Phân tích luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh| Môn tư tưởng Hồ Chí Minh| Đại học Kinh tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
22 trang 11 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh| Môn tư tưởng Hồ Chí Minh| Đại học Kinh tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

93 47 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------
--------
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
Họ và tên sinh viên :
Mã số sinh viên :
Lớp tín chỉ :
Số thứ tự :
Hà Nội, tháng 10 năm 2023
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................2
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội2
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và độc lập dân tộc.............2
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc...........................................2
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.....................2
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội..................4
3. Tư tưởng HChí Minh về độc lập n tộc gắn liền với chủ
nghĩa hội...............................................................................................4
3.1. Về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã
hội..............................................................................................................4
3.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam.............................5
3.3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội..............................................................6
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc phải gắn liền với tự
do, hạnh phúc của nhân dân......................................................................8
1. Cm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của snghiệp
cách mạng:................................................................................................8
2. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục
tiêu từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.9
3. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những
tầng lớp xã hội dễ bị tổn thương nhất...................................................10
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay....................10
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn
tất yếu, khách quan của cách mạng Việt Nam....................................10
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hi trong điều kiện
lịch sử mi...............................................................................................12
2. Một số vấn đề rút ra....................................................................15
3. Liên hệ trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.................................................17
KẾT LUẬN..........................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................19
PHẦN MỞ ĐẦU
Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mỗi
người, quyền có cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, trẻ
em được nuôi dưỡng, chăm sóc, người già, người nghèo, người tàn tật được giúp
đỡ. Các quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được chú trọng
và hoàn thiện. Ở Bác, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất trong cả
nhận thức và hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật mà
Người mong muốn thực hiện. Không có độc lập chân chính, bền vững thì không
thể thực hiện được quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền
cơ bản, thiết thực của con người.
Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, kýn Hồ
Chí Minh; đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17-10-1945, c viết: “Nếu nước
độc lập mà n không hưởng hạnh phúc tdo, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
”.
Quán triệt tư tưởng của Người, những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời
sống mọi mặt của nhân dân; chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó là sự thống nhất
giữa quyền và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của
công dân, như tâm nguyện của Bác kính yêu.
Thực chất quan điểm trên của Người là muốn nói đến mối quan hệ
khăng khít giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của cách mạng Việt
Nam. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đi
làm rõ luận điểm trên và xem rằng ý nghĩa của nó có còn giá trị với Việt Nam
hiện nay không.
1
NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và độc lập dân tộc
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
Mác và Ăngghen nêu ra các quan điểm có tính chất phương pháp luận để
giải quyết các vấn đề dân tộc. Trên cơ sở đó, cùng với sự phân tích hai xu hướng
của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra “Cương lĩnh dân tộc” tao cơ sở cho
đường lối, chính sách dân tộc cho các Đảng cộng sản trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được
quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương
lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Độc lập dân tộc phải đi đôi với liên kết
dân tộc.
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa:
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân tộc
thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền thiêng
liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp nhuần
nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất và tổng
thể. Nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp thống
nhất với lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với nhiệm vụ giải
phóng dân tộc và do vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải gắn liền
với lợi ích và nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và trong toàn cục thì
cách đặt vấn đề như vậy về dân tộc cũng là vì giai cấp công nhân. Từ giác ngộ
dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn bản về nhận thức mà
Hồ Chí Minh là người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhờ
giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác ngộ dân tộc, xác định và kiên
trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân và dân tộc. Với Người, cách
mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô
sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, phải xây dựng được khối
đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh công nông, phải được tiến hành
chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Một là, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
các dân tộc:
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền
2
thống Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc
lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh từng nói: “ Cái mà tôi
cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.” Người
đã sớm nhận thức được đầy đủ quyền dân tộc, ý thức dân tộc và chủ động, tích
cực đấu tranh giành lại quyền thiêng liêng đó:
Người đã khai thác, tiếp thu yếu tố tích cực của Cách mạng tư sản thông
qua nội dung của hai bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền 1791 của Cách mạng Pháp, tiếp nhận những yếu tố có giá
trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy. Từ đó Người đã khái quát nên những
chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc trong bản Tuyên ngôn
độc lập bất hủ: “Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”.
Xác định rõ mục tiêu đấu tranh là đầu tiên là giành lại độc lập cho dân
tộc: a, Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b, Làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập
Khẳng định độc lập dân tộc là quyền thiêng bất khả xâm phạm: “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực sự đã thành một nước tự do
và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
Quyết tâm chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc ấm no, hạnh phúc
của nhân dân. Trong thư gửi Liên hợp quốc 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “ Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân
chúng tôi cũn kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng
liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
Hai là, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân:
Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng
chả có ý nghĩa gì. Người đánh giá rất cao học thuyết “ Tam dân” của Tôn Trung
Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Dân chỉ biết rõ ý nghĩa của độc lập dân tộc khi mà dân được ăn no, mặc
đủ. Bởi vậy khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đòi hỏi chính phủ cách mạng phải quan tâm đến đời sống thiết thực của
nhân dân, làm cho dân có ăn có mặc, có chỗ ở, được học hành. Người cho rằng
phải thực hiện thành công 4 điều đó để dân ta xứng đáng với tự do độc lập và
giúp sức cho tự do độc lập.
Ba là, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự , hoàn toàn và triệt để:
3
Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân Việt Nam quyết đấu tranh cho độc lập dân
tộc – chủ quyền – toàn vẹn lãnh thổ. Theo Người, một dân tộc độc lập thật sự
tức là các quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo, dân tộc đó có quyền tự
quyết trên tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Nói tóm lại, Việt Nam là
nước độc lập phải thực sự trên nguyên tắc nước Việt Nam là của người Việt
Nam.
Bốn là, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, quy luật tồn tại và phát triển
đất nước. Người khẳng định: “ Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một”. Có thể khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ
quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí
Minh.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Một là, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản: với tư
cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà
việc xây dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước
đạt tới mục tiêu.
Hai là, dù còn tồn đọng nhiều tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã
hội không còn áp bức, bóc lột, người dân được làm chủ. Theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, cần phải chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân
cách, bảo đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong
sự hài hoà giữa cá nhân và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ
Chí Minh đưa ra quan niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó mình vì mọi
người, mọi người vì mình.
Ba là, mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động. Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề quan
trọng mà Người đặc biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu
nhất của nhân dân, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ,
bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển.
Quan niệm này đã đặt nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng
và Nhà nước ta.
3. tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội
3.1. Về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
4
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ
sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, con đường cách mạng Việt
Nam có hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản,
trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được thực
hiện tiến trình từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở
giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp,
trước mắt, cấp bách.
Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân loại. Với
dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi
máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, độc
lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập
thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa
vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn
liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân
tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao
động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi
đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng
dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều
kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Độc lập dân tộc tạo tiền
đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã
hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc
lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao
giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân,
những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để
đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc
hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng
định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các
dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo
5
đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính”.
