lOMoARcPSD| 61432759
Đề cương Văn học trung đại
1. Thơ Đường luật (Thơ ĐL)
1.1. Khái niệm Thơ ĐL; phân biệt “thơ ĐL”, “thơ Đường”, “thơ cổ phong
* Thơ cổ phong:
Thơ cổ phong còn gọi cổ thi, thơ cổ thể hay cổ thể thi. Thể thơ này từ trước thời
Đường. Cổ phong lối thơ chỉ số chữ trong câu nhất định (hoặc ngũ ngôn, hoặc
thất ngôn), làm dài ngắn bao nhiêu cũng được; ngoài ra, không phải theo thể lệ chặt chẽ
như lối Đường luật, nghĩa là không niêm, luật, không phải đối (đối hay không là tùy
tác giả, chứ không bắt buộc).
* Thơ Đường:
Thơ Đường tức thơ Đường Thi, những bài thơ của các thi gia Trung Hoa làm vào
thời đại nhà Đường (618 - 907). Thơ Đường không được đồng nhất với thơ Đường Luật.
* Thơ Đường Luật:
- Thơ Đường Luật thể thơ được đặt ra từ đời nhà Đường phải tuân theo các
quy tắc bắt buộc, rất khắt khe và gò bó.
- Thơ Đường Luật có một quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều: luật, niêm, vần,
đối và bố cục
- Ở Việt Nam, thơ Đường luật xuất hiện dưới 2 dạng: thơ Nôm Đường luật thơ
Đường luật chữ Hán.
1.2. Đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thơ ĐL Hán, thơ ĐL Nôm
a) Thơ Đường luật Hán:
* Nội dung:
- Thơ Đường luật chan chứa tính nhân văn, đầy ắp tình người, tình đời, nỗi đau, nỗi hận,
Thơ Đường luật cũng phản ánh số phận “thập loại chúng sinh” trên khắp đất ớc Trung
Hoa thời phong kiến nĐường. Đồng thời, trong từng câu thơ còn thấm đượm những
nghĩ suy và triết lý thâm thuý của con người trước thời cuộc thăng trầm, những rung động
lOMoARcPSD| 61432759
sâu lắng của trái tim đối với thiên nhiên, tình yêu, tình bạn với những hoàn cảnh thống
khổ trên đời.
- Nội dung trong thơ Đường luật rất đa dạng phong phú. Có rất nhiều hình thức diễn đạt
phóng khoáng từ những đề tài về an nhàn ẩn dật, vui thú điền viên, tả cảnh thiên nhiên
đến những bài thơ nói về cung đình, biên tái, chiến chinh, những đề tài liên quan đến
hội, cảnh nghèo đói áp bức, nỗi bất công của phụ nữ, những bài thơ tâm tình, tình bạn,
thiên nhiên, đến tình yêu nam nữ, rồi những đề tài vịnh sử, hoặc những bài thơ mang
hương vị Thiền, Đạo giáo.
* Nghệ thuật:
- Luật đối âm
“Nhất tam ngũ bất luận
Nhị tứ lục phân minh”
+ Chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không nhất thiết phải theo đúng luật; còn chứ thứ hai,
thứ tư, thứ sáu bắt buộc phải theo luật. Nếu không theo luật thì gọi là thất luật.
+ Luật thơ Đường sẽ căn cứ dựa trên thanh trắc và thanh bằng, dùng các chữ thứ 2 - 4 -
6 7 trong cùng một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm những chữ không
có dấu hoặc dấu huyền; thanh trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại: sắc, hỏi, ngã, nặng. +
Những bài luật bằng bài sử dụng thanh bằng trong chữ thứ hai của câu đầu tiên;
ngược lại, nếu chữ thứ hai trong câu đầu tiên sử dụng thanh trắc thì được gọi luật
trắc. Chữ thứ hai và chữ thứ sáu trong cùng một câu phải giống nhau về thanh điệu
đồng thời chữ thứ tư không được có thanh điệu giống với hai chữ còn lại.
- Luật đối ý
+ Một nguyên tắc cố định trong một bài thơ được sáng c theo thể loại Đường luật chính
ý nghĩa của câu thứ ba, thứ phải đối nhau cả hai câu thứ năm, thứ u cũng phải
đối nhau.
+ Đối chính là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép và nó bao gồm
cả sự tương đương trong cách mà tác giả sử dụng từ ngữ. Đối chữ là động từ đối động từ,
lOMoARcPSD| 61432759
danh từ với danh từ. Đối cảnh cảnh động đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới. + Nếu
trong một bài thơ Đường luật mà các câu ba, bốn không đối nhau hoặc những câu năm, sáu
không đối nhau thì được gọi là “thất đối”.
- Niêm luật
+ Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất ngôn bát cú) được xác định như
sau:
Câu 1 niêm với câu 8
Câu 2 niêm với câu 3
Câu 4 niêm với câu 5
Câu 6 niêm với câu 7
+ Nếu tác giả xuất không tuân thủ nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn,
bài thơ đó sẽ bị gọi là “thất niêm”.
- Vần trong thơ Đường luật
+ Vần được sử dụng cuối các câu thứ nhất, thứ hai, thứ tư, thứ sáu, thứ tám. Nếu các câu
cuối của bài thơ không giống nhau về vần thì gọi là “thất vận”.
+ Vần được chia m hai loại chính: “vần chính” “vần thông” (“vần chính” là vần
những từ ngữ có vần giống nhau hoàn toàn, còn “vần thông” là những từ có vần gần giống
nhau).
- Các phép đối trong thơ Đường luật
+ Phép chỉnh đối: các chữ của câu trên câu dưới theo thứ tự đối nhau từng chữ một
hay từng cặp chữ kép một.
+ Phép tá tự đối: đây là phép đối tiếng đối bóng.
+ Bất đối chi đối: không đối tự loại đối ý. Cách đối này, Tiền Nhân rất thích dùng
theo quan điểm Ý trọng hơn Từ.
+ Phép đối lưu huỷ: ý câu dưới tiếp ý câu trên.
+ trung đối: còn gọi Tiểu Đối. Tự đối nhau trong từng câu. Câu trên tự đối, câu
dưới cũng tự đối. Hai câu đều tự đối. Tự Đối dùng để đối với Tự Đối.
lOMoARcPSD| 61432759
+ Giao cổ đối: Từng nhóm hay từng chữ của câu trên đối chéo với từng nhóm hay từng
chữ của câu dưới.
- Cấu trúc trong thơ Đường luật
Loại
Mô hình
Tiêu chí
1
2 - 2 - 2 - 2
Đề - Thực - Luận - Kết
2
4 - 4
Nặng cảnh nhẹ tình - Nặng tình nhẹ cảnh
3
2 - 4 - 2
Nặng về thời gian - Nặng về không gian - Nặng về thời gian
+ Xét về cấu trúc, thơ Đường nói chung đặc biệt luật thi cấu trúc hoàn thiện,
chuẩn mực và cân xứng.
+ Ngôn ngữ thơ Đường: “ngôn hữu hạn, ý vô cùng”; “ngôn tận nhi, ý bất tận”.
- Cấu tứ nghệ thuật trong thơ Đường luật
+ “Cấu tứ nghệ thuật” cách thức tổ chức của một tác phẩm nghệ thuật, phạm trù
thẩm quan trọng của nghệ thuật. thước đo của chất lượng thi ca, khi đem lại
cho độc giả những hứng thú và hưởng thụ thẩm mĩ vô hạn, cũng là khát vọng của thực tiễn
sáng tạo nghệ thuật ở mỗi nhà thơ.
+ “Cấu tứ” (còn gọi là tứ thơ) sự khám phá thể hiện cuộc sống một cách độc đáo
nhất của từng nhà thơ trong từng bài thơ. Gần nghĩa với cấu tứ thơ, mỹ học Trung Quốc có
khái niệm “ý cảnh”, “ý cảnh nghệ thuật” hay “cảnh giới nghệ thuật”. Đó là sự kết hợp hài
hòa giữatưởng tình cảm chủ quan của tác giả với môi trường, cảnh vật khách quan tạo
thành hình tượng mang hàm nghĩa phong phú, khiêu gợi trí tưởng tượng của độc giả. Như
vậy, “cấu tứ“ý cảnh” đều phải ng tới thao tác duy, đặc biệt đây “sự kết
hợp hài hòa giữa tưởng tình cảm chủ quan của tác giả với môi trường, cảnh vật khách
quan” - một kiểu tư duy quan hệ làm nên sự độc đáo trong “cấu tứ” của thơ Đường luật.
lOMoARcPSD| 61432759
+ nhiều nhà thơ Đường tuy viết ng một đề tài như: sơn thủy điền viên, biên tái,
chiến tranh, cung nữ, chinh phụ, song mỗi bài lại có cách thức thể hiện độc đáo khác
nhau. Điều này là do “cấu tứ” mỗi bài khác nhau. Đó là cách sáng tạo trong quá trình khám
phá và thể hiện cuộc sống của mỗi nhà thơ, tạo nên sức hấp dẫn sự trường tồn cho thơ
Đường luật. Đóng góp cho sức hấp dẫn và trường tồn ấy không thể không nhắc tới tư duy
quan hệ xác lập tính đồng nhất các mặt đối lập - một loại tư duy sinh ra trong thời Đường.
b) Thơ Đường luật Nôm:
* Nội dung:
- Thơ Nôm Đường luật thể hiện rõ nhất thông qua hệ thống đề tài, chủ đề. Thơ Nôm
Đường luật được ví như một bức tranh thuỷ mặc, nét vẽ chấm phá, bố cục hài hoà, cân đối
tạo ra mô hình Trời - Đất - Người. Đề tài, chủ đề của thơ Nôm Đường luật rất phong phú,
đa dạng, đề cập đến nhiều vấn đề lớn của lịch sử, của thời đại, của đất nước cũng như khía
cạnh tinh tế, phức tạp trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Đặc biệt, thơ Nôm
Đường luật hướng nhiều về những đề tài, chủ đề chứa đựng yếu tố dân chủ như nhu cầu
giải phóng tình cảm, quyền sống hạnh phúc, chống lễ giáo phong kiến, …
- Thơ Nôm Đường luật kết hợp hội hoạ - thư pháp - thơ ca: chú trọng diễn tả những
mối quan hệ phối hợp, những phạm trù đối lập tương sinh: âm - dương, cao - thấp, … đại
diện mô hình thơ ca Trung Hoa, phản ánh quan niệm thẩm mỹ, quan niệm nghệ thuật, thế
giới quan, nhân sinh quan của người (phương Đông) cổ đại: mối liên hệ “tương khắc, tương
hỗ, tương hợp, tương thông, tương sinh, tương giao” giữa con người - trụ - âm dương:
ởng biện chứng về sự sinh thành, chuyển hoá, nhịp điệu vận động không ngừng ca
thế giới tự nhiên và xã hội.
- Nếu các yếu tố Đường luật mang đến phong vị cổ thi cho thơ Nôm Đường luật thì
yếu tố Nôm lại khiến thể loại này thấm đượm hồn dân tộc khu biệt với thơ Đường
luật chữ Hán. Yếu tố Nôm trong hệ thống đề tài, chủ đề thể hiện chỗ thơ Nôm Đường
luật hướng tới những đề tài mang tính chất dân tộc, dân dã, đời thường. Ngay cả khi viết
về các phạm trù đạo đức Nho gia , các tác giả thơ Nôm Đường luật cũng thổi vào đó linh
lOMoARcPSD| 61432759
hồn dân tộc và hơi thở thời đại, khiến các khái niệm này gần gũi hơn với tâm thức dân tộc,
nhân dân.
* Nghệ thuật:
- Khi xem xét các yếu tố hình thức biểu hiện của thơ Nôm Đường luật, bao gồm hệ thống
hình tượng, ngôn ngữ nghệ thuật kết cấu, chúng ta nhận thấy sự kết hợp giữa yếu tố
Nôm yếu tố Đường luật trong chỉnh thể bài thơ. Hệ thống hình tượng của thơ Nôm
Đường luật bao gồm hai bộ phận nhỏ: những hình tượng là ước lệ nghệ thuật có sẵn trong
quan niệm, tư tưởng mang vẻ đẹp tao nhã, mực thước và những hình tượng là ước lệ nghệ
thuật bắt nguồn từ đời sống, nhất là đời sống dân tộc, dân dã và là sản phẩm sáng tạo mới
mẻ của các thi nhân.
