Phân tích quy luật: ”Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng vào thực tiễn? | Bài tập lớn học phần Triết học Mác - Lênin
Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính năng động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển; quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính ổn định tương đối. Trong sự vận động của mâu thuẫn biện chứng đó, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Cơ sở khách quan quy định sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất là do biện chứng giữa sản xuất và nhu cầu con người; do tính năng động và cách mạng của sự phát triển công cụ lao động; do vai trò của người lao động là chủ thể sáng tạo, là lực lượng sản xuất hàng đầu; do tính kế thừa khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất trong tiến trình lịch sử. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.
Môn: Triết học mác - lênin (LT1011)
Trường: Đại học Phenika
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN ⸎⸎⸎⸎⸎⸎⸎
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Phân tích quy luật:”Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất”. Rút
ra ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng vào thực tiễn?
Giảng viên hướng dẫn: Đồng Thị Tuyền
Tên sinh viên trong nhóm Mã sinh viên Hoàng Thị Kim Anh 21011113 Lê Đức Anh 21011092 Lê Thị Lan Anh 21010275 Ngô Thị Phương Anh 21011105 Nguyễn Hữu Đại Anh 21011062 Nguyễn Thị Phương Anh 21011107 Vũ Trường Anh 21010471 Nguyễn Văn Tuấn Anh 21012110 Trần Quốc Anh 21013346 Lớp
D.T học Mác Lê-nin 1.2(15FS).1 LT Năm 2021-2022 học MỞ ĐẦU
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và là qui luật phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước ở
mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất đều có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Sự hoà hợp giữa mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản
xuất phát triển kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển. Nói cách khác quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một
điều kiện tất yếu để phát triển một nền kinh tế.
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương thức sản
xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Dưới sự vận động của lịch sử
loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương
thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách mạng. Phương thức
sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của
những thời đại kinh tế khác nhau. Đó cũng chính là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Do vậy, quy
luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế nữa nó còn là quy luật cơ
bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội của lịch sử nhân loại bởi vì nó là quy luật
của bản thân phương thức sản xuất. Sự tác động của quy luật này dẫn tới sự thay
đổi của phương thức sản xuất và kéo theo sự thay đổi cua toàn bộ đời sống xã hội.
Với những lý do trên, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa hết sức to lớn. Tuy nhiên,
việc nắm bắt được quy luật này không phải là đơn giản, nhận biết được một quan
hệ sản xuất có phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
hay không hoàn toàn phải phụ thuộc vào thực tiễn của sản xuất và kinh nghiệm
bản thân. Với những chính sách, đường lối và chủ trương đúng đắn, nắm bắt tốt
quy luật của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế nhiều thành phần
đã phát triển mạnh mẽ, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu phát triển
thành nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến; góp phần đẩy nhanh nền kinh tế nước
nhà đi sang một hướng khác, sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Do vậy, nghiên cứu về đề tài này sẽ giúp cho mỗi sinh viên chúng ta có
thêm những hiểu biết ban đầu và sâu sắc hơn về sự phát triển của nước ta cũng
như trên thế giới; hiểu được quy luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp
một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng nước nhà sau này. NỘI DUNG
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là qui luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi
quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều
có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Sự tổng hoà mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo theo
một quan hệ sản xuất phát triển. Nói cách khác quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một
nền kinh tế. Trên cơ sở đó em đã chọn đề tài: “ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ
sản xuất, quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất” để làm đề tài nghiên cứu cho mình. 1. Khái niệm
1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất: - L c lự ượng s n
là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ mối
xuấấtả quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện trình động chinh phục tự nhiên của con người.
- Các yếu tố (nhân tố) tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất
(trong đó, công cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh
phục tự nhiên của con người) và người lao động (trong đó năng lực sáng tạo
của nó là yếu tố đặc biệt quan trọng). Trong hai nhóm yếu tố nói trên, người
lao động là nhân tố quan trọng nhất (bởi vì, tư liệu sản xuất có nguồn gốc từ
lao động của con người và được sử dụng bởi con người).
Ví dụ về lực lượng sản xuất có thể kể đến sự xuất hiện của Mạng 5G, công
nghệ Internet, các trang mạng xã hội như Facebook, Instagram, Youtube,… đã
dẫn tới sự thay đổi rất lớn trong quá trình sản xuất của con người.
1.2. Khái niệm về quan hệ sản xuất: Quan h s n
là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ mối xuấấtệ ả
quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất vật chất.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả
của quá trình sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mổì quan hệ
thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở xuyết định của quan hệ sở
hữu vể tư liệu sản xuất.
Ví dụ: Trong quá trình khai thác mỏ than, nếu mỗi người chỉ làm việc một cách
tách biệt, không có sự phối hợp giữa các công nhân, những người công nhân lại
không nghe chỉ đạo của quản lý…, tức là không tồn tại mối quan hệ giữa những
con người với nhau (“quan hệ sản xuất”), thì tập thể đó không thể khai thác than hiệu quả.
