-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.” - môn tư tưởng Hồ Chí Minh| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.” - môn tư tưởng Hồ Chí Minh| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:















Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI:
Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.” Ý nghĩa của luận điểm đối
với Việt Nam hiện nay.
Họ và tên SV: Lê Thị Liên Phương
Lớp tín chỉ: LLTT1101(221) CLC_32 Mã SV: 11219778
GV: NGUYỄN HỒNG SƠN
HÀ NỘI, NĂM 2022 1 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 3
NỘI DUNG ..................................................................................................................................... 4
I- Khái niệm: ........................................................................................................................... 4 II-
Ý nghĩa của “Độc lập- tự do -hạnh phúc”........................................................................... 4 III-
Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh phúc, tự do. ............. 6 IV-
Tự do, hạnh phúc là giá trị của độc lập dân tộc. ................................................................. 8 V-
Sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam hiện nay: ..................................................................... 10 VI-
Trách nhiệm của công dân Việt Nam để duy trì nền độc lập, tự do, hạnh phúc dân tộc. ..... 13
KẾT LUẬN ................................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................... 15 2
LỜI MỞ ĐẦU
Cách mạng Tháng 8 thành công ngày 02/09/1945, Chủ tich Hồ CHí Minh đọc bản tuyên
ngôn độc lập trước Quốc dân đồng bào Việt Nam, khẳng định với người dân Việt Nam và
thế giới: “ Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một
nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải đẻ giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.” Dân tộc Việt Nam thoát
khỏi xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân phong kiến, mở ra con đường mới rạng ngời ánh
hào quang. Đây là một bước khởi đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc
và Chủ nghĩa xã hội.
Để giữ vững được độc lập dân tộc là hết sức khó khăn bởi thù trong giặc ngoài tìm mọi
cách phá hoại. Một bộ phận nhỏ cán bộ có tư tưởng chống phá, vun vén cho lợi ích cá nhân,
thiếu quan tâm đến đời sống quần chúng nhân dân gây bức xúc dư luận.
Chủ tích Hồ Chí Minh sớm phát hiện, lên án gay gắt, đồng thời cũng nghiêm khắc chân
chỉnh rằng: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Chính câu nói ấy đã trở thành cẩm nang quý báu cho Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ
kháng chiến cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay của Đảng nhà nước ta. Trên cơ sở
phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy làm rõ luận điểm trên cũng như liên hệ với sự
nghiệp Cách mạng của nước ta hiện nay. 3 NỘI DUNG I- Khái niệm :
- Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc
bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là chủ quyền tối cao.
+ Độc lập dân tộc là quyền tự chủ, tự quyết của một dân tộc, quốc gia trong việc tổ
chức các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại… trong phạm vi lãnh thổ của mình, không chịu sự tác động, ép buộc, chi phối,
thao túng của nước ngoài.
- Tự do là khái niệm dùng trong triết học chính trị mô tả tình trạng khi cá nhân không
chịu sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn và hành động theo đúng với ý chí nguyện
vọng của chính mình. Nó là tiền đề sinh ra chủ nghĩa tự do theo hướng ý thức hệ
- Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính t ừ
r u tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao. Ở con người, nó
mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Hạnh phúc gắn liền
với quan niệm về niềm vui trong cuộc sống II-
Ý nghĩa của “Độc lập- tự do -hạnh phúc”
- “Độc lập- tự do-hạnh phúc” là những quyền làm người cao cả nhất theo hiến
chương của Liên hợp quốc và Công ước Quốc tế về quyền con người. Tuy nhiên,
những quyền đó lại chỉ được thực thi trong một quốc gia có nền độc lập. Nhân dân
Việt Nam đã không quản khó khăn, hi sinh tính mạng để giành lại nền độc lập nước
nhà. Chủ tịch Hồ Chí minh đã từng nói, ham muốn tột bậc của Người là “làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cung được học hành” và Người nguyện cùng Đảng ta, nhân
dân ta kiên trì thực hiện “ham muốn tột bậc” đó. Vì một nước Việt Nam độc lập, tự
do, hạnh phúc, quyết không chịu mất nước, không cam chịu làm nô lệ của bọn thực
dân, không để quyền sống của người dân Việt Nam lại bị tước đoạt: “thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ…”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng tuyên bố với nhà báo nước ngoài rằng “Chính
sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”.
Trong Lời kêu gọi Thi đua ái quốc, Người nói đến việc thực hiện “Dân tộc độc lập, 4
Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc. Ba chủ nghĩa mà nhà đại cách mạng Tôn Văn
đã nêu ra”. Người l uôn đặt hai chữ “Độc lập” như điều kiện thiết yếu để đảm bảo sự
tự do, hạnh phúc thực sự cho bất cứ dân tộc nào.
Độc lập dân tộc là tư tưởng chủ đạo chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
Hồ Chí Minh. “Độc lập” ở Việt Nam trong Cách Mạng tháng Tám năm 1945 đã giải
phóng đồng bào ta khỏi áp bức thực dân, đưa dân ta tiếp cận với nền dân Dân chủ
Cộng hòa và thống nhất độc lập. “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; cho dù “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10
năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp
có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn
độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn!”
Tuy nhiên, “độc lập” phải gắn liền với “tự do”, “hạnh phúc” như những điều kiện
và mục tiêu tối thượng. Nói đến “tự do”, “hạnh phúc”, ta nghĩ ngay đến việc người
dân được hưởng đầy đủ đời sống vật chất lẫn tinh thần, được Chính phủ quan tâm và chăm sóc.
“Tự do” trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ảnh hưởng từ chữ “tự do” trong khẩu
hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái” của Cách mạng Pháp và quyền mưu cầu tự do của
hợp chủng quốc Hoa Kỳ. “Tự do” mà Người đề cập ở đây không chỉ là quốc gia có
nền độc lập, nhà nước có chủ quyền và có quyền tự do ngôn luận, hoạt động trên
trường quốc tế mà còn là tự do được người dân ca ngợi ,mỗi cá nhân được góp công
sức của mình xây dựng đất nước và có tinh thần trách nhiệm cao.
“Hạnh phúc” là từ có tính đa nghĩa nhưng mang ý nghĩa từng cá nhân có quyền
mưu cầu hạnh phúc là điều mới mẻ ở thời kỳ cận đại và thông điệp về hạnh phúc mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền tải đã được đông đảo người dân Việt Nam ủng hộ và
đón nhận: “mỗi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc, phải chủ động, tích cực đấu
tranh giành được hạnh phúc đó”. 5
III- Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh phúc, tự do.
Năm 1911, khi Việt nam đã hoàn toàn trở thành thuộc địa của thực dân Pháp,
nước mất độc lập, dân nô lệ, Hồ Chí Minh không hoàn toàn tán thành con đường cứu
nước của các bậc tiền bối, quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới. Suy nghĩ
lớn nhất, duy nhất của Người lúc đó là giải phóng đồng bào, tức là lật đổ, xóa bỏ ách
áp bức, bóc lột của bọn thực dân phong kiến, giành độc lập cho dân tộc .
Trong khoảng bảy năm từ 1911 đến trước Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917 thắng lợi, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu về các cuộc cách mạng lớn trên thế giới,
tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân
tộc bị áp bức. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, tuy chưa có
được nhận thức lý tính, nhưng Người nhận thấy rằng chỉ có theo con đường Cách
mạng Tháng Mười Nga thì mới giành được độc lập dân tộc. Người nhiệt thành ủng
hộ và tuyên truyền cho cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga.
Được ánh sáng của quốc tế Cộng sản soi rọi, đặc biệt là Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lênin, đã giải đáp trăn trở của Người về vấn đề giải phóng
dân tộc thuộc địa, giành độc lập cho dân tộc Việt Nam. Tiếp xúc với Luận cương,
Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng
dân tộc, giành độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trên diễn đàn Đại
hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp (12-1920), Hồ Chí Minh đã yêu cầu
Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa. Năm 1923,
Hồ Chí Minh viết: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại đem lại cho
mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn
kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình,
hạnh phúc, quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình
hạnh phúc nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư
bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao
động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”. Hồ Chí Minh không bao giờ chấp
nhận độc lập dân tộc dưới chế độ quân chủ chuyên chế, càng không chấp nhận chế độ t ự
h c dân. Bởi vì, đó là chế độ mà người dân bị đầu độc về cả thể xác lẫn tinh
thần, bị bịt mồm và bị giam hãm. Phát biểu tại Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp, Hồ 6
Chí Minh nhấn mạnh rằng “thực dân Pháp đã dùng lưới lê để chinh phục đất nước
chúng tôi. Từ đó chúng tôi không những bị áp bức bóc lột một ách nhục nhã, mà còn
bị hành hạ và đầu độcbằng thuốc phiện và rượu một cách thê thảm. Đó là một chế độ
tàn bạo mà bọn ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương. Nhà tù nhiều hơn trường học và
lúc nào cũng chật ních người. Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng xã hội chủ nghĩa
cũng đều bị bắt và đôi khi bị giết mà không cần xét xử…Với một nền “công lý” ở
Đông Dương như vậy, một sự phân biệt đối xử không có những bảo đảm về quyền
con người như vậy, một kiểu sống nô lệ như vậy, thì sẽ không có gì hết”. Hơn ai hết
người có ý thức rất rõ không có độc lập là sống kiếp ngựa trâu, thì “chết tự do còn
hơn sống nô lệ”. Vì vậy, Người nung nấu và truyền quyết tâm cho toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành kỳ được
độc lập cho dân tộc”. Độc lập dân tộc không phải là điều mới mẻ gì trong lịch sử dân
tộc và lịch sử thế giới. Nhưng độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh lại hoàn
toàn mới, vì đó là một kiểu độc lập dân tộc được nâng lên ở một trình độ mới, một
chất mới. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất là độc lập của Tổ Quốc, tự
do của nhân dân. Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, Người đã chọn kiểu độc
lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đó là kiểu độc lập dân tộc làm tiền đề
và phải đi tới hạnh phúc, tự do.
“Độc lập-tự do-hạnh phúc” là dòng tiêu ngữ của nước ta suốt 76 năm qua, tuy
đơn giản nhưng đó là “ham muốn tột bậc” của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột cùng đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành”. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì
trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc, tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó
cũng chẳng có nghĩa lý gì. Với Hồ Chí Minh, Nước có độc lập rồi thì dân phải được
hưởng hạnh phúc, tự do, vì hạnh phúc tự do là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.
Muốn có hạnh phúc, tự do thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Người nhấn mạnh chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều
jieejn để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở tr ờ ư ng
riêng của mình, chăm lo cho con người và con người có điều kiện phát triển toàn 7
diện. khi Hồ Chí Minh xác định giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản tức
là đã khẳng định độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Trong nền độc lập đó mọi
người đều phải được hưởng ấm no, hạnh phúc nếu không độc lập chẳng có ý nghĩa
gì. Bác đã nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của
độc lập khi ăn đủ no mặc đủ ấm”.
Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và tính cách mạng triệt để của người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cống hiên quý giá nhất của Hồ Chí
Minh cho cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí
Minh, xuyên suốt đường lối và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng,
làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc.
Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Chủ
nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình
đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì
hưởng ít, không làm không hưởng. Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí Minh là
người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem lại
IV- Tự do, hạnh phúc là giá trị của độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì trước hết
phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc, tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì.
Chủ nghĩa xã hội trong quan điểm của Hồ Chí Minh không phải là câu trả lời
cho mong muốn chủ quan của người theo quan điểm duy tâm, không tưởng, mà là
câu trả lời cho một sự vận động lịc sử hiện thực theo khái niệm duy vật phê phán.
Chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hiện thực, xuất phát từ thực tiễn khách quan, từ hiện
thực vận động của lịch sử, từ đặc điểm Việt Nam, một nước vốn là thuộc địa, nông
nghiệp lạc hậu, khoa học kyc thuật kém phát triển, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trong quan điểm của 8
Hồ Chí Minh không thể suy nghĩ chủ quan, giáo điều, nóng vội, duy ý chí mà phải
dựa trên cơ sở thực tiễn nước ta, đặc điểm thế giới và xu thế của thời đại.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi
nghèo nàn, lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người bóc lột
người, một xã hội bình đẳng nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai
làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng.
Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh phúc,
tự do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không ai khác chính cụ Hồ đã chỉ ra.
Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong ước thẳm sâu nhất của
mỗi người dân nước Việt. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “độc lập, tự do cho dân
tộc, hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”, “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho
nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có
thuốc, không lao động được thì nghỉ ngơi, …Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là chủ nghĩa xã hội” . Chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một cách
thiết thực, cụ thể, dễ hiểu: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc”. “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì
độc lập tự do cũng không có ý nghĩa gì”, “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. “Chủ nghĩa
xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội, chế độ
xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh không chỉ là thước đo giá trị của độc
lập dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và tự bảo
vệ. Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một nền độc lập dân tộc
thật sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự do; chủ nghĩa xã hội chỉ 9
có phát triển trên một nền độc lập dân tộc thật sự thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện. V-
Sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam hiện nay:
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo, “dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng
nên nước Việt Nam độc lập, dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà
lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Thắng lợi đó đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch
sử dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân lao
động làm chủ xã hội và tạo ra những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát
triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Miền Bắc phát động phong trào thi đua lao động sản xuất, tạo sức người, sức
của phục vụ miền Nam đánh Mỹ. Hơn 20 năm trường kỳ khansgc hiến, ngày
30/04/1975, đất nước ta hoàn toàn giải phóng. Bắc Nam sum họp một nhà, người
dân được hưởng độc lập tự do thái bình. Cách mạng Việt Nam chuyển sang 1 giai
đoạn mới, thời kỳ quá độ lên CHủ nghĩa xã hội, bỏ qua CHủ nghĩa tư bản. Phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Trong thời kỳ này, đất nước gặp muôn
vàn khó khăn: nền kinh tế nhỏ lẻ, chủ yếu là nông lâm ngư nghiệp, hậu quả của
chiến tranh để lại phải khắc phục. Kẻ thù tìm mọi cách để chống phá Đảng, nhà nước.
Trong giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1986, nền kinh tế của nước ta đi vào bế
tắc: làm không đủ ăn, phải dựa vào lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm
khác được viện trợ từ ngước ngoài, Bộ máy của nhà nước cồng kềnh, làm việc kém
hiệu quả, lạm phát tặng cao, người dân đói nghèo, tệ nạn xã hội g ia tăng.
Đất nước độc lập, người dân được tự do nhưng chưa phát huy hết khả năng, tính
sáng tạo của mình. Tuy nhiên, người dân cũng chưa được hạnh phúc vì chưa đáp
ứng được nhu cầu thiết yếu của họ.
Xuất phát từ yếu kém trên, Đảng ta đã nhìn nhận xã hội theo nhiều hướng để
tìm cách tháo gỡ. Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã quyết định 10
đổi mới đất nước thông qua loạt bài báo của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: Phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó có nền kinh tế nhà nước là chủ đạo; phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy dân làm gốc. Đây là tiền đề tạo nền tảng vững
chắc, là cơ sở đặc biệt quan trọng cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta trong thời
kỳ đổi mới để người dân được hưởng tự do hạnh phúc.
