Phân tích quan điểm duy vật biện chứng về bản chất, nguồn gốc, kết cấu của ý thức

Phân tích quan điểm duy vật biện chứng về bản chất, nguồn gốc,
kết cấu của ý thức
Phân tích quan điểm duy vật biện chứng về bản chất, nguồn gốc,
kết cấu của ý thức
lOMoARcPSD|36006477
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
⸎⸎⸎⸎⸎
BÀI TẬP CHƯƠNG II MÔN TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN
Tên đề tài: “Phân tích quan điểm duy vật biện chứng về bản chất, nguồn gốc,
kết cấu của ý thức? Chỉ rõ vai trò của tri thức trong đời sống xã hội”
Tên giảng viên hướng dẫn : Đồng Thị Tuyền
Lớp học phần : Triết học Mác Lê-nin_1_2(15.1FS).8_LT
Năm học : 2021-2022
Các thành viên trong nhóm :
lOMoARcPSD|36006477
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3
NỘI DUNG ............................................................................................................... 5
1. Bản chất của ý thức: ............................................................................................. 5
2. Nguồn gốc của ý thức: .......................................................................................... 6
2.1. Mặt tự nhiên: ..................................................................................................... 6
2.2. Mặt xã hội: ......................................................................................................... 7
3. Kết cấu của ý thức: ............................................................................................... 8
3.1. Các lớp cấu trúc của ý thức: ............................................................................. 8
3.2. Các cấp độ của ý thức: ...................................................................................... 9
4. Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội: ......................................................... 11
4.1. Tri thức là gì? .................................................................................................. 11
4.2. Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội: ..................................................... 12
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 18
MỞ ĐẦU
Theo Mác Lê-nin, Triết học được biết đến là hệ thống quan điểmluận chung
nhất về thế giới vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật
lOMoARcPSD| 36006477
3
vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, đáp ứng nhu cầu về
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người: cần phải tổng hợp, trừu tượng a,
khái quát hóa trí thức về thế giới thành các khái niệm, phạm trù, quan điểm, quy
luật….để giải thích thế giới. Xuất hiện ở cả Phương Đông và Phương Tây từ thế kỉ
VIII đến thế kỉ VI trước Công Nguyên, trải qua hàng ngàn năm tồn tại phát triển,
Triết học đã trở thành một nền tảng vững chắc cho sự phát triển thể giới. Được tôn
vinh khoa học của mọi khoa học, Triết học luôn cho chúng ta cái nhìn toàn vẹn,
đa chiều sâu sắc nhất vmọi sự vật, hiện tượng, đưa con người đến cách giải
quyết nhanh chóng hợp nhất. Nhờ có Triết học thế giới quan của con người
được mở rộng bằng việc sử dụng các công cụ lý tính, các tiêu chuẩn logic những
kinh nghiệm mà con người đã khám phá trong cuộc sống thực tại để xây dựng nên
bức tranh tổng quát về thế giới và về con người chứ không dựa trên niềm tin quan
niệm tưởng tượng về thế giới. Trong suốt chiều dài phát triển của mình, Triết học
không bó buộc mình chỉ tìm hiểu về một đối tượng nhất định mà tùy theo thời gian,
các đối tượng được Triết học tìm hiểu sẽ có sự thay đổi. Có thể nói rằng, đối tượng
nghiên cứu xuyên suốt của Triết học chính là: Tiếp tục giải quyết vấn đề về mối
quan hệ giữa duy tồn tại, giữa ý thức vật chất trên lập trường duy vật; nghiên
cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, hội duy, từ đó định hướng cho
hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người. Đó do tại sao Triết học
mang tính bao quát cho mọi thời đại. Đối với Triết học Mác Lê-nin, vì được ra đời
vào những năm 30 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa
học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra đời của triết học Mác
Lênin là mt cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch
sử triết học. Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác -nin nghiên cứu những
quy luật chung nhất về tự nhiên, xã hội và duy. Vai trò của con người đối với thế
lOMoARcPSD|36006477
giới trên cơ sở giải quyết khoa học vấn đề cơ bản ca triết học. Bộ não thiên tài của
Mác chính ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề mà mà tưởng tiên tiến của
nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời sự thừa kế thẳng trực tiếp những
học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học
trong chủ nghĩa hội trong thời Triết học Mác -nin hình thành, khoa
học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng và với những phát
minh đó, khoa học đã cung cấp sở tri thức khoa học để duy biện chứng vượt
n tính tự phát của phép biện chứng cổ đại, thoát khỏi tính thần của phép biện
chứng duy m trở thành khoa học. Bằng những kiến thức rút ra từ kết quả học
cùng với việc tham khảo từ các tài liệu, nhóm chúng em xin phép được trình bày
phân tích quan điểm duy vật biện chứng về bản chất, nguồn gốc, kết cấu của ý thức
làm vai trò của tri thức trong đời sống hội trong bài luận dưới đây. Trong
quá trình làm bài nếu những sai sót về mặt thuật hay kiến thức, nhóm em mong
nhận được những lời nhận xét và góp ý từ cô, chúng em sẽ cố gắng rút kinh nghiệm
nỗ lực để hoàn thiện tốt nhất kiến thức của mình. Chúng em xin trân trọng cảm
ơn!
NỘI DUNG
1. Bản chất của ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo. Như vậy, bản chất của
được thể hiện qua 4 khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, ý thức sphản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ óc con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Thứ hai là tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện
ở khả năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận
lOMoARcPSD|36006477
5
thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những
thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông
tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được
thể hiện quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại,…
trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây
dựng các hình tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người. Thứ
ba, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nghĩa là: ý thức là hình ảnh
về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nộI dung,
cả về hình thức biểu hiện nhưng không còn y nguyên như thế giới khách quan
đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức
“chẳng qua chỉ vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải
biến đi trong đó”.
Thứ tư, ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và
tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu schi phối không chỉ của
các quy luật sinh học chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã
hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý
thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
2. Nguồn gốc của ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac Lenin thì trong lịch sử triết học, vấn đề
nguồn gốc, bản chất của ý thức một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật chnghĩa duy tâm. Triết học duy vật biện chứng
khẳng định, ý thức của con người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
lOMoARcPSD|36006477
2.1. Mặt tự nhiên:
Theo quan điểm của triết học Mác Lenin, ý thức là một thuộc tính của một dạng
vật chất tổ chức cao bộ óc người, sphản ánh thế giới khách quan vào bộ
não người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người và
không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không có
ý thức. Bộ não người sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người
nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Các nhân tố bao gồm:
2.1.1. Bộ óc:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm
của quá trình tiến hoá lâu dài vmặt sinh vật - xã hội cấu tạo rất phức tạp,
gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ
nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong
quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua các phản xđiều kiện không điều
kiện.
2.1.1. Sự phản ánh:
Theo chủ nghĩa Mác Lenin, hoạt động ý thức con người diễn ra trên sở hoạt
động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của
mọi đối tượng vật chất. Phản ánh năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật
chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác. Trong quá trình phát triển lâu
dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của vật chất cũng phát triển từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp:
Phản ánh vật lý: hình thức phản ánh đơn giản nhất giới sinh, thể hin
qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.
lOMoARcPSD|36006477
7
Phản ánh sinh học: những phản ánh trong sinh giới trong giới hữu sinh cũng
có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật.
Phản ánh ý thức: hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý
thức chỉ nảy sinh giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất
hiện của con người.
2.2. Mặt xã hội:
Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết định
cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động, ngôn
ngữ và các quan hệ xã hội.
2.2.1. Lao động:
hoạt động đặc thù của con người, hoạt động bản chất người. Lao động
đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải phóng hai tay. Điều này cùng với
chế độ ăn thịt đã thực sự ý nghĩa quyết định đối với quá trình chuyển hoá từ
vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức. Việc chế tạo ra công cụ lao động
có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý thức về mục đích của hoạt động biến đổi thế
giới. Nhờ lao động, bộ não con người được phát triển ngày càng hoàn thiện,
làm cho khả năng duy trừu tượng của con người ngày càng cao. Cũng lao động
ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối liên htất yếu, khách quan.