Yếu tố Đường luật:
Quy định về bố cục, scâu, số từ, tạo nên cấu trúc hài hoà cân đối. Mỗi bài thơ thường
gồm 4 phần : đề – thựcluận – kết (tương ứng với thơ tứ tuyệt khai thừa – chuyển –
hợp). Câu đầu tiên là mở đề (mở ý bài thơ), câu thứ hai là phá đề (tiếp ý của mở đề), câu 3
và 4 thực (giải thích ý bài thơ), câu 5 6 mở rộng ý bài thơ, câu 7 để chọn nhân
tài. Với nghệ thuật thơ ca, những niêm luật Đường thi tạo nên sự hài hoà, nhịp điệu, âm
hưởng đặc biệt nhưng nhiều khi cũng khiến thơ Đường trở nên khuôn phép, khô cứng,
thế nhiều nhà thơ tài năng trong một số sáng tác đã phá vỡ những quy tắc như vậy.
Yếu tố Nôm:
Vẻ đẹp nghệ thuật của bài thơ Nôm Đường luật về nhịp điệu sự đối lập luân phiên của
các thanh điệu bằng trắc cùng việc sử dụng các hình thức hài thanh, ng âm thanh đối lập,
biến hoá, hài hoà đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật: tạo nên những mối quan hệ tương quan
mật thiết, ng đỡ nhau, bao hàm nhau, sự chuyển vận năng động của câu thơ; hình thức
tạo nghĩa, gtrị mô phỏng -tạo tác- truyền dẫn cảm xúc ý nghĩa của bài thơ. Không
những vậy, về đối ngẫu: đối thanh, đối ý, đối liên, bình đối, tiểu đối; đối tương đồng, tương
phản tạo nên vẻ đẹp đối xứng, các câu tsoi chiếu lẫn nhau, bao hàm, tương hỗ, làm sáng
tỏ nhau, tạo nên ý nghĩa khái quát biểu trưng.
lOMoARcPSD| 61432759
Ngôn ngữ thơ Nôm Đường luật rất trong sáng, tinh luyện, giàu hình ảnh, lời ít, ý nhiều.
Người ta thường mỗi chữ trong câu thơ Đường như một viên ngọc, không thể bớt. Các
thi nhân luôn chủ trương dụng lời ít nhất để nói những điều sâu sắc nhất, lớn lao nhất. Và,
dù tả cảnh, tả tình hay tả sự việc, họ luôn lấy hai tiêu chuẩn ” hàm súc” và “giàu chất thơ”
làm trọng. Các thủ pháp miêu tả dựa trên các mối quan hệ giữa các đối tượng, theo các
dạng thức “vmây nảy trăng”, dùng tĩnh tả động, dùng động tả tĩnh, tả cảnh ngụ tình, trong
thơ có họa, trong thơ có nhạc, …
=> Qua hai phương diện nội dung hình thức của thơ Nôm Đường luật ta thể khẳng
định bản chất của thể loại này là sự thống nhất biện chứng và sâu sắc giữa hai mặt đối lập
“Nôm” “Đường luật”. thể nói, với xu hướng dân tộc hóa, các nhà thơ Trung đại đã
sự sáng tạo, ch n từ việc sử dụng ngôn ngữ để thể hiện tính cách người Việt Nam,
để khu biệt giữa Đường luật Nôm và Đường luật Hán. Và, một trong những sáng tạo của
các nhà thơ Đường luật Nôm sử dụng một cách hiệu quả lớp từ, ngữ thuộc phong cách
hội thoại vào trong thơ. Cũng từ đó, thơ Nôm Đường luật dần dần phá vỡ tính quy phạm
của văn học Trung đại bằng việc ng cường khai thác kho tàng ngôn ngữ dân gian, bằng
việc phát triển ý thức văn học phản ánh cuộc sống.
1.3. Vận dụng đặc điểm bản của thơ ĐL, phân tích một bài thơ bất (cho ngữ
liệu).
a) Thơ Đường luật Hán
Phân tích các đặc trưng thể loại Đường thi qua bài “Hiểu quá Hương Giang”
“Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền,
T T B B T B B
Trường giang như kiếm lập thanh thiên.
B B B T T B B Sổ
hàng ngư đĩnh liên thanh trạo,
lOMoARcPSD| 61432759
T B B T B B T
Lưỡng cá sa cầm khuất túc miên.
T T B B T T B
Trần lộ du du song quyện nhãn,
T B B B B T T
Viễn tình hạo hạo nhất quy tiên.
T B T T T B B Kiều
đầu xa mã phi ngô sự,
B B B T B B T
Phả ái nam phong giác chẩm biền (tiện)”
T T B B T T B
Dịch nghĩa:
“Muôn dãy núi như chạy vòng quanh khu ruộng xanh mướt
Dòng sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh
Mấy dãy thuyền chài không ngớt tiếng hò khoan đưa mái chèo
Hai con chim trên bãi đứng co chân ngủ
Đường trần dằng dặc, đôi con mắt đã mỏi
Tình xa man mác, một roi ngựa trở về
Xe ngựa qua cầu, không phải là việc ta nghĩ đến
Chỉ thích trước luồng gió nam, thảnh thơi nằm gối lên chiếc gối sừng”
Tác giả: Cao Bá Quát
- Cao Bá Quát sinh vào khoảng 1808 -1810 và mất năm 1855.
lOMoARcPSD| 61432759
- Cao Quát tự Chu Thần (bậc thần tử của nhà họ Chu), hiệu là Cúc Ðường, Mẫn Hiên.
Ông người làng Phú Thọ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.
- Cao Bá Quát một nhà thơ lỗi lạc đồng thời là một lãnh tụ của phong trào nông dân khởi
nghĩa ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX.
- Sáng tác của Cao Bá Quát chủ yếu bằng chữ Hán, chữ Nôm cũng có nhưng ít. Khác với
Nguyễn Công Trứ, Cao Quát sống vào thời kỳ chính sách đề cao chữ Hán của nhà
Nguyễn đã ảnh hưởng sâu rộng trong giới nho sĩ. lCao Quát chịu ảnh hưởng
của chủ trương này.
+ Về thơ chữ Hán: hiện còn khoảng trên một nghìn bài thơ được ghi chép trong mười tập
thơ và hàng chục đầu sách khác.
+ Về mặt chữ Nôm: hiện còn khoảng trên mười bài hát nói.
+ Về văn: hiện còn khoảng 21 bài văn xuôi, trong đó 10 truyện ngắn trong tập Mẫn
Hiên thuyết loại và 11 bài văn ( tựa, thuyết, ký, …)
- Các sáng tác của Cao Bá Quát rất nhiều song sau án “tru di tam tộc”, nhiều tác phẩm của
ông bị thất tán, tản mát hoặc lẫn lộn với các tác phẩm của người khác.
* Bài thơ làm theo thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật
- Vần
Bài thơ gieo vần chân ở các câu 1, 2, 4, 6, 8: điền, thiên, miên, tiên, biền.
- Đối (Chữ 2, 4, 6, 7 theo đúng luật B – T)
+ Sổ hàng ngư đĩnh liên thanh trạo,
T B B T B B T
+ Lưỡng cá sa cầm khuất túc miên
T T B B T T B
- Phép chỉnh đối: các chữ của câu trên câu dưới theo thứ tự đối nhau từng chữ một
lOMoARcPSD| 61432759
Trần lộ du du song nguyệt nhãn,
Viễn tình hạo hạo nhất quy tiên. -
Luật trắc: bắt đầu bằng hai tiếng trắc
- Niêm:
+ Chướng – ái
+ Giang – hàng
+ Cá – lộ
+ Tình – đầu
* Nét đặc sắc trong nghệ thuật bài thơ “Hiểu quá Hương Giang” của Cao Bá Quát
- Sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình
Mỗi một thể loại văn học hay trường phái văn học đều có phương pháp sáng tác riêng. Đặc
biệt khi nhắc đến thơ Đường, chúng ta không thể không nhắc đến bút pháp tả cảnh ngụ
tình. Đây một trong những đặc trưng nổi bật của thơ Đường. Trong bài thơ Hiểu quá
Hương Giang, Cao Bá Quát cũng mượn hình ảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng của bản
thân: “Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền”. Nhà thơ miêu tả không gian bao la, tươi sáng,
tráng lệ và hùng vĩ của sông Hương với hình ảnh núi non hùng vĩ, những cánh đồng xanh
mướt rộng thênh thang. lẽ khi chứng kiến vẻ đẹp non sông, nhà thơ không khỏi giấu
được niềm tự hào, kiêu hãnh. Muôn nghìn ngọn núi ấy như ôm ấp, chở che lấy ruộng đồng
xanh biếc, điều đó đã nói lên tình yêu tha thiết của nhân vật trữ tình trước cảnh sắc quê
hương.
Cao Bá Quát khắc họa hình ảnh hai con chim đứng co chân ngủ : “Lưỡng cá sa cầm khuất
túc miên”. Bên cạnh không khí nhộn nhịp của bến bãi, đôi chim bói cá vẫn thản nhiên say
sưa co một chân đứng ngủ. Đôi chim không bị xao động bởi âm thanh ồn ào của bến bãi,
cũng không chứng kiến cảnh tượng lao động hăng say đầy khổ cực của người dân chỉ
lOMoARcPSD| 61432759
biết nhắm mắt, im lìm chìm vào mộng đẹp. lẽ đó tâm trạng bất lực trước thời cuộc
của nhà thơ, ông chỉ biết nhắm mắt làm ngơ, lặng thinh để khỏi thấy cảnh đời trước mắt.
- Ý tại ngôn ngoại
Đặc biệt thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật bị giới hạn bởi yêu cầu chặt chẽ về niêm, luật,
đối, vận nên ngôn ngữ thơ đầy hàm súc, tinh tế, nhà thơ phải sử dụng chữ ít gợi nhiều. Ý
ngoài lời tức không nói thẳng với người nghe để người nghe tự hiểu, tự ngẫm ra.
Đây cũng một trong những điểm nổi bật thơ Đường, Cao Bá Quát cũng không ngoại lệ
khi chỉ với những câu thơ súc tích gợi cho người đọc nhiều liên tưởng.
Ở câu thơ thứ “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”, hình ảnh dòng sông Hương – con
sông đại diện cho vẻ đẹp Huế hiện lên thật đặc biệt. Người ta hay ví sông Hương như mái
tóc dài của người thiếu nữ, như dải lụa vắt ngang Huế mộng thì Cao Quát lại
những liên tưởng cường điệu, dòng sông như một thứ khí chiến đấu đầy sắc nhọn:
“kiếm lập thanh thiên” kiếm dựng trời xanh. Câu thừa đề này không chỉ làm bổ ý cho
phá đề còn như một tuyên ngôn “ý tại ngôn ngoại”. Chữ lập” có nghĩa xây dựng
lên. Đặt câu thơ trong thời đại Cao Bá Quát sinh sống, khi triều đình nhà Nguyễn đầy như
thể chế bảo thủ, lỗi thời, lạc hậu và khắc, một nhà Nho yêu nước như Cao Bá Quát luôn
mang trong mình nỗi đau đáu khôn nguôi về quê hương. Có lẽ vì vậy phải chăng Tổ quốc
đang cần một thanh gươm báu để cứu nguy. Thanh gươm ấy đại diện cho triều đình phong
kiến ngày một mục nát đang kè trên cổ người dân hay một thanh gươm nào đó muốn vung
lên giữa trời xanh rộng lớn. Thanh gươm chính biểu tượng của ý chí quật cường xuyên
thủng bầu trời thời cuộc, biểu tượng sự kiên quyết muốn phá tan đạp đổ những lạc hậu, cũ
nát và mục rỗng.
- Các hình ảnh thơ giàu sức gợi tả, gợi cảm, đậm màu sắc Đường thi:
Hình ảnh “đôi chim sa cầm” : tính ước lệ, tượng trưng cao chứa đựng tâm sự cảm xúc của
tác giả về thời cuộc và thân phận
Bài thơ còn sử dụng điển điển tích: “kiều đầu”. Chữ “đầu” có thể là chữ “đề” viết sai ra, vì
hai chữ này viết dạng gần giống nhau. Nhà thơ dùng tích Tư Mã ơng Như đời Hán, khi
lOMoARcPSD| 61432759
còn trẻ qua cầu Thăng Tiên đề vào cột rằng “Bất thừa cao xa tứ mã, bất quá thử kiều”
(Không ngồi xe cao bốn ngựa thì không qua lại cầu này). Với việc sdụng điển tích đã
nhấn mạnh mộng công danh trong tưởng của các nhà Nho thời xưa, ai cũng mong một
lần công thành danh toại đem lại tiếng thơm muôn đời, nếu không nên chuyện thì không
quay trở về quê hương.
- Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị mà hàm súc, điêu luyện, tinh tế
Nét đặc sắc trong tvăn của Cao Quát còn việc ông sử dụng ngôn ngữ thơ trong
sáng, giản dị hàm súc, điêu luyện tinh tế. Khi miêu tả sông ơng nhà thơ đã sử
dụng từ ngữ vô cùng khéo léo:
+ Cao Bá Quát khéo léo sử dụng chữ “bôn” chạy, muôn dãy núi chạy vòng quanh khu
ruộng xanh mướt khiến cho cảm nhận không gian càng bao la, tươi sáng, tráng lệ và hùng
vĩ.
+ Cao Quát lại những liên tưởng cường điệu, dòng sông như một thứ khí
chiến đấu đầy sắc nhọn: “kiếm lập thanh thiên” – kiếm dựng trời xanh. Chữ “lập” có nghĩa
xây dựng lên. Lưỡi gươm sắc nhọn sừng sững giữa trời khẳng định ý chí quật cường
xuyên thủng bầu trời thời cuộc, đây biểu tượng sự kiên quyết muốn phá tan đạp đổ những
lạc hậu, cũ nát và mục rỗng.
+ Đặc biệt ở đây CaoQuát sử dụng từ “lưỡng” tức là đôi. Đôi chim cùng nhau đứng
bên trên bãi càng tô đậm nỗi cô đơn của chủ thể trữ tình, nỗi cô đơn của nhà thơ trước cuộc
đời. Đây là nỗi buồn thường được bắt gặp trong văn học trung đại: nỗi cô đơn gắn với tâm
sự ưu thời.
+ Hay trong câu Trần lộ du du song quyện nhãn / Viễn tình hạo hạo nhất quy tiên.Một
mình một ngựa đi phải chăng tâm trạng ngao ngán, đã thấm mệt trước con đường dài
dằng dặc. Chữ “nhất” xuất hiện ng đậm tâm trạng lẻ loi, đơn của thi sĩ. * “Hiểu
quá Hương Giang” tuân theo quy tắc triển khai: đề - thực - luân -  ết - Hai câu
đề: Hình ảnh thiên nhiên hiện lên đầy hùng vĩ, tráng lệ:
lOMoARcPSD| 61432759
“Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền,/ Núi ôm ruộng biếc chạy vòng quanh
Trường giang như kiếm lập thanh thiên / Sông dài như kiếm dựng trời xanh”
Bài thơ mđầu với hình ảnh: “Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền”. Chướng” tức là ngọn
núi như cái bình phong đang bao quanh đồng xanh. Ngay từ câu đề, thiên nhiên xứ Huế
hiện lên dưới ngòi bút nthơ với vẻ đẹp của núi non hùng vĩ, những cánh đồng xanh mướt
rộng thênh thang. Cao Quát khéo léo sử dụng chữ “bôn” chạy, muôn dãy núi chạy
vòng quanh khu ruộng xanh mướt khiến cho cảm nhận không gian càng bao la, tươi sáng,
tráng lệ hùng vĩ! Muôn nghìn ngọn núi ấy như ôm ấp, chở che lấy ruộng đồng xanh
biếc, đã nói lên tình yêu tha thiết của nhân vật trữ tình trước cảnh sắc quê hương.
Đặc biệt ở câu thơ thứ hai, hình ảnh dòng sông Hương - con sông đại diện cho vẻ đẹp Huế
hiện lên thật đặc biệt. Người ta hay sông Hương như mái tóc dài của người thiếu nữ,
như dải lụa vắt ngang Huế mộng mơ thì Cao Bá Quát lại có những liên tưởng cường điệu,
dòng sông như một thứ khí chiến đấu đầy sắc nhọn: “kiếm lập thanh thiênkiếm
dựng trời xanh. Câu thừa đề này không chỉ làm bổ ý cho phá đề còn như một tuyên
ngôn “ý tại ngôn ngoại”. Chữ “lập” nghĩa xây dựng lên. Đặt câu thơ trong thời đại
Cao Quát sinh sống, khi triều đình nhà Nguyễn đầy như thể chế bảo thủ, lỗi thời, lạc
hậu khắc, một nhà Nho yêu nước như Cao Quát luôn mang trong mình nỗi đau
đáu khôn nguôi về quê hương. Có lẽ vì vậy phải chăng Tổ quốc đang cần một thanh gươm
báu để cứu nguy. Thanh gươm ấy đại diện cho triều đình phong kiến ngày một mục nát
đang kè trên cổ người dân hay một thanh gươm nào đó muốn vung lên giữa trời xanh rộng
lớn. Hai câu đề có núi, có sông, có ruộng, có trời xanh thế nhưng không đơn thuần tả cảnh
sắc thiên nhiên xứ Huế thơ mộng, tráng lệ. ở đây với hình ảnh dòng sông Hương hiện
lên như lưỡi gươm sắc nhọn sừng sững giữa trời phải chăng còn khẳng định: sẽ có nhân tài
giúp nước hay một cuộc khởi binh nổi dậy chống lại trời xanh. Thanh gươm chính là biểu
tượng của ý chí quật ờng xuyên thủng bầu trời thời cuộc, biểu tượng sự kiên quyết muốn
phá tan đạp đổ những lạc hậu, cũ nát và mục rỗng.
lOMoARcPSD| 61432759
- Hai câu thực: Kéo ta về thực tại trước mắt là khung cảnh của bờ sông Hương
“Sổ hàng ngư đĩnh liên thanh trạo,/ Thuyền nằm ngư phủ hò liền giọng Lưỡng
cá sa cầm khuất túc miên/ Bãi đứng sa cầm ngủ giấu chân”
Đến câu thơ thứ ba, Cao Quát đã khắc họa đời sống sinh hoạt của người dân vạn đò.
Mấy dãy thuyền chài không ngớt tiếng hò khoan đưa mái chèo vừa gợi không khí lao động
đầy hăng say, náo nhiệt, đồng thời đậm sự vất vả, khó khăn của người dân làng chài.
Ông đã chứng kiến đời sống cơ cực của dân dọc hai bên bờ. Họ mưu sinh trên những con
thuyền nhỏ, cố chèo chống để kiếm miếng ăn. Huế vốn nổi tiếng với bsông ơng
mộng mơ, cổ kính, những đêm trăng nghe ca Huế trên thuyền sông Hương một thú
chơi tao nhã đặc quyền của giới quý tộc triều Nguyễn. Ấy vậy ngay bờ sông, tiếng hò
khoan lao động không ngớt vang lên, rộn ràng cả một ng sông nước. Khung cảnh sinh
hoạt của người dân đầy náo nhiệt, khẩn trương, hối hả nhưng không kém phần vất vả, khó
khăn.
Đối lập với hình ảnh lao động cần mẫn của người dân vạn đò thì trên bãi, Cao Bá Quát lại
khắc họa hình ảnh hai con chim đứng co chân ngủ : “Lưỡng sa cầm khuất túc miên”.
Bên cạnh không khí nhộn nhịp của bến bãi, đôi chim bói cá vẫn thản nhiên say sưa co một
chân đứng ngủ. Đôi chim không bị xao động bởi âm thanh ồn ào của bến bãi, cũng không
chứng kiến cảnh ợng lao động hăng say đầy khổ cực của người dân chỉ biết nhắm
mắt, im lìm chìm vào mộng đẹp. Đến đây nhà thơ đã dùng thủ pháp tả cảnh ngụ tình, suy
rộng ra lẽ đó tâm trạng bất lực trước thời cuộc của nhà thơ, ông chỉ biết nhắm mắt
làm ngơ, lặng thinh để khỏi thấy cảnh đời trước mắt. Đặc biệt ở đây Cao Bá Quát sử dụng
từ “lưỡng” tức đôi. Đôi chim cùng nhau đứng bên trên bãi càng đậm nỗi đơn của
chủ thể trữ tình, nỗi đơn của nhà thơ trước cuộc đời. Đây là nỗi buồn thường được bắt
gặp trong văn học trung đại: nỗi cô đơn gắn với tâm sự ưu thời.
- Hai câu luận: Hai câu năm và sáu bật ra nỗi lòng suy tư, âu sầu của thi nhân trước cuộc
đời
“Trần lộ du du song quyện nhãn,/ Đường trần dằng dặc mòn hai mắt
lOMoARcPSD| 61432759
Viễn tình hạo hạo nhất quy tiên./ Roi ngựa mang mang ruổi một tình”
Đến những dòng thơ luận, Cao Bá Quát đã thẳng thắn nói lên nỗi sầu về cuộc đời mình sau
bao cay đắng, nhọc nhằn, buồn bã, thất vọng bởi sinh không đúng thời. “Trần lộ du du
đường trần dài dằng dặc” như một lời than thở đầy ngao ngán của thi nhân sau chặng đường
đời đầy biến cố, trắc trở liên tiếp mà ông đã đi qua. Đó phải chăng còn là nỗi lòng đau đáu
của nhà thơ về một con đường, một phương hướng, một cái đích để hướng tới. Chính
cuộc đời đầy truân chuyên, “vấp ngã” liên tiếp, ông đã chứng kiến, nhìn thấu thực tế
hội. Ông thông cảm sâu sắc đời, rất nhiều những kiếp người bất hạnh hiện lên trong sáng
tác của Cao Bá Quát, có lẽ vì chứng kiến cảnh trái tai gai mắt nên “song quyện nhã” – đôi
mắt của ông mới thấy mỏi, thấy mòn.
Dọc theo bsông Hương, chứng kiến đời sống nhân dân vạn đò còn khổ cực, khó khăn
trong khi triều đình nhà Nguyễn vẫn bảo thủ với nhiều thể chế hà khắc khiến ông chỉ muốn
quay về: “viên tình hạo hạo nhất quy tiên” tức là “tình xa man mác, một roi đánh ngựa trở
về”. Hai câu thơ luận được viết trong thể chỉnh đối: “Trần lộ du du” đối với “Viễn tình hạo
hạo”, đường trần dằng dặc đối với tình xa man mác; song quyệt nhãn” hai mắt đã mòn
đối với “nhất quy tiên” một roi ngựa về. Mắt đã mòn nhưng không phải không nhìn đời
nữa, mà là nhìn thâm thúy hơn, nhân văn hơn. Một nh một ngựa đi về phải chăng tâm
trạng ngao ngán, đã thấm mệt trước con đường dài dằng dặc. Chữ “nhất” xuất hiện càng
đậm tâm trạng lẻ loi, cô đơn của thi sĩ. Phải chăng đây tâm sự u uất bốc lên ngùn ngụt
về thời đại ông sống. Ông thấu hiểu thời đại của mình nhưng bất lực, không thể vượt
qua.
- Hai câu kết: khép lại bài thơ đã thể hiện tâm thế chán chường, buông xuôi của thi sĩ khi
nhận ra sự cám dỗ, giả dối, hiểm nguy của con đường công danh.
“Kiều đầu xa mã phi ngô sự,/ Qua cầu xe cộ ta đâu nghĩ
Phả ái nam phong giác chẩm biền/ Gió Nam sừng gối thảnh thơi nằm”
Thơ Cao Bá Quát ẩn chứa sự bất bình, phản kháng trước thời đại, được thể hiện thông qua
điển tích: “kiều đầu”. Chữ “đầu” có thể là chữ “đề” viết sai ra, vì hai chữ này viết dạng gần
lOMoARcPSD| 61432759
giống nhau. Có lẽ Cao Bá Quát dùng tích Tư Mã Tương Như đời Hán, khi còn trẻ qua cầu
Thăng Tiên đề vào cột rằng “Bất thừa cao xa tứ mã, bất quá thử kiều” (Không ngồi xe cao
bốn ngựa thì không qua lại cầu này). Mộng công danh luôn là điều nhà Nho đau đáu, xuất
phát điểm ông cũng khát khao được phụng sự triều đình, chính Cao Bá Quát cũng biết con
đường “công danh nhất lộ” vất vả như thế nào nhưng vẫn quyết chí ng pha. Trước khi ra
làm quan, Cao Quát vẫn còn hào hứng với cái “danh” nhưng trải qua thời gian, khi
chứng kiến đủ mọi biến cố thăng trầm của cuộc đời, nhà thơ nhận ra cái danh đó thực,
hão huyền. Chính vậy khi sử dụng điển tích cổ, ông khẳng định “phi ngô sự” - không
nghĩ đến. Thi nhân sau nhiều lần thể nghiệm, vấp váp, ông đã thấm thía cuộc đời mình,
một mực phủ nhận “chí công danh”: “Dư sinh bản chỉ vi danh” - Đời ta gặp nạn chỉ
danh.
