lOMoARcPSD| 60857655
DÂN TỘC THÁI
1.Khái quát chung:
Tên gọi các nhóm thuộc dân tộc Thái: y, Táy Khao (Thái Trắng), Táy Đăm(
Thái Đen), Tày Mười, Tày Thanh (Mán Thanh), Hàng Tổng (Tay Mường), Pu
Thay, Thổ Đà Bắc.
Dân số: 1.550.423( 2009)
Lịch sử hình thành:
Người Thái Đen: Htrú chủ yếu tỉnh Sơn La, dãy Hoàng Liên Sơn,
các huyện Điện Biên, tuần giáo tỉnh Lai Châu, miền tây Thanh Hóa và Nghệ
Tĩnh. Họ điến Việt Nam vào khoảng thế kthứ XI XII, bộ phận Tày từ
Mường Thanh qua Lào Thanh Hóa tới Nghệ Tĩnh cách đây 200-300 năm.
Bộ phận Tày Mường ban đầu là cư dân xã Chiềng Pấc di cư vào Thanh Hóa
Nghệ Tĩnh từ thời Lê Thái Tổ
Người Thái Trắng: cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu và một số huyện Sơn
La. Thái Trắng con cháu người Bạch Y đã trú tlâu Tây Bắc Nam
Vân Nam . Nhưng phải đến đầu thiên niên kỉ thứ II sau CN họ mới chiếm
được ưu thế dọc hữu ngạn sông Hồng, họ đến sớm hơn người Thái Đen trong
hành trình hành quân Lạng Chương đã gặp các trưởng Thái Trắng dọc
đường. Từ đó bphận Thái Trắng phát triển thế lực sang c vùng Lai Châu,
Sơn La, Phù Yên và một bộ phận xuống Đà Bắc và Thanh Hóa
Một số nghành khác gồm nhiều nhóm phức tạp thì cư trú vào khoảng thời
gian muộn hơn
Phân bố: Tập trung ở các tỉnh miền núi Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên
Bái, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Lâm Đồng
2. Văn hóa mưu sinh:
a. Nông nghiệp
Khi đến Việt Nam người Thái đã biết làm ruộng nước. Nước là yếu tố quan
trọng bậc nhất trong việc trồng lúa, cần quanh vkhi nước mới bắt đầu
cày cấy được. Đồng bào đã phải bỏ nhiều công sức để hoàn thiện hthống thủy
nông thích hợp với việc trồng lúa những thung lũng chạy dọc theo các con
suối và khám phá thêm ruộng đồng
Qua nhiều thế hẹ người Thái đã có nhiều inh nghiệm trong việc đào mương,
đắp phai, bắc ống dẫn nước vruộng, trong việc làm cọn nước đưa nước suối
lên cao hàng chục mét, rồi dẫn nước theo mương, máng vào ruộng.
lOMoARcPSD| 60857655
Người Thái biế dùng cày và sức kéo vào việc canh tác. Tuy nhiên cách đây
nửa thế kỉ đâu đó người ta vẫn nói đến lối canh tác “ hóa canh thủy nâu”. Đồng
bào đốt rơm, rạ, cỏ ở đồng ruộng rồi tháo nước vào, cho trâu quần sục bùn, rồi
cấy lúa. Việc dùng phân bón từ phân chuồng, phân bắc, phân xanh cho đến phân
hóa học là một biến đổi lớn trong sinh hoạt sản xuất của đồng bào sau ngày giải
phóng.
Trước đây lúa chỉ cấy một vụ, ít nơi hai vụ. Hiện nay, tình hình hai vụ lại là
phổ biến. Những giống mới được đem trồng cho năng suất cao
Trong trồng trọt đồng bào làm nương, trồng các cây lương thực, hoa màu
như: Lúa nương, ngô, khoai sắn, một số cây trồng khác như: bông, chàm,
các loại đậu đỗ,bầu bí, rau xanh.
Người Thái thường trồng ột số cây ăn quả như xoài, nhót, chuối, đu đủ.
Những cây này thường được trồng lẻ tẻ ở cạnh nhà, trên nương. Sản phẩm của
những cây ăn quả chủ yếu phục vụ nhu cầu của gia đình. b. Săn bắn hái lượm
Hái lượm: Rừng bao quanh có khả năng cung cấp cho họ những thứ củ hay
thân cây chất bột. Từng mùa rừng cung cấp các loại rau, quả, nấm, mộc
nhĩ… những thứ đó thường xuyên xuất hiện trong bữa ăn chính của đồng bào
người Thái. Vì vậy hái lượm vẫn đóng một vị trí nhất định trong đời sống kinh
tế của cư dân này.
Rừng còn cung cấp cho đồng bào nguyên vật liệu để làm nhà, đan lát những
gia cụ, cung cấp củi đun, dầu thắp sáng, những cây thuốc và những lâm thổ sản
quý.
Săn bắn: Trong rừng các loài chim, thú đối tượng săn bắn, tuy nhiên nghề
này chua bao giờ chiếm vị trí quan trọng. Người Thái chỉ săn bắn lúc nhàn rỗi
với mục đích bảo vệ mùa màng. nhiều hình thức săn bắn như: săn nh
của cá nhân, săn đuổi của tập thể, đánh bẫy… công cụ để sử dụng như là súng
kíp, súng hỏa mai, tên tẩm thuốc độc.
Trái với săn bắn, nghề đánh cá phá triển hơn như “ pây kin ca, má kin lẩu”
tức đi ăn cá, về uống rượu” câu nói cửa miệng của đồng bào Thái. Ngoài
việc nuôi ruộng tài tình và phổ biến, hàng năm có thể cung cấp cho gia đình
hàng tạ để làm mắm, sấy khô… Các con sông suối chảy qua bản cũng
nguồn cung cấp thường niên cho đồng bào, họ đánh bắt bằng chài, lưới, cần
câu hoặc một một số còn thả bả độc để đánh cá. c. Chăn nuôi
Đồng bào chú ý chăn nuôi lợn và gia cầm để dùng vào dịp tế lễ, cúng bái hay
khi nhà có khách và để nộp quan, nộp chúa. Mỡ lợn được dự trữ quanh năm
lOMoARcPSD| 60857655
Họ n nuôi tằm lấy dệt lụa hoặc làm chthêu d.
Thủ công
Người Thái hai nghề thủ công nổi tiếng nghề dệt nghề đan lát mây
tre. thể nói phụ nữ Thái là vị thợ dệt chăm chỉ, lành nghề, sản xuất không
những đủ chăn, màn, quần áo cho gia đình còn đem trao đổi… Nghề đan
lát là công việc của đàn ông
Lac đác có những bản người Thái có lò gốm, nơi làm vạc, làm nồi với bàn
xoay t sơ, năng suất thấp. Có một số ít người biết làm nghề bạc nghề rèn e.
Kinh doanh và trao đổi hàng hóa
Trong một xã hội hầu như không có chợ a, việc trao đổi hàng hóa thường
hạn chế vào một số nhu yếu phẩm và chủ yếu vẫn là dưới hình thức hàng đổi
hàng với những cư dân khác tộc ở rẻo giữa và rẻo cao. Thỉnh thoảng có một số
chuyến hàng ngược sông Đà tmiền xuôi lên, hoặc những thương Lào mang
hàng từ Lào, Myanma đem các nhu yếu phẩm đến bán mua những đặc sản
của địa phương. Ở một vài nơi dọc biên giới có chợ họp theo định kì.
3. Văn hóa vật thể
1. Nhà ở
- trú chủ yếu vùng Tây-Bắc Bắc bộ , một số nhỏ Hòa bình
Thanh- Nghệ
- Người Thái ở nhà sàn
Nhà Sàn
- Được xây dựng theo một quy cách chung khá nghiêm ngặt . người
Thái phân bố ở nhiều vùng nhưng hầu hết nhà sàn của người Thái đều
dáng vẻ hao hao giống nhau.
- Cái chung trong các ngôi nhà của người Thái được thể hiện qua :
+ đơn vị đo lường
+quy cách về số đo các cấu kiện của bộ khung nhà
+chiều kích của ngôi nhà
a) Về số đo
-Chiều dài được dung trong xây dựng nhà của người Thái lấy chiều dài của
một số bộ phận thân thể người ( chủ yếu là tay, thân của chủ căn nhà định xây
)
lOMoARcPSD| 60857655
- Số đo chủ yếu
1. ba: tương ứng với sải của người Việt
2. xô: cẳng tay
3. căm: chiều ngang của bàn tayMột số số đo khác :
4. khèn: cánh tay + thân
5. bải: chiều dài của bàn tay tính từ cổ tay đến ngón giữa
6.căm dưn : chiều ngang bàn tay+ chiều dài ngón cái
7. khưp : gang tay
- Số đo các bộ phận của ngôn nhà
ớc cột của các gian giữa : 1 gian = 1 ba
Hỏng tụp : 1,5 ba
Hỏng tịp : 1 ba
Khứ tháng : 4 ba ( chiều rộng ngôi nhà)
Khứ tụp : 4 ba – 1 xô
Khứ tịp : 4 ba -2 xô
Xinh dúa : 3 ba
Chiều cao cột : 4 xô + 3 căn
- Ba là đơn vị cư bản để làm số đo trong việc làm nhà của người Thái
- Để phổ biến được rộng rãi trong cộng đồng người Thái thì một số quy định
được đưa vào nội dung một bài hát “ Khả kháu hướn “- một bài
‘’lễ ca’ trong lễ lên nhà mới của người Thái
b) Kết cấu bộ khung nhà
- Bộ khung nhà hình thành trên sử lien kết các kèo ( nói 1 cách chính
xác : vì kèo của nhà người Thái còn đang ở dạng giữa vì cột và vì kèo ,
chưa phải là vì kèo thực sự như nhà người Tày hay người Việt)
- Bộ khung : 2 kiểu : khứ tháng và khay điếng
*) Kiểu vì thứ kháng : gồm hai cột và một quá giang
+ Đầu cột có đầu tua để lắp vào đầu quá giang
+ Để tạo thành bộ khung người ta thường lien kết các lại với nhau nhờ
2 cây đòn tay cái lắp vào đầu các cột và 2 thanh dầm ở ngang thân cột.