Và từ đó ngôn ngữ xuất hiện.
2.2.2. Ngôn ngữ:
Theo quan điểm của triết học Mác - nin thì ngôn ngữ là phương tiện để con
người giao tiếp trong hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, cái vỏ vật chất của
duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển
tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người.
lOMoARcPSD|36006477
3. Kết cấu của ý thức:
3.1. Các lớp cấu trúc của ý thức:
3.1.1. Tri thức:
toàn bộ những hiểu biết của con người về hiện thực khách quan (trong đó
còn có thể bao gồm cả sự hiểu biết của con người về chính những hiểu biết đó – tức
là khi đạt tới sự tự ý thức). Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức thể chia thành
nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri thức về con người xã hội. Căn cứ vào trình
độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức
khoa học, tri thức kinh nghiệm tri thức lý luận, tri thức cảm nh và tri thức
tính,… 3.1.2. Tình cảm:
những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các quan hệ. Tình
cảm là mt hình thái đặc biệt của sphản ánh hiện thực, được hình thành từ skhái
quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình
cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu
tố phát huy sức mạnh, mt động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Tùy
vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong
các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như:
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo…
3.1.3. Ý chí:
sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua những
cản trở trong quá trình thực hiện mục đích của nó. Ý chí được coi là mặt năng động
của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà đó con người tự giác được
mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để thc hiện đến
cùng mục đích đã lựa chọn. thể coi ý chí quyền lực của con người đối với
lOMoARcPSD|36006477
9
mình; điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách
tự giác; cho phép con người tự kiềm chế, tlàm chủ bản thân quyết đoán trong
hành động theo quan điểm và niềm tin của mình.
3.2. Các cấp độ của ý thức:
3.2.1. Tự ý thức:
Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với
ý thức về thế giới bên ngoài.
Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, con người tự phân biệt, tách
mình, đối lập mình với thế giới để đánh giá mình thông qua các mối quan hệ.
Nhờ vậy, con người tự ý thức về bản thân mình như mt thực thể hoạt động có cảm
giác, đang duy, tđánh giá năng lực trình độ hiểu biết của bản thân về thế giới,
về các quan điểm, tưởng , tình cảm, nguyện vọng, hành vi, đạo đức, lợi ích của
mình. Qua đó xác định vị trí, mạnh yếu của mình, làm chủ bản thân, chủ động điều
chỉnh hành vi của mình trong tác động qua lại với thế giới khách quan. Không chỉ
tự ý thức của nhân còn tự ý thức của các nhóm hội khác nhau (như
một tập thể, một giai cấp, một dân tộc, thậm chí là cả xã hội) về địa vị của họ trong
hệ thống sản xuất, về lợi ích và lý tưởng của mình.
3.2.2. Tiềm thức:
Tiềm thức hoạt động tâm diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức. Về
thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gẫn
như thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể, là ý thức
dưới dạng tiềm tàng.
Tiềm thức không tự động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức chủ th
không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp.
lOMoARcPSD| 36006477
Tiềm thức có vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học: Tiềm thức
gắn bó chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần, vẫn đảm bảo
độ chính xác cao và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.
3.2.3. Vô thức:
Vô thức những hiện tượng tâm lý không phải do tđiều khiển, nằm ngoài
phạm vi của trí ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. thức
là những trạng thái tâm lí ở tầng sâu điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử
của con người mà chưa có sự cam thiệp của lý trí.
thức biểu hiện ra thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham
muốn, giấc mơ, bị thôi miên, trực giác…
Mỗi hiện tượng thức có vùng hoạt động riêng, vai trò , chức năng riêng
nhưng tất cả đều có một chức năng giải tỏa ức chế trong hoạt động thần kinh vượt
ngưỡng, góp phần trong việc lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con
người, giúp cho con người luôn làm chủ đời sống nội tâm, phương pháp kiềm
chế.
thức ý nghĩa quan trọng trọng việc giáo dục thế hệ trẻ trong hoạt động
khoa học và nghệ thuật những không nên cường điệu hóa, tuyệt đối hóa, thần bí hóa
vô thức.
Vô thức là vô thức trong con người xã hội ý thức, vô thức không thể là hiện
tượng lập, tách rời với ý thức và thế giới bên ngoài, không thể là cái quyết định
ý thức, hành vi con người.
lOMoARcPSD|36006477
11
4. Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội:
4.1. Tri thức là gì?
Tri thức đã từ lâu trong lịch sử, thể nói từ khi con người bắt đầu
duy thì lúc đó có tri thức. Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho đến
những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội
mới được đề cặp nhiều. Vậy tri thức là gì? Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức
nhưng ta có thể hiểu “Tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng
để ứng dụng (hiểu biết sáng tạo) vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát
triển kinh tế - xã hội. Tri thức bao gồm tất cả những thông tin, số liệu, bản vẽ, tưởng
tượng (sáng tạo), khả năng, kỹ năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang
tính tượng trưng xã hội khác. Tri thức có vai trò rất lớn đối với đời sống xã hội.
Nói đến tri thức là nói đến học vấn, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức.
Sự hình thành phát triển của ý thức liên quan mật thiết với quá trình con
người nhận biết và cải tạo thế giới tự nhiên. Con người tích lũy được càng nhiều tri
thức thì ý thức càng cao, càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo thế giới có hiệu
quả hơn. Tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng lên. Nhấn mạnh tri thức là yếu
tố cơ bản, quan trọng nhất của ý thức có nghĩa là chống lại quan điểm giản đơn coi
ý thức chỉ là tình cảm, niềm tin và ý chí. Quan điểm đó là biểu hiện chủ quan, duy
ý chí của sự tưởng tượng chủ quan. Tuy nhiên cũng không thể coi nhẹ nhân tố tình
cảm, ý chí. Ngược lại nếu tri thức biến thành tình cảm, niềm tin, ý chí của con người
hoạt động thì tự nó không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực. Kinh tế thế
giới đang bước vào một thời đại mới, một trình độ mới. Đó là trình độ mà “nhân tố
quan trọng nhất việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng tạo, phân
phối sử dụng tri thức trong các ngành thuật cao”. Tiêu chí chủ yếu của
lOMoARcPSD|36006477
lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp giống
như các yếu tố sức lao động và tài nguyên. Đó là thời đại mà “Tri thức đã trở thành
động lực chủ yếu của sphát triển hội”, ”Tri thức tài nguyên bản”, tri
thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng trưởng dài hạn
dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, cấu trúc thị trường, lựa chọn
nghề nghiệp…
4.2. Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội:
Tri thức đã và đang ngày càng trở nên quan trọng đối với đời sống xã hội.
tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của hội: kinh tế, chính trị, văn hoá - giáo
dục…
4.2.1.Vai trò của tri thức đối với Kinh tế:
Tri thức nền tảng, động lực để phát triển kinh tế, nhân tố đóng vai t
hết sức quan trọng trong việc góp phần tạo nên mọi thành tựu và tiến bộ trong lịch
sử phát triển của văn minh nhân loại.
Tri thức nhận thức kinh nghiệm loài người thu được trong quá trình
cải tạo thế giới. Do vậy trong bất giai đoạn nào con người cũng luôn ứng dụng tri
thức vào việc phát triển kinh tế. Trong các hình thái kinh tế khác nhau, mức độ tri
thức được ứng dụng sâu rộng cũng khác nhau, cho nên tác dụng cũng khác nhau.
Trong ba thế kỉ qua, với những thành tựu diệu vphát triển khoa học công
nghệ đã đưa loài người từ nên văn minh nông nghiệp vượt qua nền văn minh công
nghiệp và ngày nay đang tiến vào nên văn minh trí tuệ. Trong nền văn minh trí tuệ,
động lực thúc đẩy sản xuất phát triển kinh tế không còn vốn tài nguyên thiên
nhiên hay sức lao động nữa mà đơn giản là tri thức. Tri thức tồn tại trong bộ óc con
người, vai trò tự chủ con người là tiền đề để con người phát huy đầy đủ tri thức. Vì
vậy nền văn minh ttuệ, tri thức trở thành động lực lớn nhất của nền kinh tế. Khi
lOMoARcPSD| 36006477
13
chưa chviết tkĩ năng, tri thức của con người được truyền qua tay, qua miệng.