3.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt
Nam không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập
dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong
sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải
thực hiện xây dựng Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó
công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. Đảng phải xây dựng, củng cố và
tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng
khối đại đoàn kết dân tộc. Người xác định công - nông là gốc, là chủ lực của
cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất
nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đòi hỏi công - nông - trí thức
đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận
được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công
- nông và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là
mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không
coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có liên hệ
chặt chẽ với cách mạng thế giới. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,
Người có nhiều chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng
hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
khách quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều
kiện bảo đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra
đời và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
6
phạm vi thế giới. Tư tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20
và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam thì con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã
thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục
giành những thắng lợi lịch sử suốt hơn 90 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tiễn cách
mạng Việt Nam qua ba thời kỳ:
Thời kỳ 1930-1945: Hồ Chí Minh xác định tính chất cách mạng Việt Nam
là con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay
sai của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam “làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; xác
định đối tượng đấu tranh của cách mạng là đế quốc xâm lược, phong kiến tay
sai, tầng lớp tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc; xác định rõ lực lượng
cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tầng
lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong
đó nòng cốt là liên minh công - nông, tập hợp dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc
do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; xác định đúng đắn cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, có mối
quan hệ khăng khít với cách mạng vô sản “chính quốc”, cách mạng giải phóng
dân tộc có tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản “chính
quốc”, tác động tích cực tới cách mạng “chính quốc”.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám
1945 đã giành thắng lợi. Đó là thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí
Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô
sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
Thời kỳ 1945-1954: Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ
sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”. Thời kỳ
này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con
đường cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh
kiên trì quan điểm phát huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi
với ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. Nét độc đáo, đặc sắc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở thời kỳ này là Người
đã đề ra và thực thi nhất quán đường lối :”vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”.
Đường lối đó phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc, dựng nước đi đôi
7
với giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới; là
nguyên nhân quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược.
Thời kỳ 1954-1975: Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển
tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở
thời kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây
dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong mối
quan hệ giữa cách mạng hai miền, Người xác định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ
cách mạng từng miền và tác động, hỗ trợ lẫn nhau của cách mạng hai miền; đây
là sự cụ thể hoá nội dung con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa
nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã
đề xuất và kiên trì bảo vệ.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải
phóng dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực
lượng để đánh đổ là đế quốc Mỹ. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có những
quan niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò của
chiến lược đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng; từ đó đã xây dựng cho
cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng Mặt trận”: Mặt trận dân tộc
thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng
chống Mỹ; Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ.
Sức mạnh của “ba tầng Mặt trận” đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn làm nên
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương
đối hoàn chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ
thống, có nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã làm rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính
đặc thù của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước.
Người đã có những chỉ dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện
pháp, bước đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do,
hạnh phúc của nhân dân
8
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành được độc lập dân tộc và đem lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho người dân là hai mục tiêu cốt lõi của cách mạng Việt
Nam; độc lập dân tộc và ấm no, hạnh phúc là hai nội dung xuyên suốt, bao trùm
có quan hệ khăng khít và biện chứng. Người đã chỉ rõ: “Nước độc lập mà người
dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”.
Quan điểm này của Người được thể hiện ở một số luận điểm sau:
1. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của snghiệp ch
mạng:
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, đất nước giành được độc lập
nhưng hậu quả của chiến tranh để lại hết sức nặng nề khiến nhân dân phải sống
trong cảnh khốn cùng, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Chính ph
mới là phải chăm lo cho đời sống của nhân dân. Vì vậy ngay trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ m thời nước Việt Nam mới, Người đã đề ra sáu nhiệm cụ cấp
ch cần giải quyết nhằm đápng những đòi hỏi trước mắt của nhân dânchống
nạn đói, chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội khác; xóa bỏ thuế thân, thuế chơ, thuế
đò,…
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, Người đã viết tâm thư kêu gọi toàn quốc
ra sức cứu đói và những lời khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản
xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!... Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ
vững quyền tự do, độc lập” hay lời kêu gọi “một miếng khi đói bằng một gói khi
no” mà Người đã gương mẫu thực hiện. Cùng với đó, chiến dịch diệt giặc dốtng
được phát động, phong trào thanh toán nạn mù chữ được dâng cao trên cả nước.
ng tác văn hóa, giáo dục cũng được chính quyền mới quan tâm đẩy mạnh. Để
thiết lập cơ sở pháp cho nhà nước kiểu mới của nhânn, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đãsắc lệnh về Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến pháp,
khẳng định quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do, dân chủ khác của nhân
n.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân
là một trong những mục tiêu quan trọng của đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta. Điều đó được thể hiện ngay trong quan điểm của Người về chủ
nghĩa xã hội. Người nói “ Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ
mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao
động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt thì dần được xóa bỏ.
Tóm lại, xã họi ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt,
đó là chủ nghĩa xã hội”.
9
2. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhiệm
vụ chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngay từ những ngày đầu
sau Cách mạng Tháng tám thành công, Người đã chỉ rõ “Việc gì lợi cho dân, ta
phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Người cũng khẳng
định Đảng ta, Nhà nước ta là từ nhân dân mà ra, vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân
dân. Vì thế, cán bộ Đảng viên và chính quyền từ trên xuống dưới phải hết sức
quan tâm đến đời sống nhân dân để tăng tính đoàn kết dân tộc, ổn định xã hội và
phát huy được tiềm lực của toàn dân.
3. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp
xã hội dễ bị tổn thương nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm chăm lo hạnh phúc của các
tầng lớp nhân dân mà Người còn dành sự quan tâm đặc biệt cho “những người
đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình”, những liệt sĩ anh hùng đã
anh dũng hy sinh cho Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các
lực lượng trẻ đi đầu trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ coi “đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã
hội ở nước ta”. Người cũng đề cao đóng góp của phụ nữ trong kháng chiến và
luôn quan tâm đến quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cảm thông và hiểu sâu sắc nhất sự hy
sinh, chịu đựng gian khổ của nông dân qua hàng trăm năm bị phong kiến thực
dân đàn áp, bóc lột nên Người luôn chăm lo cho đời sống của nhân dân, Người
quan niệm “chỉ khi nhân dân được sống ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới phát
triển, nền đôc lâp mới bền vững”.
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất yếu,
khách quan của cách mạng Việt Nam
Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên tại Hội nghị thành lập, Đảng đã xác định mục tiêu chiến lược:
Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập để đi tới xã hội cộng sản. Từ đây, dân tộc
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã đi theo con đường cách mạng
đúng đắn để tự giải phóng mình, xóa bỏ ách nô lệ, giành độc lập, tự do; sự
nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với sự nghiệp giải phóng những người lao
động bị áp bức, bóc lột; cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam gắn
10
liền với cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
thế giới. Mục tiêu này được thực hiện nhất quán qua các giai đoạn cách mạng:
Đảng lãnh đạo kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
Đảng xác định nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ
trọng tâm trước hết, mục tiêu chủ nghĩa xã hội chưa đặt ra trực tiếp mà là
phương hướng tiến lên. Đấu tranh giành độc lập dân tộc thắng lợi tạo điều kiện,
tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, phương hướng tiến lên chủ nghĩa
xã hội có ảnh hưởng quyết định đến tính chất triệt để và tạo ra sức mạnh của
cách mạng giải phóng dân tộc.
Từ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, nhất là từ Hội nghị Trung ương
lần thứ tám (5-1941), Đảng đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Đây là Nghị quyết có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta trong
đấu tranh giành chính quyền, đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập” .
