Phật giáo và Thiền Phái Trúc Lâm | Tài liệu môn Cơ sở văn hóa Việt Nam Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Cũng như các triều đại phong kiến trong lịch sử, đối với Nhà Trần, trong buổi đầu mới thành lập, việc xây dựng một nền văn hóa trong đó có tôn giáo mang bản sắc riêng, thoát khỏi sự lệ thuộc về ý thức hệ với nước ngoài, làm công cụ thống nhất quyền lực và duy trì trật tự xã hội đã đặt ra vô cùng cấp bách. Với mục đích đó, về  mặt tôn giáo, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
3 trang 1 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phật giáo và Thiền Phái Trúc Lâm | Tài liệu môn Cơ sở văn hóa Việt Nam Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Cũng như các triều đại phong kiến trong lịch sử, đối với Nhà Trần, trong buổi đầu mới thành lập, việc xây dựng một nền văn hóa trong đó có tôn giáo mang bản sắc riêng, thoát khỏi sự lệ thuộc về ý thức hệ với nước ngoài, làm công cụ thống nhất quyền lực và duy trì trật tự xã hội đã đặt ra vô cùng cấp bách. Với mục đích đó, về  mặt tôn giáo, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

83 42 lượt tải Tải xuống
*Phật giáo và Thiền Phái Trúc Lâm
+ Nét đặc trưng của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử
Cũng như các triều đại phong kiến trong lịch sử, đối với Nhà Trần, trong buổi đầu
mới thành lập, việc xây dựng một nền văn hóa trong đó tôn giáo mang bản sắc
riêng, thoát khỏi sự lệ thuộc về ý thức hệ với nước ngoài, làm công cụ thống nhất
quyền lực duy trì trật tự hội đã đặt ra cùng cấp bách. Với mục đích đó, về
mặt tôn giáo, nhà Trần đã lựa chọn Thiền tông làm ý thức hệ tiêu biểu, nhưng thay đổi
nội dung của các Thiền phái trước đây để đáp ứng các yêu cầu của đất nước. Khác với
các thiền phái khác, Trúc Lâm Yên Tử của Đại Việt mang đậm tinh thần nhập thế,
muốn tìm con đường giác ngộ không phải từ bỏ thế gian này mới giác ngộ được. Với
tinh thần đạo pháp thì người con Phật càng phải dấn thân vào cuộc sống, vui với niềm
vui của đất nước, đau với nỗi đau của dân tộc, nhưng khi thanh bình thì vẫn trở về với
cuộc sống tu hành thoát tục.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã mang đầy đủ những đặc điểm ấy. Bằng sự chứng ngộ
Thiền sâu xa, Trần Nhân Tông đã lấy tôn chỉ: “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt
truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” làm chủ đạo, kết hợp giảng kinh
thuyết pháp, giúp cho người học Phật hiểu sâu kinh điển, chuyển lời kinh chết trong
sách thành những bài kinh sống nơi con người. Thực tế, thời gian Ngài xuất gia đến
khi viên tịch không dài, nhưng trong những năm đó, ngài đã lấy tinh thần Phật giáo
nhập thế, “từ bi hỉ xả” cứu độ chúng sinh bằng cách phát triển đạo pháp, dân tộc cùng
hoà hợp, từ vua Trần Thái Tông đến các vua Thánh Tông…tạo nên mạch truyền
thống sự phát triển bền vững của đạo Phật thời Trần, tính gắn kết mật thiết giữa
dân tộc tôn giáo, giữa chính quyền thần quyền, tạo nền tảng bền vững cho sự
phát triển xã hội.
Thiền phái Trúc Lâm còn thể hiện sự đậm đà bản sắc dân tộc ở chỗ, sau khi đánh đuổi
quân xâm lược, đất nước thái bình thì các Thiền trở về với việc tu hànhnghiên
cứu để đưa hiểu biết của mình đến với người dân. Đây tinh thần nhập thế các
thiền phái trước chưa thực hiện được, chính tinh thần này đã tạo nên sức mạnh của
dân tộc Việt đã đưa Phật giáo phát triển đạt tới đỉnh cao trong lịch sử Việt Nam.
