Quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật báo chí ở Việt Nam từ sắc lệnh đầu tiên 1946 đến nay | Bài tập kết thúc môn Pháp luật và đạo đức báo chí truyền thông

Báo chí đóng vai trò vô cùng to lớn trong đời sống xã hội, không chỉ là kênh thông  tin quan trọng nhất mà còn là công cụ giám sát, phản biện xã hội, thúc đẩy sự minh  bạch và công bằng. Từ khi đất nước ta giành được độc lập năm 1945, ngành báo  chí nước nhà đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và biến đổi và đồng thời phản  ánh sự thay đổi trong cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội của Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
40 trang 1 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật báo chí ở Việt Nam từ sắc lệnh đầu tiên 1946 đến nay | Bài tập kết thúc môn Pháp luật và đạo đức báo chí truyền thông

Báo chí đóng vai trò vô cùng to lớn trong đời sống xã hội, không chỉ là kênh thông  tin quan trọng nhất mà còn là công cụ giám sát, phản biện xã hội, thúc đẩy sự minh  bạch và công bằng. Từ khi đất nước ta giành được độc lập năm 1945, ngành báo  chí nước nhà đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và biến đổi và đồng thời phản  ánh sự thay đổi trong cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội của Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

27 14 lượt tải Tải xuống
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ – TRUYỀN THÔNG
----------------------------------
BÀI TẬP KẾT THÚC MÔN
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG
Đề tài: Quá trình hình thành và phát triển của
các quy định pháp luật báo chí ở Việt Nam từ
sắc lệnh đầu tiên 1946 đến nay
Giảng viên: T.S Nguyễn Thùy Vân Anh
Lớp tín chỉ: PT02306_K43_1
Tên các thành viên: Phạm Tuấn Anh
Nguyễn Sỹ Đoàn
Đỗ Thanh Tiến
Ngô Xuân Hiếu Anh
Nguyễn Diễm Quỳnh
Hà Nội, tháng 6 năm 2024
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................... 4
1. Lý do nghiên cứu............................................................................................... 4
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.........................................................................5
CHƯƠNG 1: SẮC LỆNH ĐẦU TIÊN VỀ BÁO CHÍ VÀ SẮC LỆNH SỐ 282-SL NĂM 1956 KÈM
THEO LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ BÁO CHÍ..................................................................................7
1. Sắc lệnh đầu tiên về báo chí..............................................................................7
2. Sắc lệnh số 282-SL năm 1956 kèm theo Luật về chế độ báo chí của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà...............................................................................................9
CHƯƠNG 2: LUẬT BÁO CHÍ 1989 VÀ LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT
BÁO CHÍ 1999............................................................................................................12
1. Luật báo chí 1989............................................................................................12
2. Sự tiến bộ của luật báo chí 1989 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật
báo chí 1999.............................................................................................................. 18
CHƯƠNG 3: LUẬT BÁO CHÍ 2016................................................................................24
1. Những vấn đề đặt ra cho việc xây dựng Luật Báo chí 2016...............................24
2. Nội dung Luật báo chí năm 2016.....................................................................26
3. Những điểm mới của luật báo chí 2016:..........................................................29
4. Hạn chế của Luật báo chí 2016 trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.......33
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 38
Tài liệu tham khảo.....................................................................................................38
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Báo chí đóng vai trò cùng to lớn trong đời sống hội, không chỉ kênh
thông tin quan trọng nhất còn công cụ giám sát, phản biện hội, thúc đẩy
sự minh bạch công bằng. Từ khi đất nước ta giành được độc lập năm 1945,
ngành báo chí nước nhà đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và biến đổi đồng
thời phản ánh sự thay đổi trong cấu chính trị, kinh tế hội của Việt Nam.
Việc nghiên cứu quá trình hình thành phát triển các quy định pháp luật báo chí
Việt Nam từ sắc lệnh đầu tiên năm 1946 đến nay cần thiết để hiểu hơn về
lịch sử báo chí, những thách thức hội ngành báo chí đã đang phải đối
mặt. Đề tài này được lựa chọn bởi nhiều lý do cụ thể.
Thứ nhất, nghiên cứu về quy định pháp luật báo chí giúp làm sáng tỏ quá trình
xây dựng hoàn thiện khung pháp lý. Điều này nhằm điều chỉnh hoạt động báo
chí, đảm bảo quyền tự do báo chí trong khuôn khổ pháp luật, đồng thời bảo vệ
quyền lợi của nhà báo công chúng. Việc phân tích các sắc lệnh, nghị định, luật
báo chí từ năm 1946 đến nay sẽ cung cấp cái nhìn toàn diện về sự phát triển của hệ
thống pháp luật báo chí Việt Nam, từ những bước đi đầu tiên đầy khó khăn cho
đến những cải cách quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tếcách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
Thứ hai, nghiên cứu này không chỉ ý nghĩa thuyết còn mang tính thực
tiễn cao. Việc hiểu các quy định pháp luật báo chí sẽ giúp các nhà báo, quan
báo chí các nhà làm luật cái nhìn sâu sắc hơn về quyền, nghĩa vụ của mình.
Từ đó nâng cao chất lượng thông tin, đảm bảo tính khách quan, trung thực và trách
nhiệm hội của báo chí. Đồng thời, nghiên cứu còn góp phần vào việc định
hướng chính sách, đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật báo
chí, phù hợp với tình hình mới.
Thứ ba, trong bối cảnh hiện nay, khi công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ,
báo chí truyền thống đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ báo mạng, mạng xã
hội và các nền tảng truyền thông số. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về việc xây
dựng và điều chỉnh các quy định pháp luật báo chí sao cho kịp thời và phù hợp với
xu thế phát triển mới. Nghiên cứu về lịch sử tiến trình phát triển của các quy
định pháp luật báo chí sẽ giúp đưa ra những bài học kinh nghiệm quý báu. Từ đó
đề xuất những giải pháp điều chỉnh chính sách phù hợp, thúc đẩy sự phát triển bền
vững của ngành báo chí trong thời đại mới.