Sau khi nắm được chữviết thì nhờ chữ viết người ta thể nắm được năng, tri
thức rộng hơn, từ đó xuất hiện một tầng lớp tri thức chuyên truyền tri thức
sáng tạo tri thức. Tri thức không giới hạn bất cứ một lĩnh vực nào, được thể
hiện ở mọi lĩnh vực, đặc biệt là tri thức có vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực kinh
tế. Chính bởi vậy đất nước nền kinh tế phát triển hay không hầu như ph
thuộc vào vốn tri thức của con người.
dụ: Điển hình như là các nước Châu Phi, mặc dù là khu vực mà tài nguyên
thiên nhiên rất phong pvà đa dạng nhưng nền kinh tế khu vực này phần lớn là
kém phát triển và còn phải nhờ vào sự viện trợ của các nước phát triển. Điều này là
do tri thức ở khu vực này còn kém, tỉ lệ người mù chữ còn cao khiến công tác khai
thác tài nguyên thiên nhiên gặp nhiều khó khăn, không những thế do tri thức kém
người dân còn không nhận thức được tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên dẫn
đến việc khai thác bừa bãi gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Ngược lại đất nước Nhật
Bản được biết đến một đất ớc tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, không
những thế hàng năm đất nước này phải hứng chịu rất nhiều trận thiên tai lớn nhỏ
như động đất, sóng thần, núi lửa,…Mặc dù vậy Nhật Bản lại có nền kinh tế cùng
phát triển, giai đoạn nền kinh tế Nhật Bản còn đứng thứ ba Thế giới chỉ sau
và Trung Quốc. Một trong những nguyên nhân cơ bản của sự phát triển thần kỳ đó
chính vốn tri thức của con người Nhật Bản. Người Nhật Bản vốn tri thức rất
lớn chính bởi vậy họ rất sắc xảo, nhạy bén trong việc nắm bắt thị trường, đổi mới
phương pháp kinh doanh, sáng tạo trong phát triển khoa học, kỹ thuật, đem lại thắng
lợi cho nền kinh tế đất nước.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định, dưới tác động của cách mạng khoa
học công nghệ và toàn cầu hoá, kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát
lOMoARcPSD| 36006477
triển sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một, hai thập niên tới. Sự
xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức: Nền kinh tế tri
thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội dung chủ yếu. Tương
lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phthuộc vào việc sử dụng tiền
bạc, nguyên vật liệu, nguồn nhân lực máy móc thiết bị…mà còn phụ thuộc vào
việc xử sử dụng những thông tin nội bộ thông tin từ môi trường kinh doanh.
Cách tốt nhất để tăng năng suất tìm hiểu kiến thức chuyên môn mà hãng được,
sử dụng vì mục đích thương mại và những kiến thức này cần được phát triển không
ngừng.
Giá trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm
và các công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu
hình, còn nằm trong những tài sản hình, như tri thức các bằng sáng chế.
Để trở thành một công ty được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận ra
những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng giá trị kinh doanh. Vốn trí tuệ của
công ty, tri thức, quyết và phương pháp đội ngũ nhân viên công nhân cũng như
khả năng của công ty để liên tục hoàn thiện phương pháp sản xuất là một nguồn lợi
thế cạnh tranh.
Nền kinh tế tri thức sngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thông minh.
Đó những sản phẩm có khả năng gạn lọc giải thích các thông tin để người sử
dụng có thể hành động một cách hiệu quả hơn. Ngay cả một chiếc bánh cũng có thể
trở thành một sản phẩm mới dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết
cách sử dụng những thông tin về dinh dưỡng. Số lượng ka-lo chất béo được in
lên hoá đơn hoặc thậm chí trình bày thông tin đó trước khi khách đặt hàng. Vốn
tri thức vai trò ca trong kinh tế tri thức: Vốn tri thức là tri thức được dùng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích sinh lợi (tăng thêm giá trị). Vốn tri thức
lOMoARcPSD| 36006477
15
là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất. Trong văn minh nông nghiệp thì sức
lao động, đất đai vốn những yếu tcủa sản xuất công nghiệp, vốn, đất đai và
nhất sức lao động trở thành hàng hoá với tư cách những yếu tố quan trọng trong
sự phát triển kinh tế - hội, góp phần chuyển hội phong kiến thành xã hội
bản trong lịch sử. Còn trong kinh tế tri thức, yếu tố của sự phát triển nền kinh tế -
xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ, đất đai và dựa trên lao động đơn giản mà chủ
yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức. Như vốn tri thức trở thành yếu tố thứ
nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn tiền tệ và đất đai.
Vốn tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế xã
hội. ớc Mỹ nói riêng các nước thuộc tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế nói
chung nhiều năm qua tăng trưởng ổn định với tốc độ cao nhờ sự phát triển của
các ngành kinh tế dựa trên tri thức như các ngành công nghệ thông tin, viễn thông,
trụ, đầu tư, ngân hàng, tài chính, chứng khoán, bảo hiểm…Đồng thời chuyển đầu
tư vốn tri thức từ các ngành truyền thống sang các ngành có hàm lượng tri thức cao
các nước nền kinh tế đang phát triển, đầu càng nhiều vốn tri thức thì mang
lại giá trị gia tăng càng lớn, tỷ suất lợi nhuận càng cao.
Vốn tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sthành công hay
thất bại của doanh nghiệp. Vốn tri thức đây bao gồm các công nhân tri thức, các
nhà quản lý có trình độ cao, các công nghệ mới.
Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa
các nước đang phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là
cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt
Nam. Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri
thức, thông qua tri thức hoá các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đặc biệt
lOMoARcPSD| 36006477
sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất nước đuổi
kịp các nước phát triển.
4.2.2. Vai trò tri thức đối với chính trị:
hội được phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu nhờ một phần
rất lớn từ bộ máy chính trị nhà nước vốn được coi là đầu não của một quốc gia. Để
thể điều hành xã hội đi đến thời đại mới, ngày một bước gần hơn với chế độ
hội chủ nghĩa thì bộ máy ấy là sự đóng góp của vô vàn sự lĩnh hội về tri thức ở các
lĩnh vực khác nhau. Mỗi một lĩnh vực là một chân trời tri thức con người luôn
khao khát được vươn tới, được lĩnh hội mộtcách trọn vẹn và từ những hiểu biết đó
họ kiến tạo thành những ý tưởng, xâydựng những bước đi vững mạnh hơn, đưa ra
những chính sách thiết thực hơn nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của nhân
dân. Chính vậy bộ máy chính trị của mỗi quốc gia luôn phải tuyển chọn những
con người học rộng tài cao, đức độ trung thành với mục tiêu xã hội.
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức. Người tri thức
là có khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề mt cách sát thực,
đúng đắn. Một đất nước cần những con người như vây để điều hành công việc chính
trị. Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia. Đại hội VI của Đảng đã đánh
dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con người. Đại
hội nhấn mạnh: “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục
đích cao nhất của mọi hoạt đông” chiến lược phát triển con người đang chiến lược
cấp bách.
dụ: Sự kiện ngày 5 tháng 6 năm 1911 ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu
nước. Trước hoàn cảnh Việt Nam thuộc quyền thống trị của thực dân Pháp, nhiều
cuộc khởi nghĩa, nổi dậy đã diện ra nhưng thất bại, Bác Hồ đã quyết tâm ra đi tìm
đường cứu nước. c lên đường sang Pháp để học hỏi những điều mà Bác cho
lOMoARcPSD| 36006477
17
“tinh hoa tiến bộ” từ các nước phương Tây nhằm thực hiện công cuộc giải phóng
Việt Nam khỏi ách thuộc địa của thực dân Pháp. Sau 30 năm bôn ba nước ngoài,
ngày 28 tháng 1 năm 1941, Bác trở về nước với vốn tri thức, học thuyết cách
mạng Bác đã tiếp thu và nghiên cứu khi hoạt động nước ngoài, Bác đã trực
tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn. Từ đó ta thể
thấy tri thức có vai trò quan trọng như thế nào đối với chính trị.