lOMoARcPSD| 60857655
+ Điểm đặc biệt :
Nngười Thái đen huyện Mai Sơn ( Sơn La) không bộ
phận gọi là kèo mà gọi là xinh dúa
Nhà người Thái đen Mộc Châu ( Sơn La ) không xinh múa
mà có kèo được gọi chênh theo ‘’kheo
Ncủa người Thái đen Mường La ( Sơn La) vừa xinh dúa
vừa có kèo để trở thành bộ kèo kép
+ Kết cấu bộ khung mái có 3 yếu tố : xinh dúa – khéo – hao
+ Kết cấuthân cột để tạo thành giá đỡ mặt sàn cũng có 3 bộ phận chủ
yếu : pừng-khang-tòng
Kết cấu một nhà người Thái dựa trên 1 tổ hợp bộ 3 với ba yếu tố chính :
- Xau –khứ-pe
- Xinh dúa-kheo-hao
- Ping-khang-tòng
*) Kiểu vi khay điếng
- Là kiểu vi khứ tháng được mở rộng bằng cách thêm 2 một con ở 2 bên -
> Sự thay đổi : đầu 2 cột cái còn ginguyên kiểu lắp ráp cổ truyền cnf 2
đầu cột còn lại theo nguyên tắc kèo-cột-
C) Mặt bằng sinh hoạt
*) Nhà sàn Thái Đen
- Có 3 mặt bằng chồng lên nhau
- Trên mặt bằng sinh hoạt của nhà người Thái , các gian đều có tên gọi riêng:
Gian chính : hỏng tô
Gian chái : hỏng tụp
Chái phủ : hỏng tịp
-Những gian nằm trong hỏng tô lại tên riêng : lấy cột xau hẹ lam mốc ranh
giới :
Về phía tay phải : tang quản : hỏng hóng và hỏng quản
Gian chính giữa : cang hướn
-Nhà còn được chia theo chiều dọc , đường ranh giới qua bếp khách
Từ bếp trở về phái sau : hỏng non
lOMoARcPSD| 60857655
Từ bếp trở về phái trước : mang tẩu
-Mặt bằng sinh hoạt nhà sàn của người Thái Đen ở huyện Mường La :
+ nhà làm theo kiểu phăn đin-thứ kháng
+ mái hình mai rùa lợp bằng cỏ tranh
+ 2 chỏm đầu đốc có khau cút
+ xung quanh nhà che vách nứa
+ 2 cửa chính , mặt trước sau nhà nhiều cửa sổ
+ có 2 cầu thang ở 2 đầu hồi
Từ thang chính vào gian : phần sau gian ( dành cho rể hoaawcj
con trai ); phía trước ( dành cho khách và có bàn ghế tiếp khách)
Gian hỏng hóng : phần sau ( dành cho vợ chồng chủ nhà, bàn
thờ tổ tiên , bếp khách); mặt trước về bên trái có cột xau hẹ
( treo hạt giống , 1 mai rừa , 1 dương vật bằng gỗ )
Gian cang hướn : phần sau(dành cho con gái); phần trước ( để
trống ); phần ng chan( nơi để lương thực phụ nữ trang
điểm); chan ( nơi khâu vá và sinh hoạt, hóng mát )
*) Nhà Sàn Thái Trắng( ở huyện Mường Lay, Lai Châu)
-làm theo kiểu phăng đin-khứ tháng
-mái lợp tranh,4 góc mái vuông, không có khau cút
- xung quanh nhà che bằng vách nứa
- mặt bằng sinh hoạt được chia làm 3 phần theo chiều dọc ngôi nhà +)
Thang Chính :
- Đặt ở đầu hồi thuộc về hành lang phái sau
- Qua thang lên thẳng phòng khách
- Bên trái phòng khách : phòng dành cho con gái-> bàn ăn ->bếp
- Cạnh bếp là sàn ngoài ( nơi để chai lọ )
- Ngoài cùng : sàn để nước -> thang phụ(dành cho nữ đi lại) +) Hành
lang ở giữa:
- Đầu hồi có một phòng nhỏ dành cho khách ->ô nhỏ đặt bàn thờ tổ tiên -
>phòng vợ chồng chủ nhà , vợ chồng con chủ nhafvaf con gái
*) Nhà Đất
lOMoARcPSD| 60857655
- Loại nhà mới xuất hiện ở người Thái
- Bộ khung của nhà được làm theo kiểu vi kèo suốt- bốn hang cột , kết cấu kèo-
cột-xà và kĩ thuật mộng có mang thắt
- nhà 6 gian + 2 gian phụ ở 2 đầu hồi
- mái lợp tranh, xung quanh nhà bưng bằng ván mỏng , trước hiên rộng -
Mặt bằng sinh hoạt :
Gian hồi gồm : bếp, giường cá nhân, 1 chạn bát
Gian 2,3 thuộc về nửa nsau: 1 sạp cao cách đất 70cm cho vợ hai
và gái nhỏ
Gian 4 : sạp cho chủ nhà và vợ cả; trước có bếp phụ dung trong mùa
đông
Gian 5:tủ quần áo, 1 bàn tiếp khách
*) Trang Trí Nội Ngoại Thất
- Sắp xếp chăn gối và các tấm thổ cẩm ở nơi ngủ dọc
theo vách hậu => đặc biệt khác với các dân tộc khác, theo
mô tip màu sắc rực rỡ khiến nhà đẹp mắt , sang sủa và ấm
cúng
- Trang trí độc đáo khác cửa sổ , cửa ra vào -
Trang trí ở lan can có nhiều kiểu trang trí :
Phắt ban : các thanh tre thẳng đứng như song cửa sổ
Khuấy chiêng: các nan đan chéo tạo thành các ô vuông hoặc hình quả
trám
Khuấy ta leo: các nám đan thành các ô chữ nhật cũng gài các
hoa thị
- Một số hình thức khắc : sừng ở đầu đốc -> người Thái gọi khau cút , cái
này khác nhau về hình thức và để phân biệt sự sang hèn của chủ
- Cút quai( sừng trâu) hoặc cút be( sừng dê) : thường của người nghèo ,
không địa vị , chỉ là 2 thanh tre hay gỗ bắt chéo nhau như hình dấu nhân
- Cút chim hoặc cút nêm ( hình lá tre) thường của những gia đình khá giả,
đong con nhiều cháu
- Cút qua( cút chùm) , t lái bua( cuat hình hoa sen) chỉ dành cho nhà
quyền quý trong xã hội cũ
lOMoARcPSD| 60857655
Từ sau 1954, người Thái không còn giữ những quy định dung các loại cút
nữa, ngoài ra người ta còn sáng tạo ra cút hình máy bay phản lực
*) Một số tục lệ lien quan đến xây dựng nhà ở : Có trong bài “ Khả Kháu
Hướn’
d) Tổng kết :
- Nhà Thái Đen và nhà Thái Trắng có khác nhau chút ít :
+ Thái Đen : bộ khung gần với Tày, Nùng
+ Thái Trắng : bộ khung gắn với một số dân tộc khác thuộc ngôn ngữ
Môn-Khơme
-Nhà Thái Đen Thái Trắng còn nhứng nét khác biệt khác như: hình thù
bộ nóc, mặt bằng sinh hoat và vị trí đặt cầu thang
-Tên gọi nhà sàn :
+ Thái Trắng : hướn tụp lặt ( nhà đầu hồi dốc nghiêng) hoặc hướn Táy
lín( nhà thái trắng)
+ Thái Đen : hướn tụp cuống ( nhà mái tròn, mái khom) hoặc hướn tây
đăm ( nhà thái đen); ở vùng Phú Yên , Hòa Bình Thanh Nghệ còn gọi là hướn
Tây Mọi( nhà thái mường)
-Nhà người Thái có 1 số nét khá độc đáo , đặc biệt’’khau cút’ của người Thái
Đen . Mặc dù hình thức trang trí giống người Khơme nhưng cái khác lại có giá
trị để phân biệt địa vị, vị trí trong xã hội
- Quá trình chuyển biến cùng nhà người Thái có xu thế chuyển hướng theo
kiểu nngười Việt tuy nhiên quá trình này còn diễn ra chậm. e.Trang phục
1 Trang phục nữ
Các bộ phận của nữ phục người Thái : áo ngắn (xứa còm); áo dài(xứa chái
xứa
luồng); váy(xin);thắt lưng(xài còm);khăn(piêu);nón(cúp);xà cạp; các loại hoa
tai,
vòng cổ, vòng tay 1.
Áo ngắn (xứa còm)
-là loại áo đặc trưng
-may vừa khít thân , rất ngắn, gấu áo vừa chấm cạp
lOMoARcPSD| 60857655
-may bằng loại vải vs màu sắc khác nhau: chàm , màu sáng(xanh, trắng,…) -
màu sắc áo được lựa chọn tùy theo mỗi dịp:
+ đi làm : áo màu chàm, tết nút bằng khuy vải
+ đi chơi, đi hội : áo màu, đính hàng khuy bang bạc hình bướm , nhện hoa
- Theo quan niệm dân gian: 2 hàng cúc bạc trên 2 vạt áo xứa còm là tượng
trưng cho sự kết hợp “nam vs nữ’ , “ đực vs cái” tạo nên sự trường tồn cho
nòi giống ( hang bên trái gọi là “to po”(bên nam); hang bên phải
(nữ) gọi “to me” -
Điểm khác biệt : *)
Thái Đen : cổ tròn,
ôm lấy vòng cổ
*) Thái Trắng : cổ xuôi xuống 2 vạt, giống cổ áo cánh của người phụ nữ
*) Người Thái Phú Yên :hang cúc bạc thay bằng cúc xương hình cầu
*) Người thái Mai Châu: không xẻ ngực , may kiểu chui đầu
- Lúc đi tắm, ngủ :
+) Người Thái mặc áo ngắn chui đầu “xứam lôm”-áo che ngực
+) Miếng vải hình chữ thập gấp đôi lại khoét 1 lỗ tròn làm cổ ở giữa mép
Vải gấp
+)Hai sườn để hở , không khâu
2. Xứa Chái
May bằng vải chàm đen, kiểu áo năm thân, cài cúc bên nách trái
Cổ đứng, gấu áo phủ quá đầu gối, giống áo dài năm thân của người kinh
Phụ nữ có chồng mới mặc xứa chái vào dịp cưới xin, hội bên nhà chồng
3. Xứa Luồng ( áo lớn)
- loại áo khoác ngoài, may dài, rộng , chui đầu,có tay hoặc không tay
- Ở người Thái đen :
lOMoARcPSD| 60857655
Áo được may bằng vải chàm , ghép màu đỏ, xanh,
trắng ở cổ, ngực,và gấu áo
Phụ nữ Thái Đen từ khi còn trẻ đã may loại áo này 1
cho mẹ chồng , 2 là cho bản thân
Các cụ già mặc áo xứa luồng lộn trái vào ngày thường ,
chỉ khi chết mới mặc mặt phải
Con dâu cả lúc trực bên quan tài mẹ chồng cũng phải
mặc áo xướng luồng , khi ra tới mộ , cởi áo treo lên cột nhà
mồ . vì theo quan niệm chỉ như vậy tổ tiên mới đón nhận linh
hồn người quá cố.
- Áo xứa luồng Thái Trắng:
May bằng lụa , áo hẹp ngang, có chiết eo
Mặc thường xuyên hơn
Áo được cải tiến thành y phục sân khấu của người phụ nữ
Thái
4. Váy( xin)
- Mặc váy 2 lớp : váy trắng lót bên trongváy chàm bên ngoài
- Là loại váy ống đã khâu
- Khi mặc, váy quấn chặt vào thắt lưng, đoạn thừa gấp nếp ra phía trước- Ngày
nay, các cụ thường mặc váy vén lên cao cho gọn còn các gái thì mặc váy
lộ nửa bắp chân
- Trang trí trên váy ở mỗi vùng lại mỗi khác:
Vùng Yên Châu ngược Phía Bắc :váy để trơn, không trang trí
lOMoARcPSD| 60857655
Vùng Yên Châu, Mộc Châu: dung váy kẻ sọc, gọi xin ta Vùng
tây Thanh-Nghệ : dung váy kiểu Lào, hoa văn sặc sỡ gấu váy, hình
kỳ đà , mặt trời
5. Thắt lưng( xài ẻo)
Làm bằng vải tơ tằm , sợi bong màu xanh hoặc tím sẫm
Dung để giữ cho cạp váy quấn chặt lấy eo bụng
Phụ nữ trên 40 tuổi dùng thắt lưng màu tím; cô gái trẻ dùng thắt lưng
màu xanh
Thái Trắng: còn tấm vải choàng ra ngoài thắt lưng được ghép
bằng nhiều miếng vải màu sắc sặc sỡ khác nhau
6. Khăn piêu
- Dung mọi nơi, mọi lúc
- Là mảnh vải chàm đen, dài 180cm, rộng 36cm
- Được nhúng vào nước măng chua, nước vỏ cây ban để vải láng cứng,ánh
sắc chàm đen
- Hai đầu piêu rèm vải ngũ sắc , các góc tết thành sừng thái tai: piêu tết3
sừng piêu dùng thươnghf ngày, piêu têt 5,7 sừng piêu sang dung để
biếu
- Các hoa văn trên piêu thường không nhiều : hình sao tám cánh biến thể
,đường viền song song, răng cưa - Điểm khác biệt ở khăn mỗi vùng:
Vùng Yên Châu: là xứ sở của khăn piêu;hoa văn cầu kì, rậm, màu sắc
sặc sỡ
Vùng Hát Lát , Mường La : piêu đậm màu, đường nét thoáng
- Piêu không còn là vật trang trí mà còn xuất hiện trong các nghi thức , tục lệ,
trai gái đính ước, làm quà biếu khi mới về nhà chồng
lOMoARcPSD| 60857655
7. Đồ trang sức
- Các loại vòng ( óng lu)
- Theo quan niệm dân gian của người Thái :’ không có lỗ tai thì khôngphải là
người Thái”
- Vòng cổ bằng đồng , bạc, vòng tay, dây xà tích cài ở thắt lưng
II. Trang Phục Nam
-Trang phục nam giới gồm : áo , quần, thắt lưng và các laoij khăn
1. Áo ngắn:
-May bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực , dài tay hoặc ngắn cổ tròn
- Khuy áo bằng đồng hay tết thành nút vải , có 2 túi ở vạt trước
- Hầu như không có hoa văn
2.Áo dài:
- Mặc vào dịp cưới xin, hội hè
-May bằng vải chàm, kiểu áo năm thân, có thân trong bằng vải trắng cài
cúc phía trước ngực trái, cổ đứng tròn, vạt dài tới quá gối
3. Quần
- Quần ngắn mặc lót trong thường mặc ở nhà , màu chàm
- Dùng dây lưng thắt cạp quần cho chắc
- hai ống quần có trang trí hoa văn
4. Thắt lưng
- bằng vải hoặc da trâu
- Thắt lưng vải dung với loại quần không buộc giải rút
- Thắt lưng bằng da trâu phải dung kĩ thuật chế tạo
5. Khăn
- Hai loại khăn: khăn pau dài, khăn trọc ngắn hơn
- Dung để quấn lên đầu thành nhiều lớp thay cho mũ khi đi xahoặc vào
các dịp lễ, hội - Khăn trọc dung trong lao động
III. Tang Phục
lOMoARcPSD| 60857655
- Y phục chính : chiếc áo xửa long may bằng vải màu trắng, kiểuxẻ ngực,
dài quá gối nép áo không có khuy mà dung dây buộc , gấu áo xổ, gấu tay đáp
vải màu xanh, đỏ -> dành cho con trai, con dâu
- Người chết : mặc áo xứa còm
- Người trong tang lễ : vợ, con dâu trưởng, con gái của người quá
cố mặc xửa luổng
- Con gái thức , dâu thứ mặc xửa cò long
- Họ hàng và những người thân tch mặc xứa còm màu trắng
C. Phương tiện vận chuyển
- Thường dùng bung, sọt để gánh
-Dùng gùi để cõng lúa ngô, củi, đuốc ,….trên vai trên trán
- Ngày nay, phương tiện giao thong càng ngày càng phát triển, người dân tộc
Thái cũng đã biết áp dụng , sử dụng các phương tiện đi lại để tiết kiện thời
gian và sức lao động.