Chính vì vậy Cao Bá Quát – một thi sĩ có cái tôi ngông đầy tự tin cũng từng suy nghĩ
lựa chọn lối sống nhàn của một kẻ bất đắc chí. Ông viết: “Phả ái nam phong giác chẩm
biền” có nghĩa là chỉ thích trước luồng gió nammột loại gió mùa mát mẻ, thảnh thơi nằm
gối lên chiếc gối sừng. Một nhà Nho luôn đau đáu với khát vọng cống hiến, phụng sự cho
đất nước, có chữ “danhgắn liền với i văn chương chữ nghĩa, một người với chí hướng
rất lớn, rất phi thường cũng lúc muốn lặng thinh giữa đời, nằm trên chiếc gối êm ái để
tận hưởng, khỏi nghĩ suy. Đặc biệt giác chẩm là gối bằng sừng, bọc ngoài bằng nhiễu hay
bằng lụa quý. Gối này một loại gối quý hiếm, tương truyền rằng, khi được ngã đầu
trên gối này thì giâc ngủ đến rất dễ dàng, ngủ thẳng giấc mà không hề mộng mị. Vậy phải
chăng ước mong của nhà thơ Cao Quát hiện tại thể nhắm mắt ngủ một giấc thật
thư giãn, khoan khoái giữa những cơn gió nồm để không còn đau đáu nỗi thất vọng về
mộng công danh?
b) Thơ Đường luật Nôm
Phân tích đặc trưng thể loại thơ Đường luật Nôm qua “Bảo kính cảnh giới” bài 7 -
Nguyễn Trãi
lOMoARcPSD| 61432759
Bài thơ đã thể hiện những nét đặc trưng của thơ Nôm Đường luật với kết cấu, luật bằng
trắc, niêm, luật hết sức chặt chẽ và tuân thủ theo luật của Đường thi. Đồng thời bài thơ thể
hiện sự sáng tạo của Nguyễn Ti trong việc “cố gắng xây dựng một lỗi thơ Việt Nam”.
Về kết cấu, bài thơ được viết theo kết cấu với 4 liên thơ 2/ 2/ 2/ 2: Đ- thực luận kết.
Kết hợp với luật bằng trắc hết sức nghiêm ngặt của thơ Đường luật: luật trắc (căn cứ vào
chữ thứ hai của bài thơ). Các chữ thứ 2 4 6 trên một dòng thơ đều rất tuân ththeo quy
định của thơ Đường luật như sau:
Cắp nắp làm chi hỡi thế gian,
T B T
Có thì ăn mặc chớ lo toan.
B T B
Đông hiềm giá lạnh chằm mền kép,
B T B
Hạ lệ mồ hôi kết áo đơn.
T B T
Nằm có chiếu chăn, cho ấm áp,
T B T
Ăn thì canh cá, chớ khô khan.
B T B
Phúc dầu hay đến trăm tuổi,
B T T
Mình thác thì nên mọi của tan.
T B T
lOMoARcPSD| 61432759
Tuy nhiên, ta có thể thấy, dòng thơ thứ 7 của bài thơ không tuân theo luật của thơ thất ngôn
bát cú. Đây sự pcách của Nguyễn Trãi trong việc cố gắng sáng tạo một thể thơ dân
tộc. Ông xen lẫn câu lục ngôn và sự phá vỡ luật bằng trắc vào thể thất ngôn bát cú. Sự sáng
tạo ấy đã tạo nên phong cách thời đại của thơ Nôm Đường luật, trở thành cái
“mã” của thể loại. Việc gieo vần cũng được Nguyễn Trãi tuân thủ đúng với luật của
Đường thi nhưng ông cũng thêm vào đó sự sáng tạo của riêng mình. Ta thể thấy, Nguyễn
Trãi gieo vần chân “an” các câu 1, 2, 6, 8. Riêng câu 4 vần “ơn” chỉ giống với vần
“an” phụ âm cuối. Đây thể sự ng tạo của Nguyễn Trãi để thỏa mãn luật đối trong
thơ “đơn” kép”. n cạnh đó luật niêm ng được Nguyễn Trãi hết sức tuân thủ: chữ
thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng
niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Cụ thể: Câu 1 niêm với câu 8 theo luật trắc; câu 2 niêm
với câu 3 theo luật bằng; câu 4 niêm với câu 5 theo luật trắc; câu 6 niêm với câu 7 theo luật
bằng. Về phép đối, Nuyễn Trãi tuân thủ nghiêm ngặt luật đối trong thơ Đường thi: câu 3
đối với câu 4; câu 5 đối với câu 6.
thể thấy, về mặt kết cấu, bài thơ tuân thnghiêm theo luật của thơ Đường thi. Tuy nhiên,
Nguyễn Trãi thể hiện sự sáng tạo phá cách của mình trong khi áp dụng luật thơ sẵn có của
Trung Hoa. Từ đó đã tạo nên được một lối thơ mới, lối thơ rất dân tộc, rất Việt Nam.
Về ngôn ngữ, Nguyễn Trãi luôn giữ nguyên vẻ đẹp thô , mộc mạc của từ Việt. Nhờ đó
tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học mang tính nghệ thuật thẩm cao. Trong bài
Bảo kính cảnh giới số 7, Nguyễn Trãi đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp mộc mạc, giản dị nhưng vô
cùng tinh tế của tiếng Việt. Mở đầu bài thơ hai câu đề, khái quát toàn bộ ởng của
bài thơ “Cắp nắp làm chi hỡi thế gian/ Có thì ăn mặc chớ lo toan”. “Cắp nắp” nghĩa là giữ
gìn, chắt chiu, tiết kiệm từng chút một. Vậy câu thơ đầu như một lời kêu gọi của Nguyễn
Trãi với mọi người. Đừng sống mà chỉ biết giữ gìn, chắt chiu, tích góp của cải. Nếu có của
thì hãy “ăn mặc chớ lo toan”. Điều quan trọng trên cuộc đời y bản thân mình chứ
không phải của cải vật chất. Kế tiếp hai u đề hai câu thực với mục đích làm ý
nghĩa cho tư tưởng hai câu trên đã nêu ra: “Đông hiềm giá lạnh chằm màn kép / Hạ lệ
mồ hôi kết áo đơn”. Hiềm” từ cổ, nghĩa là tránh; “hiềm giá lạnhtức tránh giá lạnh.
lOMoARcPSD| 61432759
“Chằm” từ Việt cổ nghĩa may nhiều lớp. “Chằm màn kép” tức may thêm nhiều lớp
màn nữa. Vào mùa đông, để tránh giá lạnh tphải may thêm nhiều lớp áo lớp màn. Còn
mùa hạ, khi “lệ mồ hôi” thì cần phải “kết áo đơn”, mặc áo mỏng cho phù hợp với thời tiết.
Câu thơ mang ý nghĩa nhắc nhở con người ta phải biết sử dụng vật chất để phục vụ cho
cuộc sống của mình. Không được tiện với bản thân phải biết dùng của cải đang
để chăm lo cho cuộc sống. Đọc hai câu thực, ta nhớ đến câu tục ngữ mà ông cha ta đãn
dạy “Liệu cơm gắp mắm”. Tùy vào hoàn cảnh mà ta phải biết sử dụng tài sản của bản thân
cho hợp lí. Không được hà tiện với bản thân và đồng thời cũng không được phung phí tiền
tài. “Nằm chiếu chăn cho ấm áp/ Ăn thì canh chớ khô khan”. Hai câu luận được tác
giả sử dụng rất nhiều những từ ngữ mộc mạc giản dị như ăn, nằm, chiếu chăn, canh cá, ấm
áp, khô khan. Tuy mộc mạc vậy thôi những với sự kết hợp tài nh đã tạo nên hai câu văn
mang ý nghĩa sâu sắc. Với Nguyễn Trãi, dù cuộc sống không phải là giàu sang phú quý
nhưng chúng ta luôn phải đối đãi tốt nhất đối với chính bản thân mình. Dù là khi nằm nghỉ
ngơi, khi ăn uống thì ta cũng phải nằm cho ấm, ăn cho ngon. “Phúc dầu hay đến trăm tuổi/
Mình thác thì nên mọi của tan”. Hai câu kết đã tóm gọn lại tư tưởng của cả bài thơ: của cải
vật chất chỉ là phù du, đến cuối cùng khi con người đã đi vào cõi vĩnh hằng thì của cải vật
chất cũng sẽ tan biến. Dẫu cho con người sống đến trăm tuổi thì cuối cùng con người
cũng phải trở về với cát bụi. Mọi của cải vật chất sẽ chẳng còn nghĩa nữa. đây,
Nguyễn Trãi muốn đề cao cuộc sống con người lên trên giá trị vật chất. Tiền bạc vật chật
chỉ là công cụ phục vụ cho cuộc sống của chúng ta. Cuộc sống ấm no, tươi vui, hạnh phúc
của mỗi chúng ta quan trọng nhất. Bài tBảo kính cảnh giới bài 7 với sự tài tình của
Nguyễn Trãi trong việc sử dụng luật thơ Đường thi kết hợp với sự sáng tạo trong cố gắng
phát triển một thể thơ mới của dân tộc đã truyền tải một tư tưởng lớn của thời đại đến với
bạn đọc: coi trọng cuộc sống hơn vật chất. Với tầm nhìn xa trông rộng của Nguyễn Trãi,
tư tưởng ấy đến ngày nay vẫn còn có giá trị vô cùng to lớn.
2. Ngâm khúc
2.1. Khái niệm Ngâm khúc
lOMoARcPSD| 61432759
Ngâm khúc n được gọi ngâm khúc ngâm song thất lục bát một thể loại trữ tình
dài hơi, phản ánh tâm trạng buồn đau triền miên dai dẳng của con người ý thức về quyền
sống quyền hạnh phúc cá nhân thường viết bằng thể thơ song thất lục bát và ngôn ngữ dân
tộc. (chữ Nôm, chữ quốc ngữ).
2.2. Đặc điểm thể thơ song thất lục bát (STLB), kể tên 04 khúc ngâm STLB. - Khổ thơ
song thất lục bát gồm 28 tiếng, chia làm 4 dòng với số âm tiế 7 - 7 - 6 - 8, dòng thơ số
tiếng lẻ cả số tiếng chẵn.
- Một khổ thơ 7 vần, bao gồm 3 vần lưng 4 vần chân, cả vần bằng lẫn vần trắc,
vầnliên kết giữa các câu thơ trong khổ, giữa hai khổ liền kề.
- Nhịp: hai câu thất thường ngắt nhịp chẵn ¾, câu lục bát: nhịp thông thường trong thểlục
bát hoàn chỉnh.
- Phối thanh: tiếng thứ 3,5,7 hai dòng thất, các tiếng thứ 2,4,6,8 hai dòng lục bát
đượcquy định chặt chẽ về mặt thanh điệu các tiếng còn lại tự do.
- Ưu thế của song thất lục bát với việc trữ tình/kể lể tâm sự
- STLB phong phú về số âm tiết trong một dòng, đa dạng về vần,nhịp với các thể
loạikhác. khả ng biểu hiện tốt những biến thái tinh vi trong đời sống tâm , tình
cảm, cảm xúc đặc việt là dòng tâm trạng ít có sự thay đổi.
- Sự kết hợp giữa câu thất và cặp câu lục bát tạo ra quy luật phối điệu đặc biệt hai dòngthất
những lớp sóng cuộn lên hai dòng lục bát những đợt sóng đang tan ra phù hợp để
diễn tả tâm trạng day dứt, dồn nén.
- STLB với chu kì 4 dòng, các khổ thơ có cấu trúc giống nhau tạo ta vảm giác về sự lặplại,
khiến tốc độ luân chuyển các câu thơ chậm vừa biểu đạt trạng thái triền miên ngưng đọng
của nỗi sầu não, vừa phù hợp để kể lể để tự tình.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61432759
Đề cương Văn học trung đại
1. Thơ Đường luật (Thơ ĐL)
1.1. Khái niệm Thơ ĐL; phân biệt “thơ ĐL”, “thơ Đường”, “thơ cổ phong
* Thơ cổ phong:
Thơ cổ phong còn gọi là cổ thi, thơ cổ thể hay cổ thể thi. Thể thơ này có từ trước thời
Đường. Cổ phong là lối thơ chỉ có số chữ trong câu là nhất định (hoặc ngũ ngôn, hoặc
thất ngôn), làm dài ngắn bao nhiêu cũng được; ngoài ra, không phải theo thể lệ chặt chẽ
như lối Đường luật, nghĩa là không có niêm, luật, không phải đối (đối hay không là tùy
tác giả, chứ không bắt buộc). * Thơ Đường:
Thơ Đường tức là thơ Đường Thi, là những bài thơ của các thi gia Trung Hoa làm vào
thời đại nhà Đường (618 - 907). Thơ Đường không được đồng nhất với thơ Đường Luật.