4.2.3. Vai trò tri thức đối với văn hoá - giáo dục:
Tri thức cũng vai trất lớn đến văn hoá - giáo dục của mt quốc gia.
giúp con người được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức của con
người được nâng cao.
Giáo dục là nền tảng của xã hội. Một xã hội phát triển là xã hội ở đó con người
được hoàn thiện bản thân các lĩnh vực, đặc biệt đóng góp cho nền giáo dục ngày
càng phát triển, cải tiến trên mọi phương diện. Tri thức “nguồn tài nguyên” giá
của nhân loại. Chúng ta phải có tri thức để hiểu biết về văn hóa các nướctạo nên
nền văn hóa ngày càng lành mạnh. Mỗi con người chúng ta phải có những hiểu biết
về tầm quan trọng của giáo dục, biết về nội dung, phương pháp giáo dục của các
nước khác để ngày một cải thiện nền văn hóa - giáo dục của Việt Nam.
Qua những mặt vẫn còn yếu kém của nền giáo dục Việt Nam, có tri thức giúp
chúng ta sự hiểu biết để đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục của nước ta
vừa theo kịp nền tri thức của nhân loại lại vừa giữ gìn bản sắc văn hóa tốt của dân
tộc Việt Nam.
lOMoARcPSD|36006477
KẾT LUẬN
Thông qua quá trình phát triển lịch sử của triết học ta thấy rằng mối liên hệ
giữa triết học nói chung triết học duy vật biện chứng nói riêng và với vật học
là một tính tất yếu có quy luật càng ngày càng phát triển hơn nữa. Chnghĩa duy
vật biện chứng luôn tự đặt cho mình một nhiệm vụ phải khái quát những thành tựu
mới của khoa học, hội và vật học để làm sâu sắc n, phong phú hơn những
hiện tượng trong đời sống, trong từng quy luật của nhân loại con người. đúng
như C.Mác đã khẳng định: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác
phương pháp của -ghen về bản, còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa.”.
Tạo ra sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật phép biện chứng là cống hiến vĩ đại
của C.Mác trong lịch sử triết học chưa từng có. C.Mác đã đem lại cho loài người
tiến bộ khí luận sắc bén, công cụ nhận thức đại. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng sở luận của thế giới quan khoa học; khoa học về những quy luật
chung nhất của svận động và phát triển trong tnhiên, xã hội và tư duy. Bên cạnh
đó nó cũng là hình thức cao nhất trong các hình thức ca chủ nghĩa duy vật. Cốt lõi
của chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép biện chứng.
Không phải hễ thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người là trong con
người có ngay ý thức về thế giới, mà ý thức được hình thành từ trong quá trình hoạt
động lao động giao tiếp cộng đồng của con người. Ý thức sự phản ánh năng
động sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn
ngữ diễn ra trong các quan hệ hội. Ý thức sản phẩm của sự phát triển
hội, phụ thuộc vào xã hội và mang tính chất xã hội. Tính phản ánh và tính sáng tạo
của ý thức thống nhất với nhau trong hoạt động thực tiễn hội của con người. Ý
thức hình thức phản ánh hội – phản ánh một cách năng động sáng tạo hiện thực
khách quan vào trong bộ óc của con người có lợi ích.
lOMoARcPSD| 36006477
19
Nguyên xuất phát của phép duy vật biện chứng đó chính nguyên xem
các thế giới của sự vật, hiện tượng như một chỉnh thể động và khả năng tự phát
triển được theo những quy luật khách quan vốn và phổ biến của chính nó. Nói
theo một cách khác phép biện chứng duy vật nếu xét về một hướng khác chính
học thuyết sâu sắc nhất và không phiến diện về sự phát triển. Chính vì vậy mà việc
nghiên cứu toàn diện sự vận dụng về phép biện chứng ý nghĩa cùng quan
trọng cần thiết đnhằm xây dựng thế giới quan duy vật triệt để nhằm phổ biến
về khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
duy biện chứng đó chính năng lực sức mạnh không thể thiếu được
trong nhận thứcvà trong hoạt động thực tiễn của mỗi con người chúng ta. đòi hỏi
bắt buộc mỗi người trong quá trình thực hiện những nhiệm vtrong nhận thức
cải tạo thế giới khách quan và cũngđòi hỏi đối với những sinh viên chúng em
sinh viên trường Đại học Phenikaa khi ra trường trong giai đoạn đổi mới, hội nhập
quốc tế và cải tiến đất nước ở những thế kỉ sắp tới. Để có thể nâng cao năng lực của
bản thân mỗi sinh viên. Chúng em cần phải nắm nội dung phải có những
phương pháp học hiệu quả, cần phải gắn kết luận cả thực tiễn. Rèn luyện
phương pháp biện chứng thường xuyên vận dụng thực tế vào hội, đời sống
của bản thân. Nâng cao duy biện chứng học cách giải quyết tốt xử những
vấn đề về cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học để xây dựng, giúp đất
nước thể sánh vai với bạn năm châu, liên kết hội nhập quốc tế sâu rộng hơn
và tuy nhiên chúng ta cũng cần phải cố gắng nền khoa học công nghệ của đất nước
ta luôn thay đổi và cải cách từng ngày.
lOMoARcPSD|36006477
Tài liệu tham khảo:
Nguồn gốc, bản chất của ý thức: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và ý
nghĩa phương pháp luận, tác giả: 8910X.com, ngày xuất bản: 13/07/2019,
https://8910x.com/nguon-goc-ban-chat-cua-y-thuc-va-y-nghia/?
fbclid=IwAR2Sso7kbCmiZwtJMFQ7vHd7tthPW06nqe7gRrKwcBsfBCI3DJpZqS
j78c
Nguồn gốc bản chất của ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
ngày xuất bản: 11/05/2021, https://hocluat.vn/quan-diem-cua-chu-nghiaduy-vat-
bien-chung-ve-nguon-goc-va-ban-chat-cua-y- thuc/?
fbclid=IwAR1sAZ3YPhT5iKvMSPm93RJgt7jowfSbANnQjSVzhqa4O2B8ltnmaF
z4VA
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN DUY VẬT ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC
TƯ DUY BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG
NGHIỆP DỆT MAY HÀ NỘI, tác giả: Nguyễn Thị Thuỳ, ngày xuất bản:
18/11/2019,http://hict.edu.vn/khoa-hoc-co-ban/van-dung-phuong-phap-luan-
duyvat-de-nang-cao-nang-luc.htm?
fbclid=IwAR0yebYK3w8tnk77dAdieKbIr_zZZ59zKZgvyE2aHmt1MexePH5646
ymG4
Nguyên tắc của phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng việc vận
dụng vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam, tác giả: Sùng Thị Chấu, ngày xuất
bản:09/08/2021,https://luatminhkhue.vn/nguyen-tac-cua-phuong-phap-luan-
lOMoARcPSD|36006477
21
cuachu-nghia-duy-vat-bien-chung-va-viec-van-dung-no-vao-su-nghiep-cach-
mangviet-nam.aspx
BÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VẬN
DỤNG, tác giả: Phạm Văn Đạo, ngày xuất bản: 10/2014,
https://www.slideshare.net/trongthuy2/tai-free-chuyen-de-phep-bien-chung-
duyvat-cam-nhan-va-van-dung-
hay?fbclid=IwAR1whDMCZmciL_a7TgUsT2DWbB4NOnZhjwMi4AXPb08nyL
dSmqWpTjgdbQ
Quan điểm duy vật biện chứng về kết cấu của ý thức, tác giả: Nguyễn Hoàng
Thiêm, https://hoctap24h.vn/quan-diem-duy-vat-bien-chung-ve-ket-cau-cua-
ythuc?fbclid=IwAR1sAZ3YPhT5iKvMSPm93RJgt7jowfSbANnQjSVzhqa4O2B8
ltnmaFz4VA
Giáo trình Triết học Mác Lênin, tác giả: GS.TS.Phạm Văn Đức, Nội, năm
2019.
