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ giữa sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành các nhu cầu về sinh
học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như của ăn, thứ mặc, nhà ở,
nhu cầu về mặt tình cảm, thẩm mỹ, hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Con người chính là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Không có giới tự
nhiên, không có lịch sử xã hội thì sẽ chẳng tồn tại con người. Bởi vậy, con
người chính là chủ thể của lịch sử. Song điều quan trọng là con người luôn
luôn là chủ thể của lịch sử và xã hội.
b. Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định LLSX
Trong các yếu tố của LLSX thì lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân
loại và công nhân là người lao động. Con người là trọng tâm của lịch sử, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội. Nhân tố con người vừa là
phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật chất và tinh thần, sáng tạo và
hoàn thiện ngay chính bản thân mình đồng thời vừa là chủ nhân sử dụng một
cách có hiệu quả mọi tài sản vô giá ấy. Trên phương diện đó, vai trò nhân tố
con người lao động trong lực lượng sản xuất là yếu tố độc nhất, sáng tạo nhất.
Nhân tố trung tâm của con người chính là sức lao động bao gồm thể lực và trí lực.
Vai trò con người trong thời đại mới là cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao
và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi
nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia. Con
người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức chính là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội
mới, đồng thời là mục tiêu của CNXH.
II. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG
CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực là một nhân tố thiết yếu cấu thành nên lực lượng sản xuất.
Theo cách hiểu thông thường, nguồn nhân lực là nguồn lực con người của
một quốc gia hay một vùng lãnh thổ, một địa phương nhất định đang và có
khả năng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Có quan điểm cho
rằng, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người
tích lũy được có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai. Một quan điểm
khác lại cho rằng, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể các tiềm năng lao
động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị
ở các mức độ khác nhau sẵn sàng tham gia vào một công việc lao động nào
đó. Với các quan điểm về nguồn nhân lực như vậy nên đã có nhiều cách hiểu
khác nhau về nguồn lực chất lượng cao. Theo cách hiểu định tính thì nguồn
nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của lực lượng lao động, có khả năng
đáp ứng các nhu cầu phức tạp của công việc, từ đó tạo ra năng suất và hiệu
quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và
phát triển của cộng đồng cũng như toàn xã hội. Nếu tiếp cận theo cách hiểu
mang tính chất định lượng thì nguồn nhân lực được hiểu theo 2 cách khác
nhau: Một là, nguồn nhân lực chất lượng cao là những người lao động đã qua
đào tạo, có bằng cấp và trình độ chuyên môn kỹ thuật. Hai là, một cách hiểu
định lượng hẹp hơn là coi nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực
có trình độ đại học, cao đẳng, nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý và hoạch định
chính sách, nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đội ngũ giảng viên các
trường đại học, cao đẳng... Có thể thấy, về mặt khái niệm nguồn nhân lực chất
lượng cao chưa có sự thống nhất. Cả hai cách hiểu mang tính định tính và
định lượng đều có những hạn chế nhất định. Cách hiểu về mặt định tính sẽ
dẫn đến khó khăn trong việc thống kê nguồn nhân lực chất lượng cao. Cách
hiểu về mặt định lượng sẽ không tính đến những nghệ nhân, những người có
khả năng đặc biệt làm được những công việc mà ít người làm được nhưng lại
không qua trường lớp đào tạo nào. Mặt khác, không phải bất kì người lao
động nào đã qua đào tạo đều có khả năng đáp ứng được yêu cầu của các công
việc tương ứng với trình độ đào tạo nhưng vẫn được xem là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Vì vậy, nên hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của nguồn
nhân lực nói chung, nhưng là một bộ phận đặc biệt, bao gồm những người có
trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên đang làm việc trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho
sự phát triển bền vững của cộng đồng nói riêng và toàn xã hội nói chung.
2. Tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao
Với cách hiểu như vậy, ta có thể đưa ra 5 tiêu chí để đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao đó là:
- Khả năng thích ứng nhanh với môi trường lao động và với các đổi mới, cải
tiến trong khoa học công nghệ, với năng lực chuyên môn và trình độ thành thạo nghiệp vụ cao.
- Có đạo đức nghề nghiệp thể hiện qua ý thức trách nhiệm, tinh thần dân chủ,
kỷ luật, hợp tác và ý thức vì tập thể, vì cộng đồng cao.
- Có năng lực thực tế tạo nên kết quả cao và vượt trội trong công việc, có
năng lực cạnh tranh, có những đóng góp thực sự hữu ích cho xã hội.
- Có ý chí vượt khó, bền bỉ trong công việc, có năng lực kiềm chế bản thân.
- Có kỹ năng làm việc nhóm cũng như khả năng thay đổi, thích ứng nhanh,
hội nhập cao, có sáng kiến đột phá, sáng tạo trong công việc.
3. Vai trò và thực trạng của nguồn nhân lực của nước ta
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa
học công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định
nhất bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn
lực con người được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt,
ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú.
Nói đến nguồn lực con người là nói đến chất lượng và số lượng nguồn nhân
lực. Chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Thực trạng đó ở nước ta như sau:
- Cơ cấu ngành còn bất hợp lý
- Cơ cấu vùng miền còn nhiều bất cập.
