Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người dân không được hưởng độc lập tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người dân không được hưởng độc lập tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Thông tin:
12 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người dân không được hưởng độc lập tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người dân không được hưởng độc lập tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

48 24 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45740413
BỘ GD&ĐT VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---
---
BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI
Phân tích lun điểm của Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người dân
:
không được hưởng độc lập tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” Làm rõ
ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Họ tên
:
Nguyễn Thu Hương
MSV
:
11217100
Lớp
:
LLTT1101(222)_24 – TTHCM
:
GV hướng dẫn
Thầy Nguyễn Hồng Sơn
Hà Nội 2023
lOMoARcPSD| 45740413
1
NỘI DUNG CHÍNH
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay gắn
liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Điều đó nói lên
một khát khao to lớn của dân tộc ta luôn mong muốn được một nền độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân đó cũng một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ
của dân tộc mà H C Minh là hiện thân cho tinh thần ấy. Người nói rằng: “Cái mà
tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.”
Năm 1919, nhân dịp các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới
thứ nhất họp Hội nghị Vécxây (Pháp), thay mặt những người Việt Nam yêu nước,
Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam, bao gồm 8
điểm với 2 nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền
tự do, dân chủ của người dân Đông Dương. Bản yêu sách không được Hội nghị chấp
nhận nhưng qua sự kiện trên cho thấy lần đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền
của các dân tộc thuộc địa trước hết quyền bình đẳng tự do đã hình thành.
Căn cứ vào những quyền tự do, bình đẳng quyền con người “những quyền
không ai thể xâm phạm được” được ghi trong bản Tuyên ngôn độc lập của cách
mạng Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền n quyền của Cách mạng Pháp
1791, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định những giá trị thiêng liêng, bất biến về quyền
dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có
lOMoARcPSD| 45740413
2
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối
cãi được.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (1930), Hồ Chí Minh xác định mục tiêu
chính trị của Đảng là: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, thay mặt
chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào
thế giới rằng: “Nước Việt Nam quyền hưởng tdo độc lập, sự thực đã thành
một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy.” Ý chí
quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
đế quốc Mỹ xâm lược. Trong lời kêu gọi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa
Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình.
Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những
quyền thiêng liêng nhất. Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc độc lập cho đất nước.”
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Người ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt
đá, bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân tộc - giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt
Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.”
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam: ạt đưa
quân viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” và gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh
ác liệt đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của
các dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới: “Không quý hơn độc
lập, tự do”. Với tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng
chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký Hiệp định Pari,
lOMoARcPSD| 45740413
3
cam kết tôn trng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về
nước.
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người
đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân tộc
độc lập, dân quyền tự do dân sinh hạnh phúc. bằng lẽ đầy thuyết phục, trong
khi viện dẫn bản Tuyên ngôn nhân quyền dân quyền của Cách mạng Pháp năm
1791 “Người ta sinh ra tự do bình đẳng về quyền lợi, phải luôn luôn được tự
do bình đẳng về quyền lợi.” Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương
nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi. “Đó là những lẽ phải không
ai chối cãi được”. Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người cũng xác
định ràng mục tiêu đấu tranh của cách mạng “Làm cho nước Nam được hoàn
toàn độc lập… Thủ tiêu hết các thứ quốc trái… Thâu hết ruộng đất của đế quốc ch
nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế do dân cày nghèo… Thi
hành luật ngày làm 8 giờ.” Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà
được độc lập một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định độc lập phải gắn với tự do.
Người nói: “Nước độc lập dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Độc lập phải gắn với hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, trong hoàn cảnh nhân dân đói rét, chữ…, Hồ Chí
Minh yêu cầu chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân ăn, làm cho dân có mặc,
làm cho dân chỗ ở, làm cho dân học hành. thể thấy rằng, trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Người luôn coi độc lập gắn liền với tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. Người từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ một
sự ham muốn, ham muốn tột bậc, làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
lOMoARcPSD| 45740413
4
nhân dân ta được hoàn toàn tdo, đồng bào ta ai cũng cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành.”