Tóm lại, đề tài "Quá trình hình thành phát triển của các quy định pháp luật
báo chí Việt Nam từ sắc lệnh đầu tiên 1946 đến nay" không chỉ mang ý nghĩa
lịch sử luận còn giá trị thực tiễn cao, góp phần vào việc xây dựng một
nền báo chí chuyên nghiệp, minh bạch và đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật báo chí.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
2.2.2. Phạm vi không gian
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trong phạm vi luật báo chí của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa (1945-1975) Cộng hòa hội Chủ nghĩa Việt Nam (từ năm
1975 đến nay)
2.2.2. Phạm vi thời gian
Nghiên cứu được thực hiện trong vòng 3 tháng (tháng 4 năm 2024 đến tháng
6 năm 2024)
2.2.3.Phạm vi nội dung
Trong đề tài nghiên cứu này, ta tập trung vào những nội dung về quá trình
hình thành, phát triển của các quy định và luật báo chí Việt Nam thông qua các sắc
lệnh của Việt Nam từ năm 1946 đến nay.
2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài “Quá trình hình thànhphát triển của các quy định
pháp luật báo chí Việt Nam từ sắc lệnh đầu tiên 1946 đến nay” mang ý nghĩa
quan trọng, giúp hiểu rõ quá trình lịch sử và bối cảnh ra đời của các quy định pháp
luật báo chí Việt Nam từ sắc lệnh đầu tiên năm 1946. Qua đó, chúng ta thể
thấy được những thay đổi cải tiến qua từng giai đoạn lịch sử, phản ánh sự phát
triển của xã hội, kinh tế và chính trị.
Ngoài ra, việc nghiên cứu cho phép chúng ta đánh giá những tiến bộ hạn
chế của các quy định pháp luật qua các thời kỳ. Đây một yếu tố quan trọng để
hiểu hiệu quả tác động của các chính sách pháp luật đối với hoạt động báo
chí và quyền tự do ngôn luận.
Đồng thời, đề tài cũng cung cấp cái nhìn sâu sắc về tác động của các quy
định pháp luật đối với hoạt động báo chí, bao gồm sự tự do báo chí, tính khách
quan, trách nhiệm vai trò của báo chí trong việc giám sát phản ánh các vấn
đề xã hội.
Thông qua việc nghiên cứu và đánh giá các quy định pháp luật hiện hành, đề
tài thể đưa ra các đề xuất cải cách hoàn thiện hệ thống pháp luật báo chí,
nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển của hội đảm bảo quyền tự do báo
chí.
Bên cạnh đó, nó còn có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và
kiến thức pháp luật cho công chúng nhà báo. Hiểu các quy định pháp luật
giúp các nhà báo hoạt động đúng pháp luật cũng như giúp công chúng hiểu bảo
vệ quyền tự do báo chí.
Hơn nữa, đề tài nghiên cứu cũng đóng góp vào kho tàng nghiên cứu khoa
học về pháp luật báo chí những giá trị khoa học thực tiễn cao, cung cấp tài
liệu tham khảo quý giá cho các nhà nghiên cứu, sinh viên những người quan
tâm đến lĩnh vực này, góp phần vào việc xây dựng một nền báo chí phát triển
lành mạnh ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1: SẮC LỆNH ĐẦU TIÊN VỀ BÁO CHÍ
VÀ SẮC LỆNH SỐ 282-SL NĂM 1956 KÈM THEO
LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ BÁO CHÍ
1. Sắc lệnh đầu tiên về báo chí
1.1. Hoàn cảnh ra đời
Cách mạng Tháng Tám 1945 một cột mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Song song với niềm hân hoan và hạnh
phúc, nhân dân ta phải đối mặt với một thực tế “ngàn cân treo sợi tóc” khi cả “thù
trong giặc ngoài” đều đang lăm le lật đổ chính quyền Việt Nam còn non trẻ. Trong
điều kiện khó khăn ấy, chủ tịch Hồ Chí Minh, người vô cùng quan tâm và coi trọng
báo chí, đã tuyên bố xóa bỏ hoàn toàn bộ máy thực dân, phong kiến của chế độ
và ngày 29-3-1946, Bác Hồ đã ký sắc lệnh số 41 quy định về chế độ báo chí.
1.2. Nội dung
So với thời Pháp thuộc, khi chế độ kiểm duyệt báo chí rất khắt khe nhân
dân Việt Nam bị tước đi quyền tự do báo chí thì Sắc lệnh số 4 là một bước tiến lớn
mở ra một thời kỳ mới cho báo chí Việt Nam. Một số quy định đáng chú ý đã được
nêu ra như về thể lxuất bản Các báo chí hàng ngày sẽ được xuất bản 48 giờ sau:
khi đã báo cáo với Ủy ban hành chính khu vực. Tờ khai phải dán tem rõ: tên
tờ báo cách thức phát hành,tên, tuổi chỗ của người quản người chủ
nhiệm, nhà in nơi in. Khi bất kỳ thay đổi nào liên quan đến khoản a b,
phải thông báo trước 48 giờ, còn khoản c phải được báo cáo trong vòng 48 giờ.
Mỗi lần nhận khai, Uỷ ban hành chính kỳ sẽ phát biên lai cho người khai trình
ngay cho Bộ Nội vụ biết.
Sắc lệnh này còn quy định rõ ràng về người phụ trách. Cụ thể, mỗi tờ báo phải
có một người quản phụ trách. Người quản phải trên 21 tuổi không bị tước
quyền công dân do án phạt. Tên họ người quản lý, tên và địa chỉ nhà in phải in bên
dưới các số báo.
Kiểm duyệt t xưa đến nay vẫn luôn mối quan tâm hàng đầu tại các nền
báo chí trên thế giới trong đó Việt Nam. Sắc lệnh số 41 đã xóa bỏ đi chế độ
kiểm duyệt khắt khe của Pháp nhưng vẫn những quy định nhằm đảm bảo an
ninh thông tin nước nhà. Trước khi phát hành, các toà báo phải nộp cho Ty Kiểm
duyệt, phòng Biện nơi phát hành, phòng báo chí Bộ Nội vụ hai số báo có chữ
ký của người quản lý. Các bài báo chí sẽ được ấn hành sau khi ty Kiểm duyệt cấp
kỳ đã duyệt. Nếu bài báo bị kiểm duyệt bác bỏ hoặc người quản lý cho không
phù hợp, chủ nhiệm hoặc quảncó quyền nộp đơn khiếu nại kèm cả bài báo bị tự
kiểm duyệt bỏ, lên Hội đồng kiểm duyệt gồm 5 thành viên tại Bộ nội vụ, gồm năm
hội viên do Bộ trưởng Bộ Nội vụ cử ra. Hội đồng Kiểm duyệt nhiệm vụ: đề
nghị lên Bộ trưởng Nội vụ những chỉ thị về việc kiểm duyệt để các ty kiểm duyệt
tiến hành; Xét đơn khiếu nại của các nhà báo. Quyết định của Hội đồng về việc
giải quyết khiếu nại sẽ hiệu lực nếu trong vòng 48 giờ kể từ khi nhận quyết
định, Bộ trưởng Bộ Nội vụ không phản hồi. Quyết định của Hội đồng kiểm
duyệt có thể là cho phép hoặc không cho phép đăng bài bị kiểm duyệt loại bỏ.