* Thơ Đường Luật: -
Thơ Đường Luật là thể thơ được đặt ra từ đời nhà Đường và phải tuân theo các
quy tắc bắt buộc, rất khắt khe và gò bó. -
Thơ Đường Luật có một quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều: luật, niêm, vần, đối và bố cục -
Ở Việt Nam, thơ Đường luật xuất hiện dưới 2 dạng: thơ Nôm Đường luật và thơ Đường luật chữ Hán.
1.2. Đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thơ ĐL Hán, thơ ĐL Nôm
a) Thơ Đường luật Hán: * Nội dung:
- Thơ Đường luật chan chứa tính nhân văn, đầy ắp tình người, tình đời, nỗi đau, nỗi hận,
… Thơ Đường luật cũng phản ánh số phận “thập loại chúng sinh” trên khắp đất nước Trung
Hoa thời phong kiến nhà Đường. Đồng thời, trong từng câu thơ còn thấm đượm những
nghĩ suy và triết lý thâm thuý của con người trước thời cuộc thăng trầm, những rung động lOMoAR cPSD| 61432759
sâu lắng của trái tim đối với thiên nhiên, tình yêu, tình bạn và với những hoàn cảnh thống khổ trên đời.
- Nội dung trong thơ Đường luật rất đa dạng và phong phú. Có rất nhiều hình thức diễn đạt
phóng khoáng từ những đề tài về an nhàn ẩn dật, vui thú điền viên, tả cảnh thiên nhiên
đến những bài thơ nói về cung đình, biên tái, chiến chinh, những đề tài liên quan đến xã
hội, cảnh nghèo đói áp bức, nỗi bất công của phụ nữ, những bài thơ tâm tình, tình bè bạn,
thiên nhiên, đến tình yêu nam nữ, rồi những đề tài vịnh sử, hoặc những bài thơ mang
hương vị Thiền, Đạo giáo. * Nghệ thuật: - Luật đối âm
“Nhất tam ngũ bất luận
Nhị tứ lục phân minh”
+ Chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không nhất thiết phải theo đúng luật; còn chứ thứ hai,
thứ tư, thứ sáu bắt buộc phải theo luật. Nếu không theo luật thì gọi là thất luật.
+ Luật thơ Đường sẽ căn cứ dựa trên thanh trắc và thanh bằng, dùng các chữ thứ 2 - 4 -
6 và 7 trong cùng một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm những chữ không
có dấu hoặc dấu huyền; thanh trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại: sắc, hỏi, ngã, nặng. +
Những bài có luật bằng là bài sử dụng thanh bằng trong chữ thứ hai của câu đầu tiên;
ngược lại, nếu chữ thứ hai trong câu đầu tiên mà sử dụng thanh trắc thì được gọi là luật
trắc. Chữ thứ hai và chữ thứ sáu trong cùng một câu phải giống nhau về thanh điệu và
đồng thời chữ thứ tư không được có thanh điệu giống với hai chữ còn lại. - Luật đối ý
+ Một nguyên tắc cố định trong một bài thơ được sáng tác theo thể loại Đường luật chính
là ý nghĩa của câu thứ ba, thứ tư phải đối nhau và cả hai câu thứ năm, thứ sáu cũng phải đối nhau.
+ Đối chính là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép và nó bao gồm
cả sự tương đương trong cách mà tác giả sử dụng từ ngữ. Đối chữ là động từ đối động từ, lOMoAR cPSD| 61432759
danh từ với danh từ. Đối cảnh là cảnh động đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới. + Nếu
trong một bài thơ Đường luật mà các câu ba, bốn không đối nhau hoặc những câu năm, sáu
không đối nhau thì được gọi là “thất đối”. - Niêm luật
+ Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất ngôn bát cú) được xác định như sau: Câu 1 niêm với câu 8 Câu 2 niêm với câu 3 Câu 4 niêm với câu 5 Câu 6 niêm với câu 7
+ Nếu tác giả sơ xuất mà không tuân thủ nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn,
bài thơ đó sẽ bị gọi là “thất niêm”.
- Vần trong thơ Đường luật
+ Vần được sử dụng cuối các câu thứ nhất, thứ hai, thứ tư, thứ sáu, thứ tám. Nếu các câu
cuối của bài thơ không giống nhau về vần thì gọi là “thất vận”.
+ Vần được chia làm hai loại chính: “vần chính” và “vần thông” (“vần chính” là vần có
những từ ngữ có vần giống nhau hoàn toàn, còn “vần thông” là những từ có vần gần giống nhau).
- Các phép đối trong thơ Đường luật
+ Phép chỉnh đối: các chữ của câu trên và câu dưới theo thứ tự đối nhau từng chữ một
hay từng cặp chữ kép một.
+ Phép tá tự đối: đây là phép đối tiếng đối bóng.
+ Bất đối chi đối: không đối tự loại mà đối ý. Cách đối này, Tiền Nhân rất thích dùng
theo quan điểm Ý trọng hơn Từ.
+ Phép đối lưu huỷ: ý câu dưới tiếp ý câu trên.
+ Cú trung đối: còn gọi là Tiểu Đối. Tự đối nhau trong từng câu. Câu trên tự đối, câu
dưới cũng tự đối. Hai câu đều tự đối. Tự Đối dùng để đối với Tự Đối. lOMoAR cPSD| 61432759
+ Giao cổ đối: Từng nhóm hay từng chữ của câu trên đối chéo với từng nhóm hay từng chữ của câu dưới.
- Cấu trúc trong thơ Đường luật
Loại Mô hình Tiêu chí 1 2 - 2 - 2 - 2
Đề - Thực - Luận - Kết 2 4 - 4
Nặng cảnh nhẹ tình - Nặng tình nhẹ cảnh 3 2 - 4 - 2
Nặng về thời gian - Nặng về không gian - Nặng về thời gian
+ Xét về cấu trúc, thơ Đường nói chung và đặc biệt là luật thi có cấu trúc hoàn thiện,
chuẩn mực và cân xứng.
+ Ngôn ngữ thơ Đường: “ngôn hữu hạn, ý vô cùng”; “ngôn tận nhi, ý bất tận”.
- Cấu tứ nghệ thuật trong thơ Đường luật
+ “Cấu tứ nghệ thuật” là cách thức tổ chức của một tác phẩm nghệ thuật, là phạm trù
thẩm mĩ quan trọng của nghệ thuật. Nó là thước đo của chất lượng thi ca, khi nó đem lại
cho độc giả những hứng thú và hưởng thụ thẩm mĩ vô hạn, cũng là khát vọng của thực tiễn
sáng tạo nghệ thuật ở mỗi nhà thơ.
+ “Cấu tứ” (còn gọi là tứ thơ) là sự khám phá và thể hiện cuộc sống một cách độc đáo
nhất của từng nhà thơ trong từng bài thơ. Gần nghĩa với cấu tứ thơ, mỹ học Trung Quốc có
khái niệm “ý cảnh”, “ý cảnh nghệ thuật” hay “cảnh giới nghệ thuật”. Đó là sự kết hợp hài
hòa giữa tư tưởng tình cảm chủ quan của tác giả với môi trường, cảnh vật khách quan tạo
thành hình tượng mang hàm nghĩa phong phú, khiêu gợi trí tưởng tượng của độc giả. Như
vậy, “cấu tứ” và “ý cảnh” đều phải dùng tới thao tác tư duy, và đặc biệt ở đây là “sự kết
hợp hài hòa giữa tư tưởng tình cảm chủ quan của tác giả với môi trường, cảnh vật khách
quan” - một kiểu tư duy quan hệ làm nên sự độc đáo trong “cấu tứ” của thơ Đường luật. lOMoAR cPSD| 61432759
+ Có nhiều nhà thơ Đường tuy viết cùng một đề tài như: sơn thủy điền viên, biên tái,
chiến tranh, cung nữ, chinh phụ, … song mỗi bài lại có cách thức thể hiện độc đáo khác
nhau. Điều này là do “cấu tứ” mỗi bài khác nhau. Đó là cách sáng tạo trong quá trình khám
phá và thể hiện cuộc sống của mỗi nhà thơ, tạo nên sức hấp dẫn và sự trường tồn cho thơ
Đường luật. Đóng góp cho sức hấp dẫn và trường tồn ấy không thể không nhắc tới tư duy
quan hệ xác lập tính đồng nhất các mặt đối lập - một loại tư duy sinh ra trong thời Đường.
b) Thơ Đường luật Nôm: * Nội dung: -
Thơ Nôm Đường luật thể hiện rõ nhất thông qua hệ thống đề tài, chủ đề. Thơ Nôm
Đường luật được ví như một bức tranh thuỷ mặc, nét vẽ chấm phá, bố cục hài hoà, cân đối
tạo ra mô hình Trời - Đất - Người. Đề tài, chủ đề của thơ Nôm Đường luật rất phong phú,
đa dạng, đề cập đến nhiều vấn đề lớn của lịch sử, của thời đại, của đất nước cũng như khía
cạnh tinh tế, phức tạp trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Đặc biệt, thơ Nôm
Đường luật hướng nhiều về những đề tài, chủ đề chứa đựng yếu tố dân chủ như nhu cầu
giải phóng tình cảm, quyền sống hạnh phúc, chống lễ giáo phong kiến, … -
Thơ Nôm Đường luật kết hợp hội hoạ - thư pháp - thơ ca: chú trọng diễn tả những
mối quan hệ phối hợp, những phạm trù đối lập tương sinh: âm - dương, cao - thấp, … đại
diện mô hình thơ ca Trung Hoa, phản ánh quan niệm thẩm mỹ, quan niệm nghệ thuật, thế
giới quan, nhân sinh quan của người (phương Đông) cổ đại: mối liên hệ “tương khắc, tương
hỗ, tương hợp, tương thông, tương sinh, tương giao” giữa con người - vũ trụ - âm dương:
tư tưởng biện chứng về sự sinh thành, chuyển hoá, nhịp điệu vận động không ngừng của
thế giới tự nhiên và xã hội. -
Nếu các yếu tố Đường luật mang đến phong vị cổ thi cho thơ Nôm Đường luật thì
yếu tố Nôm lại khiến thể loại này thấm đượm hồn dân tộc và khu biệt nó với thơ Đường
luật chữ Hán. Yếu tố Nôm trong hệ thống đề tài, chủ đề thể hiện ở chỗ thơ Nôm Đường
luật hướng tới những đề tài mang tính chất dân tộc, dân dã, đời thường. Ngay cả khi viết
về các phạm trù đạo đức Nho gia , các tác giả thơ Nôm Đường luật cũng thổi vào đó linh lOMoAR cPSD| 61432759
hồn dân tộc và hơi thở thời đại, khiến các khái niệm này gần gũi hơn với tâm thức dân tộc, nhân dân. * Nghệ thuật:
- Khi xem xét các yếu tố hình thức biểu hiện của thơ Nôm Đường luật, bao gồm hệ thống
hình tượng, ngôn ngữ nghệ thuật và kết cấu, chúng ta nhận thấy sự kết hợp giữa yếu tố
Nôm và yếu tố Đường luật trong chỉnh thể bài thơ. Hệ thống hình tượng của thơ Nôm
Đường luật bao gồm hai bộ phận nhỏ: những hình tượng là ước lệ nghệ thuật có sẵn trong
quan niệm, tư tưởng mang vẻ đẹp tao nhã, mực thước và những hình tượng là ước lệ nghệ
thuật bắt nguồn từ đời sống, nhất là đời sống dân tộc, dân dã và là sản phẩm sáng tạo mới mẻ của các thi nhân.