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để
Trong quá trình đi xâm lược các nước, bọn thực dân, đế quốc hay dùng chiêu
bài mị dân, thành lập các chính phủnhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập
tự do” giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa nhưng thực chất nhằm che đậy
bản chất “ăn cướp” và “giết người” của chúng.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải độc lập thực sự, hoàn toàn triệt
để trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không quyền
tự quyết về ngoại giao, không quân quân đội riêng, không nền tài chính
riêng…, thì độc lập đó chẳng ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất
nước ta sau Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất nạn thù trong
giặc ngoài, đbảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được, Người đã cùng Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp ngoại
giao, để đảm bảo nền độc lập thực sự của đất nước. 4. Độc lập dân tộc gắn liền với
thống nhất và toàn vẹn lãnh th
Trong lịch sử, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu xâm lược và chia cắt đất nước
của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược đã chia đất nước ta ra ba kỳ, mi kỳ có chế
độ cai trị riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta bị quân Tưởng Giới
Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp xâm lược và sau khi độc chiếm hoàn
toàn Việt Nam, một lần nữa thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là “Nam Kỳ tự trị” hòng
chia cắt nước ta một lần nữa. Nhưng, trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946) Hồ
Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước
lOMoARcPSD| 45740413
5
Việt Nam. ng thể cạn, núi thể mòn, song chân đó không bao giờ thay đổi”.
Sau khi hiệp định Giơnevơ năm 1954 được kỳ kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị
chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh để thống nhất Tổ quốc.
Tháng 2/ 1958, Người khẳng định: “Nước Việt Nam một, dân tộc Việt Nam là
một.” Trong Di chúc, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của
cách mạng, vào sự thống nhất của nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân
dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước
ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp
một nhà. thể khẳng định rằng, tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất
Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Hồ C Minh.
II. Ý nghĩa của lun điểm đối với Việt Nam hiện nay
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi hy sinh, gian khổ đã thu được nhiều
thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau gần
40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng sự nỗ lực của toàn dân, toàn quân
nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành tựu rực rỡ. Đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân từng bước được cải thiện và không ngừng được nâng cao.
Trong những m qua, đặc biệt trong gần 40 năm đổi mới, các chủ trương
chính sách và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước luôn hướng tới đem
lại hạnh phúc cho con người, đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững. Điển hình
công cuộc xóa đói giảm nghèo nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn.Thành
tựu đáng kể của Việt Nam trong công cuộc xóa đói giảm nghèo đã được quốc tế công
nhận: tỷ lệ người nghèo đã giảm mạnh từ 57% vào đầu những năm 90 xuống còn
5,2% vào năm 2020. Tuy nhiên gần đây hơn, hậu quả của COVID-19 đã làm gián
đoạn quá trình tạo việc làm tăng thu nhập, có khả năng đẩy lùi tiến bộ trong giảm
lOMoARcPSD| 45740413
6
nghèo và gia tăng bất bình đẳng hơn nữa do thu nhập của phụ nữ, những người làm
việc trong khu vực phi chính thức và các hộ gia đình nghèo nhất phục hồi chậm nhất
từ giữa năm 2020 đến tháng 3 năm 2021. Theo Tổng cục thống kê, GDP bình quân
đầu người năm 2022 đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD. Nhìn lại
gần 40 năm đổi mới, thể nhận thấy, chính sách hội nước ta được triển khai
tích cực, toàn diện, với hệ thống văn bản pháp đồng bộ, ngày càng hoàn thiện;
phản ánh tính ưu việt của chế đhội chủ nghĩa, đáp ứng được nguyện vọng của
nhân dân và đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng trong việc chăm lo cho
con người.