- Tỉ lệ giáo viên/ sinh viên còn cao dẫn đến việc nhiều giáo viên phải làm việc“chạy xô”.
- Trong dạy nghề phần lớn các trường đại học tuy nhiên mức đầu tư kinh tế vẫn còn chưa cao.
Như vậy nền kinh tế nước ta chủ yếu dùng sức người với một số yếu tố tri thức.
4. Phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao ở nước ta
Phát triển toàn diện con người cần đạt tới những giá trị xã hội sau đây:
- Con người có bản lĩnh, lý tưởng, niềm tin và quyết tâm thực hiện sứ mệnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Con người cần có tác phong công nghiệp.
- Con người có đủ trí tuệ, đầu óc duy lý của thời đại và kĩ năng lao động hành nghề.
- Có nhân cách đậm đà bản sắc dân tộc tiếp thu tinh hoa văn minh nhân loại,
sống nhân ái, tình nghĩa.
- Có tinh thần công dân sống và làm việc theo pháp luật, thực hiện đúng
quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
- Có sức khỏe cường tráng.
Ngoài ra còn cần chú ý đến sự công bằng trong giáo dục, chú ý đến vai trò của người thầy.
Cần đổi mới nền giáo dục nước ta, vừa phù hợp với hoàn cảnh riêng của đất
nước, vừa thống nhất chung với văn hóa và văn minh nhân loại. Tổ chức
UNESCO đã đưa ra “bốn trụ cột của giáo dục” thế kỉ XXI: - Học để biết
- Học để làm. Chú ý tới học đi đôi với hành.
- Học cùng chung sống, học cách sống với người khác.
- Học để tự khẳng định mình.
Toàn bộ hệ thống GDĐT ở nước ta, từ tiểu học đến đại học, phải tập trung
phục vụ mục tiêu cao cả này, làm cho tinh thần hướng nghiệp cùng với hướng
học đi vào từ giờ học. Các môn học, bao gồm cả khoa học xã hội lẫn khoa học
tự nhiên, đều phải được giảng dạy theo tinh thần kỹ thuật tổng hợp, gắn bó
với các nội dung khoa học. Thời đại ngày nay là một thời đại mà quá trình lao
động ngày càng căng thẳng, đòi hỏi trí tuệ cao và có ý thức cao trong công
việc. Bởi vậy, việc phát triển nền giáo dục trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Nhân tài nói chung và nhân tài trong quản lý nói riêng không phải tự nhiên mà
có mà nhân tài chính là sản phẩm của một quá trình đào tạo rèn luyện và tự
rèn luyện rất lâu dài và công phu. Cần nhận dạng nhân tài bằng hình thức thi
cử và đặt ra nhiều tiêu chí.
Để nhân tài có thể phát triển được thì phải có điều kiện: Đầu tiên nhân tài phải
được đào tạo rất cẩn thân, tu dưỡng, rèn luyện, tự tích lũy kinh nghiệm và
kiến thức trong một môi trường thuận lợi thúc đẩy con người luôn sáng tạo và
hành động. Tiếp đó, phải có các nguồn lực và dành cho mỗi người một khả
năng lựa chọn và huy động tổ chức các nguồn lực thực hiện có hiệu quả mục
đích đã đề ra. Tóm lại, điều kiện nảy sinh và phát triển nhân tài là phải có một
nền giáo dục tiên tiến có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố nhà trường, gia
đình và xã hội cùng quan tâm và giáo dục thế hệ trẻ. KẾT LUẬN
Hiện nay, với sự diễn ra của cuộc cách mạng công nghệ hiện đại đã dần khẳng
định rõ ràng sự phát triển của con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát
triển. Trong sự phát triển đó, con người nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi
liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay thì nước ta phải coi
nhân tố con người là một trong những nhân tố then chốt để từ đây củng cố,
nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cao có đủ trí lưch, tay
nghề và công nghệ cũng như ý thức và một tâm hồn đậm đà bản sắc văn hóa
dân tộc, khoa học và ý chí để thực hiện sự chuyển mình từ xã hội nông nghiệp
thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những chiến
thắng giặc ngoại xâm lẫy lừng xưa kia của cha ông ta đã để lại những bài học
giá trị sâu sắc cho con cháu sau này. Với chiến lược giáo dục đào tạo đúng
đắn và khoa học của Đảng – Nhà nước cùng với trí tuệ, phẩm chất của con
người Việt Nam, chúng ta có thể thực hiện thành công thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với kiến thức và sự cố gắng, em đã hoàn thành xong bài tiểu luận song do
khuôn khổ thời gian hạn hẹp nên sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót,
khuyết điểm. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô giảng
dạy và đồng thời em cũng kính mong thầy cô bỏ qua những thiếu sót ấy của em!
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Đình Giao, Suy nghĩ về công nghiệp hóa, hiên đại hóa ở nước ta,
NXBChính trị quốc gia, 1996.
2. Nguồn chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010, NXB Khoa giáo
Trung ương, Hà Nội, 2000.
3. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Triết học Mác Lênin (dành cho hệkhông
chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.