Thiền phái Trúc Lâm đã kết hợp khéo léo giữa lý tưởng Quốc gia và Phật đạo, vốn là
khía cạnh của lý tưởng tôn giáo đại đồng. tưởng Tam giáo đồng qui thực sự cũng
được hỗ trợ bởi một tưởng tôn giáo như thế. Trần Nhân Tông đã chủ trương đưa
thiền phái tích cực dấn thân vào xã hội, xây dựng đất nước hưng vượng bằng từ bi, trí
tuệ và đạo đức của Phật giáo. Ông kết hợp giữa triết học siêu nhiên của Phật giáo với
nhân sinh quan của Nho giáotrụ quan của Lão giáo; lấy lợi ích dân tộc, lợi ích
quốc gia lợi ích chúng sinh là yếu tố bản trong quá trình tu tập của mỗi người.
Sáng được tâmđạt yếu chỉ thiền, vậy người tu thiền cốt phải sáng được tâm của
chính mình. Chính thái độ sống rất trí tuệ Phật giáo của Trần Nhân Tông vừa giải
quyết vấn đề giải thoát của con người vừa giải quyết các vấn đề của quốc gia, xã hội.
Như vậy, tông chỉ Thiền tông rất thực tế và gần gũi với con người, lấy “Chỉ thẳng tâm
người, thấy tánh thành Phật”, nhằm đánh thức mỗi người tự sống vươn lên. Phật tức
tâm, ai tâm đều Phật, không phân biệt nam nữ, trẻ già, người trong đạo hay
ngoài đạo, là chânbình đẳng với tất cả. Thành Phật thành ngay trong tâm mình,
không phải thành ở trên núi cao, trên cõi trời xa xôi. Đó là lấy con người làm gốc,
tôn trọng người, nâng cao giá trị con người, nâng cao sức mạnh của dân tộc.
Đặc biệt, điều dễ nhận thấy là, chữ “Tâm” luôn thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ các
tác phẩm cũng như trong hành đạo của Ngài Nhân Tông. Chúng ta thấy hệ thống
truyền thừa của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được tiếp nối qua hai mươi ba vị thiền
sư. Tuy nhiên danh sách chỉ phần biểu hiện bên ngoài, chính “tâm Thiền” mới
mạch sống thật. Dù ẩn, dù hiện, thăng hay trầm, hễ có người tỏ sáng được tâm Thiền,
tiếp nối được mạch sống Tổ Tông. Đây chính là điểm cốt lõi tạo nên truyền thống
Trúc Lâm Nhân Tông đệ nhất tổ trong lịch s Thiền phái nói riêng Phật giáo
Việt Nam nói chung. Nhân Tông đã hiểu rõ “sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” thì mọi
sự được viên thông. Khi đó Phật là Nhân Tông, Tính là Nhân Tông, Tâm pháp cũng là
Nhân Tông. Chữ Tâm trong tư tưởng Phật giáo Trần Nhân Tông là xuyên suốt để nhìn
thấy ánh sáng giác ngộ, Nhân Tông đã nói: “Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm. Đạt
một lòng thì thông tổ giáo”. Ngài Trần Nhân Tông cũng thể hiện rất tôn chỉ của
mình trong bốn câu kệ cuối của bài phú “Cư trần lạc đạo”:
“ Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn no mệt ngũ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền ”
nghĩa là, người tu hành tùy duyên nhập thế để làm lợi ích cho đời, nhiều người
chưa biết Phật pháp, chưa biết trong nhà của mình có báu vật mà khai thác.
thể nói, Ngài Nhân Tông, từ ngôi vị Hoàng đế đến ngôi vị Phật hoàng, từ vương
quyền đến thần quyền…trên phương diện nào thì con người Nhân Tông vẫn hiển hiện
với tưởng, tình cảm của người con Việt, lấy vận mệnh đạo pháp dân tộc hoà
chung trong một bản trường ca Phật giáo Nhập thế. Phật giáo giáo giác ngộ
chân thật, đó một lẽ thật bình đẳng không phân chia ranh giới Việt Nam hay Nhật
Bản, Ấn Độ....vì "tất cả chúng sinh đều Phật tánh". Tuy nhiên, Thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử chúng ta thấy nổi bật những nét đặc trưng của tôn giáo mang đậm đà bản
sắc của nền văn hoá dân tộc Việt Nam, không bị phụ thuộc, lai căng từ bên ngoài.