1.3. Khái niệm về phương thức sản xuất: Phương th c s n
là sự thống nhất giữa c lự ượng s n ở một trình độ xuấấtứ ả xuấấtả
nhất định và quan h s n xuấấtệ tương ứng tạo thành cách thức sản xuất trong ả
một giai đoạn nhất định của lịch sử.
Ví d :ụ Muốn thực hiện các hoạt động kinh tế, chính trị, pháp luật… đều phải ăn,
ở, mặc và tư liệu tiêu dùng và muốn có được những điều đó, con người phải sản
xuất vật chất như nông – lâm – ngư – công nghiệp, xây dựng,…
2. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính năng
động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển; quan hệ sản xuất là hình thức
xã hội của quá trình sản xuất có tính ổn định tương đối. Trong sự vận động của mâu
thuẫn biện chứng đó, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Cơ sở khách
quan quy định sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất là do biện
chứng giữa sản xuất và nhu cầu con người; do tính năng động và cách mạng của sự
phát triển công cụ lao động; do vai trò của người lao động là chủ thể sáng tạo, là lực
lượng sản xuất hàng đầu; do tính kế thừa khách quan của sự phát triển lực lượng sản
xuất trong tiến trình lịch sử.
Ví dụ: Khi người lao động không sử dụng các công cụ thô sơ, năng suất kém
mà chuyển sang công cụ máy móc, năng suất cao hơn để sản xuất.
Khi đó, tình trạng phù hợp sẽ bị phá vỡ. Mâu thuẫn sẽ ngày càng gay gắt và đến
một lúc nào đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” trói buộc khiến lực lượng sản
xuất không thể phát triển hơn. Đòi hỏi khách quan khi đó là phải thay quan hệ sản xuất
cũ, đã lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn. Chỉ có như vậy thì lực
lượng sản xuất mới được “cởi trói” để phát triển lên những trình độ cao hơn. Việc xóa
bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới có nghĩa là ở đó diễn ra
sự diệt vong của phương thức sản xuất lỗi thời, kéo theo sự ra đời của một phương thức
sản xuất mới. Đó là thời đại của cách mạng xã hội.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không
ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản
xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất trờ
thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu của
nền sản xuất xã hội là phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển. C.Mác đã nêu tư tưởng về
vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội:
“Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có
những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và
do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả
những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay băng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa,
các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”.
Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới
trong lịch sử, quyết định đến nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Con người
bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự
phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao hơn.
3. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất
Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập
tương đối nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của quan hệ
sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù hợp biện chứng
giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất là một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực
lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp
bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tổ cấu thành lực lượng sản xuất; sự kết hợp
đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất; sự kết hợp đúng đắn giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Sự phù hợp bao gồm cả việc tạo điều kiện tối ưu
cho việc sử dụng và kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất; tạo điều kiện hợp
lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao động.
Nếu quan hệ sản xuất “đi sau” hay “vượt trước” trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất đều là không phù hợp. Sự phù hợp không có nghĩa là đồng nhất tuyệt đối mà
chỉ là tương đối, trong đó chứa đựng cả sự khác biệt. Sự phù hợp diễn ra trong sự vận
động phát triển, là một quá trình thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy định mục đích, xu
hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; hình thành hệ thống động lực thúc đẩy sản
xuất phát triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất.
Ví dụ: Trong quá trình khai thác mỏ than, nếu mỗi người chỉ làm việc một cách
tách biệt, không có sự phối hợp giữa các công nhân, những người công nhân lại không
nghe chỉ đạo của quản lý…, tức là không tồn tại mối quan hệ giữa những con người với
nhau (“quan hệ sản xuất”), thì tập thể đó không thể khai thác than hiệu quả.
Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai
chiều hướng, đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi
quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển đúng
hướng, quy mô sản xuất được mở rộng; những thành tựu khoa học công nghệ được áp
dụng nhanh chóng; người lao động nhiệt tình hăng hái sản xuất, lợi ích của người lao
động được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất
không phù hợp thì sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự
kìm hãm đó chỉ diễn ra trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định.
Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình độ
cao hơn. Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu
thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc
thang cao hơn. C.Mác khẳng định; “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các
lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có…
trong đó từ trước tới nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là các hình thức
phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các
lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động
biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội loài
người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, từ phương thức sản xuất
cộng sản nguyên thủy qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản
xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát triển đến phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ quan quy
định, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
có những đặc điểm tác động riêng, Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi tất yếu thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu. Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa dần dần loại trừ đối kháng xã hội. Sự
phù hợp không diễn ra “tự động”, đòi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận thức và vận
dụng quy luật. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
xã hội xã hội chủ nghĩa có thể bị “biến dạng” do nhận thức và vận dụng không đúng quy luật.
4. Ý nghĩa : Nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng xã hội, thúc đẩy kìm
hãm sự phát triển xã hội.
Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì
quan hệ sản xuất cũ trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của các lực lượng sản xuất.
“Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy
trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một
thời đại một cuộc cách mạng xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực
lượng sản xuất mới với giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt là sử dụng công
cụ nhà nước có trong tay để bảo vệ, duy trì quan hệ sản xuất lỗi thời. Để thay thế quan
hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn và làm cho nó trở thành quan hệ sản
xuất thống trị nhằm giải phóng mình, giai cấp cách mạng phải tiến hành đấu tranh
chống lại giai cấp thống trị, phải giành lấy chính quyền nhà nước. Do vậy, cách mạng
xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp và là bước nhảy vọt tất yếu trong sự phát triển
của xã hội có giai cấp; vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Vận dụng lý luận chung để phân tích nguyên nhân khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất., nguyên nhân sâu xa dẫn tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là từ
mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển xã hội hoá của lực lượng sản xuất ngày càng cao với
tính chất, chiếm hữu tư nhận tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết
được thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, trên lĩnh vực chính trị, mâu thuẫn trong phương thức sản xuất (nói trên)
biểu hiện thành mâu thuẫn đối kháng giai cấp giữa giai cấp công nhân làm thuê (đại
biểu cho sự phát triển lực lượng sản xuất) với giai cấp tư sản (đại biểu cho tính chất
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất).
Thứ ba, với sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản dưới hình thức chủ nghĩa thực
dân, chủ nghĩa đế quốc đã biến các dân tộc còn ở trình độ chậm phát, triến kinh tế trở
thành thuộc địa, phụ thuộc của các nước tư bản. Chính điều đó đã tạo nên một biểu
hiện của mâu thuẫn nữa dẫn tới cách mạng xã hội chủ nghĩa đó là mâu thuẫn giữa các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.
Như vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có nguyên nhân sâu xa của nó là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa cao với tính chất tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản, cho nên chừng nào quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa vẫn được duy trì thì nguyên nhân khách quan, sâu xa của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại và do đó cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn là một
tất yếu khách quan của tiến trình phát triển lịch sử nhân loại.
Tuy nhiên, cách mạng xã hội chủ nghĩa có nổ ra hay không, khi nào và ở đâu thì
còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như: sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp, sự
phát triển của phong trào giải phóng dân tộc, ý thức giác ngộ cách mạng của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động….
5. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam: sáng tạo, phù hợp, thành tựu
sau 35 năm đổi mới của Việt Nam
Ðổi mới để phát triển, song phải là phát triển trong thế ổn định, theo đúng định
hướng, con đường mà chúng ta đã chọn. Ðổi mới để thực hiện bước chuyển từ cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường do Nhà nước quản lý, điều hành
theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường; phát triển kinh tế
nhưng phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu
nghèo. Ðổi mới yêu cầu gắn với mở cửa, hội nhập, với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa để đất nước phát triển nhanh, bền vững; xây dựng, tăng cường lực lượng
sản xuất, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất phù hợp, từ đó nâng tầm đất nước lên
trình độ mới, tầm cao mới.
Sau 35 năm, đất nước đã đạt được những kết quả thiết thực, mà trước hết là đổi
mới tư duy để khắc phục được nhận thức lệch lạc, nhất là bệnh giáo điều, chủ quan duy
ý chí, vì thế vai trò lãnh đạo của Ðảng càng được tăng cường, định hướng XHCN được
giữ vững, hình thành quan niệm mới về mục tiêu, bước đi, cách thức phát triển đất
nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội,
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN từng bước hình thành, phát triển. Công cuộc
đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, củng cố, tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất
nước ra khỏi tình trạng một nước có thu nhập thấp; đời sống nhân dân cải thiện đáng
kể, ổn định chính trị - xã hội được bảo đảm, an ninh quốc phòng được củng cố vững
chắc, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng. Ðổi mới đã đưa nước ta từ chỗ thiếu
thốn, có khi phải nhập lương thực, nay đã thành nước xuất khẩu gạo đứng ở tốp đầu thế
giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển và đổi thay từ nông thôn đến thành thị, từ miền
núi đến đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong
cách sống, làm việc của mọi gia đình và mọi người dân lại có nhiều nét mới mẻ, tươi
tắn như hôm nay. Ðổi mới giúp chúng ta vừa kế thừa và phát huy những thành quả tốt
đẹp đạt được trước đây, vừa có cách nghĩ khác trước, nghe khác trước, nhìn khác trước,
làm khác trước, phù hợp với trạng thái phát triển mới, vì thế, đã đem đến một sức vóc
mới cho đất nước, tiếp sức chúng ta đi thêm những bước dài trên con đường đã chọn.
Qua 35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình
trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống
của nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất
nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ
XHCN được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao…
Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển
trong những năm tới; đồng thời khẳng định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Cội nguồn của các thành tựu đó là do
Ðảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân
dân, được nhân dân tích cực ủng hộ, thực hiện, được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác,
giúp đỡ. Ðảng đã nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh chính
trị, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời nhạy bén, sáng tạo,
kịp thời đưa ra các chủ trương, quyết sách phù hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp
tình hình thế giới và trong nước. Ðó là cơ sở để năm 2020, với phương châm vì tính
mạng con người, không để ai bị bỏ lại phía sau, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ
lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc phục hậu quả bão lụt ở các tỉnh miền trung, giúp
nhân dân sớm ổn định cuộc sống.