Nhằm đảm bảo an ninh thông tin, sắc lệnh số 41 cũng quy định rất rõ về xử
phạt. Cụ thể, các số báo thể sẽ bị tịch thu nếu không tem không
thông tin tờ báo. Nếu tái phạm, chủ nhiệm, quản lý, chủ nhà in sẽ liên đới có thể bị
phạt tiền tùy theo vi phạm từ 5.000 đồng đến 10.000 đồng, thu các số báo và nhà in
báo thể bị đóng cửa. Nếu không nộp bài báo cho ti kiểm duyệt, quản sẽ bị
phạt tiền từ 10 đồng đến 100 đồng.
thể nói, sắc lệnh số 41 đã mở ra một môi trường tốt hơn để báo chí nước
nhà phát triển, góp phần đẩy lùi những bất cập trong thông tin trong bối cảnh dân
trí còn thấp, kẻ thù trong ngoài nước luôn tìm cách làm suy yếu niềm tin của
dân chúng vào Cách mạng.
2. Sắc lệnh số 282-SL năm 1956 kèm theo Luật về chế độ báo chí
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
2.1. Hoàn cảnh ra đời
Quy định về chế độ báo chí năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã ra đời và được thực hiện xuyên suốt 10 năm, cần được bổ sung và phát triển
cho phù hợp với bối cảnh tình hình thế giới và Cách mạng Việt Nam có nhiều biến
chuyển. Chính vậy, ngày 14 tháng 12 năm 1956, chủ tịch ớc Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 282-SL kèm theo Luật về chế độ báo
chí. Sắc lệnh 282-SL có 3 chương.
2.2. Nội dung
Chương 1 quy định về tính chất và nghĩa vụ của báo chí. Sắc lệnh này được
ban hành để bảo vệ quyền tự do ngôn luận của người dân trên báo chí và ngăn chặn
việc lạm dụng quyền này gây tổn hại đến cuộc đấu tranh hòa bình, thống nhất,
độc lập dân chủ của đất nước. Báo chí dưới chế độ của chúng ta, thuộc
quan chính quyền, đảng phái chính trị, đoàn thể nhân dân hay nhân, đều phải
công cụ phục vụ nhân dân, bảo vệ lợi ích quốc gia, chế độ dân chủ nhân dân
ủng hộ chính quyền Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Báo chí dưới chế độ của chúng ta có trách nhiệm: tuyên truyền, giáo dục nhân
dân, khích lệ tinh thần đoàn kết để thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Chính
phủ, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, phát triển
tình hữu nghị giữa nhân dân ta nhân dân các nước bạn cũng như những người
yêu chuộng hòa bình trên thế giới, phục vụ cuộc đấu tranh cho một Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thịnh vượng. Đấu tranh chống lại mọi âm
mưu, hành động luận điệu phá hoại công cuộc xây dựng miền Bắc vững mạnh,
phá hoại cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, phá hoại hòa bình.
Chương 2 của sắc lệnh quy định về quyền lợi hoạt động của báo chí. Về
quyền lợi quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí được bảo đảm. Tất cả
các báo chí đều được hưởng quyền tự do ngôn luận. Không phải kiểm duyệt trước
khi in; trong trường hợp khẩn cấp, xét cần phải tạm thời đặt kiểm duyệt, hội đồng
Chính phủ sẽ quyết định. Báo chí quyền phản ánh quan điểm nguyện vọng
của người dân tới các cơ quan Nhà nước và các tổ chức nhân dân, đóng góp ý kiến
vào quá trình xây dựng thực thi chính sách của Chính phủ. Quyền lợi của các
nhà báo chuyên nghiệp sẽ được quy định bởi các nghị định của Thủ tướng Chính
phủ.
Về điều kiện hoạt động của báo chí, tờ báo cần những người chịu trách
nhiệm chính thức, tôn chỉ, mục đích tờ báo phải ràng, phù hợp với tính chất
nghĩa vụ đã được nêu cần một sở chính thức. Trước khi xuất bản một tờ
báo, cần phải xin phép trước khai báo đầy đủ tên báo, mục đích, thời gian phát
hành, và thông tin về những người chịu trách nhiệm chính thức.
Để quyền tự do ngôn luận trên báo chí được sử dụng một cách đúng đắn, báo
chí phải tuân theo những điều sau đây: không được tuyên truyền chống pháp luật
của Nhà nước. Không được kích động nhân dân không tuân thủ hoặc chống đối các
luật lệ chính sách của Nhà nước. Không được viết các bài nội dung chống
đối chế độ dân chủ nhân dân, chống lại chính quyền nhân dân, gây chia rẽ giữa
nhân dân chính quyền, hoặc giữa nhân dân quân đội. Không được gây ra
luận hoặc hành động gây tổn hại đến an ninh trật tự hội. Không được tuyên
truyền phá hoại sự nghiệp củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc
lập và dân chủ của nước Việt Nam, làm giảm sút tinh thần đoàn kết, ý chí phấn đấu
của nhân dân và bộ đội. Không được tuyên truyền chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa
nhân dân cácớc, làm tổn hại tình hữu nghị giữa nhân dân nước ta với nhân dân
các nước bạn, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, không được
tuyên truyền cho chủ nghĩa đế quốc hoặc cổ chiến tranh. Không được tiết lộ
mật quốc gia bao gồm: mật quốc phòng, hội nghị mật chưa được quan
thẩm quyền công bố chính thức, các vụ án đang điều tra chưa xét xử, bản án
Tòa án không cho phép công bố, tài liệu sở về kinh tế tài chính Ủy ban
Kế hoạch Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền chưa công bố. Không được tuyên
truyền nội dung dâm ô, trụy lạc hoặc đồi bại. Báo nào đăng bài vu khống, xúc
phạm đến danh dự của tổ chức hay nhân, thì người bị xúc phạm quyền yêu
cầu báo đó cải chính hoặc đăng bài cải chính của mình, ngoài ra thể đưa vụ
việc ra tòa án xét xử. Không được phát hành in lại những báo chí quan
chính quyền đã có quyết định thu hồi.