+ Tư tưởng chủ đạo
tưởng của Trúc Lâm hành đạo giúp đời, đưa đạo đến đời, mọi giáo pháp đều
xuất phát từ khuynh hướng “nhập thế”. Do vậy, thực tại cuộc sốngmột yếu tố cấu
thành giáo pháp, dẫn đến việc hoằng dương Phật pháp trước tiên phải tôn trọng thực
tế cuộc sống với đặc điểm dân tộc, làm cho dân tộc trường tồn.Về phương diện lịch sử
tư tưởng, Thiền phái Trúc Lâm tầm quan trọng đặc biệt đến sự phát triển tưởng
dân tộc Việt. Trên nền tảng tưởng của những Thiền phái Phật giáo đã từ trước
như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Ngôn Thông Thảo Đường, tiếp thu các Thiền phái
Trung Hoa, đặc biệt là Lâm Tế (với biện pháp hành thiền quyết liệt), Thiền phái Trúc
Lâm đã tổng hoà những tưởng đó, nâng cao về phương diện bác học, đưa Thiền
học vào cuộc sống bằng cách coi trọng yếu tố thực tiễn Việt Nam.
Với Trần Nhân Tông sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Phật giáo Việt
Nam thể hiện tính nhập thế tích cực. Tinh thần này được thể hiện qua lời nói, qua
hành động của Điều Ngự Giác Hoàng, một trong tam tổ sáng lập phái thiền Trúc Lâm
Yên Tử, mà cũng đồng thời là vị vua cai trị muôn dân.
Trúc Lâm Yên Tử đã tích hợp từ những yếu tố của Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung
Hoa, rồi sau đó vận dụng vào bối cảnh của Việt Nam. tưởng nhập thế, dung hợp
Đại thừa-Tiểu thừa, dung hợp Nho-Phật-Đạo, thể hiện Thiền-Tịnh-Mật trong giáo
Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử đã cho thấy tính sáng tạo, tích hợp các luồng văn hóa
Phật giáo từ nhiều nơi và nhiều vùng văn hóa khác nhau.
| 1/3

Preview text:

*Phật giáo và Thiền Phái Trúc Lâm
+ Nét đặc trưng của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử
Cũng như các triều đại phong kiến trong lịch sử, đối với Nhà Trần, trong buổi đầu
mới thành lập, việc xây dựng một nền văn hóa trong đó có tôn giáo mang bản sắc
riêng, thoát khỏi sự lệ thuộc về ý thức hệ với nước ngoài, làm công cụ thống nhất
quyền lực và duy trì trật tự xã hội đã đặt ra vô cùng cấp bách. Với mục đích đó, về
mặt tôn giáo, nhà Trần đã lựa chọn Thiền tông làm ý thức hệ tiêu biểu, nhưng thay đổi
nội dung của các Thiền phái trước đây để đáp ứng các yêu cầu của đất nước. Khác với
các thiền phái khác, Trúc Lâm Yên Tử của Đại Việt mang đậm tinh thần nhập thế,
muốn tìm con đường giác ngộ không phải từ bỏ thế gian này mới giác ngộ được. Với
tinh thần đạo pháp thì người con Phật càng phải dấn thân vào cuộc sống, vui với niềm
vui của đất nước, đau với nỗi đau của dân tộc, nhưng khi thanh bình thì vẫn trở về với
cuộc sống tu hành thoát tục.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã mang đầy đủ những đặc điểm ấy. Bằng sự chứng ngộ
Thiền lý sâu xa, Trần Nhân Tông đã lấy tôn chỉ: “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt
truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” làm chủ đạo, kết hợp giảng kinh
thuyết pháp, giúp cho người học Phật hiểu sâu kinh điển, chuyển lời kinh chết trong
sách thành những bài kinh sống nơi con người. Thực tế, thời gian Ngài xuất gia đến
khi viên tịch không dài, nhưng trong những năm đó, ngài đã lấy tinh thần Phật giáo
nhập thế, “từ bi hỉ xả” cứu độ chúng sinh bằng cách phát triển đạo pháp, dân tộc cùng
hoà hợp, từ vua Trần Thái Tông đến các vua Thánh Tông…tạo nên mạch truyền
thống và sự phát triển bền vững của đạo Phật thời Trần, tính gắn kết mật thiết giữa
dân tộc và tôn giáo, giữa chính quyền và thần quyền, tạo nền tảng bền vững cho sự phát triển xã hội.