1
Đảng lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây
dựng cơ sở vật chất ban đầu cho chủ nghĩa xã hội (1945-1975)
Ngay sau khi Việt Nam vừa giành được độc lập, thực dân Pháp quay lại
xâm lược nước ta, Đảng xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
là bảo vệ nền độc lập dân tộc, tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc. Đối với nhiệm vụ giải phóng giai cấp, Đảng chủ
trương tiếp tục tiến hành từng bước, sát với tiến trình thực hiện nhiệm vụ chống
đế quốc và phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc. Đảng đã lãnh đạo nhân dân xây
dựng và củng cố chính quyền cách mạng, chống “giặc đói”, “giặc dốt”, không
ngừng nâng cao nội lực cách mạng, tạo cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh
chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ nền độc lập non trẻ, chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng chủ trương
thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa chống ngoại xâm vừa xây
dựng chế độ dân chủ mới. Chế độ mới không chỉ có ý nghĩa về mặt tinh thần mà
còn tạo ra lực lượng vật chất to lớn, bảo đảm kháng chiến lâu dài, càng đánh
càng thắng, càng đánh càng mạnh, tiến tới đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp. Chế độ dân chủ mới đã khơi dậy ý chí, khát vọng, tạo động
lực cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đưa cuộc kháng chiến đến thành
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.3.
11
công, đồng thời là tiền đề trực tiếp cho xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ tiếp
theo.
Trong giai đoạn 1954-1975, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội thể
hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng
XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt
Nam là kết quả của sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sức mạnh
của chế độ mới được khơi dậy trên nền tảng của tinh thần dân tộc và chủ nghĩa
yêu nước. Trong Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước, ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định chân lý Không có gì quý hơn độc lập tự do. Nhân dân
hai miền Nam - Bắc cùng chung sức, phối hợp đánh thắng đế quốc Mỹ trên cả
hai miền đất nước. Miền Nam đã thể hiện xuất sắc vai trò quyết định trực tiếp
đánh đuổi đế quốc Mỹ, đánh đổ chế độ tay sai, đồng thời góp phần bảo vệ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa.
Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên cả
nước từ năm 1975 đến nay
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải đưa
ra được các giải pháp, bước đi, cách làm thực sự khoa học, nhằm thực hiện được
mục tiêu đó. Trước đổi mới, do chủ quan, duy ý chí, giáo điều, nóng vội, Đảng
đã phạm những khuyết điểm trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho
nền kinh tế từng bước rơi vào khó khăn, khủng hoảng. Những yếu kém về kinh
tế - xã hội, những hạn chế về tư duy lý luận, khuyết điểm về lãnh đạo, tổ chức
thực hiện... còn làm ảnh hưởng đến các nguồn lực củng cố quốc phòng, an ninh
và vị thế đất nước. Do đó, đổi mới trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, xuất phát
từ đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước và của toàn Đảng, toàn dân, nhằm
tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp đặc điểm Việt Nam.
Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà nhằm làm
cho mục tiêu đó đạt được bằng những bước đi, phương thức và biện pháp phù
hợp hơn. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
12
kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới” .
2
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hi trong điều kiện lịch s
mới
Thực tiễn của cách mạng Việt Nam từ năm 1975 đến nay cho thấy, độc lập
dân tộc mang những nội dung mới: Phải bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, biển, đảo của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc và con đường phát triển của đất nước; nêu cao ý chí tự lực, tự
cường, tự hào, tự tôn dân tộc; thể hiện tính cố kết, tinh thần đại đoàn kết toàn
dân tộc; bảo vệ và phát triển sức sống của nền văn hóa dân tộc; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ nhân dân; hội nhập quốc tế nhưng
bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là lý tưởng, mục tiêu mà
còn trở thành nguồn gốc, động lực mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Khát
vọng độc lập cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân có ý nghĩa to lớn
trong việc tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp và thành phần trong dân tộc,
tạo nên lực lượng cách mạng rộng lớn và sức mạnh to lớn. Mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã
hội tốt đẹp của nhân dân.
Độc lập dân tộc trên cơ sở độc lập thực sự về kinh tế, chính trị, văn hóa,
ngoại giao; độc lập dân tộc phải bảo đảm xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột và nô
dịch của dân tộc này với dân tộc khác cả về kinh tế, chính trị và tinh thần; quan
hệ giữa các nước dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng chủ
quyền dân tộc, cùng đóng góp vào lợi ích chung của các dân tộc, vì hòa bình thế
giới, vì sự tiến bộ của loài người. Những giá trị đó chỉ có thể đạt được dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa. Chỉ có con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc
mới đạt được chân giá trị của nó, đưa dân tộc phát triển phồn vinh về kinh tế,
phong phú về tinh thần, dân chủ được bảo đảm; phát huy cao độ sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, bảo vệ vững chắc
độc lập dân tộc.
Gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
huy động được lực lượng to lớn nhất của toàn dân tộc, các giai cấp, tầng lớp
nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Giành được độc lập dân
2 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70.
13
tộc mà không đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phản
bội lại sự hy sinh của lớp lớp các chiến sĩ cách mạng tiền bối trong quá trình đấu
tranh giành độc lập dân tộc, đồng thời độc lập dân tộc cũng không được bảo
đảm vững chắc.
Nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để đổi mới và hội nhập, tại Đại hội XIII
(năm 2021), Đảng đã đưa ra quan điểm chỉ đạo về tầm nhìn và định hướng phát
triển đất nước, trong đó, nêu rõ bốn kiên định: “Kiên định và vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên
định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa” .
3
Trải qua hơn 36 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng
được bổ sung, hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Nhờ sự nỗ lực,
thống nhất cao của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, đất nước đã có sự phát
triển mạnh mẽ, toàn diện, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế phát triển với tốc độ tương đối cao.
Tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6%/năm. Năm 2020, do
ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhiều nước “tăng trưởng âm”, nhưng tăng
trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt 2,91%, là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao
nhất thế giới. Thu nhập bình quân đầu người năm 2020 đạt 2.779 USD. Chất
lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai
đoạn 2011-2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016-2020 . Các cân đối lớn của
4
nền kinh tế tiếp tục được bảo đảm và có bước được cải thiện; tài chính - ngân
sách nhà nước được tăng cường. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo từ 58% (năm
1993), 9,88% (năm 2016) giảm xuống còn dưới 3% (năm 2020) .
5
Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, bảo vệ môi trường phát triển. Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách
3 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr.109
4 ăn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.
60-61
5 Nguyễn Phú Trọng: Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một
giai đoạn phát triển mới, Tạp chí Cộng sản, số 949 (9-2020)
14
phát triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế, lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo. Văn hóa, xây dựng con
người Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật. Từng bước
hoàn thiện đồng bộ và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân
tộc, tôn giáo; phát triển thị trường lao động, hướng tới xây dựng quan hệ lao
động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế.
Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: Một trong những thành tựu quan trọng
của 35 năm đổi mới, đó là: “Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được giữ vững và tăng cường quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật” .
6
2. Một số vấn đề rút ra
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo, dù trong hoàn cảnh khó khăn, thử
thách như thế nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là sự nhất quán giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với
Đảng ta về con đường của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đã khẳng định đi lên
chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn của cách mạng Việt Nam và phù hợp
với xu thế phát triển của lịch sử.