Tiểu luận triết học : Vai trò của tri thức trong đời sống - xã hội,
http://thuvien.tcdktcnsl.edu.vn/files/products/tieu_luan_triet_hoc_vai_tro_cua_tri_
thuc_trong_doi_song_xa_hoi_700.pdf
Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội hiện đại, ny xuất bản: 09/04/2013,
https://123docz.net/document/281831-vai-tro-cua-tri-thuc-trong-doi-song-xa-
hoihien-dai.htm
lOMoARcPSD|36006477
Tiểu luận triết học - Ý thức vai trò của tri thức trong đời sống hội,
https://www.tailieudaihoc.com/3doc/697582.html
TIỂU LUẬN Ý THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ
HỘI, http://giaoanmau.com/giao-an/tieu-luan-y-thuc-va-vai-tro-cua-tri-thuc-
trongdoi-song-xa-hoi-16825/
Vai trò của tri thức, tình cảm, ý chí trong nghiên cứu, học tập của sinh viên, tác
giả: Diệp Trần, ngày xuất bản: 03/2020,
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-kinh-te-quoc-dan/triet-1/vai-
trocua-tri-thuc-tinh-cam-y-chi-trong-nghien-cuu-hoc-tap-cua-sinh-vien/18939303
| 1/22

Preview text:

lOMoARcPSD| 36006477
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN ⸎⸎⸎⸎⸎
BÀI TẬP CHƯƠNG II MÔN TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN
Tên đề tài: “Phân tích quan điểm duy vật biện chứng về bản chất, nguồn gốc,
kết cấu của ý thức? Chỉ rõ vai trò của tri thức trong đời sống xã hội”
Tên giảng viên hướng dẫn : Đồng Thị Tuyền Lớp học phần
: Triết học Mác Lê-nin_1_2(15.1FS).8_LT Năm học : 2021-2022
Các thành viên trong nhóm : 1 lOMoARcPSD| 36006477 Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3
NỘI DUNG ............................................................................................................... 5
1. Bản chất của ý thức: ............................................................................................. 5
2. Nguồn gốc của ý thức: .......................................................................................... 6
2.1. Mặt tự nhiên: ..................................................................................................... 6
2.2. Mặt xã hội: ......................................................................................................... 7
3. Kết cấu của ý thức: ............................................................................................... 8
3.1. Các lớp cấu trúc của ý thức: ............................................................................. 8
3.2. Các cấp độ của ý thức: ...................................................................................... 9
4. Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội: ......................................................... 11
4.1. Tri thức là gì? .................................................................................................. 11
4.2. Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội: ..................................................... 12
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 18 MỞ ĐẦU
Theo Mác Lê-nin, Triết học được biết đến là hệ thống quan điểm lý luận chung
nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật lOMoAR cPSD| 36006477
vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, đáp ứng nhu cầu về
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người: cần phải tổng hợp, trừu tượng hóa,
khái quát hóa trí thức về thế giới thành các khái niệm, phạm trù, quan điểm, quy
luật….để giải thích thế giới. Xuất hiện ở cả Phương Đông và Phương Tây từ thế kỉ
VIII đến thế kỉ VI trước Công Nguyên, trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển,
Triết học đã trở thành một nền tảng vững chắc cho sự phát triển thể giới. Được tôn
vinh là khoa học của mọi khoa học, Triết học luôn cho chúng ta cái nhìn toàn vẹn,
đa chiều và sâu sắc nhất về mọi sự vật, hiện tượng, đưa con người đến cách giải
quyết nhanh chóng và hợp lí nhất. Nhờ có Triết học mà thế giới quan của con người
được mở rộng bằng việc sử dụng các công cụ lý tính, các tiêu chuẩn logic và những
kinh nghiệm mà con người đã khám phá trong cuộc sống thực tại để xây dựng nên
bức tranh tổng quát về thế giới và về con người chứ không dựa trên niềm tin và quan
niệm tưởng tượng về thế giới. Trong suốt chiều dài phát triển của mình, Triết học
không bó buộc mình chỉ tìm hiểu về một đối tượng nhất định mà tùy theo thời gian,
các đối tượng được Triết học tìm hiểu sẽ có sự thay đổi. Có thể nói rằng, đối tượng
nghiên cứu xuyên suốt của Triết học chính là: Tiếp tục giải quyết vấn đề về mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất trên lập trường duy vật; nghiên
cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó định hướng cho
hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người. Đó là lí do tại sao Triết học
mang tính bao quát cho mọi thời đại. Đối với Triết học Mác Lê-nin, vì được ra đời
vào những năm 30 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa
học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra đời của triết học Mác
– Lênin là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch
sử triết học. Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác Lê-nin là nghiên cứu những
quy luật chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy. Vai trò của con người đối với thế 3 lOMoARcPSD| 36006477
giới trên cơ sở giải quyết khoa học vấn đề cơ bản của triết học. Bộ não thiên tài của
Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề mà mà tư tưởng tiên tiến của
nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những
học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học
và trong chủ nghĩa xã hội và trong thời kì Triết học Mác Lê-nin hình thành, khoa
học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng và với những phát
minh đó, khoa học đã cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng vượt
lên tính tự phát của phép biện chứng cổ đại, thoát khỏi tính thần bí của phép biện
chứng duy tâm và trở thành khoa học. Bằng những kiến thức rút ra từ kết quả học
cùng với việc tham khảo từ các tài liệu, nhóm chúng em xin phép được trình bày
phân tích quan điểm duy vật biện chứng về bản chất, nguồn gốc, kết cấu của ý thức
và làm rõ vai trò của tri thức trong đời sống xã hội trong bài luận dưới đây. Trong
quá trình làm bài nếu có những sai sót về mặt kĩ thuật hay kiến thức, nhóm em mong
nhận được những lời nhận xét và góp ý từ cô, chúng em sẽ cố gắng rút kinh nghiệm
và nỗ lực để hoàn thiện tốt nhất kiến thức của mình. Chúng em xin trân trọng cảm ơn! NỘI DUNG
1. Bản chất của ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo. Như vậy, bản chất của nó
được thể hiện qua 4 khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ óc con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Thứ hai là tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện
ở khả năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận lOMoARcPSD| 36006477
thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những
thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông
tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được
thể hiện ở quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại,…
trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây
dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người. Thứ
ba, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nghĩa là: ý thức là hình ảnh
về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nộI dung,
cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan
mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức
“chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
Thứ tư, ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và
tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của
các quy luật sinh học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã
hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý
thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
2. Nguồn gốc của ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac Lenin thì trong lịch sử triết học, vấn đề
nguồn gốc, bản chất của ý thức là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Triết học duy vật biện chứng
khẳng định, ý thức của con người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. 5 lOMoARcPSD| 36006477
2.1. Mặt tự nhiên:
Theo quan điểm của triết học Mác Lenin, ý thức là một thuộc tính của một dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người và
không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không có
ý thức. Bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Các nhân tố bao gồm: 2.1.1. Bộ óc:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm
của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp,
gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ
nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong
quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện. 2.1.1. Sự phản ánh:
Theo chủ nghĩa Mác Lenin, hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở hoạt
động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của
mọi đối tượng vật chất. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật
chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác. Trong quá trình phát triển lâu
dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của vật chất cũng phát triển từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp:
Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, thể hiện
qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá. lOMoARcPSD| 36006477
Phản ánh sinh học: Là những phản ánh trong sinh giới trong giới hữu sinh cũng
có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật.
Phản ánh ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý
thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người. 2.2. Mặt xã hội:
Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết định
cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động, ngôn
ngữ và các quan hệ xã hội. 2.2.1. Lao động:
Là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất người. Lao động
đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải phóng hai tay. Điều này cùng với
chế độ ăn có thịt đã thực sự có ý nghĩa quyết định đối với quá trình chuyển hoá từ
vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức. Việc chế tạo ra công cụ lao động
có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý thức về mục đích của hoạt động biến đổi thế
giới. Nhờ có lao động, bộ não con người được phát triển và ngày càng hoàn thiện,
làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người ngày càng cao. Cũng là lao động
ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối liên hệ tất yếu, khách quan.