4.Văn hóa phi vật thể I.
Ngôn Ngữ :
_ Người Thái của ngôn ngữ văn triêng. Ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ
Tày-Thái ,ngữ hệ Nam Thái tức Thái Ka-đai.
_ Tại Việt Nam chúng ta 8 dân tộc ít người bao gồm BY, Giáy, Lào, Lự Nùng,
Sán Chay, Tày, Thái đều được xếp chung là nhóm ngôn ngữ Thái.
_ Ngôn ngữ và văn tự người Thái khá phong phú hoàn chỉnh. Về mặt cấu
trúc ngôn ngữ, tiếng Thái có một số đặc điểm nổi bật : có tỉ lệ thống nhất cao
;có âm tiết và thanh điệu - một âm mang một thanh tạo thành một từ biểu đạt
ý; cùng cấu trúc mô típ với tiếng Việt theo thứ tự C-V- tân ngữ, bổ ngữ ; ngôn
ngữ phong phú biểu hiện mọi cung bậc cảm xúc.
_ Là một trong những dân tộc có chữ viết sớm nhất Đông Nam Á.
II. Tôn Giáo, Tín Ngưỡng :
_ Theo một số tài liệu cho rằng người Thái quan niệm đất này vốn phân chia
thành hai Mường - tương đương với quan niệm về hai thế giới. Đó là "thế giới
lOMoARcPSD| 60857655
của ssống", tiếng Thái mương côn ( mường người - cõi trần thế ) "thế
giới hư vô" là mương phi ( cõi linh thiêng ).
+ TG hư vô của người Thái có 3 không gian tồn tại : • 1 là không gian của Linh
Hồn, Vía
2 là không gian của cõi Linh với phần ác: ma thiêng, Quỷ Dữ do người
chết biến thành hay có sẵn trong tự nhiên ; phần lành có tổ tiên - Phi đẳm, Phi
Hươn
3 là không gian của cõi trời với Phi Then hay Then. Then Luông là đấng
tối cao cai quản đất trời, loài người, vạn vật
_ Người Thái theo tục cúng tổ tiên, không theo bất cứ tôn giáo ngoại tộc nào .
Đây là đặc trưng nổi bật trong tôn giáo tín ngưỡng Thái. Người Thái có nơi thờ
cúng tông tộc, từng dòng họ. Chỗ đó có thể là một rừng cấm, một gốc cây, một
hòn đá.
Nếu người trong họ liên kết với nhau bằng việc thờ cúng ma dòng họ thì thành
viên trong gia đình liên kết với nhau bằng việc thờ ma nhà. Bố mẹ đã khuất
được coi là siêu linh tác động đến toàn bộ đời sống của con cháu.
_ Do sinh sống bằng nông nghiệp trong điều kiện phụ thuộc nhiều vào thiên
nhiên, khoa học kém phát triển, người Thái tin rằng các lực lượng siêu nhiên
quyết định số phận của họ.
_ Ngoài ra ý niệm về việc sùng bái Chúa Đất được người Thái tin rằng
cháu con của Then Luông cử xuống trần gian cai quản ; còn nhân dân từ quả
bầu mẹ chui ra hay do mẹ bầu ( bà mụ theo quan niệm của người kinh) nặn ra.
_ Vệc thờ cúng trời đất ,bản Mường ,Chúa đất, thờ cúng tổ tiên được thể hiện
bằng những nghi thức hội hè hàng năm theo chu kỳ sản xuất nông nghiệp nhằm
cầu xin trời đất bảo hộ mùa màng.
_ Nếu như những hình thái tôn giáo như sùng bái tù trưởng, thờ thần bản, thân
mường... ngày nay đã dần mất đi thì những mê tín dị đoan khác vẫn tồn tại dai
dẳng
Vd: tin vào các sức mạnh siêu hình như ma ,quỷ, thần gây bệnh tật chết chóc
và hình thức lợi dụng giả làm thầy mo chuộc lợi ; dùng a yểm...
III. Lễ Hội
_ Kể tên một số lễ hội : Cầu Mùa ;Cầu Mưa ; Hạn Khuống; Kin Pang Then ;
Xang Khan ; Xên Bản ; Xên Mường...
lOMoARcPSD| 60857655
_ Tiêu biểu : Lễ hội hoa ban ( Xên Mường ) của người Thái ở Tây Bắc
+ Thời gian : mở và dịp hoa ban nở ,vào tầm tháng 2
+ Cây ban giống như cây sim rừng, nơi nào đất núi đất sỏi là ở đó ban mọc và
nở nhiều, hoa trắng cả núi rừng .Theo kinh nghiệm cha ông ta để lại năm nào
hoa ban nở đều khắp là năm ấy trời không mưa quá dai, đồng bào ít lo lắng hạn
hán lũ lụt ,yên tâm đi trẩy hội.
+ Từ sáng sớm khắp các bản làng chiêng trống vang lên giục giã, các bếp nhà
sàn lửa đỏ bập bùng; người ta đồ xôi ,luộc ,bày rượu ngon, tâm tình
hẹn
+ Các hoạt động : ( cụ thể trong ngày lễ hội Xên bản xên mường ở Hoà Bình )
Ngày T1 : Bắt đầu bằng đám rước ;tiếp theo lễ hiến sinh cúng thần .
Đám rước bắt đầu từ nhà tạo mừơng ra đình ; lvật một con trâu mộng to
béo. Tại đình vị đẳm già sẽ làm lễ cầu thần và trâu được dắt ra làm lễ hiến sinh
Sau đó các trò vui của nam nữ thanh niên bắt đầu ;họ tổ chức múa xòe, chiêng
trống, ca hát đến tận đêm khuya.
Ngày T2 : Thi bắn súng , hỏa mai , cung nỏ • Ngày T3 : Vui chơi tập thể,
là ngày tự do, sôi động nhất với các hoạt động
Ném còn
Ca hát
Khèn sáo
Thi chim hót
Thi trâu béo
( kiêng thi vật, cấm trâu bò húc nhau )
+ Đối với nam nữ thanh niên bao nhiêu mối tình đã chớm nở ,nên vợ nên chồng
qua câu hát giao duyên ,qua những cuộc trò chuyện tâm tình ...
Ngày cuối 1 ngày kiêng kỵ, nhà nào nhà nấy đóng kín cửa, nghỉ đi
nương , khônh tiếp khách lạ.
+ Ý nghĩa: là lễ hội cầu mưa, cầu hạnh phúc của người Thái . Họ gửi gắm vào
đó những ước vọng lớn lao về cuộc sống thanh bình no ấm, đồng thời là dịp để
trai gái tìm đến với nhau ,tìm hiểu nhau. IV. Văn Hoá Dân Gian, T Chơi Dân
Gian
A. Văn hoá dân gian :
lOMoARcPSD| 60857655
_ Sinh sống hàng ngàn năm trên dải đất Việt Nam, thừa hưởng một nền văn
minh cổ truyền lớn lao của cha ông ,người Thái đã góp phần cống hiến không
nhỏ vào kho tàng văn hóa chung của cả dân tộc Việt Nam.
_ Luồng văn học dân gian cổ điển Thái được lưu truyền lại nhờ phương pháp
truyền miệng và ghi chép thành văn với các thể loại : truyện cổ dân gian, tục
ngữ, dân ca, truyện thơ, truyện thần thoại, truyền thuyết, sử thi... phổ biến
những câu chuyện về sự hình thành trời đất, loài người, vạn vật ; truyện quả
bầu ,những câu, chuyện giải thích các hiện tượng vũ trụ thiên nhiên...
_ Theo các truyện thần thoại được hthống lại, người Thái xưa quan niệm
trụ có 5 tầng trong đó có 3 tầng ở trên không và một tầng ở trong lòng đất ; sự
sống của con người diễn ra ở tầng thứ hai kể từ dưới lên.
Tác phẩm nổi bật : truyện Hoàng Công Chất , truyện thơ Xống Chụ Xon Xao -
1 thiên tình sử , Luật tục , sử thi Quan Táy pú xớc , Khun Lú náng ủa...
_ Trong lĩnh vực nghệ thuật dân gian của người Thái nổi tiếng các họa tiết
hoa văn thổ cẩm; có những điệu dân sôi động và nền âm nhạc khá phát triển
+ Hoa văn : các gái Thái vốn rất khéo tay trong nghề thêu dệt .Ngày nay
những tấm thổ cẩm ở một số nơi đã trở thành hàng hóa
+ Âm nhạc : phát triển trên lĩnh vực thanh nhạc, biểu hiện trong các làn điệu
dân ca ; phát triển trong lĩnh vực nhạc khí với một số các nhạc cụ như sáo
,đàn tính ,trống ,cồng chiêng, cây đập nhịp.
Dân ca Thái được xếp vào hàng phong phú nhất trong số các dân tộc thiểu số .
Tiêu biểu : làn điệu Khắc Loong Tông, Khắp Xống Chụ xôn xao , Khắp Hạn
Khuống ; dân ca: Hỏi g,Trở về đi ( ma hươm dơi ), Nhớ chàng nơi xa ,Lời
dặn người yêu ,Lời hẹn ước...
+ Múa dân gian Thái (xòe) khá phong phú về thể loại và vũ điệu : múa nón
(xòe cúp); múa quạt (xoè vi) ; múa sạp (xòe mạy) ; xoè vòng... B. Trò chơi
dân gian :
Ném còn - trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Thái luôn thu
hút đông đảo bà con nhân dân ở mọi lứa tuổi.
