Phân tích khái niệm phép biện chứng, phép biện chứng duy vật và nêu ví dụ | Bài tập chương 2 học phần Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Phenikaa
Thuật ngữ biện chứng thường được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, là phạm trù dùng để chỉ những mối liên hệ qua lại lẫn nhau, sự vận động và phát triển của bản thân với các sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại độc lập bên ngoài ý thức con người. Thứ hai, nó đồng thời cũng là phạm trù dùng để chỉ những mối liên hệ và sự vận động, biến động của chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người. Ở nghĩa thứ hai này biện chứng cho phép tư duy không chỉ nhìn thấy sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, vừa thấy bộ phận vừa thấy toàn thể. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.
Môn: Triết học mác - lênin (LT1011)
Trường: Đại học Phenika
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN ⸎⸎⸎⸎⸎
BÀI TẬP CHƯƠNG II MÔN TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN
Tên đề tài: “Phân tích khái niệm phép biện chứng, phép biện chứng duy vật và nêu ví dụ”
Tên giảng viên hướng dẫn : Đồng Thị Tuyền
Lớp học phần : Triết học Mác Lê-nin_1_2(15.1FS).8_LT Năm học : 2021 - 2022
Các thành viên trong nhóm :
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................ 3
NỘI DUNG ........................................................................................................... 6
1. Phân tích khái niệm phép biện chứng, biện chứng duy vật: ....................... 6
1.1. Phép biện chứng: .......................................................................................... 6
1.2. Phép biện chứng duy vật: ............................................................................ 7
2. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến, nguyên lí về sự phát triển: ................... 9
2.1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến: .............................................................. 9 1
2.2. Nguyên lí về sự phát triển: ......................................................................... 13
3. Ý nghĩa và vận dụng: .................................................................................... 16
3.1. Quan điểm toàn diện: ................................................................................. 17
3.2. Quan điểm phát triển: ................................................................................ 18
3.3. Quan điểm lịch sử - cụ thể: ........................................................................ 19
3.4. Vận dụng của sinh viên: ............................................................................. 20
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 21 2 MỞ ĐẦU
Biện chứng là một phương pháp luận, đây là phương pháp tồn tại ở cả nền
triết học phương Đông và phương Tây trong thời cổ đại, “biện chứng” được dùng
với ý nghĩa như là lý luận nhưng cũng mang nghĩa khảo sát, phản ánh sự tác động
qua lại, phát triển không ngừng, đây cũng là một thuật ngữ chỉ sự tiến lên sự phát
triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, tư duy và chính con người chúng ta.
Trong lịch sử triết học, có những lúc tư duy biện chứng không chiếm được ưu thế
so với tư duy siêu hình, nhưng không thể nào thiếu được phép biện chứng. Nhờ
sự phát triển và đi lên, phép biện chứng Mác - xít của triết học Mác Lê-nin hay
chính là phép biện chứng duy vật luôn được đánh giá cao và là cộng cụ để giúp
thế giới nhận thức và phát triển.
Để hiểu rõ hơn về phép biện chứng chúng ta sẽ đi tìm hiểu và nghiên cứu
lịch sử phát triển của phép biện chứng.
Phép biện chứng đã xuất hiện từ thời cổ đại ngày xưa, không chỉ ở phương
Đông mà cả phương Tây cũng biết đến. Qua nhiều giai đoạn khác nhau, nó ngày
càng một phát triển và gắn liền với khoa học cũng như thực tiễn cuộc sống.
Đầu tiên phải nhắc tới nền triết học Ấn độ cổ đại, nó đan xen giữa triết học và tôn
giáo cùng các trường phái khác nhau. Triết học của Ấn Độ cổ đại gồm có 9 trường
phái trong đó trường phái đạo phật là trường phái có học thuyết mang tính duy
vật biện chứng tiêu biểu nhất.