Yếu tố Đường luật:
Quy định về bố cục, số câu, số từ, tạo nên cấu trúc hài hoà cân đối. Mỗi bài thơ thường
gồm 4 phần : đề – thực – luận – kết (tương ứng với thơ tứ tuyệt là khai – thừa – chuyển –
hợp). Câu đầu tiên là mở đề (mở ý bài thơ), câu thứ hai là phá đề (tiếp ý của mở đề), câu 3
và 4 là thực (giải thích rõ ý bài thơ), câu 5 và 6 mở rộng ý bài thơ, câu 7 và để chọn nhân
tài. Với nghệ thuật thơ ca, những niêm luật Đường thi tạo nên sự hài hoà, nhịp điệu, âm
hưởng đặc biệt nhưng nhiều khi cũng khiến thơ Đường trở nên khuôn phép, khô cứng, vì
thế nhiều nhà thơ tài năng trong một số sáng tác đã phá vỡ những quy tắc như vậy. Yếu tố Nôm:
Vẻ đẹp nghệ thuật của bài thơ Nôm Đường luật về nhịp điệu là sự đối lập luân phiên của
các thanh điệu bằng trắc cùng việc sử dụng các hình thức hài thanh, sóng âm thanh đối lập,
biến hoá, hài hoà đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật: tạo nên những mối quan hệ tương quan
mật thiết, nâng đỡ nhau, bao hàm nhau, sự chuyển vận năng động của câu thơ; là hình thức
tạo nghĩa, có giá trị mô phỏng -tạo tác- truyền dẫn cảm xúc ý nghĩa của bài thơ. Không
những vậy, về đối ngẫu: đối thanh, đối ý, đối liên, bình đối, tiểu đối; đối tương đồng, tương
phản tạo nên vẻ đẹp đối xứng, các câu thơ soi chiếu lẫn nhau, bao hàm, tương hỗ, làm sáng
tỏ nhau, tạo nên ý nghĩa khái quát biểu trưng. lOMoAR cPSD| 61432759
Ngôn ngữ thơ Nôm Đường luật rất trong sáng, tinh luyện, giàu hình ảnh, lời ít, ý nhiều.
Người ta thường ví mỗi chữ trong câu thơ Đường như một viên ngọc, không thể bớt. Các
thi nhân luôn chủ trương dụng lời ít nhất để nói những điều sâu sắc nhất, lớn lao nhất. Và,
dù tả cảnh, tả tình hay tả sự việc, họ luôn lấy hai tiêu chuẩn ” hàm súc” và “giàu chất thơ”
làm trọng. Các thủ pháp miêu tả dựa trên các mối quan hệ giữa các đối tượng, theo các
dạng thức “vẽ mây nảy trăng”, dùng tĩnh tả động, dùng động tả tĩnh, tả cảnh ngụ tình, trong
thơ có họa, trong thơ có nhạc, …
=> Qua hai phương diện nội dung và hình thức của thơ Nôm Đường luật ta có thể khẳng
định bản chất của thể loại này là sự thống nhất biện chứng và sâu sắc giữa hai mặt đối lập
“Nôm” và “Đường luật”. Có thể nói, với xu hướng dân tộc hóa, các nhà thơ Trung đại đã
có sự sáng tạo, cách tân từ việc sử dụng ngôn ngữ để thể hiện tính cách người Việt Nam,
để khu biệt giữa Đường luật Nôm và Đường luật Hán. Và, một trong những sáng tạo của
các nhà thơ Đường luật Nôm là sử dụng một cách hiệu quả lớp từ, ngữ thuộc phong cách
hội thoại vào trong thơ. Cũng từ đó, thơ Nôm Đường luật dần dần phá vỡ tính quy phạm
của văn học Trung đại bằng việc tăng cường khai thác kho tàng ngôn ngữ dân gian, bằng
việc phát triển ý thức văn học phản ánh cuộc sống.
1.3. Vận dụng đặc điểm cơ bản của thơ ĐL, phân tích một bài thơ bất kì (cho ngữ liệu).
a) Thơ Đường luật Hán
Phân tích các đặc trưng thể loại Đường thi qua bài “Hiểu quá Hương Giang”
“Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền, T T B B T B B
Trường giang như kiếm lập thanh thiên. B B B T T B B Sổ
hàng ngư đĩnh liên thanh trạo, lOMoAR cPSD| 61432759 T B B T B B T
Lưỡng cá sa cầm khuất túc miên. T T B B T T B
Trần lộ du du song quyện nhãn, T B B B B T T
Viễn tình hạo hạo nhất quy tiên. T B T T T B B Kiều đầu xa mã phi ngô sự, B B B T B B T
Phả ái nam phong giác chẩm biền (tiện)” T T B B T T B Dịch nghĩa:
“Muôn dãy núi như chạy vòng quanh khu ruộng xanh mướt
Dòng sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh
Mấy dãy thuyền chài không ngớt tiếng hò khoan đưa mái chèo
Hai con chim trên bãi đứng co chân ngủ
Đường trần dằng dặc, đôi con mắt đã mỏi
Tình xa man mác, một roi ngựa trở về
Xe ngựa qua cầu, không phải là việc ta nghĩ đến
Chỉ thích trước luồng gió nam, thảnh thơi nằm gối lên chiếc gối sừng”
Tác giả: Cao Bá Quát
- Cao Bá Quát sinh vào khoảng 1808 -1810 và mất năm 1855. lOMoAR cPSD| 61432759
- Cao Bá Quát tự là Chu Thần (bậc thần tử của nhà họ Chu), hiệu là Cúc Ðường, Mẫn Hiên.
Ông người làng Phú Thọ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.
- Cao Bá Quát là một nhà thơ lỗi lạc đồng thời là một lãnh tụ của phong trào nông dân khởi
nghĩa ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX.
- Sáng tác của Cao Bá Quát chủ yếu bằng chữ Hán, chữ Nôm cũng có nhưng ít. Khác với
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát sống vào thời kỳ chính sách đề cao chữ Hán của nhà
Nguyễn đã có ảnh hưởng sâu rộng trong giới nho sĩ. Có lẽ Cao Bá Quát chịu ảnh hưởng của chủ trương này.
+ Về thơ chữ Hán: hiện còn khoảng trên một nghìn bài thơ được ghi chép trong mười tập
thơ và hàng chục đầu sách khác.
+ Về mặt chữ Nôm: hiện còn khoảng trên mười bài hát nói.
+ Về văn: hiện còn khoảng 21 bài văn xuôi, trong đó 10 truyện ngắn trong tập Mẫn
Hiên thuyết loại và 11 bài văn ( tựa, thuyết, ký, …)
- Các sáng tác của Cao Bá Quát rất nhiều song sau án “tru di tam tộc”, nhiều tác phẩm của
ông bị thất tán, tản mát hoặc lẫn lộn với các tác phẩm của người khác.
* Bài thơ làm theo thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật - Vần
Bài thơ gieo vần chân ở các câu 1, 2, 4, 6, 8: điền, thiên, miên, tiên, biền.
- Đối (Chữ 2, 4, 6, 7 theo đúng luật B – T)
+ Sổ hàng ngư đĩnh liên thanh trạo, T B B T B B T
+ Lưỡng cá sa cầm khuất túc miên T T B B T T B
- Phép chỉnh đối: các chữ của câu trên và câu dưới theo thứ tự đối nhau từng chữ một lOMoAR cPSD| 61432759
Trần lộ du du song nguyệt nhãn,
Viễn tình hạo hạo nhất quy tiên. -
Luật trắc: bắt đầu bằng hai tiếng trắc - Niêm: + Chướng – ái + Giang – hàng + Cá – lộ + Tình – đầu
* Nét đặc sắc trong nghệ thuật bài thơ “Hiểu quá Hương Giang” của Cao Bá Quát
- Sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình
Mỗi một thể loại văn học hay trường phái văn học đều có phương pháp sáng tác riêng. Đặc
biệt khi nhắc đến thơ Đường, chúng ta không thể không nhắc đến bút pháp tả cảnh ngụ
tình. Đây là một trong những đặc trưng nổi bật của thơ Đường. Trong bài thơ Hiểu quá
Hương Giang, Cao Bá Quát cũng mượn hình ảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng của bản
thân: “Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền”. Nhà thơ miêu tả không gian bao la, tươi sáng,
tráng lệ và hùng vĩ của sông Hương với hình ảnh núi non hùng vĩ, những cánh đồng xanh
mướt rộng thênh thang. Có lẽ khi chứng kiến vẻ đẹp non sông, nhà thơ không khỏi giấu
được niềm tự hào, kiêu hãnh. Muôn nghìn ngọn núi ấy như ôm ấp, chở che lấy ruộng đồng
xanh biếc, điều đó đã nói lên tình yêu tha thiết của nhân vật trữ tình trước cảnh sắc quê hương.
Cao Bá Quát khắc họa hình ảnh hai con chim đứng co chân ngủ : “Lưỡng cá sa cầm khuất
túc miên”. Bên cạnh không khí nhộn nhịp của bến bãi, đôi chim bói cá vẫn thản nhiên say
sưa co một chân đứng ngủ. Đôi chim không bị xao động bởi âm thanh ồn ào của bến bãi,
cũng không chứng kiến cảnh tượng lao động hăng say đầy khổ cực của người dân mà chỉ lOMoAR cPSD| 61432759
biết nhắm mắt, im lìm chìm vào mộng đẹp. Có lẽ đó là tâm trạng bất lực trước thời cuộc
của nhà thơ, ông chỉ biết nhắm mắt làm ngơ, lặng thinh để khỏi thấy cảnh đời trước mắt.
- Ý tại ngôn ngoại
Đặc biệt thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật bị giới hạn bởi yêu cầu chặt chẽ về niêm, luật,
đối, vận nên ngôn ngữ thơ đầy hàm súc, tinh tế, nhà thơ phải sử dụng chữ ít gợi nhiều. Ý
ở ngoài lời tức là không nói thẳng với người nghe mà để người nghe tự hiểu, tự ngẫm ra.
Đây cũng là một trong những điểm nổi bật thơ Đường, Cao Bá Quát cũng không ngoại lệ
khi chỉ với những câu thơ súc tích gợi cho người đọc nhiều liên tưởng.
Ở câu thơ thứ “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”, hình ảnh dòng sông Hương – con
sông đại diện cho vẻ đẹp Huế hiện lên thật đặc biệt. Người ta hay ví sông Hương như mái
tóc dài của người thiếu nữ, như dải lụa vắt ngang Huế mộng mơ thì Cao Bá Quát lại có
những liên tưởng cường điệu, ví dòng sông như một thứ vũ khí chiến đấu đầy sắc nhọn:
“kiếm lập thanh thiên” – kiếm dựng trời xanh. Câu thừa đề này không chỉ làm bổ ý cho
phá đề mà còn như một tuyên ngôn “ý tại ngôn ngoại”. Chữ “lập” có nghĩa là xây dựng
lên. Đặt câu thơ trong thời đại Cao Bá Quát sinh sống, khi triều đình nhà Nguyễn đầy như
thể chế bảo thủ, lỗi thời, lạc hậu và hà khắc, một nhà Nho yêu nước như Cao Bá Quát luôn
mang trong mình nỗi đau đáu khôn nguôi về quê hương. Có lẽ vì vậy phải chăng Tổ quốc
đang cần một thanh gươm báu để cứu nguy. Thanh gươm ấy đại diện cho triều đình phong
kiến ngày một mục nát đang kè trên cổ người dân hay một thanh gươm nào đó muốn vung
lên giữa trời xanh rộng lớn. Thanh gươm chính là biểu tượng của ý chí quật cường xuyên
thủng bầu trời thời cuộc, biểu tượng sự kiên quyết muốn phá tan đạp đổ những lạc hậu, cũ nát và mục rỗng.
- Các hình ảnh thơ giàu sức gợi tả, gợi cảm, đậm màu sắc Đường thi:
Hình ảnh “đôi chim sa cầm” : tính ước lệ, tượng trưng cao chứa đựng tâm sự cảm xúc của
tác giả về thời cuộc và thân phận
Bài thơ còn sử dụng điển điển tích: “kiều đầu”. Chữ “đầu” có thể là chữ “đề” viết sai ra, vì
hai chữ này viết dạng gần giống nhau. Nhà thơ dùng tích Tư Mã Tương Như đời Hán, khi lOMoAR cPSD| 61432759
còn trẻ qua cầu Thăng Tiên đề vào cột rằng “Bất thừa cao xa tứ mã, bất quá thử kiều”
(Không ngồi xe cao bốn ngựa thì không qua lại cầu này). Với việc sử dụng điển tích đã
nhấn mạnh mộng công danh trong tư tưởng của các nhà Nho thời xưa, ai cũng mong một
lần công thành danh toại đem lại tiếng thơm muôn đời, nếu không nên chuyện thì không quay trở về quê hương.
- Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị mà hàm súc, điêu luyện, tinh tế
Nét đặc sắc trong thơ văn của Cao Bá Quát còn ở việc ông sử dụng ngôn ngữ thơ trong
sáng, giản dị mà hàm súc, điêu luyện và tinh tế. Khi miêu tả sông Hương nhà thơ đã sử
dụng từ ngữ vô cùng khéo léo:
+ Cao Bá Quát khéo léo sử dụng chữ “bôn” – chạy, muôn dãy núi chạy vòng quanh khu
ruộng xanh mướt khiến cho cảm nhận không gian càng bao la, tươi sáng, tráng lệ và hùng vĩ.
+ Cao Bá Quát lại có những liên tưởng cường điệu, ví dòng sông như một thứ vũ khí
chiến đấu đầy sắc nhọn: “kiếm lập thanh thiên” – kiếm dựng trời xanh. Chữ “lập” có nghĩa
là xây dựng lên. Lưỡi gươm sắc nhọn sừng sững giữa trời khẳng định ý chí quật cường
xuyên thủng bầu trời thời cuộc, đây biểu tượng sự kiên quyết muốn phá tan đạp đổ những
lạc hậu, cũ nát và mục rỗng.
+ Đặc biệt ở đây Cao Bá Quát sử dụng từ “lưỡng” tức là đôi. Đôi chim cùng nhau đứng
bên trên bãi càng tô đậm nỗi cô đơn của chủ thể trữ tình, nỗi cô đơn của nhà thơ trước cuộc
đời. Đây là nỗi buồn thường được bắt gặp trong văn học trung đại: nỗi cô đơn gắn với tâm sự ưu thời.
+ Hay trong câu Trần lộ du du song quyện nhãn / Viễn tình hạo hạo nhất quy tiên.Một
mình một ngựa đi phải chăng là tâm trạng ngao ngán, đã thấm mệt trước con đường dài
dằng dặc. Chữ “nhất” xuất hiện càng tô đậm tâm trạng lẻ loi, cô đơn của thi sĩ. * “Hiểu
quá Hương Giang” tuân theo quy tắc triển khai: đề - thực - luân - ḳ ết - Hai câu
đề: Hình ảnh thiên nhiên hiện lên đầy hùng vĩ, tráng lệ: lOMoAR cPSD| 61432759
“Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền,/ Núi ôm ruộng biếc chạy vòng quanh
Trường giang như kiếm lập thanh thiên / Sông dài như kiếm dựng trời xanh”
Bài thơ mở đầu với hình ảnh: “Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền”. “Chướng” tức là ngọn
núi như cái bình phong đang bao quanh đồng xanh. Ngay từ câu đề, thiên nhiên xứ Huế
hiện lên dưới ngòi bút nhà thơ với vẻ đẹp của núi non hùng vĩ, những cánh đồng xanh mướt
rộng thênh thang. Cao Bá Quát khéo léo sử dụng chữ “bôn” – chạy, muôn dãy núi chạy
vòng quanh khu ruộng xanh mướt khiến cho cảm nhận không gian càng bao la, tươi sáng,
tráng lệ và hùng vĩ! Muôn nghìn ngọn núi ấy như ôm ấp, chở che lấy ruộng đồng xanh
biếc, đã nói lên tình yêu tha thiết của nhân vật trữ tình trước cảnh sắc quê hương.
Đặc biệt ở câu thơ thứ hai, hình ảnh dòng sông Hương - con sông đại diện cho vẻ đẹp Huế
hiện lên thật đặc biệt. Người ta hay ví sông Hương như mái tóc dài của người thiếu nữ,
như dải lụa vắt ngang Huế mộng mơ thì Cao Bá Quát lại có những liên tưởng cường điệu,
ví dòng sông như một thứ vũ khí chiến đấu đầy sắc nhọn: “kiếm lập thanh thiên” – kiếm
dựng trời xanh. Câu thừa đề này không chỉ làm bổ ý cho phá đề mà còn như một tuyên
ngôn “ý tại ngôn ngoại”. Chữ “lập” có nghĩa là xây dựng lên. Đặt câu thơ trong thời đại
Cao Bá Quát sinh sống, khi triều đình nhà Nguyễn đầy như thể chế bảo thủ, lỗi thời, lạc
hậu và hà khắc, một nhà Nho yêu nước như Cao Bá Quát luôn mang trong mình nỗi đau
đáu khôn nguôi về quê hương. Có lẽ vì vậy phải chăng Tổ quốc đang cần một thanh gươm
báu để cứu nguy. Thanh gươm ấy đại diện cho triều đình phong kiến ngày một mục nát
đang kè trên cổ người dân hay một thanh gươm nào đó muốn vung lên giữa trời xanh rộng
lớn. Hai câu đề có núi, có sông, có ruộng, có trời xanh thế nhưng không đơn thuần tả cảnh
sắc thiên nhiên xứ Huế thơ mộng, tráng lệ. Mà ở đây với hình ảnh dòng sông Hương hiện
lên như lưỡi gươm sắc nhọn sừng sững giữa trời phải chăng còn khẳng định: sẽ có nhân tài
giúp nước hay một cuộc khởi binh nổi dậy chống lại trời xanh. Thanh gươm chính là biểu
tượng của ý chí quật cường xuyên thủng bầu trời thời cuộc, biểu tượng sự kiên quyết muốn
phá tan đạp đổ những lạc hậu, cũ nát và mục rỗng. lOMoAR cPSD| 61432759
- Hai câu thực: Kéo ta về thực tại trước mắt là khung cảnh của bờ sông Hương
“Sổ hàng ngư đĩnh liên thanh trạo,/ Thuyền nằm ngư phủ hò liền giọng Lưỡng
cá sa cầm khuất túc miên/ Bãi đứng sa cầm ngủ giấu chân”
Đến câu thơ thứ ba, Cao Bá Quát đã khắc họa đời sống sinh hoạt của người dân vạn đò.
Mấy dãy thuyền chài không ngớt tiếng hò khoan đưa mái chèo vừa gợi không khí lao động
đầy hăng say, náo nhiệt, đồng thời tô đậm sự vất vả, khó khăn của người dân làng chài.
Ông đã chứng kiến đời sống cơ cực của dân dọc hai bên bờ. Họ mưu sinh trên những con
thuyền nhỏ, cố mà chèo chống để kiếm miếng ăn. Huế vốn nổi tiếng với bờ sông Hương
mộng mơ, cổ kính, những đêm trăng nghe ca Huế trên thuyền ở sông Hương là một thú
chơi tao nhã đặc quyền của giới quý tộc triều Nguyễn. Ấy vậy mà ngay bờ sông, tiếng hò
khoan lao động không ngớt vang lên, rộn ràng cả một vùng sông nước. Khung cảnh sinh
hoạt của người dân đầy náo nhiệt, khẩn trương, hối hả nhưng không kém phần vất vả, khó khăn.
Đối lập với hình ảnh lao động cần mẫn của người dân vạn đò thì trên bãi, Cao Bá Quát lại
khắc họa hình ảnh hai con chim đứng co chân ngủ : “Lưỡng cá sa cầm khuất túc miên”.
Bên cạnh không khí nhộn nhịp của bến bãi, đôi chim bói cá vẫn thản nhiên say sưa co một
chân đứng ngủ. Đôi chim không bị xao động bởi âm thanh ồn ào của bến bãi, cũng không
chứng kiến cảnh tượng lao động hăng say đầy khổ cực của người dân mà chỉ biết nhắm
mắt, im lìm chìm vào mộng đẹp. Đến đây nhà thơ đã dùng thủ pháp tả cảnh ngụ tình, suy
rộng ra có lẽ đó là tâm trạng bất lực trước thời cuộc của nhà thơ, ông chỉ biết nhắm mắt
làm ngơ, lặng thinh để khỏi thấy cảnh đời trước mắt. Đặc biệt ở đây Cao Bá Quát sử dụng
từ “lưỡng” tức là đôi. Đôi chim cùng nhau đứng bên trên bãi càng tô đậm nỗi cô đơn của
chủ thể trữ tình, nỗi cô đơn của nhà thơ trước cuộc đời. Đây là nỗi buồn thường được bắt
gặp trong văn học trung đại: nỗi cô đơn gắn với tâm sự ưu thời.
- Hai câu luận: Hai câu năm và sáu bật ra nỗi lòng suy tư, âu sầu của thi nhân trước cuộc đời
“Trần lộ du du song quyện nhãn,/ Đường trần dằng dặc mòn hai mắt lOMoAR cPSD| 61432759
Viễn tình hạo hạo nhất quy tiên./ Roi ngựa mang mang ruổi một tình”
Đến những dòng thơ luận, Cao Bá Quát đã thẳng thắn nói lên nỗi sầu về cuộc đời mình sau
bao cay đắng, nhọc nhằn, buồn bã, thất vọng bởi sinh không đúng thời. “Trần lộ du du –
đường trần dài dằng dặc” như một lời than thở đầy ngao ngán của thi nhân sau chặng đường
đời đầy biến cố, trắc trở liên tiếp mà ông đã đi qua. Đó phải chăng còn là nỗi lòng đau đáu
của nhà thơ về một con đường, một phương hướng, một cái đích để hướng tới. Chính vì
cuộc đời đầy truân chuyên, “vấp ngã” liên tiếp, ông đã chứng kiến, nhìn thấu thực tế xã
hội. Ông thông cảm sâu sắc đời, rất nhiều những kiếp người bất hạnh hiện lên trong sáng
tác của Cao Bá Quát, có lẽ vì chứng kiến cảnh trái tai gai mắt nên “song quyện nhã” – đôi
mắt của ông mới thấy mỏi, thấy mòn.
Dọc theo bờ sông Hương, chứng kiến đời sống nhân dân vạn đò còn khổ cực, khó khăn
trong khi triều đình nhà Nguyễn vẫn bảo thủ với nhiều thể chế hà khắc khiến ông chỉ muốn
quay về: “viên tình hạo hạo nhất quy tiên” tức là “tình xa man mác, một roi đánh ngựa trở
về”. Hai câu thơ luận được viết trong thể chỉnh đối: “Trần lộ du du” đối với “Viễn tình hạo
hạo”, đường trần dằng dặc đối với tình xa man mác; “song quyệt nhãn” hai mắt đã mòn
đối với “nhất quy tiên” một roi ngựa về. Mắt đã mòn nhưng không phải không nhìn đời
nữa, mà là nhìn thâm thúy hơn, nhân văn hơn. Một mình một ngựa đi về phải chăng là tâm
trạng ngao ngán, đã thấm mệt trước con đường dài dằng dặc. Chữ “nhất” xuất hiện càng tô
đậm tâm trạng lẻ loi, cô đơn của thi sĩ. Phải chăng đây là tâm sự u uất bốc lên ngùn ngụt
về thời đại mà ông sống. Ông thấu hiểu thời đại của mình nhưng bất lực, không thể vượt qua.
- Hai câu kết: khép lại bài thơ đã thể hiện tâm thế chán chường, buông xuôi của thi sĩ khi
nhận ra sự cám dỗ, giả dối, hiểm nguy của con đường công danh.
“Kiều đầu xa mã phi ngô sự,/ Qua cầu xe cộ ta đâu nghĩ
Phả ái nam phong giác chẩm biền/ Gió Nam sừng gối thảnh thơi nằm”
Thơ Cao Bá Quát ẩn chứa sự bất bình, phản kháng trước thời đại, được thể hiện thông qua
điển tích: “kiều đầu”. Chữ “đầu” có thể là chữ “đề” viết sai ra, vì hai chữ này viết dạng gần lOMoAR cPSD| 61432759
giống nhau. Có lẽ Cao Bá Quát dùng tích Tư Mã Tương Như đời Hán, khi còn trẻ qua cầu
Thăng Tiên đề vào cột rằng “Bất thừa cao xa tứ mã, bất quá thử kiều” (Không ngồi xe cao
bốn ngựa thì không qua lại cầu này). Mộng công danh luôn là điều nhà Nho đau đáu, xuất
phát điểm ông cũng khát khao được phụng sự triều đình, chính Cao Bá Quát cũng biết con
đường “công danh nhất lộ” vất vả như thế nào nhưng vẫn quyết chí xông pha. Trước khi ra
làm quan, Cao Bá Quát vẫn còn hào hứng với cái “danh” nhưng trải qua thời gian, khi
chứng kiến đủ mọi biến cố thăng trầm của cuộc đời, nhà thơ nhận ra cái danh đó vô thực,
hão huyền. Chính vì vậy khi sử dụng điển tích cổ, ông khẳng định “phi ngô sự” - không
nghĩ đến. Thi nhân sau nhiều lần thể nghiệm, vấp váp, ông đã thấm thía cuộc đời mình,
một mực phủ nhận “chí công danh”: “Dư sinh cơ bản chỉ vi danh” - Đời ta gặp nạn chỉ vì danh.