Thứ nhất, các chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển biến
theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa. Bộ luật Lao động ban hành năm 1994 được sửa đổi nhiều lần (2002, 2006,
2007, 2012) đã tạo hành lang pháp cho việc hoàn thiện các tiêu chuẩn lao động,
thiết lập quan hệ lao động giữa các chủ thể, điều chỉnh các quan hệ hội liên
quan đến quan hệ lao động như: hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền
lương, bảo hiểm hội, thời gian làm việc, vệ sinh lao động, kỷ luật lao động, giải
quyết tranh chấp cho người lao động… Việc xây dựng, triển khai thực hiện Luật Việc
làm và Chương trình việc làm công đã góp phần định hướng nghề nghiệp, ổn định
phát triển thị trường lao động Việt Nam. Chất lượng lao động qua đào tạo không
ngừng tăng lên, cơ cấu ngày càng phù hợp thị trường lao động. Lực lượng lao động
từ 15 tuổi trở lên quý IV năm 2021 là 50,7 triệu người. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao
động quý IV năm 2021 67,7%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo bằng, chứng
chỉ quý IV năm 2021 là 26,1%.
Thứ hai, Đảng Nhà nước ta luôn nhất quán về chính sách giảm nghèo bền
vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện
lOMoARcPSD| 45740413
7
các nghị quyết của Chính phủ Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo,
những năm qua, nước ta thường xuyên chú trọng chính sách giảm nghèo đa chiều
khắc phục nguy tái nghèo, nhất đối với các huyện nghèo, khu vực biên
giới, đảo còn nhiều khó khăn; thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã hội so
với bình quân cả nước. Đồng thời, tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo theo từng thời
kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế - hội của đất nước. Nhờ đó, thành tựu về giảm
nghèo của Việt Nam được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao; tỷ lệ
hộ nghèo cả nước năm 2023 chỉ chiếm 4.03% tương đương với 1.057.374 hộ, tỷ lệ
hộ cận nghèo cả nước chiếm 3.49 % tương đương với 915.274 hộ.
Thứ ba, việc quan tâm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân nhiều tiến bộ. Hệ
thống sở y tế đã được hình thành trong cả nước; số bác , số giường bệnh trên
một vạn dân tăng nhanh; hệ thống dịch vụ y tế ngày càng mở rộng và nâng cao chất
lượng. Trong 10 năm gần đây, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng đã
được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và 20 luật liên quan đến lĩnh vực y tế,
dân số, tạo sở pháp quan trọng cho việc chăm sóc sức khỏe người dân. Các chủ
trương, giải pháp phát triển hệ thống y tế tương đối toàn diện, coi trọng cả về xây
dựng thể chế và phát triển đồng bộ: y tế dự phòng, y học cổ truyền, quản thuốc,
khám, chữa bệnh,... Trong năm 2022, số người tham gia bảo hiểm y tế đạt 91,1 triệu
người, chiếm 92,04% dân số, tăng hơn 2,2 triệu người so với năm 2021.
Thứ , chính sách ưu đãi người công được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan
tâm ngày càng mở rộng đối tượng, mức thụ hưởng với chế đưu đãi toàn diện
hơn. Cùng với chính sách ưu đãi của người có công, các đối tượng tham gia các thời
kỳ kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (quân nhân, thanh niên xung phong, dân
quân du kích…) tiếp tục được hưởng các chế độ, chính sách và hỗ trợ của nhà nước
cộng đồng. Các thiết chế chăm sóc người công, tri ân các anh hùng, liệt ngày
lOMoARcPSD| 45740413
8
càng hoàn thiện và được quan tâm đầu tư. Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ
được chú trọng, thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta trong điều
kiện mới.
Thứ năm, xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện,
đa dạng, ngày càng mở rộng, hiệu quả. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo kết hợp với xã
hội hóa, mở rộng sự chia sẻ của cộng đồng; đồng thời, phát triển mạnh hệ thống bảo
hiểm, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia.