Sau này có nền triết học Trung Hoa cổ đại, đây là một nền triết học lớn đối
với nhân loại khi có tới 103 trường phái lớn nhỏ khác nhau. Học thuyết triết học
mang tư tưởng triết học Trung Hoa là thuyết âm – dương. Nguyên lý cơ bản là
cách nhìn nhận sự tồn tại không trong tính tuyệt đối mà cũng không phải biệt lập; 3
âm - dương không bài trừ, không riêng rẽ mà bao hàm lẫn nhau, tác động lẫn nhau.
Nói chung, thuyết âm dương phản ánh khá rõ khuynh hướng duy vật và biện chứng.
Nhắc tới Hy Lạp cổ đại, nhà triết học Heraclit là khởi nguồn của nền triết
học Hy Lạp. Theo đánh giá của Mác Lê-nin thì đây là thời điểm mà “biện chứng”
ra đời. Tư tưởng của Heraclit đã thể hiện rõ trong ba vấn đề lớn đó là: “Quan
niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất”: Theo ông thì không có sự vật hay
hiện tượng nào có thể đứng yên tuyệt đối cả mà luôn phát triển và vận động không ngừng.
Tiếp theo đó, Heraclit nêu lên tư tưởng về “Sự tồn tại phổ biến của các mâu
thuẫn trong mọi sự vật và hiện tượng” : Ông đã phỏng đoán về sự đấu tranh và
thống nhất của các mặt đối lập.
Và cuối cùng chính là “Sự vận động và phát triển không ngừng của thế giới
do quy luật khách quan quy định”: Quy luật khách quan chính là những cái diễn
ra và tồn tại trong vũ trụ, còn quy luật chủ quan nói nôm na thì chính là ý thức, và
quy luật chủ quan phải phù hợp với quy luật khách quan.
Vào thời cổ đại khi ấy, chúng ta có thể thấy không có một hệ thống triết học
nào có tư tưởng biện chứng đầy đủ và rõ ràng như của Heraclit, lý luận của ông
mang tính biện chứng và duy vật sơ khai nhất. Đây được coi là sự tác động vô
cùng to lớn đến nền triết học của nhân loại sau này.
Bên cạnh tư tưởng của Heraclit còn có phép biện chứng thời trung đại, nhưng
vì ít người biết đến nên gần như được xem là không có. Còn có phép biện chứng
Tây Âu thế kỉ XV - XVIII, sự trưởng thành của tư tưởng này mang nét độc đáo
và phát triển với tư duy siêu hình máy móc. Đáng chú ý nhất là phép biện chứng 4
cổ điển Đức, nó đã chính thức tạo nên sự thống nhất giữa phép biện chứng, logic
học và lý luận nhận thức.
Hêghen là nhà triết học cổ đại Đức đồng thời là nhà biện chứng đầy lỗi lạc.
Triết học của ông ảnh hưởng tới tư tưởng của nước Đức lẫn cả Châu Âu, phép
biện chứng của ông là phép biện chứng duy tâm hay chính là phép biện chứng về
sự vận động và phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với biện chứng
sự vật. Có thể nói, Hêghen đã có công xây dựng các phạm trù và quy luật của
phép biện chứng cũng như những công cụ của tư duy biện chứng, tuy nhiên nó
vẫn mang tính bảo thủ, được thể hiện trong câu nói: “Sự vận động của xã hội là
do sự vận động của tư duy (ý thức quyết định tất cả) sinh ra”.
Sự ra đời của phép biện chứng duy vật gắn liền với chủ nghĩa của ông Mác,
đây là tiền đề quan trọng để nhân loại chúng ta phát triển. Tiền đề của phép biện
chứng Mác xít chính là phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Ăngghen đã cải
tạo phép biện chứng của Hêghen và tách hạt nhân vốn có của triết học để tạo ra
một cách duy vật phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa phép biện chứng và chủ nghĩa
duy vật, đây là điều khác biệt so với triết học trước đây như siêu hình (triết học
thời cận đại) hay biện chứng duy tâm (cổ điền Đức). Ông đã sáng lập ra chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đây được coi là một thành tựu trong việc chạm tới tri thức của nhân loại.