Thiền phái Trúc Lâm còn thể hiện sự đậm đà bản sắc dân tộc ở chỗ, sau khi đánh đuổi
quân xâm lược, đất nước thái bình thì các Thiền sư trở về với việc tu hành và nghiên
cứu để đưa hiểu biết của mình đến với người dân. Đây là tinh thần nhập thế mà các
thiền phái trước chưa thực hiện được, chính tinh thần này đã tạo nên sức mạnh của
dân tộc Việt và đã đưa Phật giáo phát triển đạt tới đỉnh cao trong lịch sử Việt Nam.
Thiền phái Trúc Lâm đã kết hợp khéo léo giữa lý tưởng Quốc gia và Phật đạo, vốn là
khía cạnh của lý tưởng tôn giáo đại đồng. Tư tưởng Tam giáo đồng qui thực sự cũng
được hỗ trợ bởi một lý tưởng tôn giáo như thế. Trần Nhân Tông đã chủ trương đưa
thiền phái tích cực dấn thân vào xã hội, xây dựng đất nước hưng vượng bằng từ bi, trí
tuệ và đạo đức của Phật giáo. Ông kết hợp giữa triết học siêu nhiên của Phật giáo với
nhân sinh quan của Nho giáo và vũ trụ quan của Lão giáo; lấy lợi ích dân tộc, lợi ích
quốc gia và lợi ích chúng sinh là yếu tố cơ bản trong quá trình tu tập của mỗi người.
Sáng được tâm là đạt yếu chỉ thiền, vì vậy người tu thiền cốt phải sáng được tâm của
chính mình. Chính thái độ sống rất trí tuệ Phật giáo của Trần Nhân Tông vừa giải
quyết vấn đề giải thoát của con người vừa giải quyết các vấn đề của quốc gia, xã hội.
Như vậy, tông chỉ Thiền tông rất thực tế và gần gũi với con người, lấy “Chỉ thẳng tâm
người, thấy tánh thành Phật”, nhằm đánh thức mỗi người tự sống vươn lên. Phật tức
tâm, ai có tâm đều có Phật, không phân biệt nam nữ, trẻ già, người trong đạo hay
ngoài đạo, là chân lý bình đẳng với tất cả. Thành Phật là thành ngay trong tâm mình,
không phải thành ở trên núi cao, trên cõi trời xa xôi. Đó là lấy con người làm gốc, là
tôn trọng người, nâng cao giá trị con người, nâng cao sức mạnh của dân tộc.