Và từ đó ngôn ngữ xuất hiện. 2.2.2. Ngôn ngữ:
Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì ngôn ngữ là phương tiện để con
người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư
duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển
tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người. 7 lOMoARcPSD| 36006477
3. Kết cấu của ý thức:
3.1. Các lớp cấu trúc của ý thức: 3.1.1. Tri thức:
Là toàn bộ những hiểu biết của con người về hiện thực khách quan (trong đó
còn có thể bao gồm cả sự hiểu biết của con người về chính những hiểu biết đó – tức
là khi đạt tới sự tự ý thức). Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành
nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri thức về con người và xã hội. Căn cứ vào trình
độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức
khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,… 3.1.2. Tình cảm:
Là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các quan hệ. Tình
cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái
quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình
cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu
tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Tùy
vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong
các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như:
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo… 3.1.3. Ý chí:
Là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua những
cản trở trong quá trình thực hiện mục đích của nó. Ý chí được coi là mặt năng động
của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được
mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để thực hiện đến
cùng mục đích đã lựa chọn. Có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với lOMoARcPSD| 36006477
mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách
tự giác; nó cho phép con người tự kiềm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong
hành động theo quan điểm và niềm tin của mình.
3.2. Các cấp độ của ý thức: 3.2.1. Tự ý thức:
Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với
ý thức về thế giới bên ngoài.
Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, con người tự phân biệt, tách
mình, đối lập mình với thế giới để đánh giá mình thông qua các mối quan hệ.
Nhờ vậy, con người tự ý thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm
giác, đang tư duy, tự đánh giá năng lực và trình độ hiểu biết của bản thân về thế giới,
về các quan điểm, tư tưởng , tình cảm, nguyện vọng, hành vi, đạo đức, lợi ích của
mình. Qua đó xác định vị trí, mạnh yếu của mình, làm chủ bản thân, chủ động điều
chỉnh hành vi của mình trong tác động qua lại với thế giới khách quan. Không chỉ
là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của các nhóm xã hội khác nhau (như
một tập thể, một giai cấp, một dân tộc, thậm chí là cả xã hội) về địa vị của họ trong
hệ thống sản xuất, về lợi ích và lý tưởng của mình. 3.2.2. Tiềm thức:
Tiềm thức là hoạt động tâm lí diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức. Về
thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gẫn
như thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.
Tiềm thức không tự động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể
không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. 9 lOMoAR cPSD| 36006477
Tiềm thức có vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học: Tiềm thức
gắn bó chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần, vẫn đảm bảo
độ chính xác cao và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học. 3.2.3. Vô thức:
Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài
phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Vô thức
là những trạng thái tâm lí ở tầng sâu điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử
của con người mà chưa có sự cam thiệp của lý trí.
Vô thức biểu hiện ra thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham
muốn, giấc mơ, bị thôi miên, trực giác…
Mỗi hiện tượng vô thức có vùng hoạt động riêng, có vai trò , chức năng riêng
nhưng tất cả đều có một chức năng là giải tỏa ức chế trong hoạt động thần kinh vượt
ngưỡng, góp phần trong việc lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con
người, giúp cho con người luôn làm chủ đời sống nội tâm, có phương pháp kiềm chế.
Vô thức có ý nghĩa quan trọng trọng việc giáo dục thế hệ trẻ trong hoạt động
khoa học và nghệ thuật những không nên cường điệu hóa, tuyệt đối hóa, thần bí hóa vô thức.
Vô thức là vô thức trong con người xã hội có ý thức, vô thức không thể là hiện
tượng cô lập, tách rời với ý thức và thế giới bên ngoài, không thể là cái quyết định
ý thức, hành vi con người. lOMoARcPSD| 36006477
4. Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội:
4.1. Tri thức là gì?
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư
duy thì lúc đó có tri thức. Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho đến
những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội
mới được đề cặp nhiều. Vậy tri thức là gì? Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức
nhưng ta có thể hiểu “Tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng
để ứng dụng nó (hiểu biết sáng tạo) vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát
triển kinh tế - xã hội. Tri thức bao gồm tất cả những thông tin, số liệu, bản vẽ, tưởng
tượng (sáng tạo), khả năng, kỹ năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang
tính tượng trưng xã hội khác. Tri thức có vai trò rất lớn đối với đời sống – xã hội.
Nói đến tri thức là nói đến học vấn, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức.
Sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với quá trình con
người nhận biết và cải tạo thế giới tự nhiên. Con người tích lũy được càng nhiều tri
thức thì ý thức càng cao, càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo thế giới có hiệu
quả hơn. Tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng lên. Nhấn mạnh tri thức là yếu
tố cơ bản, quan trọng nhất của ý thức có nghĩa là chống lại quan điểm giản đơn coi
ý thức chỉ là tình cảm, niềm tin và ý chí. Quan điểm đó là biểu hiện chủ quan, duy
ý chí của sự tưởng tượng chủ quan. Tuy nhiên cũng không thể coi nhẹ nhân tố tình
cảm, ý chí. Ngược lại nếu tri thức biến thành tình cảm, niềm tin, ý chí của con người
hoạt động thì tự nó không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực. Kinh tế thế
giới đang bước vào một thời đại mới, một trình độ mới. Đó là trình độ mà “nhân tố
quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng tạo, phân
phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”. Tiêu chí chủ yếu của nó là 11 lOMoARcPSD| 36006477
lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp giống
như các yếu tố sức lao động và tài nguyên. Đó là thời đại mà “Tri thức đã trở thành
động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, ”Tri thức là tài nguyên là tư bản”, tri
thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng trưởng dài hạn
dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, cấu trúc thị trường, lựa chọn nghề nghiệp…
4.2. Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội:
Tri thức đã và đang ngày càng trở nên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó
tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá - giáo dục…
4.2.1.Vai trò của tri thức đối với Kinh tế:
Tri thức là nền tảng, là động lực để phát triển kinh tế, là nhân tố đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc góp phần tạo nên mọi thành tựu và tiến bộ trong lịch
sử phát triển của văn minh nhân loại.
Tri thức là nhận thức và kinh nghiệm mà loài người thu được trong quá trình
cải tạo thế giới. Do vậy trong bất kì giai đoạn nào con người cũng luôn ứng dụng tri
thức vào việc phát triển kinh tế. Trong các hình thái kinh tế khác nhau, mức độ tri
thức được ứng dụng sâu rộng cũng khác nhau, cho nên tác dụng cũng khác nhau.
Trong ba thế kỉ qua, với những thành tựu kì diệu về phát triển khoa học và công
nghệ đã đưa loài người từ nên văn minh nông nghiệp vượt qua nền văn minh công
nghiệp và ngày nay đang tiến vào nên văn minh trí tuệ. Trong nền văn minh trí tuệ,
động lực thúc đẩy sản xuất và phát triển kinh tế không còn là vốn tài nguyên thiên
nhiên hay sức lao động nữa mà đơn giản là tri thức. Tri thức tồn tại trong bộ óc con
người, vai trò tự chủ con người là tiền đề để con người phát huy đầy đủ tri thức. Vì
vậy nền văn minh trí tuệ, tri thức trở thành động lực lớn nhất của nền kinh tế. Khi lOMoAR cPSD| 36006477
chưa có chữ viết thì kĩ năng, tri thức của con người được truyền qua tay, qua miệng.
Sau khi nắm được chữviết thì nhờ chữ viết mà người ta có thể nắm được kí năng, tri
thức rộng hơn, từ đó xuất hiện một tầng lớp tri thức chuyên truyền bá tri thức và
sáng tạo tri thức. Tri thức không giới hạn ở bất cứ một lĩnh vực nào, nó được thể
hiện ở mọi lĩnh vực, đặc biệt là tri thức có vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực kinh
tế. Chính bởi vậy mà đất nước có nền kinh tế phát triển hay không hầu như phụ
thuộc vào vốn tri thức của con người.