Tính đến hết tháng 9/2022, đã trên 17,08 triệu người tham gia BHXH, đạt 37,01%
lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng khoảng 537.000 người so với cuối năm 2021,
trên 14 triệu người tham gia BHTN đạt 28,3% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng
627.000 người với cuối năm 2021. Hệ thống an sinh xã hội không ngừng phát triển
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khả năng huy động và cân đối nguồn
lực của đất nước trong từng thời kỳ; trong đó, ưu tiên những người hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Chính sách bảo trợ xã hội
được xây dựng từng bước hoàn thiện, đối tượng hưởng ngày càng nâng lên; mở
rộng các hình thức cứu trợ xã hội, giảm thiểu rủi ro…
Thứ sáu, từng bước đảm bảo cung ứng với chất lượng ngày càng cao hơn một
số dịch vụ xã hội bản cho người dân. Người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn
và đồng bào dân tộc thiểu số được đảm bảo nhu cầu tối thiểu về giáo dục, y tế, nhà
ở, nước sạch, thông tin. Nhà nước đã quan tâm xây dựng, ban hành và thực hiện
nhiều chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, chăm sóc bà mẹ và trẻ em, hôn nhân
và gia đình, chăm sóc người cao tuổi, phòng, chống tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình;
tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo; tăng cường đầu tư về
kết cấu hạ tầng, kinh phí cho miền núi, vùng sâu, vùng xa; bảo tồn, phát huy những
lOMoARcPSD| 45740413
9
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các dân tộc và các tôn giáo trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Nói chung việc chăm lo sức khỏe đời sống vật chất tinh thần cho người dân đã
được nâng cao rất nhiều đời sống người dân tăng cao sau gần 40 năm thực hiện đổi
mới Việt Nam đã được nhiều thành tựu to lớn toàn diện cùng với tăng trưởng kinh
tế sự ổn định của kinh tế vĩ mô được duy trì các mặt chính trị, xã hội, quc phòng an
ninh được đảm bảo và ổn định trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ thực
hiện tiến bộ công bằng xã hội gắn chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế phát triển
nguồn năng lao động và chất lượng lao động khoa học công nghệ. Thành tựu đó
ngày càng khẳng định luận điểm đúng đắn của Bác về vấn đđộc lập, tự do, hạnh
phúc sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới
khích lệ động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng góp phần quan trọng vào việc giữ
dưỡng ổn định chính trị - hội tiếp tục thúc đẩy snghiệp đổi mới toàn diện đất
nước với những bước tiến cao hơn.
Luận điểm của chtịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng đối với cán bộ
Đảng người dân Việt Nam. Đây đúng kim chỉ nam hành động trong mỗi cán
bộ nằm trong hàng ngũ Đảng, trong mỗi nhân thực hiện trách nhiệm phụng sự
nhân dân, đối với bạn sinh viên như chúng ta, thể coi thanh niên nguyên khí
của quốc gia mọi người phải nhận thức được rằng nhiệm vụ của chúng ta rất nặng
này phải tự hào là mình có quyền tự do không phải ai cũng có được điều đó, thấy
được công lao của người đi trước, thấy được truyền thống tố chất của người Việt
Nam. thể nói tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa hội CNXH con đường
quá độ lên CNXH ở Việt Nam thực sự nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho sự
nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay chúng ta cần học tập và phát huy tinh thần của
Bác.
lOMoARcPSD| 45740413
10
KẾT LUẬN
lOMoARcPSD| 45740413
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
| 1/12

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740413
BỘ GD&ĐT VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --- --- BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI : Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người dân
không được hưởng độc lập tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” Làm rõ
ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay. Họ tên : Nguyễn Thu Hương MSV : 11217100 Lớp
: LLTT1101(222)_24 – TTHCM
GV hướng dẫn : Thầy Nguyễn Hồng Sơn Hà Nội 2023 lOMoAR cPSD| 45740413 NỘI DUNG CHÍNH I.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay gắn
liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Điều đó nói lên
một khát khao to lớn của dân tộc ta là luôn mong muốn có được một nền độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân và đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ
của dân tộc mà Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy. Người nói rằng: “Cái mà
tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.”
Năm 1919, nhân dịp các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới
thứ nhất họp Hội nghị Vécxây (Pháp), thay mặt những người Việt Nam yêu nước,
Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam, bao gồm 8
điểm với 2 nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền
tự do, dân chủ của người dân Đông Dương. Bản yêu sách không được Hội nghị chấp
nhận nhưng qua sự kiện trên cho thấy lần đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền
của các dân tộc thuộc địa mà trước hết là quyền bình đẳng và tự do đã hình thành.