5. Văn hóa xã hội
* Dòng họ, gia đình và hôn nhân:
- Dòng họ:
Trong một bản nhiều dòng họ cùng trú. dòng họ quý tộc như họ Cầm,
Bạc, Xa,Đèo,.... Có nhiều dòng họ nguồn gốc nông dân trở thành quý tộc như
lOMoARcPSD| 60857655
Hàn Vi, Mứn Quàng,.... Có họ gốc Thái như Lò, Lộc, Lự,.... Có dòng họ khác
tộc như Nguyễn, Lý,Phùng, Sìn,...Người Thái có 3 quan hệ về họ hàng, đó là:
Ải noong, Lúng ta, Nhính xao. Quan hệ giữa những người Ải noong căn
bản. - Gia đình: Theo hình thức phụ quyền
Trước ngày giải phóng, người Thái sống theo hình thức đại gia đình. Người
đứng đầu làđàn ông lớn tuổi, có địa vị, người này chịu mọi trách nhiệm điều
khiển công việc, kinhtế, sinh hoạt, tín ngưỡng, cưới xin, ma chay. Các thành
viên trong gia đình sống hòathuận, con cái được trông nom chăm sóc chung
không phân biệt. Tài sản chung gồm ruộng đất, lương thực, gia súc, gia
cầm; những gia đình nhỏ cũng có tài sản riêng như vải vóc, chăn chiếu, một
ít tiền và trang sức....
Sau giải phóng, hình thức tiểu gia đình dần trở nên phổ biến. Chủ hộ người
chồng, chịu trách nhiệm quản lí mọi công việc, là người đại diện duy nhất của
gia đình trong mối quan hệ với ma nhà, với các thành viên khác của tổ tiên.
Người phụ nữ Thái hầu như không được coi trọng, con gái trong gia đình xem
như người ngoài.
- Hôn nhân:
Việc kết hôn không phụ thuộc vào tình yêu của đôi trẻ thường do bmẹ
quyết định. Nếu như đối tượng kết hôn không phù hợp hoặc nam/nữ đã người
yêu thì họ thường lợi dụng tình thương của bố mẹ để xin bố mẹ đổi ý hoặc lợi
dụng một vài tục lệ cổ truyền để phản kháng.
Nguyên tắc một vợ một chồng được giữ vững, luận hội lên án gay gắt
việc ngoại tình, vợ chồng không hòa thuận.
6. Phong tục tập quán
6.1 Hôn nhân
Trước ngày giải phóng, việc dựng vợ gả chồng thường do bố mẹ quyết định
với sự đồng ý của hai họ. đây, hôn nhân không thể kết quả của tình yêu
trai gái. Bố mẹ thường hay chiêu cố đến ý kiến của đôi trẻ. Nhưng nếu đối
tượng lựa chọn không hợp ý bố mẹ thì cũng bị ngăn cản. Tiêu chuẩn chọn vợ,
chọn chồng phải xứng đáng với đẳng cấp dòng họ, địa vị của gia đình. Vì vậy,
trong hôn nhân sự ngăn cách giữa người giàu người nghèo, giữa đẳng cấp
quý tộc và nông dân. Người dân không được lấy gái quan; gái dân lấy con trai
quý tộc không bao giờ được làm vợ cả, dù cưới trước.
Tính chất mua bán thể hiện giá mua người con gái: tiền ca hua. Số tiền
này được trả dần; khi chưa trả được, người chồng chưa toàn quyền đối với
lOMoARcPSD| 60857655
người vợ, nghĩa sau khi chết ma chồng chưa được “sum họp” với ma vợ.
Ngoài ra giá mua người con gái tính ài công lao động của chàng rể trong
thời gian ở rể. Ở nhiều địa phương, đã có lệ quy định hằng năm công lao động
của rể thành tiền và hiện vật. Nên tục ở rể - một hình thức hôn nhân cư trú bên
nhà vợ - ở đây chỉ còn có cái vỏ, còn nội dung đã thay đổi phù hợp với ý thức
hệ của xã hội đương thời.
Hôn nhân phụ quyền mua bán mâu thuẫn với tình yêu tự nhiên của trai
gái. Đôi trẻ thường lợi dụng tình thương của bố mẹ để xin bố mẹ đổi ý kiến cho
phép họ lấy nhau. Nếu không được họ lợi dụng một vài tục lệ cổ truyền để phản
kháng như:
Rủ nhau đi trốn sang mường khác hoặc trốn vào nhà chúa đất với điều kiện
chịu thân phận làm côn hươn
Nếu được hai bên đồng ý, người con trai tổ chức “cướp” người yêu. Ban
chiều, anh ta tới nhà người yêu đón đi. Trước khi đi người con gái đặt miếng
trầu, đồng tiền và ít gạo vào cái ninh xôi với ý xin phép tổ tiên (tổ tiên thường
trú ngụ bếp, ninh xôi vật tượng trưng cho ma bếp) Cuộc tìm kiếm thường
chỉ hình thức. Người con gái tới nhà trai trình ma thường chỉ lại vài
ngày. Sau đó người con trai dẫn người yêu vnhà bmẹ xin rể. Nhà gái
buộc phải bằng lòng.
Người con trai cứ mang chăn đến nhà người yêu xin ở rể, chịu đựng mọi sự
đối xử lạnh nhạt của gia đình nhà gái và cùng người yêu van nài, đợi xin bố m
ưng thuận.
Việc tìm bạn để tỏ tình bằng cách” chọc sàn” phong tục độc đáo của
người con trai dân tộc Thái khi đi tim vợ
Vào tuổi yêu đương, chàng trai đi tìm người tình của mình nơi phiên chợ,
trên nương hay cối giã gạo bên suối… với những lời hát đầy trữ tình. Khi đã
lọt mắt xanh của nàng, đêm đêm chàng trai tìm đến nhà cô gái, đợi thời cơ “êm
ả” liền từ dưới sàn, xác định nơi nàng ngủ, dùng que chọc đúng chỗ nàng đặt
lưng để thức người yêu. Nếu gái đồng ý, lặng lẽ rời nơi ngủ ra đầu sàn
tâm sự với mình. Còn không đồng ý với do nào đó, người con gái Thái
nhiều cách đphản ứng, và thật không may cho chàng trai nào ra về với bộ
quần áo ướt sũng nước gạo chua.Khi đi “chọc sàn”, điều cần thiết với người
con trai phải xác định thật chính xác nơi nàng ngủ( người con gái Thái đến
tuổi lấy chồng đều chỗ ngủ riêng). Không may chọc sai “địa chỉ” lại đúng
vào người bố mẹ vợ tương lai khó tính thì thật rầy rà.
Những hình thức tục lệ trên đều xuất phát từ tình yêu đôi lứa để tiến tới hôn
nhân gia đình
lOMoARcPSD| 60857655
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng ở đây cũng đã bền vững. Dư luận
hội lên án những cặp vợ chồng chê nhau, bất hòa. Rất ít xảy ra trường hợp
ly dị. Gái chê chồng hay bỏ chồng nơi chỉ còn một lối thoát duy nhất chạy
lên nhà chúa đất xin làm côn hươn. Việc ngoại tình bị ngăn cấm bằng những
luật lệ rất nghiêm khắc. Trường hợp đa thê chỉ phổ biến gia đình quý tộc.
Người nông dân chỉ lấy vợ lẽ khi vợ cả không con hoặc do tôn giáo.
Người góa lấy vkế nhưng vẫn quan niệm chỉ người vợ đầu tiên chính
thức. Vì vậy thường trai góa chỉ lấy vơ góa.
Đám cưới người Thái ở Mai Châu
Đi dạm tiếng( pay tham đo)
Khi đôi trai gái đã đồng ý tiến đến hôn nhân, gia đình nhà trai nhờ một bà
trong họ mang gói chè đến nhà gái ướm hỏi. Nếu gia đình nhà gái bằng lòng
thì ngày sau trả lời.
Đi dạm hỏi( pay xo khoản hụ)
Ông mối thay mặt nhà trai mang theo bốn chai rượu, một trăm bánh nếp,
hai gói trầu, hai gói chè tươi đến nhà gái hỏi ý kiến.
Xin ngày cưới
Ông mối và đoàn người nhà trai mang hai trăm bánh nếp, bốn chai rượu,
trầu, chè, vỏ, cau, một phần tiền cưới, một váy đẹp, hai vòng tay bằng bạc để
tặng mẹ vợ. Được sự đồng ý của nhà gái, chú rể tương lai sẽ đến nhà gái giúp
công việc gia đình cho tới ngày cưới.
Lễ cưới
Nhà trai mang một lợn, tám lạng bạc, ba rượu, ba tạ gạo,.. đến nhà
gái rồi tự tay nấu nướng thiết đãi nhà gái khách khứa để làm bữa cơm xin
dâu. Trong ngày này, ông bác, ông cậu cô gái rất được coi trọng, có quyền bắt
bẻ nhà trai và quyền quyết định cho đón dâu.
Khi đoàn nhà trai dẫn chú rể về đến chân cầu thang ngái, dâu ra
đứng sẵn trước cửa. Trước c bước qua bậc cửa vào nhà, ông mối làm lễ rửa
chân cho dâu rể, đọc lời khấn tổ tiên về chứng giám nhận dâu rể con của nhà
mình. Sau đó ông mối dẫn dâu rể tới trước bàn thờ tổ tiên làm lễ trình. Dâu rể
ngồi trước hũ rượu cần có cắm hai cần trúc nghe ông mo đọc một bài mo chúc
đôi vợ chồng hạnh phúc đến già, Dứt lời, ông mo đưa cần rượu bắt chéo cho
đôi trai gái. Uống xong, ông lại cầm hai con đã luộc sẵn bắt chéo tay( mái
đưa cho rể, trống đưa cho dâu) để hai người cùng ăn
lOMoARcPSD| 60857655
Kể từ giờ phút đó, khi hai người đã cùng ăn cùng uống với nhau, họ phải
giữ trọn lời nguyền thủy chung.
Sau liên hoan và cuộc vui hát đối đáp, nhà trai chọn giờ tốt xin phép đưa
dâu về. Trước lúc xuống cầu thang, nhà gái làm lễ nhận rể và trao của hồi môn(
đệm, chăn, gối, quần áo, vàng bạc) rồi dâu theo chú rể về nhà chồng. Tới
nhà trai, nhà gái làm lễ cất nón( nộp tượng trưng cho các trẻ nhà trai ít tiền) rồi
mới được lên nhà.
Lễ nhập phòng
nhà trai đến ngày thứ ba, chú rể đưa vợ về nhà( mang theo gà, rượu).
Nha gái làm cơm đón rể làm lễ nhập phòng cho họ chung chăn gối. Việc trải
chiếu đệm do một bà già nhiều con đảm nhận.
Khi đã nên vợ chồng, chú rể phải ở nhà vợ từ một đến ba năm, mới được
đón vợ về nhà mình
Một số ngoại lệ
Nếu đôi nam nbị nhà gái ngăn cản thì chàng trai mật đến nhà gái
và đón về nhà mình. Sau hai, ba ngày, hai người về nhà bố mẹ vợ để xin ở rể
Nếu hai bên gia đình không đồng ý, đôi trai gái bỏ sang mường khác ở , khi
có hai ba mặt con mới trở về và gia đình phải chấp thuận
6.2 Tang ma
Theo tục người Thái Đen thì khi người già qua đời, người con trưởng ra sân
bắn ba phát súng kíp lên trời báo hiệu cho nhà Trời và cho dân làng biết.
Con cháu vuốt mắt, rửa mặt, lai mình, thay quần áo cho người quá cố. H
hàng đến chặt tre, chẻ nan, đan quan táng. Quanh quan táng được trang trí đan
hoa văn nhuộm phẩm xanh, đỏ, tím, vàng. Đời sau này mới được dùng áo quan
bằng gỗ đặt trong, quan táng bên ngoài.
Người ta thường trải đệm xạch trong áo quan, liệm vải trắng xong rồi
khiêng người quá cố đặt nằm như ngủ, đắp chăn (mặt chăn may bằng vải thổ
cẩm mới). Cạnh đầu, gấp để khăn đội đầu, khăn mặt, khăn tay; cạnh mình đặt
một con dao nhọn bao vào một chiếc túi nhỏ có bạc hào. Nếu nữ, đặt thêm
một cuộn chỉ tơ tằm, loại tằm ăn lá đâu, không dùng tằm ăn lá sắn.