Ví dụ: Điển hình như là các nước Châu Phi, mặc dù là khu vực mà tài nguyên
thiên nhiên rất phong phú và đa dạng nhưng nền kinh tế khu vực này phần lớn là
kém phát triển và còn phải nhờ vào sự viện trợ của các nước phát triển. Điều này là
do tri thức ở khu vực này còn kém, tỉ lệ người mù chữ còn cao khiến công tác khai
thác tài nguyên thiên nhiên gặp nhiều khó khăn, không những thế do tri thức kém
người dân còn không nhận thức được tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên dẫn
đến việc khai thác bừa bãi gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Ngược lại đất nước Nhật
Bản được biết đến là một đất nước có tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, không
những thế hàng năm đất nước này phải hứng chịu rất nhiều trận thiên tai lớn nhỏ
như động đất, sóng thần, núi lửa,…Mặc dù vậy Nhật Bản lại có nền kinh tế vô cùng
phát triển, có giai đoạn nền kinh tế Nhật Bản còn đứng thứ ba Thế giới chỉ sau Mĩ
và Trung Quốc. Một trong những nguyên nhân cơ bản của sự phát triển thần kỳ đó
chính là vốn tri thức của con người Nhật Bản. Người Nhật Bản có vốn tri thức rất
lớn chính bởi vậy họ rất sắc xảo, nhạy bén trong việc nắm bắt thị trường, đổi mới
phương pháp kinh doanh, sáng tạo trong phát triển khoa học, kỹ thuật, đem lại thắng
lợi cho nền kinh tế đất nước.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định, dưới tác động của cách mạng khoa
học – công nghệ và toàn cầu hoá, kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát 13 lOMoAR cPSD| 36006477
triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một, hai thập niên tới. Sự
xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức: Nền kinh tế tri
thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội dung chủ yếu. Tương
lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc vào việc sử dụng tiền
bạc, nguyên vật liệu, nguồn nhân lực và máy móc thiết bị…mà còn phụ thuộc vào
việc xử lý và sử dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ môi trường kinh doanh.
Cách tốt nhất để tăng năng suất là tìm hiểu kiến thức chuyên môn mà hãng có được,
sử dụng vì mục đích thương mại và những kiến thức này cần được phát triển không ngừng.
Giá trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm
và các công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu
hình, mà còn nằm trong những tài sản vô hình, như tri thức và các bằng sáng chế.
Để trở thành một công ty được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận ra
những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng giá trị kinh doanh. Vốn trí tuệ của
công ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ nhân viên và công nhân cũng như
khả năng của công ty để liên tục hoàn thiện phương pháp sản xuất là một nguồn lợi thế cạnh tranh.
Nền kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thông minh.
Đó là những sản phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các thông tin để người sử
dụng có thể hành động một cách hiệu quả hơn. Ngay cả một chiếc bánh cũng có thể
trở thành một sản phẩm mới dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết
cách sử dụng những thông tin về dinh dưỡng. Số lượng ka-lo và chất béo được in
lên hoá đơn hoặc thậm chí trình bày thông tin đó trước khi khách đặt hàng. Vốn
tri thức – vai trò của nó trong kinh tế tri thức: Vốn tri thức là tri thức được dùng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích sinh lợi (tăng thêm giá trị). Vốn tri thức lOMoAR cPSD| 36006477
là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất. Trong văn minh nông nghiệp thì sức
lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp, vốn, đất đai và
nhất là sức lao động trở thành hàng hoá với tư cách là những yếu tố quan trọng trong
sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần chuyển xã hội phong kiến thành xã hội tư
bản trong lịch sử. Còn trong kinh tế tri thức, yếu tố của sự phát triển nền kinh tế -
xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ, đất đai và dựa trên lao động đơn giản mà chủ
yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức. Như vốn tri thức trở thành yếu tố thứ
nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn tiền tệ và đất đai.
Vốn tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế xã
hội. Nước Mỹ nói riêng và các nước thuộc tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế nói
chung nhiều năm qua tăng trưởng ổn định với tốc độ cao nhờ có sự phát triển của
các ngành kinh tế dựa trên tri thức như các ngành công nghệ thông tin, viễn thông,
vũ trụ, đầu tư, ngân hàng, tài chính, chứng khoán, bảo hiểm…Đồng thời chuyển đầu
tư vốn tri thức từ các ngành truyền thống sang các ngành có hàm lượng tri thức cao
ở các nước có nền kinh tế đang phát triển, đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì mang
lại giá trị gia tăng càng lớn, tỷ suất lợi nhuận càng cao.
Vốn tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay
thất bại của doanh nghiệp. Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri thức, các
nhà quản lý có trình độ cao, các công nghệ mới.
Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa
các nước đang phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là
cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt
Nam. Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri
thức, thông qua tri thức hoá các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đặc biệt 15 lOMoAR cPSD| 36006477
sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất nước đuổi
kịp các nước phát triển.
4.2.2. Vai trò tri thức đối với chính trị:
Xã hội được phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu là nhờ một phần
rất lớn từ bộ máy chính trị nhà nước vốn được coi là đầu não của một quốc gia. Để
có thể điều hành xã hội đi đến thời đại mới, ngày một bước gần hơn với chế độ xã
hội chủ nghĩa thì bộ máy ấy là sự đóng góp của vô vàn sự lĩnh hội về tri thức ở các
lĩnh vực khác nhau. Mỗi một lĩnh vực là một chân trời tri thức mà con người luôn
khao khát được vươn tới, được lĩnh hội mộtcách trọn vẹn và từ những hiểu biết đó
họ kiến tạo thành những ý tưởng, xâydựng những bước đi vững mạnh hơn, đưa ra
những chính sách thiết thực hơn nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của nhân
dân. Chính vì vậy mà bộ máy chính trị của mỗi quốc gia luôn phải tuyển chọn những
con người học rộng tài cao, đức độ trung thành với mục tiêu xã hội.
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức. Người có tri thức
là có khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát thực,
đúng đắn. Một đất nước cần những con người như vây để điều hành công việc chính
trị. Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia. Đại hội VI của Đảng đã đánh
dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con người. Đại
hội nhấn mạnh: “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục
đích cao nhất của mọi hoạt đông” chiến lược phát triển con người đang là chiến lược cấp bách.
Ví dụ: Sự kiện ngày 5 tháng 6 năm 1911 – ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu
nước. Trước hoàn cảnh Việt Nam thuộc quyền thống trị của thực dân Pháp, nhiều
cuộc khởi nghĩa, nổi dậy đã diện ra nhưng thất bại, Bác Hồ đã quyết tâm ra đi tìm
đường cứu nước. Bác lên đường sang Pháp để học hỏi những điều mà Bác cho là lOMoAR cPSD| 36006477
“tinh hoa và tiến bộ” từ các nước phương Tây nhằm thực hiện công cuộc giải phóng
Việt Nam khỏi ách thuộc địa của thực dân Pháp. Sau 30 năm bôn ba nước ngoài,
ngày 28 tháng 1 năm 1941, Bác trở về nước và với vốn tri thức, học thuyết cách
mạng mà Bác đã tiếp thu và nghiên cứu khi hoạt động ở nước ngoài, Bác đã trực
tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và giành thắng lợi hoàn toàn. Từ đó ta có thể
thấy tri thức có vai trò quan trọng như thế nào đối với chính trị.
4.2.3. Vai trò tri thức đối với văn hoá - giáo dục:
Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá - giáo dục của một quốc gia. Nó
giúp con người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức của con người được nâng cao.
Giáo dục là nền tảng của xã hội. Một xã hội phát triển là xã hội ở đó con người
được hoàn thiện bản thân ở các lĩnh vực, đặc biệt là đóng góp cho nền giáo dục ngày
càng phát triển, cải tiến trên mọi phương diện. Tri thức là “nguồn tài nguyên” vô giá
của nhân loại. Chúng ta phải có tri thức để hiểu biết về văn hóa các nước và tạo nên
nền văn hóa ngày càng lành mạnh. Mỗi con người chúng ta phải có những hiểu biết
về tầm quan trọng của giáo dục, biết về nội dung, phương pháp giáo dục của các
nước khác để ngày một cải thiện nền văn hóa - giáo dục của Việt Nam.