Căn cứ vào những quyền tự do, bình đẳng và quyền con người “những quyền mà
không ai có thể xâm phạm được” được ghi trong bản Tuyên ngôn độc lập của cách
mạng Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp
1791, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định những giá trị thiêng liêng, bất biến về quyền
dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có 1 lOMoAR cPSD| 45740413
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (1930), Hồ Chí Minh xác định mục tiêu
chính trị của Đảng là: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, thay mặt
chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và
thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành
một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.” Ý chí và
quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong lời kêu gọi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa
Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình.
Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những
quyền thiêng liêng nhất. Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước.”
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Người ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt
đá, bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân tộc - giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt
Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.”
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam: ồ ạt đưa
quân viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” và gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh
ác liệt đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của
các dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới: “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”. Với tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng
chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký Hiệp định Pari, 2 lOMoAR cPSD| 45740413
cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người
đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân tộc
độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Và bằng lý lẽ đầy thuyết phục, trong
khi viện dẫn bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm
1791 “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự
do và bình đẳng về quyền lợi.” Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương
nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi. “Đó là những lẽ phải không
ai chối cãi được”. Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người cũng xác
định rõ ràng mục tiêu đấu tranh của cách mạng là “Làm cho nước Nam được hoàn
toàn độc lập… Thủ tiêu hết các thứ quốc trái… Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ
nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế do dân cày nghèo… Thi
hành luật ngày làm 8 giờ.” Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà
được độc lập và một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định độc lập phải gắn với tự do.
Người nói: “Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Độc lập phải gắn với hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, trong hoàn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ…, Hồ Chí
Minh yêu cầu chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc,
làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành. Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Người luôn coi độc lập gắn liền với tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. Người từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một
sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, 3 lOMoAR cPSD| 45740413
nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để
Trong quá trình đi xâm lược các nước, bọn thực dân, đế quốc hay dùng chiêu
bài mị dân, thành lập các chính phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập
tự do” giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa nhưng thực chất là nhằm che đậy
bản chất “ăn cướp” và “giết người” của chúng.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt
để trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền
tự quyết về ngoại giao, không có quân quân đội riêng, không có nền tài chính
riêng…, thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất
nước ta sau Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong
giặc ngoài, để bảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được, Người đã cùng Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp ngoại
giao, để đảm bảo nền độc lập thực sự của đất nước. 4. Độc lập dân tộc gắn liền với
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu xâm lược và chia cắt đất nước
của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược đã chia đất nước ta ra ba kỳ, mỗi kỳ có chế
độ cai trị riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta bị quân Tưởng Giới
Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp xâm lược và sau khi độc chiếm hoàn
toàn Việt Nam, một lần nữa thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là “Nam Kỳ tự trị” hòng
chia cắt nước ta một lần nữa. Nhưng, trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946) Hồ
Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước 4 lOMoAR cPSD| 45740413
Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
Sau khi hiệp định Giơnevơ năm 1954 được kỳ kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị
chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh để thống nhất Tổ quốc.
Tháng 2/ 1958, Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một.” Trong Di chúc, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của
cách mạng, vào sự thống nhất của nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân
dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước
ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp
một nhà. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất
Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. II.
Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi hy sinh, gian khổ và đã thu được nhiều
thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau gần
40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự nỗ lực của toàn dân, toàn quân
nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành tựu rực rỡ. Đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân từng bước được cải thiện và không ngừng được nâng cao.