Chương 3 của sắc lệnh quy định về điều khoản thi hành. Về kỷ luật, báo chí
nào không xin phép trước khi muốn xuất bản, không làm đầy đủ những thủ tục về
khai báo, hoạt động khi chưa được cơ quan phụ trách về báo chí của Chính phủ cấp
giấy phép, không khai báo lại khi thay đổi nào về tôn chỉ, mục đích, tên báo, kỳ
hạn phát hành hoặc về những người chịu trách nhiệm chính thức của tờ báo, sẽ bị
trừng phạt: tịch thu ấn phẩm, đình bản vĩnh viễntruy tố trước toà án, sẽ bị phạt
tiền từ mười vạn đồng (100.000 đ) đến năm mươi vạn đồng (500.000 đ), hoặc
người trách nhiệm bị phạt từ một tháng đến một năm, hoặc cả hai hình phạt
đó.
Báo chí nào vi phạm quyền tự do ngôn luận hay phát hành lại những bài
báo đã bị thu hồi s bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch thu
ấn phẩm, đình bản tạm thời, đình bản nh viễn, hoặc bị truy tố trước t án,
thể bị phạt tiền t mười vạn đồng (100.000 đ) đến một triệu đồng (1.000.000 đ),
hoặc người chịu trách nhiệm bị phạt từ một tháng đến hai năm, hoặc cả hai
hình phạt đó. Nếu xét đương sự phạm vào những luật lệ khác, toà án sẽ chiếu
theo những luật lệ ấy mà trừng phạt thêm.
Báo chí nào đăng bài vu khống, xúc phạm đến danh dự của một tổ chức hay
một nhân,sẽ bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng nhẹ bị cảnh cáo, đình bản tạm
thời, hoặc bị truy tố trước toà án, thể bị phạt tiền từ năm vạn đồng (50.000 đ)
đến hai chục vạn đồng (200.000 đ).
Báo chí nào không tiến hành thể lệ nộp u chiểu, sẽ bị cảnh cáo hoặc tịch
thu ấn phẩm. Trong mọi trường hợp vi phạm chủ nhiệm và chủ bút của tờ báo chịu
trách nhiệm chính; quản lý và người viết bài cũng phải liên đới chịu trách nhiệm về
phần của mình. Nếu in những báo chí đã lệnh tịch thu, đình bản những báo
chí chưa có giấy phép thì chủ nhà in cũng phải liên đới chịu trách nhiệm.
Sắc lệnh số 41 (29/3/1946) Sắc lệnh số 282/SL (14/2/1956) đã mở ra thời
kỳ Tự do báo chí ngôn luận nước ta. Báo chí của chúng ta thời kỳ cách mạng
mang nhiệm vụ cao cả phục vụ nhân dân, tuyên truyền giải thích đường lối,
chính sách của Đảng và Chính phủ, nên có tính chất quần chúngtinh thần chiến
đấu. Cả hai sắc lệnh đều nhằm một mục đích bảo đảm quyền tự do ngôn luận
ngăn cấm những kẻ lợi dụng quyền đó để phá họai sự thống nhất lực lượng dân
tộc, phá hoại sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh của
đất nước. Với sắc lệnh số 282/SL, quyền tự do báo chí quyền tự do ngôn luận
trên báo chí đã được nới rộng hơn so với Sắc lệnh năm 1946 khi các bài báo không
cần kiểm duyệt trước khi in. Đến năm 1957, sắc lệnh này cũng được Quốc hội Việt
Nam lựa chọn trở thành Luật báo chí đầu tiên của Việt Nam.
CHƯƠNG 2: LUẬT BÁO CHÍ 1989 VÀ LUẬT SỬA
ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT BÁO
CHÍ 1999
1. Luật báo chí 1989
1.1. Bối cảnh ra đời
- Sau 1975, đất nước thống nhất cả 2 miền, lúc này hệ thống quy phạm pháp luật
được thống nhất tBắc vào Nam, từ trung ương đến địa phương áp dụng chung
1 hệ thống pháp luật.
- Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai vào cuối thế kỉ XX:
+ Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai, còn gọi cuộc cách mạng
công nghệ thông tin, đã thay đổi căn bản cách thức con người tiếp cận và chia sẻ
thông tin. Sự ra đời phát triển của máy tính, internet các phương tiện
truyền thông kỹ thuật số đã tạo nên một hệ sinh thái thông tin toàn cầu, làm cho
việc tiếp cận thông tin trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.
+ Các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của ngành truyền
thông. Sự ra đời của các công nghệ mới như truyền hình vệ tinh, mạng internet,
tivi đã mở ra những kênh thông tin mới, đa dạng phong phú hơn, từ đó đặt ra
những yêu cầu mới về quản lý và phát triển báo chí.
- Xu thế đổi mới, cải cách trên toàn cầu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng năm 1986.
+ Cải cách kinh tế và chính trị: Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, nhiều nước trên
thế giới, đặc biệtcác nước xã hội chủ nghĩa, đã bắt đầu tiến hành các cuộc cải
cách kinh tế và chính trị nhằm thích nghi với bối cảnh toàn cầu mới.
+ Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã khởi xướng
đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt phát triển mới của Cách mạng
Việt Nam.
+ Công cuộc cải tổ Liên Xô, các nước Hội Chủ Nghĩa Đông Âu rơi vào
khủng hoảng trầm trọng. Các cải cách này hướng tới việc tự do hóa nền kinh tế,
tăng cường vai trò của thị trường cải cách hệ thống chính trị để phù hợp với
yêu cầu của thời đại mới.
+ Năm 1986, nước ta đang bắt đầu thực hiện công cuộc Đổi mới với mục tiêu xây
dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước những thay
đổi sâu sắc về kinh tế hội, nhu cầu một khung pháp mới để điều
chỉnh hoạt động báo chí rất cấp thiết. Luật Báo chí 1957 đã không còn phù
hợp với tình hình mới khi mà báo chí cần phải đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin
đa dạng và phong phú của công chúng trong thời kỳ đổi mới.