Bằng những kiến thức rút ra từ kết quả học cùng với việc tham khảo từ các
tài liệu, nhóm chúng em xin phép được trình bày phân tích khái niệm phép biện
chứng, phép biện chứng duy vật và ví dụ trong bài luận dưới đây. Trong quá trình
làm bài nếu có những sai sót về mặt kĩ thuật hay kiến thức, nhóm em mong nhận
được những lời nhận xét và góp ý từ cô, chúng em sẽ cố gắng rút kinh nghiệm và 5
nỗ lực để hoàn thiện tốt nhất kiến thức của mình. Chúng em xin trân trọng cảm ơn! NỘI DUNG
1. Phân tích khái niệm phép biện chứng, biện chứng duy vật:
1.1. Phép biện chứng:
Thuật ngữ biện chứng thường được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, là phạm
trù dùng để chỉ những mối liên hệ qua lại lẫn nhau, sự vận động và phát triển của
bản thân với các sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại độc lập bên ngoài ý thức con
người. Thứ hai, nó đồng thời cũng là phạm trù dùng để chỉ những mối liên hệ và
sự vận động, biến động của chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào
đầu óc con người. Ở nghĩa thứ hai này biện chứng cho phép tư duy không chỉ nhìn
thấy sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, vừa thấy bộ
phận vừa thấy toàn thể.
Phép biện chứng phát triển qua nhiều thời kì với 3 hình thức cơ bản: Phép
biện chứng cổ đại: Là phép biện chứng xuất hiện trong triết học thời cổ đại. Các
nhà triết học ở phương Đông lẫn phương Tây thời cổ đại đã xem thế giới khách
quan thay đổi trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên, những gì các
nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải là kết quả của nghiên
cứu và thực nghiệm khoa học. Nổi bật về phép biện chứng này là các nên triết học
của Trung hoa cổ đại, Ấn độ cổ đại và Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, phép biện chứng
cổ đại căng bảng mang tính chất sơ khai. Tóm lại, tuy phép biện chứng thời cổ đại
nhận thức đúng về bản chất của thế giới, nhưng lại nghiên cứu bằng trực kiến
thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ, chưa có sự chứng minh cụ thể của khoa học tự nhiên. 6
Phép biện chứng duy tâm: Là phép biện chứng được bắt đầu từ tinh thần và
kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là biểu hiện của các ý niệm. Đỉnh cao
của hình thức cơ bản này được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, mà người
khởi đầu là nhà triết học Can tơ (1724 - 1804) và người hoàn thiện là nhà triết học
Hêghen. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các
nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng
nhất của phép biện chứng. Triết học Hêghen duy tâm ở chỗ phép biện chứng là
cái được bắt đầu từ "ý niệm tuyệt đối", coi biện chứng chủ quan, là cơ sở của biện chứng khách quan.
Phép biện chứng duy vật: được thể hiện trong triết học do C.Mác và Ăngghen
xây dựng. C.Mác và Ăngghen đã kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện
chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết
về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Hai ông cho rằng phép biện chứng là
quy luật vận động của thế giới khách quan chứ không phải chỉ là sự vận động của
tư tưởng. Kế thừa Hêghen, Ăngghen đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật
bằng cách xem phép biện chứng là "khoa học về những quy luật chung của sự vận
động của thế giới bên ngoài cũng như của tư duy con người"
1.2. Phép biện chứng duy vật:
Phép biện chứng duy vật là “linh hồn sống”, là “cái quyết định” của chủ
nghĩa Mác, bởi khi nghiên cứu các quy luật phát triển phổ biến của hiện thực
khách quan và của nhận thức khoa học, phép biện chứng duy vật thực hiện chức
năng phương pháp luận chung nhất của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Chức
năng này thể hiện ở chỗ, con người dựa vào các nguyên lý, được cụ thể hóa bằng
các cặp phạm trù và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, để đề ra các
nguyên tắc tương ứng, định hướng hoạt động lý luận và thực tiễn của mình. 7
Ăng ghen định nghĩa khái quát rằng: “Phép biện chứng là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Bên cạnh đó, các nhà triết học nêu định nghĩa về phép biện chứng duy vật
dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Khi nhấn mạnh về vai trò của nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến, Ăng ghen cho rằng: “Phép biện chứng là khoa học về mối liên
hệ phổ biến”. Hay khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển, Lênin
định nghĩa “phép biện chứng là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn
bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận
thức con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”.
Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật là trạng thái tồn tại có tính
quy luật phổ biến của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vấn đề này thể hiện trong
câu hỏi: Sự vật, hiện tượng quanh ta và bản thân ta tồn tại trong trạng thái liên hệ
qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau và luôn vận động, phát triển hay trong
trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận động, phát triển? Để trả lời
câu hỏi này, phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm hai nguyên lý
(Nguyên lý về mối liên hệ phát triển, nguyên lý về sự phát triển), sáu cặp phạm
trù ( Cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức, nguyên
nhân và kết quả, khả năng và hiện thực, tất nhiên và ngẫu nhiên), và ba quy luật
cơ bản (Quy luật lượng đổi – chất đổi, quy luật mâu thuẫn, quy luật phủ định của
phủ định). Hai nguyên lý khái quát chung tính biện chứng của thế giới; các cặp
phạm trù phản ánh mối liên hệ, sự tác động biện chứng phổ biến nhất giữa các
mặt của sự vật, hiện tượng có tính quy luật trong từng cặp; còn các quy luật cơ
bản nguyên cứu mối liên hệ và khuynh hướng phát triển của của thế giới các sự 8
vật, hiện tượng để chỉ ra nguồn gốc, cách thức và khuynh hướng của sự vận động,
phát triển thế giới ấy.
Từ đây có thể chỉ ra một số đặc điểm và vai trò của phép biện chứng duy vật.
Về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ
giữa thế giới qua duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lí luận nhận thức
và logic biện chứng. Mỗi nguyên lý của phép biện chứng duy vật đều được xây
dựng trên lập trường duy vật, mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật cũng
đều được rút ra tự sự vận hành của giới tự nhiên và lịch sử xã hội loài người. Mỗi
nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được luận giải trên cơ sở
khoa học và được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của khoa học tự nhiên trước đó.
Về vai trò, phép biện chứng duy vật kế thừa và phát triển phép biện chứng từ
tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định
hướng việc đề ra nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn và
là một hình thức tư duy hiệu quả quan trọng nhất đối với khoa học, bởi chỉ có nó
mới có thể đem lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong
thế giới, giải thích những mối quan hệ chung, những bước quá độ từ lĩnh vực
nghiên cứu này sang lĩnh vực nghiên cứu khác.
2. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến, nguyên lí về sự phát triển:
2.1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
2.1.1. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến:
Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới. 9
Mối liên hệ phổ biến là phạm trù dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên
hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Đó là mối liên hệ giữa các mặt đối
lập, diễn ra trong mọi lĩnh vực từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy của con người.
Ví dụ, mối liên hệ giữa cung và cầu là mối liên hệ phổ biến: Trên thị trường, cung
và cầu quy định, tác động, ảnh hưởng, chuyển hoá lẫn nhau, từ đó tạo nên quá
trình vận động, phát triển không ngừng của cả cung và cầu. Có nhiều cấp độ,
phạm vi của mối liên hệ phổ biến, trong đó phép biện chứng duy vật với tư cách
là khoa học triết học có nhiệm vụ nghiên cứu các mối liên hệ phổ biến nhất, làm
tiền đề phương pháp luận chung cho việc nghiên cứu các mối liên hệ cụ thể trong
từng lĩnh vực nghiên cứu của các khoa học chuyên ngành; đó là các mối liên hệ
như: Cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức,
nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực, tất nhiên và ngẫu nhiên.