Trong những năm qua, đặc biệt là trong gần 40 năm đổi mới, các chủ trương
chính sách và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước luôn hướng tới đem
lại hạnh phúc cho con người, đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững. Điển hình
là công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn.Thành
tựu đáng kể của Việt Nam trong công cuộc xóa đói giảm nghèo đã được quốc tế công
nhận: tỷ lệ người nghèo đã giảm mạnh từ 57% vào đầu những năm 90 xuống còn
5,2% vào năm 2020. Tuy nhiên gần đây hơn, hậu quả của COVID-19 đã làm gián
đoạn quá trình tạo việc làm và tăng thu nhập, có khả năng đẩy lùi tiến bộ trong giảm 5 lOMoAR cPSD| 45740413
nghèo và gia tăng bất bình đẳng hơn nữa do thu nhập của phụ nữ, những người làm
việc trong khu vực phi chính thức và các hộ gia đình nghèo nhất phục hồi chậm nhất
từ giữa năm 2020 đến tháng 3 năm 2021. Theo Tổng cục thống kê, GDP bình quân
đầu người năm 2022 đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD. Nhìn lại
gần 40 năm đổi mới, có thể nhận thấy, chính sách xã hội ở nước ta được triển khai
tích cực, toàn diện, với hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ, ngày càng hoàn thiện;
phản ánh tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được nguyện vọng của
nhân dân và đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng trong việc chăm lo cho con người.
Thứ nhất, các chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển biến
theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Bộ luật Lao động ban hành năm 1994 được sửa đổi nhiều lần (2002, 2006,
2007, 2012) đã tạo hành lang pháp lý cho việc hoàn thiện các tiêu chuẩn lao động,
thiết lập quan hệ lao động giữa các chủ thể, điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên
quan đến quan hệ lao động như: hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền
lương, bảo hiểm xã hội, thời gian làm việc, vệ sinh lao động, kỷ luật lao động, giải
quyết tranh chấp cho người lao động… Việc xây dựng, triển khai thực hiện Luật Việc
làm và Chương trình việc làm công đã góp phần định hướng nghề nghiệp, ổn định
và phát triển thị trường lao động ở Việt Nam. Chất lượng lao động qua đào tạo không
ngừng tăng lên, cơ cấu ngày càng phù hợp thị trường lao động. Lực lượng lao động
từ 15 tuổi trở lên quý IV năm 2021 là 50,7 triệu người. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao
động quý IV năm 2021 là 67,7%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng
chỉ quý IV năm 2021 là 26,1%.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán về chính sách giảm nghèo bền
vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện 6 lOMoAR cPSD| 45740413
các nghị quyết của Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo,
những năm qua, nước ta thường xuyên chú trọng chính sách giảm nghèo đa chiều và
khắc phục nguy cơ tái nghèo, nhất là đối với các huyện xã nghèo, ở khu vực biên
giới, đảo còn nhiều khó khăn; thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã hội so
với bình quân cả nước. Đồng thời, tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo theo từng thời
kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Nhờ đó, thành tựu về giảm
nghèo của Việt Nam được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao; tỷ lệ
hộ nghèo cả nước năm 2023 chỉ chiếm 4.03% tương đương với 1.057.374 hộ, tỷ lệ
hộ cận nghèo cả nước chiếm 3.49 % tương đương với 915.274 hộ.
Thứ ba, việc quan tâm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ. Hệ
thống cơ sở y tế đã được hình thành trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên
một vạn dân tăng nhanh; hệ thống dịch vụ y tế ngày càng mở rộng và nâng cao chất
lượng. Trong 10 năm gần đây, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng đã
được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và 20 luật liên quan đến lĩnh vực y tế,
dân số, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc chăm sóc sức khỏe người dân. Các chủ
trương, giải pháp phát triển hệ thống y tế tương đối toàn diện, coi trọng cả về xây
dựng thể chế và phát triển đồng bộ: y tế dự phòng, y học cổ truyền, quản lý thuốc,
khám, chữa bệnh,... Trong năm 2022, số người tham gia bảo hiểm y tế đạt 91,1 triệu
người, chiếm 92,04% dân số, tăng hơn 2,2 triệu người so với năm 2021.