Nhờ đường lối đúng đắn ấy, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Sau hơn 36 năm đổi mới, lý luận về đường lối đổi mới, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta ngày càng
hoàn thiện. Đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát
triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống nhân dân
được nâng lên rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần. Từ đó, Văn kiện Đại hội XIII
đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay”. Đây là niềm tự hào, là nguồn lực và là động lực to
lớn, là niềm tin lớn lao để toàn Đảng, toàn dân ta vượt qua những khó khăn,
thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
đã chọn.
Để chống phá con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các thế lực
thù địch điên cuồng ra sức chống phá từ việc phủ nhận lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến việc thành lập các tổ chức, mua
chuộc, xúi dục, kích động, gây bạo loạn lật đổ, cổ súy cho con đường tư bản chủ
nghĩa, nhằm tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Mặc dù chủ nghĩabản đang đạt nhiều thành tựu, đặc biệt về khoa học
6 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr.67.
15
ng nghệ, giải phóng sức lao động, nhưng những khuyết tật trong lòng xã hội tư
bản vẫn bộc lộ mạnh mẽ và không thể khắc phục.c cuộc khủng hoảng kinh tế
liên tiếp xảy ra, xung đột sắc tộc, tôn giáo có chiều hướng gia tăng, bất công xã hội,
phân hóa giàu nghèo ngàyng gay gắt… Tđó, xuất hiện ngày càng nhiều các
phong trào phản kháng hội, biểu tình, bạo loạn xảy ra ở nhiều quốc gia tư bản.
Đất nước Việt Nam chúng ta đã trải qua những năm tháng đau thương do
chiến tranh gây ra. Giờ đây, hơn bao giờ hết, cần một môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước, xây dựng một xã hội thân ái, đoàn kết, tiến bộ, nhân
văn, phát triển bền vững, xây dựng hệ thống chính trị mà quyền lực thuộc về
nhân dân, đời sống nhân dân không ngừng nâng lên… Tất cả những điều đó chỉ
có được trong chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và từ thực tiễn thế giới cũng như thực tiễn Việt Nam đã chứng
minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng
của Việt Nam. Điều đó một lần nữa được khẳng định trong bài viết “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân dịp kỷ niệm 131 năm
ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và
đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Đây là cơ sở lý luận và
khoa học để xây dựng, củng cố niềm tin tất thắng của đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta
Chăm lo đời sống nhân dân là nhiệm vụ chính trị trung tâm, là thước đo
và tiêu chí đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với
nhân dân. Vì vậy, để tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh, nhất là về “Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân
chủ, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm:
Một là, nâng cao nhận thức, cụ thể hóa việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, về chăm lo đời sống nhân dân nói
riêng gắn với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, địa phương, đơn vị và cá nhân.
Đưa nội dung này vào chương trình, kế hoạch cụ thể của cơ quan, địa phương,
đơn vị và cá nhân hằng năm, hằng quý, nhất là thành chuyên đề sinh hoạt tại chi
bộ gắn với nhiệm vụ chuyên môn, bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và
hành động của mỗi cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên.
Hai là, gắn thực hiện nội dung chăm lo đời sống nhân dân với việc tập
trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, cấp bách tại mỗi địa phương, cơ
16
quan, đơn vị; với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các cuộc vận động,
các phong trào thi đua yêu nước nhằm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị
năm 2020 và những năm tiếp theo, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “t
chuyển hóa” trong nội bộ.
Ba là, chú trọng việc lựa chọn, xây dựng và tuyên truyền sâu rộng những
cá nhân, tập thể điển hình, những cách làm hay trong học tập, làm theo Bác về
sự tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân để tạo sự lan
tỏa trong cộng đồng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có hình thức kỷ
luật nghiêm những cơ quan, địa phương, đơn vị, cá nhân không hoàn thành
nhiệm vụ chăm lo đời sống nhân dân, gây bức xúc, phiền hà, nhũng nhiễu, làm
suy giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ.
Bốn là, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện,
diễn ra trên mọi mặt của đời sống và sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện
bằng chính nguồn lực con người. Đó là những con người có tri thức khoa học,
kỹ thuật và công nghệ, về quản lý và dịch vụ. Để phát triển, con người phải
được trang bị vững chắc về học vấn nền tảng, đào tạo con người có trình độ tay
nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản xuất, hình thành phong
cách lao động công nghiệp, lao động sáng tạo.
3. Liên hệ trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, sinh vn nói chung, bản thân nói riêng phảich cực tham gia học
tập nâng cao trình độluận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng.
Bối cảnh trong nước và quốc tế đang tác động lên tất cả các đối tượng
sinh viên, tác động một cách toàn diện lên tư tưởng, tình cảm, lối sống, nhu cầu
của từng sinh viên. Do đó, sinh viên phải rèn luyện để có lập trường tư tưởng
vững vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh;
tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ
cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh
chống laaij âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu
cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng…
Thứ hai, bản thân cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ
văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề.
17
Trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội trong nước và hội nhập quốc tế,
sinh viên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề khả năng thực tế, kỹ
năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường lao
động quốc tế. Sinh viên phải tích cực tham gia xây dựng xã hội học tập với
phương châm: người sinh viên nào cũng phải học ở đâu, làm gì, thời gian nào
cũng phải học, người sinh viên nào cũng phải xác định tham gia họ tập thường
xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân.
Thứ ba, bản thân phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Bản thân phải tích cực tham gia bảo vệ và xây dựng hệ thóng chính trị ở
các cấp vững mạnh và tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững
chắc; tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội của sinh viên, phấn đấu trở thành
đoàn viên, đảng viên của Đảng và hội viên của các quần chúng nhân dân.
Thứ tư, tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp.
Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường
và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
Thứ năm, xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng an ninh.
Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự nguyện, tự
giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ
quốc và giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
Thứ sáu, cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia
giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để
nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có
hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí
hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh
hiểm nghèo…
KẾT LUẬN
Như vậy, có thể khẳng định rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là nội dung xuyên suốt trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mô t đất
nước phát triển, mô t xã hô i trong sạch, môt chế đô dân chủ là ước mong của
nhân dân ta. Người dân V t Nam thực sự có hạnh phúc ngay trên Tổ quốc mình
khi những điều đó trở thành hiê n thực. Đô c lâ p dân tôc và hạnh phúc nhân dân
18
mãi mãi gắn liền với nhau như đôi cánh nâng đất nước Việt Nam vô cùng yêu
dấu bay cao, vươn xa, cùng nhân loại tiến về phía trước.
Qua hơn 36 năm đổi mới,“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” . Đó chính là thành quả của quá trình
7
kiên định, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và nhận thức mới về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin trong
công cuộc đổi mới đất nước.
7 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021, tr.25.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ DG&ĐT, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội,
2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 129.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 89.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.