+ Trong thời kỳ cuối thập niên 1980, báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả về
số lượng lẫn chất lượng, nhưng cũng gặp nhiều vấn đề như đưa tin giật gân,
thiếu kiểm chứng, làm ảnh hưởng đến mục tiêu chính trị - hội. Hơn nữa,
Trước biến chuyển nhanh chóng của tình hình thế giới, để thực hiện các nguyên
tắc, giữ vững trận địa tưởng của Đảng, Quốc hội nước Cộng hòa Hội Chủ
Nghĩa Việt khóa VIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật Báo chí vào ngày
28/12/1989.
1.2. Nội dung cơ bản của Luật báo chí năm 1989
Chương 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Vai trò, chức năng của báo chí
Báo chí nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam phương tiện thông tin
đại chúng thiết yếu đối với đời sống hội ; quan ngôn luận của các tổ chức
của Đảng, quan Nhà nước, tổ chức hội (dưới đây gọi chung tổ chức) ; là
diễn đàn của nhân dân.
Điều 2. Bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình.
Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ
; không một tổ chức, nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt
động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên
báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.
Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng.
Chương 2: QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ, QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN
TRÊN BÁO CHÍ CỦA CÔNG DÂN
Điều 4. Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân,
công dân có quyền:
1- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ;
2- Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho quan báo chí nhà báo; gửi tin, bài, ảnh
và tác phẩm khác cho báo chí không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, nhân
nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin ;
3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới ;
4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ;
5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ
chức của Đảng, quan Nhà nước, tổ chức hội thành viên của các tổ
chức đó.
Điều 5. Trách nhiệm của báo chí đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn
luận trên báo chí của công dân
Cơ quan báo chí có trách nhiệm:
1- Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân ; trong trường hợp không đăng,
phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do ;
2- Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người chức vụ trả lời bằng thư hoặc trên báo
chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến.
Chương 3: NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA BÁO CHÍ
Điều 6. Nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí
Báo chí có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây :
1- Thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ;
2- Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, thành tựu văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong nước thế giới
theo tôn chỉ, mục đích của quan báo chí ; góp phần nâng cao kiến thức, đáp
ứng nhu cầu văn hoá lành mạnh của nhân dân, bảo vệ truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, xây dựng và phát triển dân chủhội chủ nghĩa, tăng cường khối đoàn
kết toàn dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ;
3- Phản ánh hướng dẫn luận hội ; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do
ngôn luận của nhân dân ;
4- Phát hiện, biểu dương gương tốt, nhân tố mới ; đấu tranh chống các hành vi vi
phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác ;
5- Mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước các dân tộc, tham gia vào sự
nghiệp của nhân dân thế giới hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ tiến bộ
hội.
1.3. Điểm mới và phát triển của Luật Báo chí 1989 so với các sắc lệnh trước đó
- Xác định rõ ràng vai trò và chức năng của báo chí
Luật Báo chí 1989 khẳng định báo chí quan ngôn luận của Đảng, Nhà
nước, các tổ chức chính trị - hội, diễn đàn của nhân dân. Điều này cụ thể
hơn so với trước, khi vai trò của báo chí không được xác định rõ ràng như vậy. Báo
chí có nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phản
ánh dư luận xã hội, và là phương tiện giáo dục, động viên nhân dân.
- Bảo đảm quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận
Luật 1989 quy định chi tiết về quyền tự do báo chí tdo ngôn luận của công
dân, bao gồm quyền được thông tin, quyền cung cấp tiếp nhận thông tin, quyền
phát biểu ý kiến về tình hình đất nướcthế giới, quyền tham gia vào việc xây
dựng chính sách. Điều này cho thấy sự tiến bộ trong việc mở rộng quyền tự do báo
chí và tự do ngôn luận, trong khi vẫn đảm bảo không vi phạm lợi ích của Nhà nước
và xã hội.
- Quy định cụ thể về nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí và nhà báo
Luật đưa ra các quy định ràng về nhiệm vụ của báo chí trong việc thông tin
trung thực, tuyên truyền chủ trương của Đảng Nhà nước, phản ánh luận
hội, và đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực hội. Nhà báo được bảo đảm
các quyền và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định pháp luật trong hoạt động báo chí.
- Điều kiện hoạt động báo chí rõ ràng hơn
Luật quy định về các điều kiện hoạt động của báo chí, bao gồm quy trình cấp
phép, yêu cầu về người chịu trách nhiệm chính thức, tôn chỉ mục đích của tờ báo,
trụ sở chính thức. Những quy định này giúp tạo ra một hành lang pháp
ràng và minh bạch hơn cho hoạt động báo chí so với các quy định trước đó.
- Tăng cường bảo vệ quyền lợi của nhà báo
Luật Báo chí 1989 cũng quy định cụ thể về quyền lợi của những người làm báo,
đảm bảo họ các quyền lợi tương xứng được bảo vệ trong quá trình tác
nghiệp. Điều này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà báo trong quá trình làm
việc và đóng góp cho xã hội.
1.4. Đánh giá ưu, nhược điểm của luật báo chí 1989.
Luật Báo chí năm 1989 phản ánh những thay đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế
hội của Việt Nam trong những năm đầu thời kỳ đổi mới. Về mặt nhận thức,
đây là cơ sở pháp lý cơ bản cho hoạt động của các cơ quan báo chí và những người
làm báo. Về đối tượng điều chỉnh, Luật đã xác định quan nhà nước thẩm
quyền đối với quan báo chí các nhà báo, đồng thời điều chỉnh mối quan hệ
giữa cơ quan báo chínhà báo, cũng như giữa họ với công dân. Về phương pháp
điều chỉnh, Luật bảo đảm báo chí được tự do thể hiện ý chí của mình, đồng thời
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
So với Sắc lệnh 1946 1956, luật Báo chí năm 1989 thực sự là một bước tiến
mới trong pháp luật báo chí khi đã những quy định ràng, cụ thể hơn nhằm
bảo vệ quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Bên cạnh
việc mở rộng quyền tự do báo chí như Sắc lệnh 1956, một số đề mục đã được thêm
vào nhằm đảm bảo sự an toàn cho các nhà báo, đồng thời nhiều mục quy định
chi tiết về thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân trên báo chí chứ không
đại khái và thiếu rõ ràng như hai Sắc lệnh trước đó.