Người quá cố nếu là chủ gia đình thì được đặt chính giữa gian thờ tổ
tiên. Nếu hàng thứ chủ, bố mẹ già còn sống thì quan táng được đặt cạnh
gian thờ.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60857655 DÂN TỘC THÁI 1.Khái quát chung:
Tên gọi các nhóm thuộc dân tộc Thái: Táy, Táy Khao (Thái Trắng), Táy Đăm(
Thái Đen), Tày Mười, Tày Thanh (Mán Thanh), Hàng Tổng (Tay Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Dân số: 1.550.423( 2009) Lịch sử hình thành:
Người Thái Đen: Họ cư trú chủ yếu ở tỉnh Sơn La, dãy Hoàng Liên Sơn,
các huyện Điện Biên, tuần giáo tỉnh Lai Châu, miền tây Thanh Hóa và Nghệ
Tĩnh. Họ điến Việt Nam vào khoảng thế kỉ thứ XI và XII, bộ phận Tày từ
Mường Thanh qua Lào và Thanh Hóa tới Nghệ Tĩnh cách đây 200-300 năm.
Bộ phận Tày Mường ban đầu là cư dân xã Chiềng Pấc di cư vào Thanh Hóa và
Nghệ Tĩnh từ thời Lê Thái Tổ
Người Thái Trắng: cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu và một số huyện Sơn
La. Thái Trắng là con cháu người Bạch Y đã cư trú từ lâu ở Tây Bắc và Nam
Vân Nam . Nhưng phải đến đầu thiên niên kỉ thứ II sau CN họ mới chiếm
được ưu thế dọc hữu ngạn sông Hồng, họ đến sớm hơn người Thái Đen vì trong
hành trình hành quân Lạng Chương đã gặp các tù trưởng Thái Trắng ở dọc
đường. Từ đó bộ phận Thái Trắng phát triển thế lực sang các vùng Lai Châu,
Sơn La, Phù Yên và một bộ phận xuống Đà Bắc và Thanh Hóa
Một số nghành khác gồm nhiều nhóm phức tạp thì cư trú vào khoảng thời gian muộn hơn
Phân bố: Tập trung ở các tỉnh miền núi Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên
Bái, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Lâm Đồng
2. Văn hóa mưu sinh: a. Nông nghiệp
Khi đến Việt Nam người Thái đã biết làm ruộng nước. Nước là yếu tố quan
trọng bậc nhất trong việc trồng lúa, cần quanh vụ và khi có nước mới bắt đầu
cày cấy được. Đồng bào đã phải bỏ nhiều công sức để hoàn thiện hệ thống thủy
nông thích hợp với việc trồng lúa ở những thung lũng chạy dọc theo các con
suối và khám phá thêm ruộng đồng
Qua nhiều thế hẹ người Thái đã có nhiều inh nghiệm trong việc đào mương,
đắp phai, bắc ống dẫn nước về ruộng, trong việc làm cọn nước đưa nước suối
lên cao hàng chục mét, rồi dẫn nước theo mương, máng vào ruộng. lOMoAR cPSD| 60857655
Người Thái biế dùng cày và sức kéo vào việc canh tác. Tuy nhiên cách đây
nửa thế kỉ đâu đó người ta vẫn nói đến lối canh tác “ hóa canh thủy nâu”. Đồng
bào đốt rơm, rạ, cỏ ở đồng ruộng rồi tháo nước vào, cho trâu quần sục bùn, rồi
cấy lúa. Việc dùng phân bón từ phân chuồng, phân bắc, phân xanh cho đến phân
hóa học là một biến đổi lớn trong sinh hoạt sản xuất của đồng bào sau ngày giải phóng.
Trước đây lúa chỉ cấy một vụ, ít nơi hai vụ. Hiện nay, tình hình hai vụ lại là
phổ biến. Những giống mới được đem trồng cho năng suất cao
Trong trồng trọt đồng bào làm nương, trồng các cây lương thực, hoa màu
như: Lúa nương, ngô, khoai sắn, và một số cây trồng khác như: bông, chàm,
các loại đậu đỗ,bầu bí, rau xanh.
Người Thái thường trồng ột số cây ăn quả như xoài, nhót, chuối, đu đủ.
Những cây này thường được trồng lẻ tẻ ở cạnh nhà, trên nương. Sản phẩm của
những cây ăn quả chủ yếu phục vụ nhu cầu của gia đình. b. Săn bắn hái lượm
Hái lượm: Rừng bao quanh có khả năng cung cấp cho họ những thứ củ hay
thân cây có chất bột. Từng mùa rừng cung cấp các loại rau, quả, nấm, mộc
nhĩ… những thứ đó thường xuyên xuất hiện trong bữa ăn chính của đồng bào
người Thái. Vì vậy hái lượm vẫn đóng một vị trí nhất định trong đời sống kinh tế của cư dân này.
Rừng còn cung cấp cho đồng bào nguyên vật liệu để làm nhà, đan lát những
gia cụ, cung cấp củi đun, dầu thắp sáng, những cây thuốc và những lâm thổ sản quý.
Săn bắn: Trong rừng các loài chim, thú là đối tượng săn bắn, tuy nhiên nghề
này chua bao giờ chiếm vị trí quan trọng. Người Thái chỉ săn bắn lúc nhàn rỗi
và với mục đích bảo vệ mùa màng. Có nhiều hình thức săn bắn như: săn rình
của cá nhân, săn đuổi của tập thể, đánh bẫy… công cụ để sử dụng như là súng
kíp, súng hỏa mai, tên tẩm thuốc độc.
Trái với săn bắn, nghề đánh cá phá triển hơn như “ pây kin ca, má kin lẩu”
tức là “ đi ăn cá, về uống rượu” là câu nói cửa miệng của đồng bào Thái. Ngoài
việc nuôi cá ruộng tài tình và phổ biến, hàng năm có thể cung cấp cho gia đình
hàng tạ cá để làm mắm, sấy khô… Các con sông suối chảy qua bản cũng là
nguồn cung cấp cá thường niên cho đồng bào, họ đánh bắt bằng chài, lưới, cần
câu hoặc một một số còn thả bả độc để đánh cá. c. Chăn nuôi
Đồng bào chú ý chăn nuôi lợn và gia cầm để dùng vào dịp tế lễ, cúng bái hay
khi nhà có khách và để nộp quan, nộp chúa. Mỡ lợn được dự trữ quanh năm lOMoAR cPSD| 60857655
Họ còn nuôi tằm lấy tơ dệt lụa hoặc làm chỉ thêu d. Thủ công
Người Thái có hai nghề thủ công nổi tiếng là nghề dệt và nghề đan lát mây
tre. Có thể nói phụ nữ Thái là vị thợ dệt chăm chỉ, lành nghề, sản xuất không
những đủ chăn, màn, quần áo cho gia đình mà còn đem trao đổi… Nghề đan
lát là công việc của đàn ông
Lac đác có những bản người Thái có lò gốm, nơi làm vạc, làm nồi với bàn
xoay thô sơ, năng suất thấp. Có một số ít người biết làm nghề bạc nghề rèn e.
Kinh doanh và trao đổi hàng hóa
Trong một xã hội hầu như không có chợ búa, việc trao đổi hàng hóa thường
hạn chế vào một số nhu yếu phẩm và chủ yếu vẫn là dưới hình thức hàng đổi
hàng với những cư dân khác tộc ở rẻo giữa và rẻo cao. Thỉnh thoảng có một số
chuyến hàng ngược sông Đà từ miền xuôi lên, hoặc những thương Lào mang
hàng từ Lào, Myanma đem các nhu yếu phẩm đến bán và mua những đặc sản
của địa phương. Ở một vài nơi dọc biên giới có chợ họp theo định kì.
3. Văn hóa vật thể 1. Nhà ở
- Cư trú chủ yếu ở vùng Tây-Bắc Bắc bộ , một số nhỏ ở Hòa bình và Thanh- Nghệ
- Người Thái ở nhà sàn  Nhà Sàn
- Được xây dựng theo một quy cách chung khá nghiêm ngặt . Dù người
Thái phân bố ở nhiều vùng nhưng hầu hết nhà sàn của người Thái đều có
dáng vẻ hao hao giống nhau.
- Cái chung trong các ngôi nhà của người Thái được thể hiện qua : + đơn vị đo lường
+quy cách về số đo các cấu kiện của bộ khung nhà
+chiều kích của ngôi nhà a) Về số đo
-Chiều dài được dung trong xây dựng nhà của người Thái là lấy chiều dài của
một số bộ phận thân thể người ( chủ yếu là tay, thân của chủ căn nhà định xây ) lOMoAR cPSD| 60857655 - Số đo chủ yếu
1. ba: tương ứng với sải của người Việt 2. xô: cẳng tay
3. căm: chiều ngang của bàn tayMột số số đo khác : 4. khèn: cánh tay + thân
5. bải: chiều dài của bàn tay tính từ cổ tay đến ngón giữa
6.căm dưn : chiều ngang bàn tay+ chiều dài ngón cái 7. khưp : gang tay
- Số đo các bộ phận của ngôn nhà
• Bước cột của các gian giữa : 1 gian = 1 ba • Hỏng tụp : 1,5 ba • Hỏng tịp : 1 ba
• Khứ tháng : 4 ba ( chiều rộng ngôi nhà)
• Khứ tụp : 4 ba – 1 xô • Khứ tịp : 4 ba -2 xô • Xinh dúa : 3 ba
• Chiều cao cột : 4 xô + 3 căn
- Ba là đơn vị cư bản để làm số đo trong việc làm nhà của người Thái
- Để phổ biến được rộng rãi trong cộng đồng người Thái thì một số quy định
được đưa vào nội dung một bài hát “ Khả kháu hướn “- một bài
‘’lễ ca’’ trong lễ lên nhà mới của người Thái
b) Kết cấu bộ khung nhà
- Bộ khung nhà hình thành trên cơ sử lien kết các vì kèo ( nói 1 cách chính
xác : vì kèo của nhà người Thái còn đang ở dạng giữa vì cột và vì kèo ,
chưa phải là vì kèo thực sự như nhà người Tày hay người Việt)
- Bộ khung : 2 kiểu : khứ tháng và khay điếng
*) Kiểu vì thứ kháng : gồm hai cột và một quá giang
+ Đầu cột có đầu tua để lắp vào đầu quá giang
+ Để tạo thành bộ khung người ta thường lien kết các vì lại với nhau nhờ
2 cây đòn tay cái lắp vào đầu các cột và 2 thanh dầm ở ngang thân cột. lOMoAR cPSD| 60857655 + Điểm đặc biệt :
• Nhà người Thái đen ở huyện Mai Sơn ( Sơn La) không có bộ
phận gọi là kèo mà gọi là xinh dúa
• Nhà người Thái đen ở Mộc Châu ( Sơn La ) không có xinh múa
mà có kèo được gọi chênh theo ‘’kheo’’
• Nhà của người Thái đen ở Mường La ( Sơn La) vừa có xinh dúa
vừa có kèo để trở thành bộ kèo kép
+ Kết cấu bộ khung mái có 3 yếu tố : xinh dúa – khéo – hao
+ Kết cấu ở thân cột để tạo thành giá đỡ mặt sàn cũng có 3 bộ phận chủ yếu : pừng-khang-tòng
 Kết cấu một nhà người Thái dựa trên 1 tổ hợp bộ 3 với ba yếu tố chính : - Xau –khứ-pe - Xinh dúa-kheo-hao - Ping-khang-tòng *) Kiểu vi khay điếng
- Là kiểu vi khứ tháng được mở rộng bằng cách thêm 2 một con ở 2 bên -
> Sự thay đổi : ở đầu 2 cột cái còn giữ nguyên kiểu lắp ráp cổ truyền cnf ở 2
đầu cột còn lại theo nguyên tắc kèo-cột-xà C) Mặt bằng sinh hoạt *) Nhà sàn Thái Đen
- Có 3 mặt bằng chồng lên nhau
- Trên mặt bằng sinh hoạt của nhà người Thái , các gian đều có tên gọi riêng:  Gian chính : hỏng tô  Gian chái : hỏng tụp
 Chái phủ : hỏng tịp
-Những gian nằm trong hỏng tô lại có tên riêng : lấy cột xau hẹ lam mốc ranh giới :
 Về phía tay phải : tang quản : hỏng hóng và hỏng quản
 Gian chính giữa : cang hướn
-Nhà còn được chia theo chiều dọc , đường ranh giới qua bếp khách
 Từ bếp trở về phái sau : hỏng non lOMoAR cPSD| 60857655
 Từ bếp trở về phái trước : mang tẩu
-Mặt bằng sinh hoạt nhà sàn của người Thái Đen ở huyện Mường La :
+ nhà làm theo kiểu phăn đin-thứ kháng
+ mái hình mai rùa lợp bằng cỏ tranh
+ 2 chỏm đầu đốc có khau cút
+ xung quanh nhà che vách nứa
+ có 2 cửa chính , mặt trước và sau nhà có nhiều cửa sổ
+ có 2 cầu thang ở 2 đầu hồi
 Từ thang chính vào gian : phần sau gian ( dành cho rể hoaawcj
con trai ); phía trước ( dành cho khách và có bàn ghế tiếp khách)
 Gian hỏng hóng : phần sau ( dành cho vợ chồng chủ nhà, bàn