5. https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Ve-
nhung-cot- loi-trong-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-156
6. https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-chu-
nghia-xa- hoi.htm
7. http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-
bat/item/2389-quan- diem-ho-chi-minh-ve-nhiem-vu-cham-lo-doi-song-am-no-
hanh-phuc-chonhan-dan.html
8. http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-
bat/item/2389-quan- diem-ho-chi-minh-ve-nhiem-vu-cham-lo-doi-song-am-no-
hanh-phuc-chonhan-dan.html
9. https://tapchicongsan.org.vn/chinh-tri-xay-dung-
dang/-/2018/819653/cham- lo-doi-song-nhan-dan-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-
trong-giai-doan-hiennay.aspx
20
| 1/22

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------- -------- BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay Họ và tên sinh viên : Mã số sinh viên : Lớp tín chỉ : Số thứ tự :
Hà Nội, tháng 10 năm 2023 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................2
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội2
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và độc lập dân tộc.............2
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc...........................................2
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.....................2
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội..................4
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội...............................................................................................4
3.1. Về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã
hội..............................................................................................................4
3.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam.............................5
3.3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội..............................................................6
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc phải gắn liền với tự
do, hạnh phúc của nhân dân......................................................................8
1. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp
cách mạng:................................................................................................8
2. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục
tiêu từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.9
3. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những
tầng lớp xã hội dễ bị tổn thương nhất...................................................10
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay....................10
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn
tất yếu, khách quan của cách mạng Việt Nam....................................10
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
lịch sử mới...............................................................................................12
2. Một số vấn đề rút ra....................................................................15
3. Liên hệ trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.................................................17
KẾT LUẬN..........................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................19 PHẦN MỞ ĐẦU
Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mỗi
người, quyền có cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, trẻ
em được nuôi dưỡng, chăm sóc, người già, người nghèo, người tàn tật được giúp
đỡ. Các quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được chú trọng
và hoàn thiện. Ở Bác, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất trong cả
nhận thức và hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật mà
Người mong muốn thực hiện. Không có độc lập chân chính, bền vững thì không
thể thực hiện được quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền
cơ bản, thiết thực của con người.
Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, ký tên Hồ
Chí Minh; đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17-10-1945, Bác viết: “Nếu nước
độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Quán triệt tư tưởng của Người, những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời
sống mọi mặt của nhân dân; chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó là sự thống nhất
giữa quyền và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của
công dân, như tâm nguyện của Bác kính yêu.
Thực chất quan điểm trên của Người là muốn nói đến mối quan hệ
khăng khít giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của cách mạng Việt
Nam. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đi
làm rõ luận điểm trên và xem rằng ý nghĩa của nó có còn giá trị với Việt Nam hiện nay không. 1 NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và độc lập dân tộc
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
Mác và Ăngghen nêu ra các quan điểm có tính chất phương pháp luận để
giải quyết các vấn đề dân tộc. Trên cơ sở đó, cùng với sự phân tích hai xu hướng
của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra “Cương lĩnh dân tộc” tao cơ sở cho
đường lối, chính sách dân tộc cho các Đảng cộng sản trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được
quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương
lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Độc lập dân tộc phải đi đôi với liên kết dân tộc.
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa:
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân tộc
thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền thiêng
liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp nhuần
nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất và tổng
thể. Nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp thống
nhất với lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với nhiệm vụ giải
phóng dân tộc và do vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải gắn liền
với lợi ích và nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và trong toàn cục thì
cách đặt vấn đề như vậy về dân tộc cũng là vì giai cấp công nhân. Từ giác ngộ
dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn bản về nhận thức mà
Hồ Chí Minh là người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhờ
giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác ngộ dân tộc, xác định và kiên
trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân và dân tộc. Với Người, cách
mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô
sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, phải xây dựng được khối
đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh công nông, phải được tiến hành
chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Một là, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
các dân tộc:
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền 2
thống Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc
lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh từng nói: “ Cái mà tôi
cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.” Người
đã sớm nhận thức được đầy đủ quyền dân tộc, ý thức dân tộc và chủ động, tích
cực đấu tranh giành lại quyền thiêng liêng đó:
Người đã khai thác, tiếp thu yếu tố tích cực của Cách mạng tư sản thông
qua nội dung của hai bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền 1791 của Cách mạng Pháp, tiếp nhận những yếu tố có giá
trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy. Từ đó Người đã khái quát nên những
chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc trong bản Tuyên ngôn
độc lập bất hủ: “Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”.
Xác định rõ mục tiêu đấu tranh là đầu tiên là giành lại độc lập cho dân
tộc: a, Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b, Làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập
Khẳng định độc lập dân tộc là quyền thiêng bất khả xâm phạm: “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực sự đã thành một nước tự do
và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
Quyết tâm chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc ấm no, hạnh phúc
của nhân dân. Trong thư gửi Liên hợp quốc 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “ Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân
chúng tôi cũn kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng
liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
Hai là, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân:
Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng
chả có ý nghĩa gì. Người đánh giá rất cao học thuyết “ Tam dân” của Tôn Trung
Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Dân chỉ biết rõ ý nghĩa của độc lập dân tộc khi mà dân được ăn no, mặc
đủ. Bởi vậy khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đòi hỏi chính phủ cách mạng phải quan tâm đến đời sống thiết thực của
nhân dân, làm cho dân có ăn có mặc, có chỗ ở, được học hành. Người cho rằng
phải thực hiện thành công 4 điều đó để dân ta xứng đáng với tự do độc lập và
giúp sức cho tự do độc lập.
Ba là, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự , hoàn toàn và triệt để: 3
Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân Việt Nam quyết đấu tranh cho độc lập dân
tộc – chủ quyền – toàn vẹn lãnh thổ. Theo Người, một dân tộc độc lập thật sự
tức là các quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo, dân tộc đó có quyền tự
quyết trên tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Nói tóm lại, Việt Nam là
nước độc lập phải thực sự trên nguyên tắc nước Việt Nam là của người Việt Nam.
Bốn là, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, quy luật tồn tại và phát triển
đất nước. Người khẳng định: “ Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một”. Có thể khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ
quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Một là, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản:
với tư
cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà
việc xây dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu.
Hai là, dù còn tồn đọng nhiều tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã
hội không còn áp bức, bóc lột, người dân được làm chủ. Theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, cần phải chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân
cách, bảo đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong
sự hài hoà giữa cá nhân và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ
Chí Minh đưa ra quan niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó mình vì mọi
người, mọi người vì mình.
Ba là, mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động.
Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề quan
trọng mà Người đặc biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu
nhất của nhân dân, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ,
bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển.
Quan niệm này đã đặt nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
3.1. Về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội 4
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ
sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, con đường cách mạng Việt
Nam có hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản,
trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được thực
hiện tiến trình từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở
giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách.
Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân loại. Với
dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi
máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, độc
lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập
thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa
vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn
liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân
tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi
đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng
dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều
kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Độc lập dân tộc tạo tiền
đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã
hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc
lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao
giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân,
những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để
đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc
hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng
định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các
dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo 5
đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính”.