Trải qua 36 năm đổi mới, đến nay, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa … Đặc biệt, quyền làm chủ của người dân cũng
được nâng cao. Về khoa học kỹ thuật, phát triển về kinh tế, văn hóa, đời sống tinh
thần được cải thiện vượt bậc. Ngày nay trong xu thế mở rộng đa phương hóa, đa
dạng hóa, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, hội nhập và phát
triển kinh tế để đôi bên cùng có lợi. Khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta giai đoạn hiện nay, trước sự vận động vô cùng nhanh chóng và phức tạp của
quan hệ quốc tế, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với các giá trị trên
đây, sự kiện lịch sử Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và
con đường cách mạng mà người đem lại cho dân tộc càng có ý nghĩa thực tiễn sâu
sắc. Trên thực tế, với đường lối đổi mới của Đảng, sự hội nhập quốc tế của Việt
Nam cũng là tiếp tục quá trình dân tộc ta đi ra thế giới trong điều kiện lịch sử mới để
thâu nhận các giá trị văn hóa - văn minh nhân loại và nắm bắt xu thế phát triển của
thời đại để tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo
ra các điều kiện để thực hiện ngày một hoàn chỉnh các nội dung của tiêu chí Độc lập
- Tự do - Hạnh phúc cho con người Việt Nam. Đảng ta, nhà nước ta, nhân dân ta
cũng luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì thực hiện
những căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra những mục tiêu tổng quát như sau:
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng
cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước, chế dộ xã hội chủ nghĩa; khơi
dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh
đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ 11
công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn dấu đến giữa thế kỷ XXI, nước
ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt, đứng trước đại dịch Covid-19 đang bùng phát mạnh mẽ tại Việt
Nam cũng như trên thế giới. Đảng và nhà nước cùng nhân dân phải tập trung kiểm
soát tốt đại dịch, tiêm chủng vắc-xin cho cộng đồng và cần phát huy được tinh thần
đoàn kết dân tộc cũng như sự tương thân tương ái giữa Đảng, nhà nước với nhân
dân. Cùng nhân dân chiến đấu, ngăn chặn dịch bệnh để người dân lấy lại cuộc sống
hạnh phúc, bình yên. Thực tế, Chiến đấu với dịch bệnh cũng không khác gì chiến
đấu với kẻ thù xâm lược, dịch bệnh đã mang đi sinh mạng của rất nhiều người do
một số bộ phận người dân đã không có ý thức mà vô tình gây bùng phát dịch bệnh
mạnh mẽ đặc biệt vào đợt bùng dịch thứ 4 này. Các y bác sĩ và các chiến sĩ bộ đội là
những người trực tiếp đương đầu với bệnh dịch. Họ phải rời xa gia đình, từ bỏ ước
muốn cá nhân để lên đường thực hiện công cuộc ngăn chặn, chiến đấu với dịch bệnh
không quản ngày đêm để cho người dân có thể được yên tâm sống khỏe mạnh và
hạnh phúc và tự do. Các chỉ thị được đưa ra để cho người dân không được ra khỏi
nhà, khu vực không đồng nghĩa với việc mất tự do cho nhân dân, mà Đảng, Nhà
nước làm như vậy là vì mục tiêu sức khỏe chung của cộng đồng, dân tộc và vì mục
tiêu trước mặt là hết đại dịch chúng ta sẽ được tự do đi lại, tự do với các mối quan hệ
xung quanh. Nhiều quỹ hỗ trợ đã được thành lập để ủng hộ, giúp đỡ những người
gặp khó khăn trong hoàn cảnh đại dịch vì mục tiêu không ai bị bỏ lại phía sau… Với
diễn biến phức tạp của đại dịch, Đảng và Chính Phủ đã luôn kiên định với mục tiêu
“đặt sức khỏe, tính mạng của nhân dân lên trên hết, trước hết,”. Với phương châm
phòng, chống dịch chuyển từ “zero Covid” sang “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm
soát có hiệu quả dịch Covid-19,” vừa phòng, chống dịch, vừa khôi phục, phát triển kinh tế-xã hội . 12
VI- Trách nhiệm của công dân Việt Nam để duy trì nền độc lập, tự do,
hạnh phúc dân tộc.