Chính vì vậy mà Cao Bá Quát – một thi sĩ có cái tôi ngông đầy tự tin cũng từng có suy nghĩ
lựa chọn lối sống nhàn của một kẻ bất đắc chí. Ông viết: “Phả ái nam phong giác chẩm
biền” có nghĩa là chỉ thích trước luồng gió nam – một loại gió mùa mát mẻ, thảnh thơi nằm
gối lên chiếc gối sừng. Một nhà Nho luôn đau đáu với khát vọng cống hiến, phụng sự cho
đất nước, có chữ “danh” gắn liền với tài văn chương chữ nghĩa, một người với chí hướng
rất lớn, rất phi thường cũng có lúc muốn lặng thinh giữa đời, nằm trên chiếc gối êm ái để
tận hưởng, khỏi nghĩ suy. Đặc biệt giác chẩm là gối bằng sừng, bọc ngoài bằng nhiễu hay
bằng lụa quý. Gối này là một loại gối quý hiếm, tương truyền rằng, khi mà được ngã đầu
trên gối này thì giâc ngủ đến rất dễ dàng, ngủ thẳng giấc mà không hề mộng mị. Vậy phải
chăng ước mong của nhà thơ Cao Bá Quát hiện tại là có thể nhắm mắt ngủ một giấc thật
thư giãn, khoan khoái giữa những cơn gió nồm để không còn đau đáu nỗi thất vọng về mộng công danh?
b) Thơ Đường luật Nôm
Phân tích đặc trưng thể loại thơ Đường luật Nôm qua “Bảo kính cảnh giới” bài 7 - Nguyễn Trãi lOMoAR cPSD| 61432759
Bài thơ đã thể hiện những nét đặc trưng của thơ Nôm Đường luật với kết cấu, luật bằng
trắc, niêm, luật hết sức chặt chẽ và tuân thủ theo luật của Đường thi. Đồng thời bài thơ thể
hiện sự sáng tạo của Nguyễn Trãi trong việc “cố gắng xây dựng một lỗi thơ Việt Nam”.
Về kết cấu, bài thơ được viết theo kết cấu với 4 liên thơ 2/ 2/ 2/ 2: Đề - thực – luận – kết.
Kết hợp với luật bằng trắc hết sức nghiêm ngặt của thơ Đường luật: luật trắc (căn cứ vào
chữ thứ hai của bài thơ). Các chữ thứ 2 4 6 trên một dòng thơ đều rất tuân thủ theo quy
định của thơ Đường luật như sau:
Cắp nắp làm chi hỡi thế gian, T B T
Có thì ăn mặc chớ lo toan. B T B
Đông hiềm giá lạnh chằm mền kép, B T B
Hạ lệ mồ hôi kết áo đơn. T B T
Nằm có chiếu chăn, cho ấm áp, T B T
Ăn thì canh cá, chớ khô khan. B T B
Phúc dầu hay đến trăm tuổi, B T T
Mình thác thì nên mọi của tan. T B T lOMoAR cPSD| 61432759
Tuy nhiên, ta có thể thấy, dòng thơ thứ 7 của bài thơ không tuân theo luật của thơ thất ngôn
bát cú. Đây là sự phá cách của Nguyễn Trãi trong việc cố gắng sáng tạo một thể thơ dân
tộc. Ông xen lẫn câu lục ngôn và sự phá vỡ luật bằng trắc vào thể thất ngôn bát cú. Sự sáng
tạo ấy đã tạo nên phong cách thời đại của thơ Nôm Đường luật, trở thành cái
“mã” của thể loại. Việc gieo vần cũng được Nguyễn Trãi tuân thủ đúng với luật của
Đường thi nhưng ông cũng thêm vào đó sự sáng tạo của riêng mình. Ta có thể thấy, Nguyễn
Trãi gieo vần chân “an” ở các câu 1, 2, 6, 8. Riêng câu 4 là vần “ơn” chỉ giống với vần
“an” phụ âm cuối. Đây có thể là sự sáng tạo của Nguyễn Trãi để thỏa mãn luật đối trong
thơ “đơn” – “kép”. Bên cạnh đó luật niêm cũng được Nguyễn Trãi hết sức tuân thủ: chữ
thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng
niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Cụ thể: Câu 1 niêm với câu 8 theo luật trắc; câu 2 niêm
với câu 3 theo luật bằng; câu 4 niêm với câu 5 theo luật trắc; câu 6 niêm với câu 7 theo luật
bằng. Về phép đối, Nuyễn Trãi tuân thủ nghiêm ngặt luật đối trong thơ Đường thi: câu 3
đối với câu 4; câu 5 đối với câu 6.
Có thể thấy, về mặt kết cấu, bài thơ tuân thủ nghiêm theo luật của thơ Đường thi. Tuy nhiên,
Nguyễn Trãi thể hiện sự sáng tạo phá cách của mình trong khi áp dụng luật thơ sẵn có của
Trung Hoa. Từ đó đã tạo nên được một lối thơ mới, lối thơ rất dân tộc, rất Việt Nam.
Về ngôn ngữ, Nguyễn Trãi luôn giữ nguyên vẻ đẹp thô sơ, mộc mạc của từ Việt. Nhờ đó
mà tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học mang tính nghệ thuật thẩm mĩ cao. Trong bài
Bảo kính cảnh giới số 7, Nguyễn Trãi đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp mộc mạc, giản dị nhưng vô
cùng tinh tế của tiếng Việt. Mở đầu bài thơ là hai câu đề, khái quát toàn bộ tư tưởng của
bài thơ “Cắp nắp làm chi hỡi thế gian/ Có thì ăn mặc chớ lo toan”. “Cắp nắp” nghĩa là giữ
gìn, chắt chiu, tiết kiệm từng chút một. Vậy câu thơ đầu như một lời kêu gọi của Nguyễn
Trãi với mọi người. Đừng sống mà chỉ biết giữ gìn, chắt chiu, tích góp của cải. Nếu có của
thì hãy “ăn mặc chớ lo toan”. Điều quan trọng trên cuộc đời này là bản thân mình chứ
không phải là của cải vật chất. Kế tiếp hai câu đề là hai câu thực với mục đích làm rõ ý
nghĩa cho tư tưởng mà hai câu trên đã nêu ra: “Đông hiềm giá lạnh chằm màn kép / Hạ lệ
mồ hôi kết áo đơn”. “Hiềm” là từ cổ, nghĩa là tránh; “hiềm giá lạnh” tức tránh giá lạnh. lOMoAR cPSD| 61432759
“Chằm” là từ Việt cổ nghĩa là may nhiều lớp. “Chằm màn kép” tức may thêm nhiều lớp
màn nữa. Vào mùa đông, để tránh giá lạnh thì phải may thêm nhiều lớp áo lớp màn. Còn
mùa hạ, khi “lệ mồ hôi” thì cần phải “kết áo đơn”, mặc áo mỏng cho phù hợp với thời tiết.
Câu thơ mang ý nghĩa nhắc nhở con người ta phải biết sử dụng vật chất để phục vụ cho
cuộc sống của mình. Không được hà tiện với bản thân mà phải biết dùng của cải đang có
để chăm lo cho cuộc sống. Đọc hai câu thực, ta nhớ đến câu tục ngữ mà ông cha ta đã răn
dạy “Liệu cơm gắp mắm”. Tùy vào hoàn cảnh mà ta phải biết sử dụng tài sản của bản thân
cho hợp lí. Không được hà tiện với bản thân và đồng thời cũng không được phung phí tiền
tài. “Nằm có chiếu chăn cho ấm áp/ Ăn thì canh cá chớ khô khan”. Hai câu luận được tác
giả sử dụng rất nhiều những từ ngữ mộc mạc giản dị như ăn, nằm, chiếu chăn, canh cá, ấm
áp, khô khan. Tuy mộc mạc vậy thôi những với sự kết hợp tài tình đã tạo nên hai câu văn
mang ý nghĩa sâu sắc. Với Nguyễn Trãi, dù cuộc sống không phải là giàu sang phú quý
nhưng chúng ta luôn phải đối đãi tốt nhất đối với chính bản thân mình. Dù là khi nằm nghỉ
ngơi, khi ăn uống thì ta cũng phải nằm cho ấm, ăn cho ngon. “Phúc dầu hay đến trăm tuổi/
Mình thác thì nên mọi của tan”. Hai câu kết đã tóm gọn lại tư tưởng của cả bài thơ: của cải
vật chất chỉ là phù du, đến cuối cùng khi con người đã đi vào cõi vĩnh hằng thì của cải vật
chất cũng sẽ tan biến. Dẫu cho con người có sống đến trăm tuổi thì cuối cùng con người
cũng phải trở về với cát bụi. Mọi của cải vật chất sẽ chẳng còn nghĩa lí gì nữa. Ở đây,
Nguyễn Trãi muốn đề cao cuộc sống con người lên trên giá trị vật chất. Tiền bạc vật chật
chỉ là công cụ phục vụ cho cuộc sống của chúng ta. Cuộc sống ấm no, tươi vui, hạnh phúc
của mỗi chúng ta là quan trọng nhất. Bài thơ Bảo kính cảnh giới bài 7 với sự tài tình của
Nguyễn Trãi trong việc sử dụng luật thơ Đường thi kết hợp với sự sáng tạo trong cố gắng
phát triển một thể thơ mới của dân tộc đã truyền tải một tư tưởng lớn của thời đại đến với
bạn đọc: coi trọng cuộc sống hơn vật chất. Với tầm nhìn xa trông rộng của Nguyễn Trãi,
tư tưởng ấy đến ngày nay vẫn còn có giá trị vô cùng to lớn. 2. Ngâm khúc
2.1. Khái niệm Ngâm khúc lOMoAR cPSD| 61432759
Ngâm khúc còn được gọi là ngâm là khúc ngâm song thất lục bát là một thể loại trữ tình
dài hơi, phản ánh tâm trạng buồn đau triền miên dai dẳng của con người có ý thức về quyền
sống quyền hạnh phúc cá nhân thường viết bằng thể thơ song thất lục bát và ngôn ngữ dân
tộc. (chữ Nôm, chữ quốc ngữ).
2.2. Đặc điểm thể thơ song thất lục bát (STLB), kể tên 04 khúc ngâm STLB. - Khổ thơ
song thất lục bát gồm 28 tiếng, chia làm 4 dòng với số âm tiế 7 - 7 - 6 - 8, dòng thơ có số
tiếng lẻ cả số tiếng chẵn.
- Một khổ thơ có 7 vần, bao gồm 3 vần lưng và 4 vần chân, cả vần bằng lẫn vần trắc,
vầnliên kết giữa các câu thơ trong khổ, giữa hai khổ liền kề.
- Nhịp: hai câu thất thường ngắt nhịp chẵn ¾, câu lục bát: nhịp thông thường trong thểlục bát hoàn chỉnh.
- Phối thanh: tiếng thứ 3,5,7 ở hai dòng thất, các tiếng thứ 2,4,6,8 ở hai dòng lục bát
đượcquy định chặt chẽ về mặt thanh điệu các tiếng còn lại tự do.
- Ưu thế của song thất lục bát với việc trữ tình/kể lể tâm sự
- STLB phong phú về số âm tiết trong một dòng, đa dạng về vần,nhịp só với các thể
loạikhác. Có khả năng biểu hiện tốt những biến thái tinh vi trong đời sống tâm tư, tình
cảm, cảm xúc đặc việt là dòng tâm trạng ít có sự thay đổi.
- Sự kết hợp giữa câu thất và cặp câu lục bát tạo ra quy luật phối điệu đặc biệt hai dòngthất
là những lớp sóng cuộn lên hai dòng lục bát là những đợt sóng đang tan ra phù hợp để
diễn tả tâm trạng day dứt, dồn nén.
- STLB với chu kì 4 dòng, các khổ thơ có cấu trúc giống nhau tạo ta vảm giác về sự lặplại,
khiến tốc độ luân chuyển các câu thơ chậm vừa biểu đạt trạng thái triền miên ngưng đọng
của nỗi sầu não, vừa phù hợp để kể lể để tự tình.