3.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt
Nam không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập
dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong
sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải
thực hiện xây dựng Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó
công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. Đảng phải xây dựng, củng cố và
tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng
khối đại đoàn kết dân tộc. Người xác định công - nông là gốc, là chủ lực của
cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất
nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đòi hỏi công - nông - trí thức
đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận
được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công
- nông và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là
mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không
coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có liên hệ
chặt chẽ với cách mạng thế giới. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,
Người có nhiều chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng
hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
khách quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều
kiện bảo đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra
đời và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên 6
phạm vi thế giới. Tư tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20
và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam thì con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã
thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục
giành những thắng lợi lịch sử suốt hơn 90 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tiễn cách
mạng Việt Nam qua ba thời kỳ:
Thời kỳ 1930-1945: Hồ Chí Minh xác định tính chất cách mạng Việt Nam
là con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay
sai của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam “làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; xác
định đối tượng đấu tranh của cách mạng là đế quốc xâm lược, phong kiến tay
sai, tầng lớp tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc; xác định rõ lực lượng
cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tầng
lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong
đó nòng cốt là liên minh công - nông, tập hợp dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc
do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; xác định đúng đắn cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, có mối
quan hệ khăng khít với cách mạng vô sản “chính quốc”, cách mạng giải phóng
dân tộc có tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản “chính
quốc”, tác động tích cực tới cách mạng “chính quốc”.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám
1945 đã giành thắng lợi. Đó là thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí
Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô
sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1945-1954: Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ
sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”. Thời kỳ
này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con
đường cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh
kiên trì quan điểm phát huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi
với ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. Nét độc đáo, đặc sắc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở thời kỳ này là Người
đã đề ra và thực thi nhất quán đường lối :”vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”.
Đường lối đó phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc, dựng nước đi đôi 7
với giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới; là
nguyên nhân quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thời kỳ 1954-1975: Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển
tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở
thời kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây
dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong mối
quan hệ giữa cách mạng hai miền, Người xác định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ
cách mạng từng miền và tác động, hỗ trợ lẫn nhau của cách mạng hai miền; đây
là sự cụ thể hoá nội dung con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa
nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã
đề xuất và kiên trì bảo vệ.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải
phóng dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực
lượng để đánh đổ là đế quốc Mỹ. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có những
quan niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò của
chiến lược đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng; từ đó đã xây dựng cho
cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng Mặt trận”: Mặt trận dân tộc
thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng
chống Mỹ; Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ.
Sức mạnh của “ba tầng Mặt trận” đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn làm nên
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương
đối hoàn chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ
thống, có nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã làm rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính
đặc thù của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước.
Người đã có những chỉ dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện
pháp, bước đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do,
hạnh phúc của nhân dân 8
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành được độc lập dân tộc và đem lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho người dân là hai mục tiêu cốt lõi của cách mạng Việt
Nam; độc lập dân tộc và ấm no, hạnh phúc là hai nội dung xuyên suốt, bao trùm
có quan hệ khăng khít và biện chứng. Người đã chỉ rõ: “Nước độc lập mà người
dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”.
Quan điểm này của Người được thể hiện ở một số luận điểm sau:
1. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng:
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, đất nước giành được độc lập
nhưng hậu quả của chiến tranh để lại hết sức nặng nề khiến nhân dân phải sống
trong cảnh khốn cùng, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Chính phủ
mới là phải chăm lo cho đời sống của nhân dân. Vì vậy ngay trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới, Người đã đề ra sáu nhiệm cụ cấp
bách cần giải quyết nhằm đáp ứng những đòi hỏi trước mắt của nhân dân là chống
nạn đói, chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội khác; xóa bỏ thuế thân, thuế chơ, thuế đò,…
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, Người đã viết tâm thư kêu gọi toàn quốc
ra sức cứu đói và những lời khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản
xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!... Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ
vững quyền tự do, độc lập” hay lời kêu gọi “một miếng khi đói bằng một gói khi
no” mà Người đã gương mẫu thực hiện. Cùng với đó, chiến dịch diệt giặc dốt cũng
được phát động, phong trào thanh toán nạn mù chữ được dâng cao trên cả nước.
Công tác văn hóa, giáo dục cũng được chính quyền mới quan tâm đẩy mạnh. Để
thiết lập cơ sở pháp lý cho nhà nước kiểu mới của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký sắc lệnh về Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến pháp,
khẳng định quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do, dân chủ khác của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân
là một trong những mục tiêu quan trọng của đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta. Điều đó được thể hiện ngay trong quan điểm của Người về chủ
nghĩa xã hội. Người nói “ Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ
mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao
động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt thì dần được xóa bỏ.
Tóm lại, xã họi ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt,
đó là chủ nghĩa xã hội”. 9
2. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhiệm
vụ chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngay từ những ngày đầu
sau Cách mạng Tháng tám thành công, Người đã chỉ rõ “Việc gì lợi cho dân, ta
phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Người cũng khẳng
định Đảng ta, Nhà nước ta là từ nhân dân mà ra, vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân
dân. Vì thế, cán bộ Đảng viên và chính quyền từ trên xuống dưới phải hết sức
quan tâm đến đời sống nhân dân để tăng tính đoàn kết dân tộc, ổn định xã hội và
phát huy được tiềm lực của toàn dân.
3. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp
xã hội dễ bị tổn thương nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm chăm lo hạnh phúc của các
tầng lớp nhân dân mà Người còn dành sự quan tâm đặc biệt cho “những người
đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình”, những liệt sĩ anh hùng đã
anh dũng hy sinh cho Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các
lực lượng trẻ đi đầu trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ coi “đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã
hội ở nước ta”. Người cũng đề cao đóng góp của phụ nữ trong kháng chiến và
luôn quan tâm đến quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cảm thông và hiểu sâu sắc nhất sự hy
sinh, chịu đựng gian khổ của nông dân qua hàng trăm năm bị phong kiến thực
dân đàn áp, bóc lột nên Người luôn chăm lo cho đời sống của nhân dân, Người
quan niệm “chỉ khi nhân dân được sống ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới phát
triển, nền đôc lâp mới bền vững”.
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất yếu,

khách quan của cách mạng Việt Nam
Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên tại Hội nghị thành lập, Đảng đã xác định mục tiêu chiến lược:
Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập để đi tới xã hội cộng sản. Từ đây, dân tộc
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã đi theo con đường cách mạng
đúng đắn để tự giải phóng mình, xóa bỏ ách nô lệ, giành độc lập, tự do; sự
nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với sự nghiệp giải phóng những người lao
động bị áp bức, bóc lột; cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam gắn 10
liền với cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
thế giới. Mục tiêu này được thực hiện nhất quán qua các giai đoạn cách mạng:
Đảng lãnh đạo kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
Đảng xác định nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ
trọng tâm trước hết, mục tiêu chủ nghĩa xã hội chưa đặt ra trực tiếp mà là
phương hướng tiến lên. Đấu tranh giành độc lập dân tộc thắng lợi tạo điều kiện,
tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, phương hướng tiến lên chủ nghĩa
xã hội có ảnh hưởng quyết định đến tính chất triệt để và tạo ra sức mạnh của
cách mạng giải phóng dân tộc.
Từ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, nhất là từ Hội nghị Trung ương
lần thứ tám (5-1941), Đảng đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Đây là Nghị quyết có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta trong
đấu tranh giành chính quyền, đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”1.