thờ tổ tiên , bếp khách); mặt trước về bên trái có cột xau hẹ
( treo hạt giống , 1 mai rừa , 1 dương vật bằng gỗ )
 Gian cang hướn : phần sau(dành cho con gái); phần trước ( để
trống ); phần táng chan( nơi để lương thực và phụ nữ trang
điểm); chan ( nơi khâu vá và sinh hoạt, hóng mát )
*) Nhà Sàn Thái Trắng( ở huyện Mường Lay, Lai Châu)
-làm theo kiểu phăng đin-khứ tháng
-mái lợp tranh,4 góc mái vuông, không có khau cút
- xung quanh nhà che bằng vách nứa
- mặt bằng sinh hoạt được chia làm 3 phần theo chiều dọc ngôi nhà +) Thang Chính :
- Đặt ở đầu hồi thuộc về hành lang phái sau
- Qua thang lên thẳng phòng khách
- Bên trái phòng khách : phòng dành cho con gái-> bàn ăn ->bếp
- Cạnh bếp là sàn ngoài ( nơi để chai lọ )
- Ngoài cùng : sàn để nước -> có thang phụ(dành cho nữ đi lại) +) Hành lang ở giữa:
- Đầu hồi có một phòng nhỏ dành cho khách ->ô nhỏ đặt bàn thờ tổ tiên -
>phòng vợ chồng chủ nhà , vợ chồng con chủ nhafvaf con gái *) Nhà Đất lOMoAR cPSD| 60857655
- Loại nhà mới xuất hiện ở người Thái
- Bộ khung của nhà được làm theo kiểu vi kèo suốt- bốn hang cột , kết cấu kèo-
cột-xà và kĩ thuật mộng có mang thắt
- nhà 6 gian + 2 gian phụ ở 2 đầu hồi
- mái lợp tranh, xung quanh nhà bưng bằng ván mỏng , trước có hiên rộng - Mặt bằng sinh hoạt :
• Gian hồi gồm : bếp, giường cá nhân, 1 chạn bát
• Gian 2,3 thuộc về nửa nhà sau: 1 sạp cao cách đất 70cm cho vợ hai và gái nhỏ
• Gian 4 : sạp cho chủ nhà và vợ cả; trước có bếp phụ dung trong mùa đông
• Gian 5:tủ quần áo, 1 bàn tiếp khách
*) Trang Trí Nội Ngoại Thất -
Sắp xếp chăn gối và các tấm thổ cẩm ở nơi ngủ dọc
theo vách hậu => đặc biệt khác với các dân tộc khác, theo
mô tip màu sắc rực rỡ khiến nhà đẹp mắt , sang sủa và ấm cúng -
Trang trí độc đáo khác ở cửa sổ , cửa ra vào -
Trang trí ở lan can có nhiều kiểu trang trí :
• Phắt ban : các thanh tre thẳng đứng như song cửa sổ
• Khuấy chiêng: các nan đan chéo tạo thành các ô vuông hoặc hình quả trám
• Khuấy ta leo: các nám đan thành các ô chữ nhật và cũng có gài các hoa thị
- Một số hình thức khắc : sừng ở đầu đốc -> người Thái gọi khau cút , cái
này khác nhau về hình thức và để phân biệt sự sang hèn của chủ
- Cút quai( sừng trâu) hoặc cút be( sừng dê) : thường của người nghèo ,
không địa vị , chỉ là 2 thanh tre hay gỗ bắt chéo nhau như hình dấu nhân
- Cút chim hoặc cút nêm ( hình lá tre) thường của những gia đình khá giả, đong con nhiều cháu
- Cút qua( cút chùm) , cút lái bua( cuat hình hoa sen) chỉ dành cho nhà
quyền quý trong xã hội cũ lOMoAR cPSD| 60857655
 Từ sau 1954, người Thái không còn giữ những quy định dung các loại cút
nữa, ngoài ra người ta còn sáng tạo ra cút hình máy bay phản lực
*) Một số tục lệ lien quan đến xây dựng nhà ở : Có trong bài “ Khả Kháu Hướn’’ d) Tổng kết :
- Nhà Thái Đen và nhà Thái Trắng có khác nhau chút ít :
+ Thái Đen : bộ khung gần với Tày, Nùng
+ Thái Trắng : bộ khung gắn với một số dân tộc khác thuộc ngôn ngữ Môn-Khơme
-Nhà Thái Đen và Thái Trắng còn có nhứng nét khác biệt khác như: hình thù
bộ nóc, mặt bằng sinh hoat và vị trí đặt cầu thang -Tên gọi nhà sàn :
+ Thái Trắng : hướn tụp lặt ( nhà đầu hồi dốc nghiêng) hoặc hướn Táy lín( nhà thái trắng)
+ Thái Đen : hướn tụp cuống ( nhà mái tròn, mái khom) hoặc hướn tây
đăm ( nhà thái đen); ở vùng Phú Yên , Hòa Bình Thanh Nghệ còn gọi là hướn
Tây Mọi( nhà thái mường)
-Nhà người Thái có 1 số nét khá độc đáo , đặc biệt’’khau cút’’ của người Thái
Đen . Mặc dù hình thức trang trí giống người Khơme nhưng cái khác lại có giá
trị để phân biệt địa vị, vị trí trong xã hội
- Quá trình chuyển biến cùng nhà người Thái có xu thế chuyển hướng theo
kiểu nhà người Việt tuy nhiên quá trình này còn diễn ra chậm. e.Trang phục 1 Trang phục nữ
Các bộ phận của nữ phục người Thái : áo ngắn (xứa còm); áo dài(xứa chái và xứa
luồng); váy(xin);thắt lưng(xài còm);khăn(piêu);nón(cúp);xà cạp; các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay 1. Áo ngắn (xứa còm) -là loại áo đặc trưng
-may vừa khít thân , rất ngắn, gấu áo vừa chấm cạp lOMoAR cPSD| 60857655
-may bằng loại vải vs màu sắc khác nhau: chàm , màu sáng(xanh, trắng,…) -
màu sắc áo được lựa chọn tùy theo mỗi dịp:
+ đi làm : áo màu chàm, tết nút bằng khuy vải
+ đi chơi, đi hội : áo màu, đính hàng khuy bang bạc hình bướm , nhện hoa
- Theo quan niệm dân gian: 2 hàng cúc bạc trên 2 vạt áo xứa còm là tượng
trưng cho sự kết hợp “nam vs nữ’’ , “ đực vs cái” tạo nên sự trường tồn cho
nòi giống ( hang bên trái gọi là “to po”(bên nam); hang bên phải
(nữ) gọi là “to me” - Điểm khác biệt : *) Thái Đen : cổ tròn, ôm lấy vòng cổ
*) Thái Trắng : cổ xuôi xuống 2 vạt, giống cổ áo cánh của người phụ nữ
*) Người Thái Phú Yên :hang cúc bạc thay bằng cúc xương hình cầu
*) Người thái Mai Châu: không xẻ ngực , may kiểu chui đầu - Lúc đi tắm, ngủ :
+) Người Thái mặc áo ngắn chui đầu “xứa xôm lôm”-áo che ngực
+) Miếng vải hình chữ thập gấp đôi lại khoét 1 lỗ tròn làm cổ ở giữa mép Vải gấp
+)Hai sườn để hở , không khâu 2. Xứa Chái
• May bằng vải chàm đen, kiểu áo năm thân, cài cúc bên nách trái
• Cổ đứng, gấu áo phủ quá đầu gối, giống áo dài năm thân của người kinh
• Phụ nữ có chồng mới mặc xứa chái vào dịp cưới xin, hội hè bên nhà chồng 3. Xứa Luồng ( áo lớn)
- Là loại áo khoác ngoài, may dài, rộng , chui đầu,có tay hoặc không có tay - Ở người Thái đen : lOMoAR cPSD| 60857655 
Áo được may bằng vải chàm , có ghép màu đỏ, xanh,
trắng ở cổ, ngực,và gấu áo 
Phụ nữ Thái Đen từ khi còn trẻ đã may loại áo này 1
cho mẹ chồng , 2 là cho bản thân 
Các cụ già mặc áo xứa luồng lộn trái vào ngày thường ,
chỉ khi chết mới mặc mặt phải 
Con dâu cả lúc trực bên quan tài mẹ chồng cũng phải
mặc áo xướng luồng , khi ra tới mộ , cởi áo treo lên cột nhà
mồ . vì theo quan niệm chỉ như vậy tổ tiên mới đón nhận linh hồn người quá cố.
- Áo xứa luồng Thái Trắng:
 May bằng lụa , áo hẹp ngang, có chiết eo
 Mặc thường xuyên hơn
 Áo được cải tiến thành y phục sân khấu của người phụ nữ Thái 4. Váy( xin)
- Mặc váy 2 lớp : váy trắng lót bên trong và váy chàm bên ngoài
- Là loại váy ống đã khâu
- Khi mặc, váy quấn chặt vào thắt lưng, đoạn thừa gấp nếp ra phía trước- Ngày
nay, các cụ thường mặc váy vén lên cao cho gọn còn các cô gái thì mặc váy lộ nửa bắp chân
- Trang trí trên váy ở mỗi vùng lại mỗi khác:
 Vùng Yên Châu ngược Phía Bắc :váy để trơn, không trang trí lOMoAR cPSD| 60857655
 Vùng Yên Châu, Mộc Châu: dung váy kẻ sọc, gọi là xin ta mí  Vùng
tây Thanh-Nghệ : dung váy kiểu Lào, hoa văn sặc sỡ ở gấu váy, hình kỳ đà , mặt trời 5. Thắt lưng( xài ẻo)
 Làm bằng vải tơ tằm , sợi bong màu xanh hoặc tím sẫm
 Dung để giữ cho cạp váy quấn chặt lấy eo bụng
 Phụ nữ trên 40 tuổi dùng thắt lưng màu tím; cô gái trẻ dùng thắt lưng màu xanh
 Ở Thái Trắng: còn có tấm vải choàng ra ngoài thắt lưng được ghép
bằng nhiều miếng vải màu sắc sặc sỡ khác nhau 6. Khăn piêu - Dung mọi nơi, mọi lúc
- Là mảnh vải chàm đen, dài 180cm, rộng 36cm
- Được nhúng vào nước măng chua, nước vỏ cây ban để vải láng cứng,ánh sắc chàm đen
- Hai đầu piêu có rèm vải ngũ sắc , các góc tết thành sừng thái tai: piêu tết3
sừng là piêu dùng thươnghf ngày, piêu têt 5,7 sừng là piêu sang dung để biếu
- Các hoa văn trên piêu thường không nhiều : hình sao tám cánh biến thể
,đường viền song song, răng cưa - Điểm khác biệt ở khăn mỗi vùng:
 Vùng Yên Châu: là xứ sở của khăn piêu;hoa văn cầu kì, rậm, màu sắc sặc sỡ
 Vùng Hát Lát , Mường La : piêu đậm màu, đường nét thoáng
- Piêu không còn là vật trang trí mà còn xuất hiện trong các nghi thức , tục lệ,
trai gái đính ước, làm quà biếu khi mới về nhà chồng lOMoAR cPSD| 60857655 7. Đồ trang sức
- Các loại vòng ( óng lu)
- Theo quan niệm dân gian của người Thái :’’ không có lỗ tai thì khôngphải là người Thái”
- Vòng cổ bằng đồng , bạc, vòng tay, dây xà tích cài ở thắt lưng II. Trang Phục Nam
-Trang phục nam giới gồm : áo , quần, thắt lưng và các laoij khăn 1. Áo ngắn:
-May bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực , dài tay hoặc ngắn cổ tròn
- Khuy áo bằng đồng hay tết thành nút vải , có 2 túi ở vạt trước
- Hầu như không có hoa văn 2.Áo dài:
- Mặc vào dịp cưới xin, hội hè
-May bằng vải chàm, kiểu áo năm thân, có thân trong bằng vải trắng cài
cúc phía trước ngực trái, cổ đứng tròn, vạt dài tới quá gối 3. Quần
- Quần ngắn mặc lót trong thường mặc ở nhà , màu chàm
- Dùng dây lưng thắt cạp quần cho chắc
- hai ống quần có trang trí hoa văn 4. Thắt lưng
- bằng vải hoặc da trâu
- Thắt lưng vải dung với loại quần không buộc giải rút
- Thắt lưng bằng da trâu phải dung kĩ thuật chế tạo 5. Khăn
- Hai loại khăn: khăn pau dài, khăn trọc ngắn hơn
- Dung để quấn lên đầu thành nhiều lớp thay cho mũ khi đi xahoặc vào
các dịp lễ, hội - Khăn trọc dung trong lao động III. Tang Phục lOMoAR cPSD| 60857655
- Y phục chính : chiếc áo xửa cò long may bằng vải màu trắng, kiểuxẻ ngực,
dài quá gối nép áo không có khuy mà dung dây buộc , gấu áo xổ, gấu tay đáp
vải màu xanh, đỏ -> dành cho con trai, con dâu
- Người chết : mặc áo xứa còm
- Người trong tang lễ : vợ, con dâu trưởng, con gái của người quá cố mặc xửa luổng
- Con gái thức , dâu thứ mặc xửa cò long
- Họ hàng và những người thân thích mặc xứa còm màu trắng
C. Phương tiện vận chuyển
- Thường dùng bung, sọt để gánh
-Dùng gùi để cõng lúa ngô, củi, đuốc ,….trên vai trên trán
- Ngày nay, phương tiện giao thong càng ngày càng phát triển, người dân tộc
Thái cũng đã biết áp dụng , sử dụng các phương tiện đi lại để tiết kiện thời gian và sức lao động.