Tuy nhiên, Với sự phát triển của công nghệ internet, Luật Báo chí 1989 chưa
bao quát được các loại hình báo chí mới như báo điện tử và các phương tiện truyền
thông số, dẫn đến sự cần thiết phải sửa đổi bổ sung trong các năm sau. Để nắm
bắt thế chủ động trong cuộc đấu tranh quyết liệt về thông tin, Nhà nước ta đã ban
hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí vào ngày 12 tháng 6 năm
1999.
2. Sự tiến bộ của luật báo chí 1989 luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của luật báo chí 1999
Trong quá trình phát triển của xã hội, báo chí luôn giữ vai trò quan trọng như là
một kênh thông tin công cụ giám sát quyền lực. Tại Việt Nam, việc điều chỉnh
quản hoạt động báo chí đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó
các dấu mốc quan trọng là Luật Báo chí 1989 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Báo chí 1999. Những văn bản này không chỉ cung cấp sở pháp lý cho
hoạt động báo chí mà còn phản ánh sự tiến bộ và thay đổi trong chính sách quản
của Nhà nước.
2.1. Luật Báo chí 1989
Luật Báo chí 1989 văn bản pháp đầu tiên đặt nền móng cho hoạt động
báo chí tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Trước khi luật này ra đời, hoạt động
báo chí chủ yếu dựa trên các quy định nội bộ của Đảng và Nhà nước thiếu một
khung pháp cụ thể. Từ khi ban hành luật, báo chí bắt đầu hoạt động năng động
hơn, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới kinh tế hội của đất nước.
Tuy nhiên, quyền tự do báo chí vẫn bị hạn chế trong phạm vi sự kiểm soát chặt
chẽ của Nhà nước.
2.1.1. Cơ sở pháp lý ban đầu
Luật Báo chí 1989 đã xác lập một khung pháp ràng, giúp định hướng
hoạt động báo chí theo hướng chuyên nghiệp và có hệ thống hơn. Đây là bước tiến
quan trọng giúp cho báo chí một nền tảng pháp để hoạt động trong môi
trường pháp luật.
2.1.2. Quyền tự do báo chí
Luật đã thừa nhận quyền tự do báo chí, một bước tiến quan trọng trong việc
mở rộng không gian tự do cho các quan báo chí nhà báo. Tuy nhiên, quyền
tự do này vẫn được kiểm soát chặt chẽ bởi Nhà nước, không phải lúc nào cũng
được thực thi đầy đủ trong thực tế.
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của nhà báo
Luật quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của nhà báo, bao gồm quyền thu
thập, xử công bố thông tin. Nhà báo phải chịu trách nhiệm về tính chính xác
và khách quan của thông tin họ đăng tải, đồng thời phải tuân thủ các quy định
pháp luật liên quan.
2.2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí 1999
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của hội sự tiến bộ của công nghệ thông
tin, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí 1999 đã được ban hành.
Những thay đổi này nhằm cập nhật hoàn thiện các quy định pháp về báo chí,
đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của các cơ quan báo chí.
2.2.1. Mở rộng quyền tự do báo chí
Luật sửa đổi năm 1999 đã mở rộng thêm một số quyền tự do cho nhà báo
cơ quan báo chí, cho phép các nhà báo quan báo chí hoạt động độc lập hơn,
đồng thời khuyến khích sự đa dạng trong các loại hình báo chí. Các quy định mới
chi tiết hơn, qua đó giúp cho việc thực thi quyền tự do báo chí được hiệu quả, đồng
thời tạo điều kiện cho báo chí phát triển mạnh mẽ.
2.2.2. Quản lý thông tin
Sửa đổi năm 1999 bổ sung các quy định về quản thông tin, đặc biệt
thông tin trên Internet, đảm bảo rằng thông tin trên Internet cũng được kiểm soát
điều chỉnh. Điều này rất quan trọng trong bối cảnh công nghệ thông tin phát
triển nhanh chóng, báo chí điện tử trở thành một phần không thể thiếu của hệ
thống thông tin truyền thông.
2.2.3. Bảo vệ nhà báo
Luật sửa đổi đã đưa ra một số quy định nhằm bảo vệ nhà báo, bao gồm
quyền từ chối tiết lộ nguồn tin trong một số trường hợp. Điều này giúp nhà báo
thể làm việc một cách độc lập khách quan hơn, đồng thời bảo vệ họ khỏi các áp
lực và nguy cơ tiềm ẩn.
2.2.4. Chế tài xử lý vi phạm
Luật sửa đổi cũng bổ sung các chế tài xử nghiêm khắc hơn đối với các
hành vi vi phạm trong hoạt động báo chí. Điều này góp phần nâng cao tính minh
bạch trách nhiệm của các quan báo chínhà báo, đảm bảo rằng các thông
tin được công bố đều có độ tin cậy cao.
2.3. Đánh giá chung
Luật Báo chí 1989 và Luật sửa đổi 1999 đềunhững tiến bộ đáng kể trong
việc điều chỉnh hoạt động báo chí tại Việt Nam. Luật Báo chí 1989 đã tạo ra nền
tảng pháp ban đầu cho báo chí hoạt động, trong khi Luật sửa đổi 1999 đã mở
rộng cập nhật các quy định để phù hợp với sự phát triển của hội công
nghệ. Tuy nhiên, cả hai luật này vẫn duy trì sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước
đối với báo chí. Điều này thể hạn chế một phần tính độc lập tự do của báo
chí, điều cần được tiếp tục cải thiện để đáp ứng các yêu cầu phát triển hội
nhập quốc tế.
Kết luận, Luật Báo chí 1989 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Báo chí 1999 đã những tiến bộ rệt trong việc điều chỉnh phát triển hoạt
động báo chí tại Việt Nam. Với việc sửa đổi, bổ sung này, Luật Báo chí đã kịp thời
luật hóa một số hoạt động mới của báo chí cũng như thêm các loại hình, đồng
thời làm rõ nhiệm vụ và quyền hạn đối với những đối tượng trong lĩnh vực báo chí.