2.1.2. Cơ sở khoa học của nguyên lí mối liên hệ phổ biến:
Nguyên lý này được dựa trên một khẳng định trước đó của triết học Mác
Lênin là khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ
giữa các sự vật và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa
dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác
nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất.
Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà
tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là
phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
2.1.3. Tính chất mối liên hệ phổ biến: 10
Tính khách quan: Được biểu hiện qua việc các mối liên hệ của sự vật, hiện
tượng trong thế giới đều mang tính khách quan. Theo đó, sự quy định các tác động
và làm chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc bản chất chúng là
cái vốn có của nó; nó tồn tại độc lập hoàn toàn, không phụ thuộc vào ý chí con
người. Và khi đó, con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó
vào hoạt động thực tiễn của mình.
Ví dụ: Sự phụ thuộc của cơ thể sinh vật vào môi trường, khi môi trường thay
đổi thì cơ thể sinh vật cũng phải thay đổi để thích ứng với môi trường. Mối liên
hệ đó không phải do ai sáng tạo ra, mà là cái vốn có của thế giới vật chất. Tính
phổ biến: Bất cứ một sự vật, hiện tượng hoặc quá trình nào đều tồn tại tuyệt đối,
biệt lập với với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Bên cạnh đó, không có
một sự vật và hiện tượng nào không phải một cấu trúc hệ thống. Nó sẽ bao gồm
các yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, có nghĩa là bất cứ
một tồn tại nào cùng là một hệ thống. Hơn thế nữa, nó còn là hệ thống mở, tồn tại
trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác rồi làm biến đổi lẫn nhau.
Ví dụ: Nước à không khí là điều kiện ѕinh tồn của thực ật. Thực ật cóᴠ ᴠ ᴠ
tác dụng làm ѕạch đối ới nước à không khí. Như vậy thực ật, nước à khôngᴠ ᴠ ᴠ ᴠ
khí có mối liên hệ phổ biến.
Tính đa dạng, phong phú: Các sự vật và hiện tượng khác nhau hay không
gian và thời gian khác nhau thì có các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Vì vậy, có
thể chia các mối liên hệ này thành nhiều loại như mối liên hệ bên trong, mối liên
hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp hay
gián tiếp,… Và khi đó, chúng sẽ có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và
vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. 11
Ví dụ: Các loái cá, chim, thú đều có quan hệ với nước, nhưng cá có quan hệ
với nước khác với chim và thú.
2.1.4. Biểu hiện nguyên lí mối liên hệ phổ biến:
Nguyên lý này biểu hiện rõ thông qua sáu cặp phạm trù sau:
Cái chung và cái riêng: Phạm trù cái chung chỉ ra những thuộc tính, những
mặt giống nhau và được lặp lại trong cái riêng khác. Phạm trù cái riêng chỉ ra một
hiện tượng, một sự vật, một hệ thống hay một quá trình mà sự vật tạo thành chỉnh
thể độc lập với các cái riêng khác. Cái chung chỉ tồn tại ở trong cái riêng, thông
qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình. Ví dụ: Mỗi người là một thể thực
riêng biệt, bên trong mỗi người đều có điểm chung như có đầu óc để quan sát và
điều khiển hành vi của mình, có trái tim để cảm nhận thế giới xung quanh.
Bản chất và hiện tượng: Bản chất là phạm trù chỉ ra tổng hợp các mặt cũng
như các mối liên hệ tương đối ổn định trong sự vật, bản chất quy định sự phát
triển và vận động của sự vật đó. Hiện tượng là phạm trù chỉ ra biểu hiện bên ngoài
của bản chất. Hiện tượng là biểu hiện của một bản chất và bản chất bao giờ cũng
thể hiện ra thành những hiện tượng nhất định. Bản chất quyết định tới hiện tượng,
bản chất thế nào thì hiện tượng sẽ thế đó. Ví dụ: Nước có bản chất là lỏng thì sẽ
thể hiện ra bằng hiện tượng.
Nội dung và hình thức: Cặp phạm trù này luôn có mối liên hệ thống nhất và
gắn bó chặt chẽ với nhau. Không có một hình thức nào không có nội dung, cũng
như không một nội dung nào lại không chứa hình thức. Phạm trù nội dung quyết
định hình thức, đồng thời hình thức tác động ngược lại với nội dung. Hình thức
phù hợp thúc đẩy nội dung phát triển tốt hơn và ngược lại. Ví dụ: Nội dung trong
một cuốn sách như thế nào sẽ quyết định phải làm bìa như thế đó, nếu nội dung
buồn mà lại có cách bố trí tiêu đề và màu bìa là gam màu vui nhộn thì sẽ rất phản 12
cảm, người đọc sẽ không bao giờ quyết định đọc cuốn sách đó. Nguyên nhân
và kết quả: Nguyên nhân là phạm trù được dùng để chỉ tác động qua lại giữa các
bộ phận, các mặt và các thuộc tính trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau
gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả là phạm trù chỉ ra những biến đổi đã
xuất hiện do phạm trù nguyên nhân tạo ra. Nguyên nhân sẽ sinh ra kết quả nên
nguyên nhân có trước, kết quả có sau và nguyên nhân như thế nào thì sẽ sinh ra
kết quả tương tự như thế đó. Ví dụ: Gieo gió gặp bão.
Khả năng và hiện thực: Phạm trù khả năng và hiện thực luôn tồn tại thống
nhất, luôn chuyên hóa và không tách rời nhau. Khả năng khi ở trong điều kiện
nhất định sẽ biến thành hiện thực. Do đó, trong việc nhận thức về thực tiễn cần
dựa vào hiện thực. Để khả năng biến thành hiện thực, con người cần phát huy tối
đa tính chủ động của mình trong nhận thức và thực tiễn. Ví dụ: Hiện thực là đã có
sắt, thép, xi - măng, gạch, cát, sỏi, gỗ,… thì khả năng là ngôi nhà có thể xuất hiện
khi có điều kiện thích hợp trong tương lai.
Tất nhiên và ngẫu nhiên: Phạm trù tất nhiên sẽ vạch ra đường đi cho mình
qua rất nhiều cái ngẫu nhiên, tất nhiên sẽ quy định cái ngẫu nhiên đồng thời ngẫu
nhiên sẽ bổ sung cho tất nhiên. Do đó trong thực thế mọi việc đều phải căn cứ vào
tất nhiên chứ không căn cứ vào phạm trù ngẫu nhiên, nhưng cũng không được bỏ
quá ngẫu nhiên, không được tách rời tất nhiên ra khỏi ngẫu nhiên. Ví dụ: Để đạt
được kết quá nhất trong việc học tập thì cần siêng năng, chăm chỉ là điều tất nhiên,
tuy nhiên tới ngày thi thì gặp phải vấn đề sức khỏe nên làm bài thi kết quả thấp là điều ngẫu nhiên.
2.2. Nguyên lí về sự phát triển:
2.2.1. Khái niệm phát triển: 13
Trong quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy
về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; đồng thời, nó cũng
xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển
dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên:
từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy,
khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm "vận động" (biến đổi) nói
chung. Khái niệm vận động hiểu theo nghĩa chung nhất là sự biến đổi nói chung
và là phương thức tồn tại của vật chất. Cho nên, có quá trình xuất hiện cái mới,
cái tiến bộ, nhưng đồng thời có những biến đổi dẫn đến sự tan rã và tiêu vong của
các sự vật… Còn ngược lại, khái niệm phát triển thì không khái quát mọi sự vận
động nói chung, nó chỉ khái quát những vận động đi lên, sự xuất hiện cái mới theo
một chiều hướng chung là từ đơn giản đến phức tạp, từ cái chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố
tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình
thái của sự vật, hiện tượng mới.