4.Văn hóa phi vật thể I. Ngôn Ngữ :
_ Người Thái của ngôn ngữ và văn tự riêng. Ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ
Tày-Thái ,ngữ hệ Nam Thái tức Thái Ka-đai.
_ Tại Việt Nam chúng ta 8 dân tộc ít người bao gồm Bố Y, Giáy, Lào, Lự Nùng,
Sán Chay, Tày, Thái đều được xếp chung là nhóm ngôn ngữ Thái.
_ Ngôn ngữ và văn tự người Thái khá phong phú và hoàn chỉnh. Về mặt cấu
trúc ngôn ngữ, tiếng Thái có một số đặc điểm nổi bật : có tỉ lệ thống nhất cao
;có âm tiết và thanh điệu - một âm mang một thanh tạo thành một từ biểu đạt
ý; cùng cấu trúc mô típ với tiếng Việt theo thứ tự C-V- tân ngữ, bổ ngữ ; ngôn
ngữ phong phú biểu hiện mọi cung bậc cảm xúc.
_ Là một trong những dân tộc có chữ viết sớm nhất Đông Nam Á.
II. Tôn Giáo, Tín Ngưỡng :
_ Theo một số tài liệu cho rằng người Thái quan niệm đất này vốn phân chia
thành hai Mường - tương đương với quan niệm về hai thế giới. Đó là "thế giới lOMoAR cPSD| 60857655
của sự sống", tiếng Thái là mương côn ( mường người - cõi trần thế ) và "thế
giới hư vô" là mương phi ( cõi linh thiêng ).
+ TG hư vô của người Thái có 3 không gian tồn tại : • 1 là không gian của Linh Hồn, Vía •
2 là không gian của cõi Linh với phần ác: ma thiêng, Quỷ Dữ do người
chết biến thành hay có sẵn trong tự nhiên ; phần lành có tổ tiên - Phi đẳm, Phi Hươn •
3 là không gian của cõi trời với Phi Then hay Then. Then Luông là đấng
tối cao cai quản đất trời, loài người, vạn vật
_ Người Thái theo tục cúng tổ tiên, không theo bất cứ tôn giáo ngoại tộc nào .
Đây là đặc trưng nổi bật trong tôn giáo tín ngưỡng Thái. Người Thái có nơi thờ
cúng tông tộc, từng dòng họ. Chỗ đó có thể là một rừng cấm, một gốc cây, một hòn đá.
Nếu người trong họ liên kết với nhau bằng việc thờ cúng ma dòng họ thì thành
viên trong gia đình liên kết với nhau bằng việc thờ ma nhà. Bố mẹ đã khuất
được coi là siêu linh tác động đến toàn bộ đời sống của con cháu.
_ Do sinh sống bằng nông nghiệp trong điều kiện phụ thuộc nhiều vào thiên
nhiên, khoa học kém phát triển, người Thái tin rằng các lực lượng siêu nhiên
quyết định số phận của họ.
_ Ngoài ra có ý niệm về việc sùng bái Chúa Đất được người Thái tin rằng là
cháu con của Then Luông cử xuống trần gian cai quản ; còn nhân dân từ quả
bầu mẹ chui ra hay do mẹ bầu ( bà mụ theo quan niệm của người kinh) nặn ra.
_ Vệc thờ cúng trời đất ,bản Mường ,Chúa đất, thờ cúng tổ tiên được thể hiện
bằng những nghi thức hội hè hàng năm theo chu kỳ sản xuất nông nghiệp nhằm
cầu xin trời đất bảo hộ mùa màng.
_ Nếu như những hình thái tôn giáo như sùng bái tù trưởng, thờ thần bản, thân
mường... ngày nay đã dần mất đi thì những mê tín dị đoan khác vẫn tồn tại dai dẳng
Vd: tin vào các sức mạnh siêu hình như ma ,quỷ, thần gây bệnh tật chết chóc
và hình thức lợi dụng giả làm thầy mo chuộc lợi ; dùng bùa yểm... III. Lễ Hội
_ Kể tên một số lễ hội : Cầu Mùa ;Cầu Mưa ; Hạn Khuống; Kin Pang Then ;
Xang Khan ; Xên Bản ; Xên Mường... lOMoAR cPSD| 60857655
_ Tiêu biểu : Lễ hội hoa ban ( Xên Mường ) của người Thái ở Tây Bắc
+ Thời gian : mở và dịp hoa ban nở ,vào tầm tháng 2
+ Cây ban giống như cây sim rừng, nơi nào đất núi đất sỏi là ở đó ban mọc và
nở nhiều, hoa trắng cả núi rừng .Theo kinh nghiệm cha ông ta để lại năm nào
hoa ban nở đều khắp là năm ấy trời không mưa quá dai, đồng bào ít lo lắng hạn
hán lũ lụt ,yên tâm đi trẩy hội.
+ Từ sáng sớm khắp các bản làng chiêng trống vang lên giục giã, các bếp nhà
sàn lửa đỏ bập bùng; người ta đồ xôi ,luộc gà ,bày vò rượu ngon, tâm tình hò hẹn
+ Các hoạt động : ( cụ thể trong ngày lễ hội Xên bản xên mường ở Hoà Bình ) •
Ngày T1 : Bắt đầu bằng đám rước ;tiếp theo là lễ hiến sinh cúng thần .
Đám rước bắt đầu từ nhà tạo mừơng ra đình ; lễ vật là một con trâu mộng to
béo. Tại đình vị đẳm già sẽ làm lễ cầu thần và trâu được dắt ra làm lễ hiến sinh
Sau đó các trò vui của nam nữ thanh niên bắt đầu ;họ tổ chức múa xòe, chiêng
trống, ca hát đến tận đêm khuya. •
Ngày T2 : Thi bắn súng , hỏa mai , cung nỏ • Ngày T3 : Vui chơi tập thể,
là ngày tự do, sôi động nhất với các hoạt động Ném còn Ca hát Khèn sáo Thi chim hót Thi trâu béo
( kiêng thi vật, cấm trâu bò húc nhau )
+ Đối với nam nữ thanh niên bao nhiêu mối tình đã chớm nở ,nên vợ nên chồng
qua câu hát giao duyên ,qua những cuộc trò chuyện tâm tình ... •
Ngày cuối là 1 ngày kiêng kỵ, nhà nào nhà nấy đóng kín cửa, nghỉ đi
nương , khônh tiếp khách lạ.
+ Ý nghĩa: là lễ hội cầu mưa, cầu hạnh phúc của người Thái . Họ gửi gắm vào
đó những ước vọng lớn lao về cuộc sống thanh bình no ấm, đồng thời là dịp để
trai gái tìm đến với nhau ,tìm hiểu nhau. IV. Văn Hoá Dân Gian, Trò Chơi Dân Gian A. Văn hoá dân gian : lOMoAR cPSD| 60857655
_ Sinh sống hàng ngàn năm trên dải đất Việt Nam, thừa hưởng một nền văn
minh cổ truyền lớn lao của cha ông ,người Thái đã góp phần cống hiến không
nhỏ vào kho tàng văn hóa chung của cả dân tộc Việt Nam.
_ Luồng văn học dân gian cổ điển Thái được lưu truyền lại nhờ phương pháp
truyền miệng và ghi chép thành văn với các thể loại : truyện cổ dân gian, tục
ngữ, dân ca, truyện thơ, truyện thần thoại, truyền thuyết, sử thi... phổ biến là
những câu chuyện về sự hình thành trời đất, loài người, vạn vật ; truyện quả
bầu ,những câu, chuyện giải thích các hiện tượng vũ trụ thiên nhiên...
_ Theo các truyện thần thoại được hệ thống lại, người Thái xưa quan niệm vũ
trụ có 5 tầng trong đó có 3 tầng ở trên không và một tầng ở trong lòng đất ; sự
sống của con người diễn ra ở tầng thứ hai kể từ dưới lên.
Tác phẩm nổi bật : truyện Hoàng Công Chất , truyện thơ Xống Chụ Xon Xao -
1 thiên tình sử , Luật tục , sử thi Quan Táy pú xớc , Khun Lú náng ủa...
_ Trong lĩnh vực nghệ thuật dân gian của người Thái nổi tiếng có các họa tiết
hoa văn thổ cẩm; có những điệu dân vũ sôi động và nền âm nhạc khá phát triển
+ Hoa văn : các cô gái Thái vốn rất khéo tay trong nghề thêu dệt .Ngày nay
những tấm thổ cẩm ở một số nơi đã trở thành hàng hóa
+ Âm nhạc : phát triển trên lĩnh vực thanh nhạc, biểu hiện trong các làn điệu
dân ca ; phát triển trong lĩnh vực nhạc khí với một số các nhạc cụ như sáo
,đàn tính ,trống ,cồng chiêng, cây đập nhịp.
Dân ca Thái được xếp vào hàng phong phú nhất trong số các dân tộc thiểu số .
Tiêu biểu : làn điệu Khắc Loong Tông, Khắp Xống Chụ xôn xao , Khắp Hạn
Khuống ; dân ca: Hỏi gió ,Trở về đi ( ma hươm dơi ), Nhớ chàng nơi xa ,Lời
dặn người yêu ,Lời hẹn ước...
+ Múa dân gian Thái (xòe) khá phong phú về thể loại và vũ điệu : múa nón
(xòe cúp); múa quạt (xoè vi) ; múa sạp (xòe mạy) ; xoè vòng... B. Trò chơi dân gian :
Ném còn - trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Thái luôn thu
hút đông đảo bà con nhân dân ở mọi lứa tuổi. 5. Văn hóa xã hội
* Dòng họ, gia đình và hôn nhân: - Dòng họ:
Trong một bản có nhiều dòng họ cùng cư trú. Có dòng họ quý tộc như họ Cầm,
Bạc, Xa,Đèo,.... Có nhiều dòng họ nguồn gốc nông dân trở thành quý tộc như lOMoAR cPSD| 60857655
Hàn Vi, Mứn Quàng,.... Có họ gốc Thái như Lò, Lộc, Lự,.... Có dòng họ khác
tộc như Nguyễn, Lý,Phùng, Sìn,...Người Thái có 3 quan hệ về họ hàng, đó là:
Ải noong, Lúng ta, Nhính xao. Quan hệ giữa những người Ải noong là căn
bản. - Gia đình: Theo hình thức phụ quyền
Trước ngày giải phóng, người Thái sống theo hình thức đại gia đình. Người
đứng đầu làđàn ông lớn tuổi, có địa vị, người này chịu mọi trách nhiệm điều
khiển công việc, kinhtế, sinh hoạt, tín ngưỡng, cưới xin, ma chay. Các thành
viên trong gia đình sống hòathuận, con cái được trông nom chăm sóc chung
không phân biệt. Tài sản chung gồm có ruộng đất, lương thực, gia súc, gia
cầm; những gia đình nhỏ cũng có tài sản riêng như vải vóc, chăn chiếu, một
ít tiền và trang sức....