Những thay đổi này phản ánh sự nỗ lực của Nhà nước trong việc tạo ra một môi
trường pháp lý thuận lợi cho báo chí hoạt động, qua đó đảm bảo tính minh bạch
trách nhiệm của các quan báo chí nhà báo. Tuy nhiên, để đáp ứng các yêu
cầu phát triển và hội nhập quốc tế, việc tiếp tục cải thiện và điều chỉnh luật báo chí
là cần thiết và quan trọng.
2.4. Tình hình phát triển báo chí trong hơn 15 năm thực hiện luật báo chí
1989 và luật sửa đổi 1999
Việc ban hành Luật Báo chí 1989 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Báo chí 1999 đã tạo ra một khung pháp lý trong bối cảnh đổi mới và hội nhập
quốc tế, nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của hội. Báo chí Việt
| 1/40

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ – TRUYỀN THÔNG
----------------------------------
BÀI TẬP KẾT THÚC MÔN
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG
Đề tài: Quá trình hình thành và phát triển của
các quy định pháp luật báo chí ở Việt Nam từ
sắc lệnh đầu tiên 1946 đến nay
Giảng viên: T.S Nguyễn Thùy Vân Anh
Lớp tín chỉ: PT02306_K43_1

Tên các thành viên: Phạm Tuấn Anh Nguyễn Sỹ Đoàn Đỗ Thanh Tiến Ngô Xuân Hiếu Anh Nguyễn Diễm Quỳnh
Hà Nội, tháng 6 năm 2024 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................... 4 1.
Lý do nghiên cứu............................................................................................... 4 2.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.........................................................................5
CHƯƠNG 1: SẮC LỆNH ĐẦU TIÊN VỀ BÁO CHÍ VÀ SẮC LỆNH SỐ 282-SL NĂM 1956 KÈM
THEO LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ BÁO CHÍ..................................................................................7
1.
Sắc lệnh đầu tiên về báo chí..............................................................................7 2.
Sắc lệnh số 282-SL năm 1956 kèm theo Luật về chế độ báo chí của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà...............................................................................................9
CHƯƠNG 2: LUẬT BÁO CHÍ 1989 VÀ LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT
BÁO CHÍ 1999............................................................................................................ 12
1.
Luật báo chí 1989............................................................................................12 2.
Sự tiến bộ của luật báo chí 1989 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật
báo chí 1999.............................................................................................................. 18
CHƯƠNG 3: LUẬT BÁO CHÍ 2016................................................................................24 1.
Những vấn đề đặt ra cho việc xây dựng Luật Báo chí 2016...............................24 2.
Nội dung Luật báo chí năm 2016.....................................................................26 3.
Những điểm mới của luật báo chí 2016:..........................................................29 4.
Hạn chế của Luật báo chí 2016 trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.......33
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 38
Tài liệu tham khảo.....................................................................................................38 MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu
Báo chí đóng vai trò vô cùng to lớn trong đời sống xã hội, không chỉ là kênh
thông tin quan trọng nhất mà còn là công cụ giám sát, phản biện xã hội, thúc đẩy
sự minh bạch và công bằng. Từ khi đất nước ta giành được độc lập năm 1945,
ngành báo chí nước nhà đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và biến đổi và đồng
thời phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội của Việt Nam.
Việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định pháp luật báo chí
ở Việt Nam từ sắc lệnh đầu tiên năm 1946 đến nay là cần thiết để hiểu rõ hơn về
lịch sử báo chí, những thách thức và cơ hội mà ngành báo chí đã và đang phải đối
mặt. Đề tài này được lựa chọn bởi nhiều lý do cụ thể.
Thứ nhất, nghiên cứu về quy định pháp luật báo chí giúp làm sáng tỏ quá trình
xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý. Điều này nhằm điều chỉnh hoạt động báo
chí, đảm bảo quyền tự do báo chí trong khuôn khổ pháp luật, đồng thời bảo vệ
quyền lợi của nhà báo và công chúng. Việc phân tích các sắc lệnh, nghị định, luật
báo chí từ năm 1946 đến nay sẽ cung cấp cái nhìn toàn diện về sự phát triển của hệ
thống pháp luật báo chí Việt Nam, từ những bước đi đầu tiên đầy khó khăn cho
đến những cải cách quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ hai, nghiên cứu này không chỉ có ý nghĩa lý thuyết mà còn mang tính thực
tiễn cao. Việc hiểu rõ các quy định pháp luật báo chí sẽ giúp các nhà báo, cơ quan
báo chí và các nhà làm luật có cái nhìn sâu sắc hơn về quyền, nghĩa vụ của mình.
Từ đó nâng cao chất lượng thông tin, đảm bảo tính khách quan, trung thực và trách
nhiệm xã hội của báo chí. Đồng thời, nghiên cứu còn góp phần vào việc định
hướng chính sách, đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật báo
chí, phù hợp với tình hình mới.
Thứ ba, trong bối cảnh hiện nay, khi công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ,
báo chí truyền thống đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ báo mạng, mạng xã
hội và các nền tảng truyền thông số. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về việc xây
dựng và điều chỉnh các quy định pháp luật báo chí sao cho kịp thời và phù hợp với
xu thế phát triển mới. Nghiên cứu về lịch sử và tiến trình phát triển của các quy
định pháp luật báo chí sẽ giúp đưa ra những bài học kinh nghiệm quý báu. Từ đó
đề xuất những giải pháp điều chỉnh chính sách phù hợp, thúc đẩy sự phát triển bền
vững của ngành báo chí trong thời đại mới.
Tóm lại, đề tài "Quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật
báo chí ở Việt Nam từ sắc lệnh đầu tiên 1946 đến nay" không chỉ mang ý nghĩa
lịch sử và lý luận mà còn có giá trị thực tiễn cao, góp phần vào việc xây dựng một
nền báo chí chuyên nghiệp, minh bạch và đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật báo chí.
2.2. Phạm vi nghiên cứu 2.2.2. Phạm vi không gian
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trong phạm vi luật báo chí của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa (1945-1975) và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (từ năm 1975 đến nay)
2.2.2. Phạm vi thời gian
Nghiên cứu được thực hiện trong vòng 3 tháng (tháng 4 năm 2024 đến tháng 6 năm 2024)
2.2.3.Phạm vi nội dung
Trong đề tài nghiên cứu này, ta tập trung vào những nội dung về quá trình
hình thành, phát triển của các quy định và luật báo chí Việt Nam thông qua các sắc
lệnh của Việt Nam từ năm 1946 đến nay.
2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài “Quá trình hình thành và phát triển của các quy định
pháp luật báo chí ở Việt Nam từ sắc lệnh đầu tiên 1946 đến nay” mang ý nghĩa
quan trọng, giúp hiểu rõ quá trình lịch sử và bối cảnh ra đời của các quy định pháp
luật báo chí ở Việt Nam từ sắc lệnh đầu tiên năm 1946. Qua đó, chúng ta có thể
thấy được những thay đổi và cải tiến qua từng giai đoạn lịch sử, phản ánh sự phát
triển của xã hội, kinh tế và chính trị.
Ngoài ra, việc nghiên cứu cho phép chúng ta đánh giá những tiến bộ và hạn
chế của các quy định pháp luật qua các thời kỳ. Đây là một yếu tố quan trọng để
hiểu rõ hiệu quả và tác động của các chính sách pháp luật đối với hoạt động báo
chí và quyền tự do ngôn luận.
Đồng thời, đề tài cũng cung cấp cái nhìn sâu sắc về tác động của các quy
định pháp luật đối với hoạt động báo chí, bao gồm sự tự do báo chí, tính khách
quan, trách nhiệm và vai trò của báo chí trong việc giám sát và phản ánh các vấn đề xã hội.
Thông qua việc nghiên cứu và đánh giá các quy định pháp luật hiện hành, đề
tài có thể đưa ra các đề xuất cải cách và hoàn thiện hệ thống pháp luật báo chí,
nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển của xã hội và đảm bảo quyền tự do báo chí.
Bên cạnh đó, nó còn có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và
kiến thức pháp luật cho công chúng và nhà báo. Hiểu rõ các quy định pháp luật
giúp các nhà báo hoạt động đúng pháp luật cũng như giúp công chúng hiểu và bảo
vệ quyền tự do báo chí.
Hơn nữa, đề tài nghiên cứu cũng đóng góp vào kho tàng nghiên cứu khoa
học về pháp luật và báo chí những giá trị khoa học và thực tiễn cao, cung cấp tài
liệu tham khảo quý giá cho các nhà nghiên cứu, sinh viên và những người quan
tâm đến lĩnh vực này, góp phần vào việc xây dựng một nền báo chí phát triển và lành mạnh ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1: SẮC LỆNH ĐẦU TIÊN VỀ BÁO CHÍ
VÀ SẮC LỆNH SỐ 282-SL NĂM 1956 KÈM THEO
LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ BÁO CHÍ

1. Sắc lệnh đầu tiên về báo chí
1.1. Hoàn cảnh ra đời
Cách mạng Tháng Tám 1945 là một cột mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Song song với niềm hân hoan và hạnh
phúc, nhân dân ta phải đối mặt với một thực tế “ngàn cân treo sợi tóc” khi cả “thù
trong giặc ngoài” đều đang lăm le lật đổ chính quyền Việt Nam còn non trẻ. Trong
điều kiện khó khăn ấy, chủ tịch Hồ Chí Minh, người vô cùng quan tâm và coi trọng
báo chí, đã tuyên bố xóa bỏ hoàn toàn bộ máy thực dân, phong kiến của chế độ cũ
và ngày 29-3-1946, Bác Hồ đã ký sắc lệnh số 41 quy định về chế độ báo chí. 1.2. Nội dung
So với thời Pháp thuộc, khi chế độ kiểm duyệt báo chí rất khắt khe và nhân
dân Việt Nam bị tước đi quyền tự do báo chí thì Sắc lệnh số 4 là một bước tiến lớn
mở ra một thời kỳ mới cho báo chí Việt Nam. Một số quy định đáng chú ý đã được
nêu ra như về thể lệ xuất bản: Các
báo chí hàng ngày sẽ được xuất bản 48 giờ sau
khi đã báo cáo với Ủy ban hành chính khu vực. Tờ khai phải dán tem và kê rõ: tên
tờ báo và cách thức phát hành,tên, tuổi và chỗ ở của người quản lý và người chủ
nhiệm, nhà in và nơi in. Khi có bất kỳ thay đổi nào liên quan đến khoản a và b,
phải thông báo trước 48 giờ, còn khoản c phải được báo cáo trong vòng 48 giờ.
Mỗi lần nhận khai, Uỷ ban hành chính kỳ sẽ phát biên lai cho người khai và trình
ngay cho Bộ Nội vụ biết.
Sắc lệnh này còn quy định rõ ràng về người phụ trách. Cụ thể, mỗi tờ báo phải
có một người quản lý phụ trách. Người quản lý phải trên 21 tuổi và không bị tước
quyền công dân do án phạt. Tên họ người quản lý, tên và địa chỉ nhà in phải in bên dưới các số báo.
Kiểm duyệt từ xưa đến nay vẫn luôn là mối quan tâm hàng đầu tại các nền
báo chí trên thế giới trong đó có Việt Nam. Sắc lệnh số 41 đã xóa bỏ đi chế độ
kiểm duyệt khắt khe của Pháp nhưng vẫn có những quy định nhằm đảm bảo an
ninh thông tin nước nhà. Trước khi phát hành, các toà báo phải nộp cho Ty Kiểm
duyệt, phòng Biện lý ở nơi phát hành, phòng báo chí Bộ Nội vụ hai số báo có chữ
ký của người quản lý. Các bài báo chí sẽ được ấn hành sau khi ty Kiểm duyệt cấp
kỳ đã duyệt. Nếu bài báo bị kiểm duyệt bác bỏ hoặc người quản lý cho là không
phù hợp, chủ nhiệm hoặc quản lý có quyền nộp đơn khiếu nại kèm cả bài báo bị tự
kiểm duyệt bỏ, lên Hội đồng kiểm duyệt gồm 5 thành viên tại Bộ nội vụ, gồm năm
hội viên do Bộ trưởng Bộ Nội vụ cử ra. Hội đồng Kiểm duyệt có nhiệm vụ: đề
nghị lên Bộ trưởng Nội vụ những chỉ thị về việc kiểm duyệt để các ty kiểm duyệt
tiến hành; Xét đơn khiếu nại của các nhà báo. