Phân tích quy luật “Lượng – Chất” của phép biện chứng duy vật và vận dụng trong quá trình học tập của sinh viên hiện nay? | Bài tập lớn kết thúc học phần Triết học Mác - Lênin

Lượng mang tính khách quan vì lượng là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định.Trong sự vật hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau như: có lượng là yếu tố quyết định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
⸎⸎⸎⸎⸎
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
Đề bài: Phân tích quy luật “Lượng – Chất” của phép biện chứng duy vật và
vận dụng trong quá trình học tập của sinh viên hiện nay?
Mã đề: 88
Sinh viên : NGUYỄN KHÁNH LINH
Số báo danh : 88
Lớp : Triết học Mác - Lê nin-2-1-22(N05)
Giáo viên giảng dạy: TS. Đỗ Khánh Chi
Mã sinh viên : 22011456
HÀ NỘI, THÁNG 1/2023
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ……………………………………………………..
Chương 1: Những vấn đề về lý luận của quy luật “Lượng - Chất” …………
1.1. Khái niệm và đặc điểm về lượng ………………………………………
1.2. Khái niệm và đặc điểm về chất …………………………….
Chương 2: Nội dung quy luật “Lượng – Chất”……………………………
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng……………………
2.2. Ý nghĩa phương pháp luận ……………………………………
Chương 3. Liên hệ, vận dụng, đánh giá ……………………………………
1. Mở đầu vấn đề
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chất phạm trù triết học dùng
để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật, sự thống nhất hữu những
thuộc tính làm cho sự vật chứ không phải cái khác. Lượng phạm trù triết
học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật. Lượng
chất hai mặt bản của mọi sự vật hiện tượng. Trong bản thân sự vật thì hai
mặt này luôn tác động qua lại, nột mức độ nào đó, làm cho sự vật phát triển.
Khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng trong sự vật chưa đủ làm thay đổi
căn bản chất của sự vật được gọi độ. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng
đạt tới mức đủ để dẫn tới sự thay đổi về chất thì độ bị phá vỡ sự vật phát triển
sang một giai đoạn mới, khác hẳn về chất.
Mọi sự vật trong thế giới vật chất đều vận động phát triển không ngừng. Việc tích
lũy về lượng cũng chính một trong những cách vận động của sự vật. thế,
nhanh hay chậm, sớm hay muộn thì việc tích lũy về lượng của sự vật cũng sẽ đến
một giới hạn ở đó làm cho chất của sự vật thay đổi về căn bản. Thời điểm mà
đó sự thay đổi về lượng đã đủ để làm thay đổi về chất của sự vật gọi điểm nút.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy.
https://luatminhkhue.vn/phep-bien-chung-%E2%80%93-phan-tich-quy-luat-
luong-va-chat-su-van-dung-quy-luat-vao-trong-qua-trinh-hoc-tap-va-ren-
luyen-cua-hoc-sinh-sinh-vien.aspx
1.1. Khái niệm về lượng và chất
a. Khái niệm về chất
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó
thống nhất hữu với nhau trong sự vật, hiện tượng. Chất là phạm trù triết học
dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật, hiện tượng. sự thống
nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng
khác.
Ví dụ: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là
1083đvC, nhiệt độ i 2880đvC…những thuộc tính này đã nói lên những chất
riêng của đồng để phân biệt nó với các kim loại khác. Đặc điểm của chất:
- Chất mang tính khách quan: chất cái vốn có, nằm bên trong sự vật
hiệntượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn nước
biển mặn tồn tại ở bên trong chứ không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn
chủ quan của con người mà có thể áp đặt được nó.
- Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật.Thuộc
tínhlà những tính chất của sự vật, cái vốn của sự vật. Những thuộc tính của
sự vật chỉ được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc
tính đó với các sự vật khác. Mỗi sự vật, hiện tượng đều thuộc tính bản
không bản. Chỉ những thuộc tính bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện
tượng. Phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể thuộc tính bản không
bản mới được phân biệt rõ ràng. Chẳng hạn, trong mối quan hệ với động vật thì
thuộc tính bản của con người các thuộc tính khả năng chế tạo, sử dụng
công cụ, duy còn các thuộc tính không thuộc tính bản. Xong trong quan
hệ giữa con người với con người thì những thuộc tính như nhận dạng về dấu vân
tay lại trở thành thuộc tính bản.Mỗi sự vật hiện tượng đều quá trình tồn tại
và phát triển qua nhiều giai đoạn trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như
vậy mỗi sự vật hiện tượng không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất.
dụ: những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ -> mầm
non -> nhi đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi chưa chuyển
hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của vẫn chưa thay đổi. Chẳng hạn như,
trạng thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sthay đổi về lượng của nhiệt độ từ 40-
50đvC chưa làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi. b. Khái niệm về lượng:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt
số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động phát triển cũng như
các thuộc tính của sự vật.
Biểu hiện của lượng
Lượng biểu hiện số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, đại lượng
tốc độ nhịp điệu vận động phát triển của sự vật, hiện tượng.Bên cạnh đó
lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít
hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm
hay nhạt. Ví dụ như đối với phân tử Carbon dioxide (CO2). Lượng là số nguyên
tử tạo thành nó, tức hai nguyên tử cacbon (C) một nguyên tử oxi (O) Đặc
điểm của lượng
-Lượng mang tính khách quan lượng một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm
một vị trí nhất định trong không gian tồn tại trong thời gian nhất định.Trong sự
vật hiện tượng nhiều loại lượng khác nhau như: lượng yếu tố quyết định bên
trong, lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của svật, hiện tượng; sự vật hiện
tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo.
- Lượng thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc thể
nhậnthức bằng con đường trừu tượng khái quát a. Trên thực tế lượng của sự
vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh
sáng hay một phân tử bao gồm những nguyên tử nào. Bên cạnh đó có những lượng
chỉ thể biểu thị dưới dạng trừu tượng khái quát như trình độ nhận thức của một
người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,..
- Lượng thường xuyên biến đổi: Bản thân lượng không nói lên sự vật đó (số
lượngnguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực bản của đời sống
xã hội hoặc chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật) là gì, các thông số về lượng
không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật,
đó là mặt không ổn định của sự vật.
Như vậy, chất lượng hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện
tượng hay một qua trình nào đó trong tự nhiên, hội duy. Hai phương diện
đó điều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất lượng của sự vật,
hiện tượng chỉmang tính tương đối. Có những tính quy định trong mối quan hệ này
là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Sự thống nhất giữa chất lượng : Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng sự thống
nhất giữa mặt chất mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại
trong tính quy định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng
một loại chất tương ứng ngược lại.Ví dụ như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu
tạo liên kết nguyên tử hyđrô 1 nguyên tử ôxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình
thành với tập hợp các tính chất bản, khách quan, vốn của là: không màu,
không mùi, không vị, thể hoà tan muối, axít,…“Chất” “lượng” luôn thống nhất
hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Khi
sự vật đang tồn tại, sự thống nhất giữa chất và lượng luôn ở trong một độ nhất định.
Bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của
sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất: Bất kỳ sự
vật, hiện tượng nào cũng chất lượng. Khi sự vật vận động phát triển, chất
lượng của cũng vận động, biến đổi, thay đổi. Sự thay đổi của lượng của
chất không diễn ra độc lập với nhau chúng mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định, thì chất
cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Không giới hạn đó gọi là độ. Độ là phạm trù
triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa
làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy. nghĩa độ chỉ tính quy định, mối liện
hệ thống nhất giữa chất và lượng, độ là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về
lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Ví dụ khi ta nung một
thỏi thép trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng nghìn độ song thỏi thép
vẫn trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng thay đổi đến
một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó
chính là điểm nút. Theo triết học MácLênin, điểm nút là phạm trù triết học dùng để
chỉ điểm giới hạn tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự
vật. Chúng ta thể hiểu, điểm nút thời điểm tại đó sự thay đổi về lượng đã
đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm
cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới chất mới của sự vật thống nhất với nhau
tạo nên độ mới điểm nút mới của sự vật đó, quá trình này diễn ra liên tếp trong
sự vật vậy sự vật luôn phát triển chừng nào còn tồn tại. Sự vật tích luỹ đủ
về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời. Bước nhảy phạm trù
triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của
sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều
kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính bước nhảy
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc
một giai đoạn vận động, phát triển điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới.
thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn tiền đề cho sự liên tục
sự liên tục sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn. Để hiểu hơn về cái khái
niệm ta ng xét một dụ: Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe
trạng thái thể lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C
(độ). Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó
(điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái lỏng
sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy). Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự
vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để
thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình ấy không cố định
thể có những thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy
định.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
+ Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật thể chia thành
bước nhẩy đột biến và bước nhảy dần dần:
Bước nhảy đột biến: bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm
thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Ví dụ như khối lượng Uranium
235(Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong
chốc lát. ớc nhảy dần dần bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất dần dần
mất đi.
Ví dụ quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần.Vì một quá
trình phức tạp, trong đó cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra từng bộ phận
của sự vật ấy.
+ Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước
nhảy cục bộ: Bước nhảy toàn bộ bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt,
các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của
từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
dụ như trong hiện thực, các sự vật thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn
thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên
chủ nghĩa hội nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước
nhảy toàn bộ, tức chúng ta đang thực hiện những bước nhảy cục bộ lĩnh vực
kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực hội và lĩnh vực tinh thần hội để đi đến bước
nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa hội trên đất nước ta. Chất mới ra
đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Khi chất mới ra đời, không tồn tại một cách thụ động sự tác động trở lại
đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với
nó để sự thống nhất mới giữa chất lượng. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới
thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động phát triển
của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn như, khi học sinh vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt
nghiệp THPT, tức thực hiện bước nhảy để trở thành sinh viên. Trình độ văn hoá
của học sinh đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mô,
trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ những sự phân
tích trên thể rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng sthống nhất giữa chất
và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi
căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại
tới sự thay đổi của lượng.Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không
ngừng phát triển.
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức thực tiễn phải biết tích lũy về lượng để biến đổi về
chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ.
- Khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy yêu cầu khách quan
của sự vận động của sự vật, hiện tượng vậy tránh chủ quan nóng vội đốt
cháy giai đoạn hoặc bảo thủ, thụ động.
- Phải thái độ khách quan, khoa học quyết tâm thực hiện bước nhảy; trong
lĩnh vực xã hội phải chú ý đến điều kiện chủ quan.
- Phải nhận thức được phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật,
hiện tượng để lựa chọn phương pháp phù hợp.
5. Ứng dụng quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn luyện của
học sinh, sinh viên
học sinh, sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập c bậc học phổ
thông, từ mẫu giáo đến cấp ba, kéo dài trong suốt 12 năm.
Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều được trang bị những kiến
thức cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bản, đó là: Khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình những kĩ năng,
những hiểu biết riêng về cuộc sống, về tự nhiên, xã hội. Ta thấy rõ rằng là:
- Quá trình tích lũy về lượng - tri thức của mỗi học sinh một quá trình dài,
đòihỏi nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường còn chính từ sự nỗ lực
khả năng của bản thân người học.
- Quy luật lượng chất thể hiện chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình một
khốilượng kiến thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải
bài tập nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các học, trước hết là
các kì thi học kì và cuối cấp là kì thi tốt nghiệp.
Với việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các kì thi
chuyển sang một giai đoạn học mới.
=> Như vậy, ta thể thấy: Trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá
trình học tập tích lũy kiến thức chính độ, các thi chính điểm nút, việc vượt
qua các thi chính bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước
sang giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất. Trong suốt 12 năm học phổ thông,
mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút
khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất
lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt
nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại
còn là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có
sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới
của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
https://luatminhkhue.vn/phep-bien-chung-%E2%80%93-phan-tich-quy-
luatluong-va-chat-su-van-dung-quy-luat-vao-trong-qua-trinh-hoc-tap-va-ren-
luyencua-hoc-sinh-sinh-vien.aspx
Sự khác nhau bản giữa việc học tập phthông Đại Học Lượng kiến thức bậc đại học
tăng lên đáng kể so với học ở bậc trung học phổ thông. dụ đơn giản, nếu cấp 3, một môn
học kéo dài một năm thì đại học, một môn học sẽ chỉ kéo dài khoảng 1 đến 2 tháng.
ràng, lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến những khó khăn cho tân sinh
viên. Không chỉ chênh lệch về ợng kiến thức mà còn có sự đa dạng về kiến thức bậc
đại học trung học phổ thông. Không giống như phong cách học tập thụ động của
trường trung học, sinh viên đại học tham gia vào nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình,
hoạt động ngoại khóa, v.v. Chính những thay đổi về ợng kiến thức, thời gian cách
học đã khiến nhiều tân sinh viên khó thích nghi với môi trường học tập và giáo dục mới.
Sự khác biệt lớn nhất giữa trung học đại học lẽ nhiệm vụ học tập. Việc lên lớp
đối với bậc trung học chỉ hoàn thành các mục tiêu giáo viên đề ra nhưng đối với
sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên lớp
mà họ còn phải thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của
họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức tự giác là yếu tố quan trọng nhất, không còn sổ liên
lạc hay họp phụ huynh như bậc trung học, tinh thần tự học sẽ được phát huy rõ rệt. Có
thnới sự chuyển đổi từ phthông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi t
ợng thành chất. Chính vậy mỗi sinh viên cần phải thích nghi, thay đổi nếp sống
mới sao cho phù hợp với môi trường đại học để đạt được những thành tích cao trong
quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
Từng bước ch lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng
cách tích lũy dần dần về ợng đến một giới hạn nhất định, thực hiện ớc nhảy để
chuyển về chất việc học tập của sinh viên cũng vậy. Để một tầm bằng Cử nhân yêu
cầu mỗi sinh viên cần phải tích lũy đủ số ợng các tín chỉ của các môn học. thể coi
học tập là quá trình tích lũy về ợng, điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó,
trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về ợng
( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật.. Hàng ngày, sinh viên đều
phải đến trường để học tập, tiếp thu những kiến thức mới. Qua quá trình rèn luyện tích
lukiến thức của sinh viên trong 4 năm trên giảng đường, từ thầy hay các thực
tập( lượng)…và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, cầm tấm bằng Cử nhân, đảm bảo về
chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi biến
đổi sang chất mi.
Vận dụng
Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện nh ch cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực
Cuộc sống vẫn luôn vận hành phát triển không ngừng theo thời gian, con người
cũng phải chạy đua để theo kịp thời gian. một sinh viên, chúng ta cũng cần cải thiện
bản thân phấn đấu không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta sinh ra đều có sứ mệnh là sống
và làm việc, thành công hay không dựa trên sự nỗ lực của mỗi người. Chính vì vậy, việc
tự học, tự nghiên cứu trau dồi kiến thức của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đi
sống con người, muốn có bất kì sự thay đỏi về chất nào cũng đều phải có sự tích luỹ về
ợng, dưới sự giúp đỡ nào của bất kì ai thì đều không có sự biến đổi nào về chất. Như
trong thi cử, sinh viên thgian lận để ợt qua thi , nhưng bản chất thì vẫn chưa
sự tích luỹ nào để làm biến đổi về chất.
Trong học tập và nghiên cứu cần ến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về ợng dẫn đến những thay đổi về chất
ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc học tập
rèn luyện của sinh viên như sau: để thể cầm được tấm bằng Cử nhân, sinh viên
phải tích luđủ số ợng các tín chỉ môn học; để môn học kết quả tốt, sinh viên phải
tích luỹ đủ số ợng tiết của các môn học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra
là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy. Khi kết quả thi (bước nhảy) đạt kết
quả tốt phản ánh sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá trình học tập rèn
luyện của sinh viên. Vì vậy, trong việc học tập và các hoạt động học thuật khác, sinh viên
phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả học tập (chất) theo quy
luật. Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tránh tư tưởng nhảy cấp. Nghĩa
sau khi hoàn thành kiến thức bản, tức đã sự biến đổi về chất thì sinh viên mới
thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. dụ như trước khi lên Đại học sinh
viên phải vượt qua kì thi tốt nghiệp THPT trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy ra.
Hay trong quá trình học tập nghiên cứu, sinh viên luôn bị xao nhãng bởi những chuyện
ngoài lề. Cho đến khi giai đoạn thi đến gần mới bắt đầu học lại từ đầu, đógiai đoạn ôn
thi chứ không phải giai đoạn học lại kiến thức mới. Chính vậy, sinh viên chăm
học cũng không thể đảm bảo đủ ợng kiến thức để ợt qua thi. Tóm lại, muốn tiếp
thu được nhiều kiến thức kết quả cao trong các thi, sinh viên phải học dần mỗi
ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về ợng sẽ dẫn đến sự biến
đổi về chất theo hướng tích cực Liên tục phấn đấu học tập rèn luyện, tránh tưởng chủ
quan
Để thể ớc ra ngoài hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mình từ
những điều đơn giản nhất như năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến thức
to lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học nghệ thuật. Việc trải qua
hơn 12 năm học tập khoảng thời gian bước đệm cho hành trình tích luấy. Không
những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu những kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong
quá trình liên tục phấn đấu học tập ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về ợng dẫn
đến sự thay đổi về chất ngược lại được thể hin việc sinh viên tích luỹ kiến thức.
Áp dụng quy luật lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những thông
tin, mang vnhững “lượng” tốt, sở đầy đủ. Từ đó, làm biến đổi “chất” tốt hơn,
tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy. Ở trường Đại học, ngoài
các bài giảng trên lớp, sinh viên còn ttìm tòi, nghiên cứu thư viện, giáo trình, luận
văn, luận án, thầ cô, bạn bè,… tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho mai
sau. Được tự do sáng tạo trau dồi những “lượng” mức tối ưu nhất, sinh viên luôn
đạt được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… và tự tin
ớc ra đời. Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất lượng liên tục diễn ra không
ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng mỗi sinh viên, giúp họ
tự tin vững bước trong hành trang cuộc đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinh viên là khai
phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ liệu và ứng dụng vào thực tiễn và tiếp tục mở rộng con
đường khoa học – nghệ thuật, tránh bị tư tưởng bảo thủ và chủ quan nghĩ rằng mình đã
làm hết sức có thể. Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về ợng dẫn đến sự thay đổi
về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Quá trình học tập phải
được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng; không được bỏ qua kiến thức
bản. Việc bỏ ớc trong tích luỹ sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ, việc thc
hiện bước nhảy sẽ không thành công và không thể hình thành chất mới. Ví dụ, nếu bạn
hỏng kiến thức bn bậc tiểu học, bạn sẽ không ththực hiện bước nhảy để được
học ở cấp trung học. Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy, tức bạn vượt qua điểm nút một
cách ép buộc, chất mới được hình thành nhưng không vận dụng theo quy luật lượng
– chất. Những sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng
đã thay đổi đến nút, độ được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất. Bên cạnh, dù rằng
sự phát triển vận động của sự vật, hiện tượng việc liên tục thực hiện các bước nhảy,
bạn phải chú ý đến đtrong quá trình thay đổi của lượng, không vội vàng mà bỏ ớc.
tưởng bảo thủ ngăn bạn không dám vượt qua điểm nút. Như một kỳ thi học sinh
giỏi, mặc dù bạn có đủ kiến thức được tích luỹ để tham gia kỳ thi, nhưng lại không đủ tự
tin để thực hiện bước nhảy, thì quá trình tích luỹ đó chỉ được xem là tích luỹ về ợng
không có sự thay đổi về chất. Bạn phải nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố to
nên sự vật, hiện tượng để lựa chọn phương pháp tích luphù hợp, đẩy nhanh tiến độ
tích luỹ, kèm theo chất lượng của độ. Vận dụng được mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu
bản chất, quy luật của chất, nâng cao chất lượng của độ
| 1/12

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN ⸎⸎⸎⸎⸎
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
Đề bài: Phân tích quy luật “Lượng – Chất” của phép biện chứng duy vật và
vận dụng trong quá trình học tập của sinh viên hiện nay? Mã đề: 88 Sinh viên : NGUYỄN KHÁNH LINH Số báo danh : 88 Lớp
: Triết học Mác - Lê nin-2-1-22(N05)
Giáo viên giảng dạy: TS. Đỗ Khánh Chi Mã sinh viên : 22011456
HÀ NỘI, THÁNG 1/2023 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ……………………………………………………..
Chương 1: Những vấn đề về lý luận của quy luật “Lượng - Chất” …………
1.1. Khái niệm và đặc điểm về lượng ………………………………………
1.2. Khái niệm và đặc điểm về chất …………………………….
Chương 2: Nội dung quy luật “Lượng – Chất”……………………………
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng……………………
2.2. Ý nghĩa phương pháp luận ……………………………………
Chương 3. Liên hệ, vận dụng, đánh giá ……………………………………
1. Mở đầu vấn đề
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chất là phạm trù triết học dùng
để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ những
thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác. Lượng là phạm trù triết
học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật. Lượng
và chất là hai mặt cơ bản của mọi sự vật hiện tượng. Trong bản thân sự vật thì hai
mặt này luôn tác động qua lại, ở nột mức độ nào đó, làm cho sự vật phát triển.
Khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng trong sự vật chưa đủ làm thay đổi
căn bản chất của sự vật được gọi là độ. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng
đạt tới mức đủ để dẫn tới sự thay đổi về chất thì độ bị phá vỡ và sự vật phát triển
sang một giai đoạn mới, khác hẳn về chất.
Mọi sự vật trong thế giới vật chất đều vận động và phát triển không ngừng. Việc tích
lũy về lượng cũng chính là một trong những cách vận động của sự vật. Vì thế, dù
nhanh hay chậm, sớm hay muộn thì việc tích lũy về lượng của sự vật cũng sẽ đến
một giới hạn mà ở đó làm cho chất của sự vật thay đổi về căn bản. Thời điểm mà ở
đó sự thay đổi về lượng đã đủ để làm thay đổi về chất của sự vật gọi là điểm nút.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy.
https://luatminhkhue.vn/phep-bien-chung-%E2%80%93-phan-tich-quy-luat-
luong-va-chat-su-van-dung-quy-luat-vao-trong-qua-trinh-hoc-tap-va-ren-
luyen-cua-hoc-sinh-sinh-vien.aspx
1.1. Khái niệm về lượng và chất a. Khái niệm về chất
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó
thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Chất là phạm trù triết học
dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Là sự thống
nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là
1083đvC, nhiệt độ sôi là 2880đvC…những thuộc tính này đã nói lên những chất
riêng của đồng để phân biệt nó với các kim loại khác. Đặc điểm của chất: -
Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có, nằm bên trong sự vật
hiệntượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn nước
biển mặn tồn tại ở bên trong chứ không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn
chủ quan của con người mà có thể áp đặt được nó. -
Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật.Thuộc
tínhlà những tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những thuộc tính của
sự vật chỉ được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc
tính đó với các sự vật khác. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có thuộc tính cơ bản và
không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện
tượng. Phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể mà thuộc tính cơ bản và không
cơ bản mới được phân biệt rõ ràng. Chẳng hạn, trong mối quan hệ với động vật thì
thuộc tính cơ bản của con người là các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng
công cụ, có tư duy còn các thuộc tính không là thuộc tính cơ bản. Xong trong quan
hệ giữa con người với con người thì những thuộc tính như nhận dạng về dấu vân
tay lại trở thành thuộc tính cơ bản.Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại
và phát triển qua nhiều giai đoạn trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như
vậy mỗi sự vật hiện tượng không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất.
Ví dụ: những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ -> mầm
non -> nhi đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó chưa chuyển
hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Chẳng hạn như,
trạng thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về lượng của nhiệt độ từ 40-
50đvC chưa làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi. b. Khái niệm về lượng:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt
số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như
các thuộc tính của sự vật. Biểu hiện của lượng
Lượng biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng
tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.Bên cạnh đó
lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít
hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm
hay nhạt. Ví dụ như đối với phân tử Carbon dioxide (CO2). Lượng là số nguyên
tử tạo thành nó, tức hai nguyên tử cacbon (C) và một nguyên tử oxi (O) Đặc điểm của lượng
-Lượng mang tính khách quan vì lượng là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm
một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định.Trong sự
vật hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau như: có lượng là yếu tố quyết định bên
trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng; sự vật hiện
tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo. -
Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc có thể
nhậnthức bằng con đường trừu tượng và khái quát hóa. Trên thực tế lượng của sự
vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh
sáng hay một phân tử bao gồm những nguyên tử nào. Bên cạnh đó có những lượng
chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận thức của một
người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,.. -
Lượng thường xuyên biến đổi: Bản thân lượng không nói lên sự vật đó (số
lượngnguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống
xã hội hoặc chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật) là gì, các thông số về lượng
không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật,
đó là mặt không ổn định của sự vật.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện
tượng hay một qua trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện
đó điều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật,
hiện tượng chỉmang tính tương đối. Có những tính quy định trong mối quan hệ này
là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Sự thống nhất giữa chất và lượng : Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống
nhất giữa mặt chất và mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại
trong tính quy định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có
một loại chất tương ứng và ngược lại.Ví dụ như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu
tạo liên kết nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử ôxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình
thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn có của nó là: không màu,
không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axít,…“Chất” và “lượng” luôn thống nhất
hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Khi
sự vật đang tồn tại, sự thống nhất giữa chất và lượng luôn ở trong một độ nhất định.
Bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của
sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất: Bất kỳ sự
vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Khi sự vật vận động và phát triển, chất
và lượng của nó cũng vận động, biến đổi, thay đổi. Sự thay đổi của lượng và của
chất không diễn ra độc lập với nhau mà chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định, thì chất
cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Không giới hạn đó gọi là độ. Độ là phạm trù
triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa
làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy. Có nghĩa là độ chỉ tính quy định, mối liện
hệ thống nhất giữa chất và lượng, độ là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về
lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Ví dụ khi ta nung một
thỏi thép ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng nghìn độ song thỏi thép
vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng thay đổi đến
một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó
chính là điểm nút. Theo triết học MácLênin, điểm nút là phạm trù triết học dùng để
chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự
vật. Chúng ta có thể hiểu, điểm nút là thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã
đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm
cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau
tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật đó, quá trình này diễn ra liên tếp trong
sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại. Sự vật tích luỹ đủ
về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời. Bước nhảy là phạm trù
triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của
sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều
kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc
một giai đoạn vận động, phát triển và là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới. Có
thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục
và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn. Để hiểu rõ hơn về cái khái
niệm ta cùng xét một ví dụ: Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở
trạng thái thể lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C
(độ). Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó
(điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái lỏng
sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy). Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự
vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để
thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có
thể có những thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
+ Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia thành
bước nhẩy đột biến và bước nhảy dần dần:
Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm
thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Ví dụ như khối lượng Uranium
235(Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong
chốc lát. Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Ví dụ quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần.Vì là một quá
trình phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
+ Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước
nhảy cục bộ: Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt,
các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của
từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn
thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước
nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực
kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh thần xã hội để đi đến bước
nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Chất mới ra
đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động mà có sự tác động trở lại
đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với
nó để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có
thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn như, khi học sinh vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt
nghiệp THPT, tức là thực hiện bước nhảy để trở thành sinh viên. Trình độ văn hoá
của học sinh đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mô,
trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất mà
những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ những sự phân
tích ở trên có thể rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất
và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi
căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại
tới sự thay đổi của lượng.Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển.
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và thực tiễn phải biết tích lũy về lượng để có biến đổi về
chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ.
- Khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan
của sự vận động của sự vật, hiện tượng vì vậy tránh chủ quan nóng vội đốt
cháy giai đoạn hoặc bảo thủ, thụ động.
- Phải có thái độ khách quan, khoa học và quyết tâm thực hiện bước nhảy; trong
lĩnh vực xã hội phải chú ý đến điều kiện chủ quan.
- Phải nhận thức được phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật,
hiện tượng để lựa chọn phương pháp phù hợp.
5. Ứng dụng quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên
Là học sinh, sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các bậc học phổ
thông, từ mẫu giáo đến cấp ba, kéo dài trong suốt 12 năm.
Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều được trang bị những kiến
thức cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bản, đó là: Khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình những kĩ năng,
những hiểu biết riêng về cuộc sống, về tự nhiên, xã hội. Ta thấy rõ rằng là: -
Quá trình tích lũy về lượng - tri thức của mỗi học sinh là một quá trình dài,
đòihỏi nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà còn chính từ sự nỗ lực và
khả năng của bản thân người học. -
Quy luật lượng chất thể hiện ở chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình một
khốilượng kiến thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải
bài tập ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì học, trước hết là
các kì thi học kì và cuối cấp là kì thi tốt nghiệp.
Với việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các kì thi và
chuyển sang một giai đoạn học mới.
=> Như vậy, ta có thể thấy: Trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá
trình học tập tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút, việc vượt
qua các kì thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước
sang giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất. Trong suốt 12 năm học phổ thông,
mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút
khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và
lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt
nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại
còn là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có
sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới
của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
https://luatminhkhue.vn/phep-bien-chung-%E2%80%93-phan-tich-quy-
luatluong-va-chat-su-van-dung-quy-luat-vao-trong-qua-trinh-hoc-tap-va-ren-
luyencua-hoc-sinh-sinh-vien.aspx

Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học Lượng kiến thức ở bậc đại học
tăng lên đáng kể so với học ở bậc trung học phổ thông. Ví dụ đơn giản, nếu ở cấp 3, một môn
học kéo dài một năm thì ở đại học, một môn học sẽ chỉ kéo dài khoảng 1 đến 2 tháng.
Rõ ràng, lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến những khó khăn cho tân sinh
viên. Không chỉ chênh lệch về lượng kiến thức mà còn có sự đa dạng về kiến thức ở bậc
đại học và trung học phổ thông. Không giống như phong cách học tập thụ động của
trường trung học, sinh viên đại học tham gia vào nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình,
hoạt động ngoại khóa, v.v. Chính những thay đổi về lượng kiến thức, thời gian và cách
học đã khiến nhiều tân sinh viên khó thích nghi với môi trường học tập và giáo dục mới.
Sự khác biệt lớn nhất giữa trung học và đại học có lẽ là nhiệm vụ học tập. Việc lên lớp
đối với bậc trung học chỉ là hoàn thành các mục tiêu mà giáo viên đề ra nhưng đối với
sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên lớp
mà họ còn phải thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của
họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức tự giác là yếu tố quan trọng nhất, không còn sổ liên
lạc hay họp phụ huynh như bậc trung học, tinh thần tự học sẽ được phát huy rõ rệt. Có
thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ
lượng thành chất. Chính vì vậy mà mỗi sinh viên cần phải thích nghi, thay đổi nếp sống
mới sao cho phù hợp với môi trường đại học để đạt được những thành tích cao trong
quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng
cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để
chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng vậy. Để có một tầm bằng Cử nhân yêu
cầu mỗi sinh viên cần phải tích lũy đủ số lượng các tín chỉ của các môn học. Có thể coi
học tập là quá trình tích lũy về lượng, điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó,
trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng
( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật.. Hàng ngày, sinh viên đều
phải đến trường để học tập, tiếp thu những kiến thức mới. Qua quá trình rèn luyện tích
luỹ kiến thức của sinh viên trong 4 năm trên giảng đường, từ thầy cô hay các kì thực
tập( lượng)…và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, cầm tấm bằng Cử nhân, đảm bảo về
chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất mới. Vận dụng
Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực
Cuộc sống vẫn luôn vận hành và phát triển không ngừng theo thời gian, và con người
cũng phải chạy đua để theo kịp thời gian. Là một sinh viên, chúng ta cũng cần cải thiện
bản thân phấn đấu không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta sinh ra đều có sứ mệnh là sống
và làm việc, thành công hay không dựa trên sự nỗ lực của mỗi người. Chính vì vậy, việc
tự học, tự nghiên cứu trau dồi kiến thức của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đời
sống con người, muốn có bất kì sự thay đỏi về chất nào cũng đều phải có sự tích luỹ về
lượng, dưới sự giúp đỡ nào của bất kì ai thì đều không có sự biến đổi nào về chất. Như
trong thi cử, sinh viên có thể gian lận để vượt qua kì thi , nhưng bản chất thì vẫn chưa
sự tích luỹ nào để làm biến đổi về chất.
Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc học tập
và rèn luyện của sinh viên như sau: để có thể cầm được tấm bằng Cử nhân, sinh viên
phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ môn học; để môn học có kết quả tốt, sinh viên phải
tích luỹ đủ số lượng tiết của các môn học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra
là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy. Khi kết quả thi (bước nhảy) đạt kết
quả tốt phản ánh sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá trình học tập rèn
luyện của sinh viên. Vì vậy, trong việc học tập và các hoạt động học thuật khác, sinh viên
phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả học tập (chất) theo quy
luật. Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tránh tư tưởng nhảy cấp. Nghĩa
là sau khi hoàn thành kiến thức cơ bản, tức đã có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới
có thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ như trước khi lên Đại học sinh
viên phải vượt qua kì thi tốt nghiệp THPT trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy ra.
Hay trong quá trình học tập và nghiên cứu, sinh viên luôn bị xao nhãng bởi những chuyện
ngoài lề. Cho đến khi giai đoạn thi đến gần mới bắt đầu học lại từ đầu, đó là giai đoạn ôn
thi chứ không phải giai đoạn học lại kiến thức mới. Chính vì vậy, dù sinh viên có chăm
học cũng không thể đảm bảo đủ lượng kiến thức để vượt qua kì thi. Tóm lại, muốn tiếp
thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao trong các kì thi, sinh viên phải học dần mỗi
ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến
đổi về chất theo hướng tích cực Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mình từ
những điều đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến thức
to lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc trải qua
hơn 12 năm học tập là khoảng thời gian bước đệm cho hành trình tích luỹ ấy. Không
những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu những kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong
quá trình liên tục phấn đấu học tập ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất và ngược lại được thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức.
Áp dụng quy luật lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những thông
tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó, làm biến đổi “chất” tốt hơn,
tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy. Ở trường Đại học, ngoài
các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tự tìm tòi, nghiên cứu ở thư viện, giáo trình, luận
văn, luận án, thầ cô, bạn bè,… tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho mai
sau. Được tự do sáng tạo và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn
đạt được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… và tự tin
bước ra đời. Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất lượng liên tục diễn ra không
ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi sinh viên, giúp họ
tự tin vững bước trong hành trang cuộc đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinh viên là khai
phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ liệu và ứng dụng vào thực tiễn và tiếp tục mở rộng con
đường khoa học – nghệ thuật, tránh bị tư tưởng bảo thủ và chủ quan nghĩ rằng mình đã
làm hết sức có thể. Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Quá trình học tập phải
được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng; không được bỏ qua kiến thức
cơ bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ, việc thực
hiện bước nhảy sẽ không thành công và không thể hình thành chất mới. Ví dụ, nếu bạn
hỏng kiến thức cơ bản ở bậc tiểu học, bạn sẽ không thể thực hiện bước nhảy để được
học ở cấp trung học. Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy, tức là bạn vượt qua điểm nút một
cách ép buộc, chất mới được hình thành nhưng nó không là vận dụng theo quy luật lượng
– chất. Những sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng
đã thay đổi đến nút, độ được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất. Bên cạnh, dù rằng
sự phát triển và vận động của sự vật, hiện tượng là việc liên tục thực hiện các bước nhảy,
bạn phải chú ý đến độ trong quá trình thay đổi của lượng, không vội vàng mà bỏ bước.
Tư tưởng bảo thủ ngăn bạn không dám vượt qua điểm nút. Như là một kỳ thi học sinh
giỏi, mặc dù bạn có đủ kiến thức được tích luỹ để tham gia kỳ thi, nhưng lại không đủ tự
tin để thực hiện bước nhảy, thì quá trình tích luỹ đó chỉ được xem là tích luỹ về lượng mà
không có sự thay đổi về chất. Bạn phải nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo
nên sự vật, hiện tượng để lựa chọn phương pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ
tích luỹ, kèm theo chất lượng của độ. Vận dụng được mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ
bản chất, quy luật của chất, nâng cao chất lượng của độ