Sau giải phóng, hình thức tiểu gia đình dần trở nên phổ biến. Chủ hộ là người
chồng, chịu trách nhiệm quản lí mọi công việc, là người đại diện duy nhất của
gia đình trong mối quan hệ với ma nhà, với các thành viên khác của tổ tiên.
Người phụ nữ Thái hầu như không được coi trọng, con gái trong gia đình xem như người ngoài. - Hôn nhân:
Việc kết hôn không phụ thuộc vào tình yêu của đôi trẻ mà thường do bố mẹ
quyết định. Nếu như đối tượng kết hôn không phù hợp hoặc nam/nữ đã có người
yêu thì họ thường lợi dụng tình thương của bố mẹ để xin bố mẹ đổi ý hoặc lợi
dụng một vài tục lệ cổ truyền để phản kháng.
Nguyên tắc một vợ một chồng được giữ vững, dư luận xã hội lên án gay gắt
việc ngoại tình, vợ chồng không hòa thuận.
6. Phong tục tập quán 6.1 Hôn nhân
Trước ngày giải phóng, việc dựng vợ gả chồng thường do bố mẹ quyết định
với sự đồng ý của hai họ. Ở đây, hôn nhân không thể là kết quả của tình yêu
trai gái. Bố mẹ thường hay chiêu cố đến ý kiến của đôi trẻ. Nhưng nếu đối
tượng lựa chọn không hợp ý bố mẹ thì cũng bị ngăn cản. Tiêu chuẩn chọn vợ,
chọn chồng phải xứng đáng với đẳng cấp dòng họ, địa vị của gia đình. Vì vậy,
trong hôn nhân có sự ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, giữa đẳng cấp
quý tộc và nông dân. Người dân không được lấy gái quan; gái dân lấy con trai
quý tộc không bao giờ được làm vợ cả, dù cưới trước.
Tính chất mua bán thể hiện ở giá mua người con gái: tiền ca hua. Số tiền
này được trả dần; khi chưa trả được, người chồng chưa có toàn quyền đối với lOMoAR cPSD| 60857655
người vợ, nghĩa là sau khi chết ma chồng chưa được “sum họp” với ma vợ.
Ngoài ra giá mua người con gái có tính ài công lao động của chàng rể trong
thời gian ở rể. Ở nhiều địa phương, đã có lệ quy định hằng năm công lao động
của rể thành tiền và hiện vật. Nên tục ở rể - một hình thức hôn nhân cư trú bên
nhà vợ - ở đây chỉ còn có cái vỏ, còn nội dung đã thay đổi phù hợp với ý thức
hệ của xã hội đương thời.
Hôn nhân phụ quyền và mua bán mâu thuẫn với tình yêu tự nhiên của trai
gái. Đôi trẻ thường lợi dụng tình thương của bố mẹ để xin bố mẹ đổi ý kiến cho
phép họ lấy nhau. Nếu không được họ lợi dụng một vài tục lệ cổ truyền để phản kháng như:
Rủ nhau đi trốn sang mường khác hoặc trốn vào nhà chúa đất với điều kiện
chịu thân phận làm côn hươn
Nếu được hai bên đồng ý, người con trai tổ chức “cướp” người yêu. Ban
chiều, anh ta tới nhà người yêu đón đi. Trước khi đi người con gái đặt miếng
trầu, đồng tiền và ít gạo vào cái ninh xôi với ý xin phép tổ tiên (tổ tiên thường
trú ngụ ở bếp, ninh xôi là vật tượng trưng cho ma bếp) Cuộc tìm kiếm thường
chỉ là hình thức. Người con gái tới nhà trai trình ma và thường chỉ ở lại vài
ngày. Sau đó người con trai dẫn người yêu về nhà bố mẹ và xin ở rể. Nhà gái buộc phải bằng lòng.
Người con trai cứ mang chăn đến nhà người yêu xin ở rể, chịu đựng mọi sự
đối xử lạnh nhạt của gia đình nhà gái và cùng người yêu van nài, đợi xin bố mẹ ưng thuận.
Việc tìm bạn để tỏ tình bằng cách” chọc sàn” là phong tục độc đáo của
người con trai dân tộc Thái khi đi tim vợ
Vào tuổi yêu đương, chàng trai đi tìm người tình của mình nơi phiên chợ,
trên nương hay cối giã gạo bên suối… với những lời hát đầy trữ tình. Khi đã
lọt mắt xanh của nàng, đêm đêm chàng trai tìm đến nhà cô gái, đợi thời cơ “êm
ả” liền từ dưới sàn, xác định nơi nàng ngủ, dùng que chọc đúng chỗ nàng đặt
lưng để thức người yêu. Nếu cô gái đồng ý, cô lặng lẽ rời nơi ngủ ra đầu sàn
tâm sự với mình. Còn không đồng ý với lý do nào đó, người con gái Thái có
nhiều cách để phản ứng, và thật không may cho chàng trai nào ra về với bộ
quần áo ướt sũng nước gạo chua.Khi đi “chọc sàn”, điều cần thiết với người
con trai là phải xác định thật chính xác nơi nàng ngủ( vì người con gái Thái đến
tuổi lấy chồng đều có chỗ ngủ riêng). Không may chọc sai “địa chỉ” lại đúng
vào người bố mẹ vợ tương lai khó tính thì thật rầy rà.
Những hình thức tục lệ trên đều xuất phát từ tình yêu đôi lứa để tiến tới hôn nhân gia đình lOMoAR cPSD| 60857655
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng ở đây cũng đã bền vững. Dư luận
xã hội lên án những cặp vợ chồng chê nhau, bất hòa. Rất ít xảy ra trường hợp
ly dị. Gái chê chồng hay bỏ chồng có nơi chỉ còn một lối thoát duy nhất là chạy
lên nhà chúa đất xin làm côn hươn. Việc ngoại tình bị ngăn cấm bằng những
luật lệ rất nghiêm khắc. Trường hợp đa thê chỉ phổ biến ở gia đình quý tộc.
Người nông dân chỉ lấy vợ lẽ khi vợ cả không có con hoặc vì lý do tôn giáo.
Người góa lấy vợ kế nhưng vẫn quan niệm chỉ có người vợ đầu tiên là chính
thức. Vì vậy thường trai góa chỉ lấy vơ góa.
Đám cưới người Thái ở Mai Châu
Đi dạm tiếng( pay tham đo)
Khi đôi trai gái đã đồng ý tiến đến hôn nhân, gia đình nhà trai nhờ một bà
trong họ mang gói chè đến nhà cô gái ướm hỏi. Nếu gia đình nhà gái bằng lòng thì ngày sau trả lời.
Đi dạm hỏi( pay xo khoản hụ)
Ông mối thay mặt nhà trai mang theo bốn chai rượu, một trăm bánh nếp,
hai gói trầu, hai gói chè tươi đến nhà gái hỏi ý kiến. Xin ngày cưới
Ông mối và đoàn người nhà trai mang hai trăm bánh nếp, bốn chai rượu,
trầu, chè, vỏ, cau, một phần tiền cưới, một váy đẹp, hai vòng tay bằng bạc để
tặng mẹ vợ. Được sự đồng ý của nhà gái, chú rể tương lai sẽ đến nhà gái ở giúp
công việc gia đình cho tới ngày cưới. Lễ cưới
Nhà trai mang một lợn, tám lạng bạc, ba vò rượu, ba tạ gạo,.. đến nhà
gái rồi tự tay nấu nướng thiết đãi nhà gái và khách khứa để làm bữa cơm xin
dâu. Trong ngày này, ông bác, ông cậu cô gái rất được coi trọng, có quyền bắt
bẻ nhà trai và quyền quyết định cho đón dâu.
Khi đoàn nhà trai dẫn chú rể về đến chân cầu thang nhà gái, cô dâu ra
đứng sẵn trước cửa. Trước lúc bước qua bậc cửa vào nhà, ông mối làm lễ rửa
chân cho dâu rể, đọc lời khấn tổ tiên về chứng giám nhận dâu rể là con của nhà
mình. Sau đó ông mối dẫn dâu rể tới trước bàn thờ tổ tiên làm lễ trình. Dâu rể
ngồi trước hũ rượu cần có cắm hai cần trúc nghe ông mo đọc một bài mo chúc
đôi vợ chồng hạnh phúc đến già, Dứt lời, ông mo đưa cần rượu bắt chéo cho
đôi trai gái. Uống xong, ông lại cầm hai con gà đã luộc sẵn bắt chéo tay( mái
đưa cho rể, trống đưa cho dâu) để hai người cùng ăn lOMoAR cPSD| 60857655
Kể từ giờ phút đó, khi hai người đã cùng ăn cùng uống với nhau, họ phải
giữ trọn lời nguyền thủy chung.
Sau liên hoan và cuộc vui hát đối đáp, nhà trai chọn giờ tốt xin phép đưa
dâu về. Trước lúc xuống cầu thang, nhà gái làm lễ nhận rể và trao của hồi môn(
đệm, chăn, gối, quần áo, vàng bạc) rồi cô dâu theo chú rể về nhà chồng. Tới
nhà trai, nhà gái làm lễ cất nón( nộp tượng trưng cho các trẻ nhà trai ít tiền) rồi mới được lên nhà. Lễ nhập phòng
Ở nhà trai đến ngày thứ ba, chú rể đưa vợ về nhà( mang theo gà, rượu).
Nha gái làm cơm đón rể và làm lễ nhập phòng cho họ chung chăn gối. Việc trải
chiếu đệm do một bà già nhiều con đảm nhận.
Khi đã nên vợ chồng, chú rể phải ở nhà vợ từ một đến ba năm, mới được đón vợ về nhà mình Một số ngoại lệ
Nếu đôi nam nữ bị nhà gái ngăn cản thì chàng trai bí mật đến nhà cô gái
và đón về nhà mình. Sau hai, ba ngày, hai người về nhà bố mẹ vợ để xin ở rể
Nếu hai bên gia đình không đồng ý, đôi trai gái bỏ sang mường khác ở , khi
có hai ba mặt con mới trở về và gia đình phải chấp thuận 6.2 Tang ma
Theo tục người Thái Đen thì khi người già qua đời, người con trưởng ra sân
bắn ba phát súng kíp lên trời báo hiệu cho nhà Trời và cho dân làng biết.
Con cháu vuốt mắt, rửa mặt, lai mình, thay quần áo cho người quá cố. Họ
hàng đến chặt tre, chẻ nan, đan quan táng. Quanh quan táng được trang trí đan
hoa văn nhuộm phẩm xanh, đỏ, tím, vàng. Đời sau này mới được dùng áo quan
bằng gỗ đặt trong, quan táng bên ngoài.
Người ta thường trải đệm xạch trong áo quan, liệm vải trắng xong rồi
khiêng người quá cố đặt nằm như ngủ, đắp chăn (mặt chăn may bằng vải thổ
cẩm mới). Cạnh đầu, gấp để khăn đội đầu, khăn mặt, khăn tay; cạnh mình đặt
một con dao nhọn có bao vào một chiếc túi nhỏ có bạc hào. Nếu là nữ, đặt thêm
một cuộn chỉ tơ tằm, loại tằm ăn lá đâu, không dùng tằm ăn lá sắn.
Người quá cố nếu là chủ gia đình thì được đặt chính giữa gian thờ tổ
tiên. Nếu là hàng thứ chủ, bố mẹ già còn sống thì quan táng được đặt cạnh gian thờ.