2.2.2. Tính chất nguyên lí về sự phát triển:
Tính khách quan: Biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết
mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu,
khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người. Ví dụ: Hạt lúa, hạt đầu khi 14
có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không có con người nhưng nó vẫn phát triển.
Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội
và tư duy. Từ hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản
ánh hiện thực ấy. Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im,
luôn luôn duy trì một trạng thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó. Ví
dụ: Sự phát triển của thế giới vật chất vô cơ đến hữu cơ, từ vật chất chưa có khả
năng cho sự sống đến sự phát sinh cơ thể sống và tiến hóa dần lên các cơ thể có
cơ cấu sự sống phức tạp hơn.
Tính đa dạng, phong phú: Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật,
hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá
trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời
gian khác nhau sự vật sẽ phát triển khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển
của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá
trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử. Ví dụ: Sự phát triển của động
vật khác với thực vật, sự phát triển của cây đặt trong bóng tối khác với cây đặt
ngoài trời, sự phát triển của các quốc gia ở thế kỉ XX khác với sự phát triển của
các quốc gia thế kỉ XIX.
2.2.3. Các quy luật của nguyên lý về sự phát triển:
Quy luật lượng - chất: Chỉ ra cách thức của sự vận động và phát triển.
Lượng là cái thường xuyên biến đổi, còn chất là cái tương đối ổn định, lượng biến
đổi đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành chất mới thay thế chất cũ.
Trong quy luật này có dùng một số từ như “độ”, “bước nhảy”, “điểm nút”. Cụ thể:
Độ là khoảng giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất 15
của sự vật, điểm nút là thời điểm mà tại đó, sự thay đổi về lượng đủ để làm thay
đổi về chất của sự vật và bước nhảy là chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật.
Quy luật mâu thuẫn: Chỉ ra nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Trong
mỗi sự vật, hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt, khuynh
hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật, hiện
tượng đó. Và sự thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập này là nguồn gốc tạo
nên sự vận động và phát triển, dẫn đến cái mới ra đời thay thế cái cũ. Vì mâu
thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên cần phải phân tích, sự vật,
hiện tượng để tìm ra những mâu thuẫn trong các mặt, khuynh hướng và mối liên
hệ giữa chúng mà giải quyết, tránh việc điều hòa các mâu thuẫn đó.
Quy luật phủ định của phủ định: Chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển. Cái
mới ra đời thay thế cái cũ nhưng trên nền tảng kế thừa cái cũ. Cái mới này trong
quá trình phát triển tiếp theo lại dần trở nên cũ, lỗi thời nên nó lại bị phủ định bởi
một cái mới cao hơn. Cứ như thế mà thông qua số lần phủ định kế tiếp nhau mà
sự vật, hiện tượng sẽ phát triển không ngừng theo đường xoắn ốc.
3. Ý nghĩa và vận dụng:
Phép biện chứng duy vật là môn khoa học nghiên cứu những quy luật chung
nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, là sự kết tinh
toàn bộ tinh hoa trong lịch sử phát triển của phương pháp biện chứng. Đồng thời,
nó được bổ sung bởi những thành tựu vĩ đại của khoa học tự nhiên, hơn thế nữa
phương pháp ấy được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng và
công cuộc xây dựng xã hội mới. Hiện nay, thế giới có nhiều thay đổi theo hướng
tích cực, phát triển lẫn cả tiêu cực, phức tạp, khó lường; hệ thống chủ nghĩa xã
hội cũng đang đứng trước những khó khăn nhất định; khoa học đạt được nhiều
thành tựu mới, nhưng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin 16
vẫn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa to lớn trong việc giải quyết nhiều vấn đề thực
tiễn đời sống xã hội hiện nay.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống gồm 2
nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển), 6 cặp
phạm trù cơ bản (cái riêng và cái chung, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và
ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực)
và 3 quy luật phổ biến (quy luật lượng - chất, quy luật phủ định của phủ định, quy luật mâu thuẫn).
Từ 2 nguyên lý cơ bản trên, ta xây dựng được 3 quan điểm: Quan điểm toàn
diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử – cụ thể. Trong đó, quan điểm
toàn diện đóng một vai trò quan trọng bởi bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế
giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng,
phong phú. Do đó, quan điểm toàn diện có ý nghĩa hết sức thiết thực trong cuộc sống.
3.1. Quan điểm toàn diện:
Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn
diện là khi xem xét các sự vật hiện tượng, phải xem xét ở tất cả các mặt, các yếu
tố làm nên các sự vật, hiện tượng, kể cả khâu trung gian, gián tiếp. Nó đòi hỏi
chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các
yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó
với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên
cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối
liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối 17
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương
pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của
bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định.
Quan điểm toàn diện còn có ý nghĩa trong việc chống chủ nghĩa chiết trung
mà đặc trưng của nó là nhân danh quan điểm toàn diện để kết hợp một cách vô
nguyên tắc những mặt khác nhau mà thực chất là không thể kết hợp với nhau được.
Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình
trong nhận thức và thực tiễn.
3.2. Quan điểm phát triển:
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó
trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật,
hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được khuynh hướng phát
triển của nó trong tương lai. Cần chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn,
còn động lực của sự phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện
tượng đó. Đồng thời, nguyên tắc phát triển yêu cầu phải nhận thức sự phát triển
là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc
điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải phân tích cụ thể để tìm ra
những hình thức hoạt động, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy,
hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy
luật, tạo điều kiện cho cái mới phát triển; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ,
định kiến… Trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế thừa những 18
yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ mà phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
3.3. Quan điểm lịch sử - cụ thể:
Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú cho nên trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện phải đồng thời kết hợp với
quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể chống lại quan điểm giáo điều, phiến diện, siêu
hình, chiết trung, ngụy biện. Khuynh hướng của sự vật, hiện tượng lại luôn vận
động và phát triển, do đó khi nghiên cứu sự vật chúng ta cần phải có quan điểm
lịch sử - cụ thể. Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi xem xét khách thể (kể cả xã
hội) trong sự tự vận động và phát triển của nó. Nó đòi hỏi chúng ta không chỉ
miêu tả những biến đổi trong khách thể, chỉ ra trạng thái về thể chất khác nhau,
mà còn tìm ra mối liên hệ tất yếu khách quan giữa hiện tượng nối tiếp nhau, tìm
ra quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của khách thể. Quan
điểm này cho rằng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và
phát triển trong những điều kiện thời gian và không gian cụ thể, xác định, những
điều kiện này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng
một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ
thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm chí có thể làm
thay đổi hoàn toàn bản chất của sự vật.
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong các mối quan hệ
và tình huống xác định, các giai đoạn vận động, phát triển xác định; hay nói cách
khác, khi nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải tránh quan niệm
chung chung trừu tượng, thiếu tính xác định, tránh chiết trung, nguỵ biện. Đòi
hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, 19
hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát
triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ
không phải là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Từ nội dung trên ta
có thể thấy rằng, quan điểm lịch sử - cụ thể có ý nghĩa rất to lớn trong quá trình
nghiên cứu và cải tạo tự nhiên, xã hội.
3.4. Vận dụng của sinh viên:
Nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển,
quan điểm lịch sử - cụ thể đã góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để
thực hiện được chúng, mỗi người chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận, nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một
cách sáng tạo trong hoạt động của mình.
Trong quan hệ giữa người với người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù
hợp với từng con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những
không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao
tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”. Hay
khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem
xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết,
xử lý tốt nhất. Khi ta học kém đi, điểm số giảm, ta cần tìm nguyên nhân do đâu
khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu bài, không làm bài tập hay không có
thời gian học. Nếu tìm được nguyên nhân cụ thể thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn, phù hợp.
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì
mới có kết quả cao. Việc vận dụng quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và 20