Thứ tư, chính sách ưu đãi người có công được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan
tâm và ngày càng mở rộng đối tượng, mức thụ hưởng với chế độ ưu đãi toàn diện
hơn. Cùng với chính sách ưu đãi của người có công, các đối tượng tham gia các thời
kỳ kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (quân nhân, thanh niên xung phong, dân
quân du kích…) tiếp tục được hưởng các chế độ, chính sách và hỗ trợ của nhà nước
và cộng đồng. Các thiết chế chăm sóc người có công, tri ân các anh hùng, liệt sĩ ngày 7 lOMoAR cPSD| 45740413
càng hoàn thiện và được quan tâm đầu tư. Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ
được chú trọng, thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta trong điều kiện mới.
Thứ năm, xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện,
đa dạng, ngày càng mở rộng, hiệu quả. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo kết hợp với xã
hội hóa, mở rộng sự chia sẻ của cộng đồng; đồng thời, phát triển mạnh hệ thống bảo
hiểm, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia.
Tính đến hết tháng 9/2022, đã có trên 17,08 triệu người tham gia BHXH, đạt 37,01%
lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng khoảng 537.000 người so với cuối năm 2021,
trên 14 triệu người tham gia BHTN đạt 28,3% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng
627.000 người với cuối năm 2021. Hệ thống an sinh xã hội không ngừng phát triển
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khả năng huy động và cân đối nguồn
lực của đất nước trong từng thời kỳ; trong đó, ưu tiên những người có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Chính sách bảo trợ xã hội
được xây dựng và từng bước hoàn thiện, đối tượng hưởng ngày càng nâng lên; mở
rộng các hình thức cứu trợ xã hội, giảm thiểu rủi ro…
Thứ sáu, từng bước đảm bảo cung ứng với chất lượng ngày càng cao hơn một
số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân. Người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn
và đồng bào dân tộc thiểu số được đảm bảo nhu cầu tối thiểu về giáo dục, y tế, nhà
ở, nước sạch, thông tin. Nhà nước đã quan tâm xây dựng, ban hành và thực hiện
nhiều chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, chăm sóc bà mẹ và trẻ em, hôn nhân
và gia đình, chăm sóc người cao tuổi, phòng, chống tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình;
tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo; tăng cường đầu tư về
kết cấu hạ tầng, kinh phí cho miền núi, vùng sâu, vùng xa; bảo tồn, phát huy những 8 lOMoAR cPSD| 45740413
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các dân tộc và các tôn giáo trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Nói chung việc chăm lo sức khỏe đời sống vật chất tinh thần cho người dân đã
được nâng cao rất nhiều đời sống người dân tăng cao sau gần 40 năm thực hiện đổi
mới Việt Nam đã được nhiều thành tựu to lớn toàn diện cùng với tăng trưởng kinh
tế sự ổn định của kinh tế vĩ mô được duy trì các mặt chính trị, xã hội, quốc phòng an
ninh được đảm bảo và ổn định trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ vì thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế phát triển
nguồn năng lao động và chất lượng lao động khoa học và công nghệ. Thành tựu đó
ngày càng khẳng định luận điểm đúng đắn của Bác về vấn đề độc lập, tự do, hạnh
phúc sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới
khích lệ động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng góp phần quan trọng vào việc giữ
dưỡng ổn định chính trị - xã hội tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước với những bước tiến cao hơn.
Luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng đối với cán bộ
Đảng và người dân Việt Nam. Đây đúng là kim chỉ nam hành động trong mỗi cán
bộ nằm trong hàng ngũ Đảng, trong mỗi cá nhân thực hiện trách nhiệm phụng sự
nhân dân, đối với bạn sinh viên như chúng ta, có thể coi thanh niên là nguyên khí
của quốc gia mọi người phải nhận thức được rằng nhiệm vụ của chúng ta rất nặng
này phải tự hào là mình có quyền tự do mà không phải ai cũng có được điều đó, thấy
được công lao của người đi trước, thấy được truyền thống tố chất của người Việt
Nam. Có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội CNXH và con đường
quá độ lên CNXH ở Việt Nam thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự
nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay chúng ta cần học tập và phát huy tinh thần của Bác. 9 lOMoAR cPSD| 45740413 KẾT LUẬN 10 lOMoAR cPSD| 45740413
TÀI LIỆU THAM KHẢO 11