Đặc biệt, điều dễ nhận thấy là, chữ “Tâm” luôn thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ các
tác phẩm cũng như trong hành đạo của Ngài Nhân Tông. Chúng ta thấy hệ thống
truyền thừa của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được tiếp nối qua hai mươi ba vị thiền
sư. Tuy nhiên danh sách chỉ là phần biểu hiện bên ngoài, chính “tâm Thiền” mới là
mạch sống thật. Dù ẩn, dù hiện, thăng hay trầm, hễ có người tỏ sáng được tâm Thiền,
là tiếp nối được mạch sống Tổ Tông. Đây chính là điểm cốt lõi tạo nên truyền thống
Trúc Lâm và Nhân Tông đệ nhất tổ trong lịch sử Thiền phái nói riêng và Phật giáo
Việt Nam nói chung. Nhân Tông đã hiểu rõ “sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” thì mọi
sự được viên thông. Khi đó Phật là Nhân Tông, Tính là Nhân Tông, Tâm pháp cũng là
Nhân Tông. Chữ Tâm trong tư tưởng Phật giáo Trần Nhân Tông là xuyên suốt để nhìn
thấy ánh sáng giác ngộ, Nhân Tông đã nói: “Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm. Đạt
một lòng thì thông tổ giáo”. Ngài Trần Nhân Tông cũng thể hiện rất rõ tôn chỉ của
mình trong bốn câu kệ cuối của bài phú “Cư trần lạc đạo”:
“ Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn no mệt ngũ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền ”
Có nghĩa là, người tu hành tùy duyên nhập thế để làm lợi ích cho đời, nhiều người
chưa biết Phật pháp, chưa biết trong nhà của mình có báu vật mà khai thác.
Có thể nói, Ngài Nhân Tông, từ ngôi vị Hoàng đế đến ngôi vị Phật hoàng, từ vương
quyền đến thần quyền…trên phương diện nào thì con người Nhân Tông vẫn hiển hiện
với tư tưởng, tình cảm của người con Việt, lấy vận mệnh đạo pháp và dân tộc hoà
chung trong một bản trường ca là Phật giáo Nhập thế. Phật giáo là giáo lý giác ngộ
chân thật, đó là một lẽ thật bình đẳng không phân chia ranh giới Việt Nam hay Nhật
Bản, Ấn Độ....vì "tất cả chúng sinh đều có Phật tánh". Tuy nhiên, ở Thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử chúng ta thấy nổi bật những nét đặc trưng của tôn giáo mang đậm đà bản
sắc của nền văn hoá dân tộc Việt Nam, không bị phụ thuộc, lai căng từ bên ngoài. + Tư tưởng chủ đạo
Tư tưởng của Trúc Lâm là hành đạo giúp đời, đưa đạo đến đời, mọi giáo pháp đều
xuất phát từ khuynh hướng “nhập thế”. Do vậy, thực tại cuộc sống là một yếu tố cấu
thành giáo pháp, dẫn đến việc hoằng dương Phật pháp trước tiên phải tôn trọng thực
tế cuộc sống với đặc điểm dân tộc, làm cho dân tộc trường tồn.Về phương diện lịch sử
tư tưởng, Thiền phái Trúc Lâm có tầm quan trọng đặc biệt đến sự phát triển tư tưởng
dân tộc Việt. Trên nền tảng tư tưởng của những Thiền phái Phật giáo đã có từ trước
như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường, có tiếp thu các Thiền phái
Trung Hoa, đặc biệt là Lâm Tế (với biện pháp hành thiền quyết liệt), Thiền phái Trúc
Lâm đã tổng hoà những tư tưởng đó, nâng cao về phương diện bác học, đưa Thiền
học vào cuộc sống bằng cách coi trọng yếu tố thực tiễn Việt Nam.
Với Trần Nhân Tông và sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Phật giáo Việt
Nam thể hiện tính nhập thế tích cực. Tinh thần này được thể hiện qua lời nói, qua
hành động của Điều Ngự Giác Hoàng, một trong tam tổ sáng lập phái thiền Trúc Lâm
Yên Tử, mà cũng đồng thời là vị vua cai trị muôn dân.
Trúc Lâm Yên Tử đã tích hợp từ những yếu tố của Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung
Hoa, rồi sau đó vận dụng vào bối cảnh của Việt Nam. Tư tưởng nhập thế, dung hợp
Đại thừa-Tiểu thừa, dung hợp Nho-Phật-Đạo, thể hiện Thiền-Tịnh-Mật trong giáo lý
Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử đã cho thấy tính sáng tạo, tích hợp các luồng văn hóa
Phật giáo từ nhiều nơi và nhiều vùng văn hóa khác nhau.