Mỗi chúng ta khi sinh ra được sống trong nền hòa bình đã là một sự may
mắn, chính vì vậy mỗi công dân cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước
nhà, giữ vững nền độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Trước hết, là một công dân,
mà nòng cốt là thế hệ trẻ, cần không ngừng nỗ lực và rèn luyện để dựng xây Tổ
quốc. Thế hệ trẻ là mầm non tương lai của đất nước, là những người đóng vai trò
quan trọng trong việc đưa đất nước phát triển sau này, vậy nên việc học tập tốt và tu
dưỡng đạo đức, tác phong là một điều vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó, là một công
dân, cần biết yêu thương, sẻ chia với những người xung quanh. Một đất nước, một
xã hội chỉ thực sự phát triển và hạnh phúc khi những hạt nhân trong xã hội biết yêu
thương, đoàn kết, gắn bó với nhau vượt qua bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Giống
như khi xưa, thế hệ ông cha ta đã không tiếc thân mình, đổ mồ hôi và xương máu để
đem lại nền độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc như ngày hôm nay. Ngoài ra, là
một công dân, con người ta cần biết tự hào và phát huy truyền thống của dân tộc.
Hãy tự hào về những giá trị văn hóa, tinh thần của đất nước và phát huy, giữ gìn
cũng như phát triển chúng, mang những nét cổ truyền ấy đi xa hơn trên thế giới này,
để bạn bè khắp năm châu đều biết đến Việt Nam. 13
KẾT LUẬN
Vấn đề Luận điểm “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do
thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một luận điểm vô
cùng chính xác và nó có giá trị tới tận bây giờ và mãi về sau. Độc lập đi liền với tự
do. Độc lập dân tộc đi liền với tự do của người dân. Tự do là một tài sản quý giá và
vĩnh hằng của con người, có thể coi đó cũng là một quyền tự nhiên của con người.
Chính trong tuyên ngôn độc lập của mình, Người đã tiếp thu tư tưởng của các
nhà lập quốc Hoa Kỳ để từ những quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự
do suy rộng ra quyền của một dân tộc. Có lẽ Người đã mở rộng tư tưởng bác ái thành
hạnh phúc. Bác ái là tình thương, lòng yêu mến con người rộng khắp, bao trùm.
Hạnh phúc là tình thương được cụ thể hóa thành “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”. Hạnh phúc là tình thương cho mọi người được chan hòa bình đẳng
trong một cộng đồng ấm no, hòa bình. Hạnh phúc là khi con người được thỏa mãn
những nhu cầu và yêu cầu chính đáng của mình. Hạnh phúc là khi người dân được
sống đầy đủ các quyền công dân của mình trong một đất nước đọc lập, dưới một nhà
nước bảo đảm cho họ quyền tự do dân chủ, nhất là tự do tư tưởng. Trong thời đại
ngày nay với biết bao nhiêu khó khăn và thử thách thì độc lập càng đòi hỏi được bảo
vệ và củng cố, tự do càng được yêu cầu đảm bảo và hạnh phúc càng được khát khao đạt tới. 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mạnh Quang Thắng (2019), “Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật
2. https://tuyengiao.vn/theo-guong-bac/doc-lap-tu-do-hanh-phuc-t - u khat-vong-den- hien-thuc-129940
3. https://noichinh.vn/tin-tuc-s -
u kien/tin-trung-uong/202109/doc-lap-roi-dan-phai- duoc-t - u do-hanh-phuc-310015/
4. http://smot.bvhttdl.gov.vn/doc-lap-cho-dan-toc-tu-do-hanh-phuc-cho-nhan-dan-
phuong-cham-song-va-hanh-dong-cua-chu-tich-ho-chi-minh/ 15