Qua những mặt vẫn còn yếu kém của nền giáo dục Việt Nam, có tri thức giúp
chúng ta có sự hiểu biết để đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục của nước ta
vừa theo kịp nền tri thức của nhân loại lại vừa giữ gìn bản sắc văn hóa tốt của dân tộc Việt Nam. 17 lOMoARcPSD| 36006477 KẾT LUẬN
Thông qua quá trình phát triển lịch sử của triết học ta thấy rằng mối liên hệ
giữa triết học nói chung và triết học duy vật biện chứng nói riêng và với vật lí học
là một tính tất yếu có quy luật và càng ngày càng phát triển hơn nữa. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng luôn tự đặt cho mình một nhiệm vụ phải khái quát những thành tựu
mới của khoa học, xã hội và vật lí học để làm sâu sắc hơn, phong phú hơn những
hiện tượng trong đời sống, trong từng quy luật của nhân loại con người. Và đúng
như C.Mác đã khẳng định: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác
phương pháp của Hê-ghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa.”.
Tạo ra sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng là cống hiến vĩ đại
của C.Mác mà trong lịch sử triết học chưa từng có. C.Mác đã đem lại cho loài người
tiến bộ vũ khí lý luận sắc bén, công cụ nhận thức vĩ đại. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học; là khoa học về những quy luật
chung nhất của sự vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Bên cạnh
đó nó cũng là hình thức cao nhất trong các hình thức của chủ nghĩa duy vật. Cốt lõi
của chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép biện chứng.
Không phải hễ thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người là trong con
người có ngay ý thức về thế giới, mà ý thức được hình thành từ trong quá trình hoạt
động lao động và giao tiếp cộng đồng của con người. Ý thức là sự phản ánh năng
động sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn
ngữ và diễn ra trong các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã
hội, phụ thuộc vào xã hội và mang tính chất xã hội. Tính phản ánh và tính sáng tạo
của ý thức thống nhất với nhau trong hoạt động thực tiễn xã hội của con người. Ý
thức là hình thức phản ánh xã hội – phản ánh một cách năng động sáng tạo hiện thực
khách quan vào trong bộ óc của con người có lợi ích. lOMoAR cPSD| 36006477
Nguyên lí xuất phát của phép duy vật biện chứng đó chính là nguyên lí xem
các thế giới của sự vật, hiện tượng như một chỉnh thể động và có khả năng tự phát
triển được theo những quy luật khách quan vốn có và phổ biến của chính nó. Nói
theo một cách khác phép biện chứng duy vật nếu xét về một hướng khác chính là
học thuyết sâu sắc nhất và không phiến diện về sự phát triển. Chính vì vậy mà việc
nghiên cứu toàn diện và sự vận dụng về phép biện chứng có ý nghĩa vô cùng quan
trọng và cần thiết để nhằm xây dựng thế giới quan duy vật triệt để và nhằm phổ biến
về khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Tư duy biện chứng đó chính là năng lực là sức mạnh không thể thiếu được
trong nhận thứcvà trong hoạt động thực tiễn của mỗi con người chúng ta. Nó đòi hỏi
bắt buộc mỗi người trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ trong nhận thức và
cải tạo thế giới ở khách quan và cũng là đòi hỏi đối với những sinh viên chúng em
– sinh viên trường Đại học Phenikaa khi ra trường trong giai đoạn đổi mới, hội nhập
quốc tế và cải tiến đất nước ở những thế kỉ sắp tới. Để có thể nâng cao năng lực của
bản thân mỗi sinh viên. Chúng em cần phải nắm rõ nội dung và phải có những
phương pháp học hiệu quả, cần phải gắn kết lý luận và cả thực tiễn. Rèn luyện
phương pháp biện chứng thường xuyên và vận dụng thực tế vào xã hội, đời sống
của bản thân. Nâng cao tư duy biện chứng và học cách giải quyết tốt xử lí những
vấn đề về cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học để xây dựng, giúp đất
nước có thể sánh vai với bạn bè năm châu, liên kết hội nhập quốc tế sâu rộng hơn
và tuy nhiên chúng ta cũng cần phải cố gắng nền khoa học công nghệ của đất nước
ta luôn thay đổi và cải cách từng ngày. 19 lOMoARcPSD| 36006477
Tài liệu tham khảo:
Nguồn gốc, bản chất của ý thức: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và ý
nghĩa phương pháp luận, tác giả: 8910X.com, ngày xuất bản: 13/07/2019,
https://8910x.com/nguon-goc-ban-chat-cua-y-thuc-va-y-nghia/?
fbclid=IwAR2Sso7kbCmiZwtJMFQ7vHd7tthPW06nqe7gRrKwcBsfBCI3DJpZqS j78c
Nguồn gốc và bản chất của ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
ngày xuất bản: 11/05/2021, https://hocluat.vn/quan-diem-cua-chu-nghiaduy-vat-
bien-chung-ve-nguon-goc-va-ban-chat-cua-y- thuc/?
fbclid=IwAR1sAZ3YPhT5iKvMSPm93RJgt7jowfSbANnQjSVzhqa4O2B8ltnmaF z4VA
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN DUY VẬT ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC
TƯ DUY BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG
NGHIỆP DỆT MAY HÀ NỘI, tác giả: Nguyễn Thị Thuỳ, ngày xuất bản:
18/11/2019,http://hict.edu.vn/khoa-hoc-co-ban/van-dung-phuong-phap-luan-
duyvat-de-nang-cao-nang-luc.htm?
fbclid=IwAR0yebYK3w8tnk77dAdieKbIr_zZZ59zKZgvyE2aHmt1MexePH5646 ymG4
Nguyên tắc của phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và việc vận
dụng nó vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam, tác giả: Sùng Thị Chấu, ngày xuất
bản:09/08/2021,https://luatminhkhue.vn/nguyen-tac-cua-phuong-phap-luan- lOMoARcPSD| 36006477
cuachu-nghia-duy-vat-bien-chung-va-viec-van-dung-no-vao-su-nghiep-cach- mangviet-nam.aspx
BÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VÀ VẬN DỤNG, tác giả: Phạm Văn Đạo, ngày xuất bản: 10/2014,
https://www.slideshare.net/trongthuy2/tai-free-chuyen-de-phep-bien-chung- duyvat-cam-nhan-va-van-dung-
hay?fbclid=IwAR1whDMCZmciL_a7TgUsT2DWbB4NOnZhjwMi4AXPb08nyL dSmqWpTjgdbQ
Quan điểm duy vật biện chứng về kết cấu của ý thức, tác giả: Nguyễn Hoàng Thiêm,
https://hoctap24h.vn/quan-diem-duy-vat-bien-chung-ve-ket-cau-cua-
ythuc?fbclid=IwAR1sAZ3YPhT5iKvMSPm93RJgt7jowfSbANnQjSVzhqa4O2B8 ltnmaFz4VA
Giáo trình Triết học Mác – Lênin, tác giả: GS.TS.Phạm Văn Đức, Hà Nội, năm 2019.
Tiểu luận triết học : Vai trò của tri thức trong đời sống - xã hội,
http://thuvien.tcdktcnsl.edu.vn/files/products/tieu_luan_triet_hoc_vai_tro_cua_tri_
thuc_trong_doi_song_xa_hoi_700.pdf
Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội hiện đại, ngày xuất bản: 09/04/2013,
https://123docz.net/document/281831-vai-tro-cua-tri-thuc-trong-doi-song-xa- hoihien-dai.htm 21 lOMoARcPSD| 36006477
Tiểu luận triết học - Ý thức và vai trò của tri thức trong đời sống xã hội,
https://www.tailieudaihoc.com/3doc/697582.html
TIỂU LUẬN Ý THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI,
http://giaoanmau.com/giao-an/tieu-luan-y-thuc-va-vai-tro-cua-tri-thuc- trongdoi-song-xa-hoi-16825/
Vai trò của tri thức, tình cảm, ý chí trong nghiên cứu, học tập của sinh viên, tác
giả: Diệp Trần, ngày xuất bản: 03/2020,
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-kinh-te-quoc-dan/triet-1/vai-
trocua-tri-thuc-tinh-cam-y-chi-trong-nghien-cuu-hoc-tap-cua-sinh-vien/18939303