Đảng lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây
dựng cơ sở vật chất ban đầu cho chủ nghĩa xã hội (1945-1975)
Ngay sau khi Việt Nam vừa giành được độc lập, thực dân Pháp quay lại
xâm lược nước ta, Đảng xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
là bảo vệ nền độc lập dân tộc, tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc. Đối với nhiệm vụ giải phóng giai cấp, Đảng chủ
trương tiếp tục tiến hành từng bước, sát với tiến trình thực hiện nhiệm vụ chống
đế quốc và phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc. Đảng đã lãnh đạo nhân dân xây
dựng và củng cố chính quyền cách mạng, chống “giặc đói”, “giặc dốt”, không
ngừng nâng cao nội lực cách mạng, tạo cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh
chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ nền độc lập non trẻ, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng chủ trương
thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa chống ngoại xâm vừa xây
dựng chế độ dân chủ mới. Chế độ mới không chỉ có ý nghĩa về mặt tinh thần mà
còn tạo ra lực lượng vật chất to lớn, bảo đảm kháng chiến lâu dài, càng đánh
càng thắng, càng đánh càng mạnh, tiến tới đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp. Chế độ dân chủ mới đã khơi dậy ý chí, khát vọng, tạo động
lực cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đưa cuộc kháng chiến đến thành
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.3. 11
công, đồng thời là tiền đề trực tiếp cho xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ tiếp theo.
Trong giai đoạn 1954-1975, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội thể
hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng
XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt
Nam là kết quả của sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sức mạnh
của chế độ mới được khơi dậy trên nền tảng của tinh thần dân tộc và chủ nghĩa
yêu nước. Trong Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước, ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định chân lý Không có gì quý hơn độc lập tự do. Nhân dân
hai miền Nam - Bắc cùng chung sức, phối hợp đánh thắng đế quốc Mỹ trên cả
hai miền đất nước. Miền Nam đã thể hiện xuất sắc vai trò quyết định trực tiếp
đánh đuổi đế quốc Mỹ, đánh đổ chế độ tay sai, đồng thời góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên cả
nước từ năm 1975 đến nay
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải đưa
ra được các giải pháp, bước đi, cách làm thực sự khoa học, nhằm thực hiện được
mục tiêu đó. Trước đổi mới, do chủ quan, duy ý chí, giáo điều, nóng vội, Đảng
đã phạm những khuyết điểm trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho
nền kinh tế từng bước rơi vào khó khăn, khủng hoảng. Những yếu kém về kinh
tế - xã hội, những hạn chế về tư duy lý luận, khuyết điểm về lãnh đạo, tổ chức
thực hiện... còn làm ảnh hưởng đến các nguồn lực củng cố quốc phòng, an ninh
và vị thế đất nước. Do đó, đổi mới trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, xuất phát
từ đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước và của toàn Đảng, toàn dân, nhằm
tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp đặc điểm Việt Nam.
Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà nhằm làm
cho mục tiêu đó đạt được bằng những bước đi, phương thức và biện pháp phù
hợp hơn. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều 12
kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới”2.
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử mới
Thực tiễn của cách mạng Việt Nam từ năm 1975 đến nay cho thấy, độc lập
dân tộc mang những nội dung mới: Phải bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, biển, đảo của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc và con đường phát triển của đất nước; nêu cao ý chí tự lực, tự
cường, tự hào, tự tôn dân tộc; thể hiện tính cố kết, tinh thần đại đoàn kết toàn
dân tộc; bảo vệ và phát triển sức sống của nền văn hóa dân tộc; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ nhân dân; hội nhập quốc tế nhưng
bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là lý tưởng, mục tiêu mà
còn trở thành nguồn gốc, động lực mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Khát
vọng độc lập cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân có ý nghĩa to lớn
trong việc tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp và thành phần trong dân tộc,
tạo nên lực lượng cách mạng rộng lớn và sức mạnh to lớn. Mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã
hội tốt đẹp của nhân dân.
Độc lập dân tộc trên cơ sở độc lập thực sự về kinh tế, chính trị, văn hóa,
ngoại giao; độc lập dân tộc phải bảo đảm xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột và nô
dịch của dân tộc này với dân tộc khác cả về kinh tế, chính trị và tinh thần; quan
hệ giữa các nước dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng chủ
quyền dân tộc, cùng đóng góp vào lợi ích chung của các dân tộc, vì hòa bình thế
giới, vì sự tiến bộ của loài người. Những giá trị đó chỉ có thể đạt được dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa. Chỉ có con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc
mới đạt được chân giá trị của nó, đưa dân tộc phát triển phồn vinh về kinh tế,
phong phú về tinh thần, dân chủ được bảo đảm; phát huy cao độ sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.
Gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
huy động được lực lượng to lớn nhất của toàn dân tộc, các giai cấp, tầng lớp
nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Giành được độc lập dân
2 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70. 13
tộc mà không đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phản
bội lại sự hy sinh của lớp lớp các chiến sĩ cách mạng tiền bối trong quá trình đấu
tranh giành độc lập dân tộc, đồng thời độc lập dân tộc cũng không được bảo đảm vững chắc.
Nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để đổi mới và hội nhập, tại Đại hội XIII
(năm 2021), Đảng đã đưa ra quan điểm chỉ đạo về tầm nhìn và định hướng phát
triển đất nước, trong đó, nêu rõ bốn kiên định: “Kiên định và vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên
định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”3.
Trải qua hơn 36 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng
được bổ sung, hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Nhờ sự nỗ lực,
thống nhất cao của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, đất nước đã có sự phát
triển mạnh mẽ, toàn diện, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế phát triển với tốc độ tương đối cao.
Tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6%/năm. Năm 2020, do
ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhiều nước “tăng trưởng âm”, nhưng tăng
trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt 2,91%, là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao
nhất thế giới. Thu nhập bình quân đầu người năm 2020 đạt 2.779 USD. Chất
lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai
đoạn 2011-2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016-20204. Các cân đối lớn của
nền kinh tế tiếp tục được bảo đảm và có bước được cải thiện; tài chính - ngân
sách nhà nước được tăng cường. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo từ 58% (năm
1993), 9,88% (năm 2016) giảm xuống còn dưới 3% (năm 2020)5.
Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, bảo vệ môi trường phát triển. Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách
3 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.109
4 ăn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 60-61
5 Nguyễn Phú Trọng: Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một
giai đoạn phát triển mới, Tạp chí Cộng sản, số 949 (9-2020) 14
phát triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế, lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo. Văn hóa, xây dựng con
người Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật. Từng bước
hoàn thiện đồng bộ và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân
tộc, tôn giáo; phát triển thị trường lao động, hướng tới xây dựng quan hệ lao
động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế.
Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: Một trong những thành tựu quan trọng
của 35 năm đổi mới, đó là: “Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được giữ vững và tăng cường quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật”6.
2. Một số vấn đề rút ra
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo, dù trong hoàn cảnh khó khăn, thử
thách như thế nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là sự nhất quán giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với
Đảng ta về con đường của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đã khẳng định đi lên
chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn của cách mạng Việt Nam và phù hợp
với xu thế phát triển của lịch sử.
Nhờ đường lối đúng đắn ấy, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Sau hơn 36 năm đổi mới, lý luận về đường lối đổi mới, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta ngày càng
hoàn thiện. Đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát
triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống nhân dân
được nâng lên rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần. Từ đó, Văn kiện Đại hội XIII
đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay”. Đây là niềm tự hào, là nguồn lực và là động lực to
lớn, là niềm tin lớn lao để toàn Đảng, toàn dân ta vượt qua những khó khăn,
thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.
Để chống phá con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các thế lực
thù địch điên cuồng ra sức chống phá từ việc phủ nhận lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến việc thành lập các tổ chức, mua
chuộc, xúi dục, kích động, gây bạo loạn lật đổ, cổ súy cho con đường tư bản chủ
nghĩa, nhằm tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Mặc dù chủ nghĩa tư bản đang đạt nhiều thành tựu, đặc biệt về khoa học
6 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.67. 15
công nghệ, giải phóng sức lao động, nhưng những khuyết tật trong lòng xã hội tư
bản vẫn bộc lộ mạnh mẽ và không thể khắc phục. Các cuộc khủng hoảng kinh tế
liên tiếp xảy ra, xung đột sắc tộc, tôn giáo có chiều hướng gia tăng, bất công xã hội,
phân hóa giàu nghèo ngày càng gay gắt… Từ đó, xuất hiện ngày càng nhiều các
phong trào phản kháng xã hội, biểu tình, bạo loạn xảy ra ở nhiều quốc gia tư bản.
Đất nước Việt Nam chúng ta đã trải qua những năm tháng đau thương do
chiến tranh gây ra. Giờ đây, hơn bao giờ hết, cần một môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước, xây dựng một xã hội thân ái, đoàn kết, tiến bộ, nhân
văn, phát triển bền vững, xây dựng hệ thống chính trị mà quyền lực thuộc về
nhân dân, đời sống nhân dân không ngừng nâng lên… Tất cả những điều đó chỉ
có được trong chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và từ thực tiễn thế giới cũng như thực tiễn Việt Nam đã chứng
minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng
của Việt Nam. Điều đó một lần nữa được khẳng định trong bài viết “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân dịp kỷ niệm 131 năm
ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và
đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Đây là cơ sở lý luận và
khoa học để xây dựng, củng cố niềm tin tất thắng của đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta
Chăm lo đời sống nhân dân là nhiệm vụ chính trị trung tâm, là thước đo
và tiêu chí đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với
nhân dân. Vì vậy, để tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh, nhất là về “Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân
chủ, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm:
Một là, nâng cao nhận thức, cụ thể hóa việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, về chăm lo đời sống nhân dân nói
riêng gắn với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, địa phương, đơn vị và cá nhân
.
Đưa nội dung này vào chương trình, kế hoạch cụ thể của cơ quan, địa phương,
đơn vị và cá nhân hằng năm, hằng quý, nhất là thành chuyên đề sinh hoạt tại chi
bộ gắn với nhiệm vụ chuyên môn, bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và
hành động của mỗi cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên.
Hai là, gắn thực hiện nội dung chăm lo đời sống nhân dân với việc tập
trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, cấp bách tại mỗi địa phương, cơ 16
quan, đơn vị; với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các cuộc vận động,
các phong trào thi đua yêu nước nhằm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị
năm 2020 và những năm tiếp theo, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Ba là, chú trọng việc lựa chọn, xây dựng và tuyên truyền sâu rộng những
cá nhân, tập thể điển hình, những cách làm hay trong học tập, làm theo Bác về
sự tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân để tạo sự lan
tỏa trong cộng đồng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có hình thức kỷ
luật nghiêm những cơ quan, địa phương, đơn vị, cá nhân không hoàn thành
nhiệm vụ chăm lo đời sống nhân dân, gây bức xúc, phiền hà, nhũng nhiễu, làm
suy giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ.
Bốn là, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện,
diễn ra trên mọi mặt của đời sống và sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện
bằng chính nguồn lực con người. Đó là những con người có tri thức khoa học,
kỹ thuật và công nghệ, về quản lý và dịch vụ. Để phát triển, con người phải
được trang bị vững chắc về học vấn nền tảng, đào tạo con người có trình độ tay
nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản xuất, hình thành phong
cách lao động công nghiệp, lao động sáng tạo.
3. Liên hệ trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, sinh viên nói chung, bản thân nói riêng phải tích cực tham gia học
tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng.
Bối cảnh trong nước và quốc tế đang tác động lên tất cả các đối tượng
sinh viên, tác động một cách toàn diện lên tư tưởng, tình cảm, lối sống, nhu cầu
của từng sinh viên. Do đó, sinh viên phải rèn luyện để có lập trường tư tưởng
vững vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh;
tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ
cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh
chống laaij âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu
cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng…
Thứ hai, bản thân cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ
văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề. 17
Trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội trong nước và hội nhập quốc tế,
sinh viên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề khả năng thực tế, kỹ
năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường lao
động quốc tế. Sinh viên phải tích cực tham gia xây dựng xã hội học tập với
phương châm: người sinh viên nào cũng phải học ở đâu, làm gì, thời gian nào
cũng phải học, người sinh viên nào cũng phải xác định tham gia họ tập thường
xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân.
Thứ ba, bản thân phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Bản thân phải tích cực tham gia bảo vệ và xây dựng hệ thóng chính trị ở
các cấp vững mạnh và tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững
chắc; tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội của sinh viên, phấn đấu trở thành
đoàn viên, đảng viên của Đảng và hội viên của các quần chúng nhân dân.
Thứ tư, tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp.
Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường
và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
Thứ năm, xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng an ninh.
Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự nguyện, tự
giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ
quốc và giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
Thứ sáu, cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia
giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để
nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có
hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí
hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo… KẾT LUẬN
Như vậy, có thể khẳng định rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là nội dung xuyên suốt trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mô ‡t đất
nước phát triển, mô ‡t xã hô ‡i trong sạch, mô ‡t chế đô ‡ dân chủ là ước mong của
nhân dân ta. Người dân Viê ‡t Nam thực sự có hạnh phúc ngay trên Tổ quốc mình
khi những điều đó trở thành hiê ‡n thực. Đô ‡c lâ ‡p dân tô ‡c và hạnh phúc nhân dân 18
mãi mãi gắn liền với nhau như đôi cánh nâng đất nước Việt Nam vô cùng yêu
dấu bay cao, vươn xa, cùng nhân loại tiến về phía trước.
Qua hơn 36 năm đổi mới,“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”7. Đó chính là thành quả của quá trình
kiên định, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và nhận thức mới về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin trong
công cuộc đổi mới đất nước.
7 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.25. 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ DG&ĐT, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 129.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 89.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021. 5.
https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Ve-
nhung-cot- loi-trong-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-156 6.
https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-chu- nghia-xa- hoi.htm 7.
http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-
bat/item/2389-quan- diem-ho-chi-minh-ve-nhiem-vu-cham-lo-doi-song-am-no- hanh-phuc-chonhan-dan.html 8.
http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-
bat/item/2389-quan- diem-ho-chi-minh-ve-nhiem-vu-cham-lo-doi-song-am-no- hanh-phuc-chonhan-dan.html 9.
https://tapchicongsan.org.vn/chinh-tri-xay-dung-
dang/-/2018/819653/cham- lo-doi-song-nhan-dan-theo-tu-tuong-ho-chi-minh- trong-giai-doan-hiennay.aspx 20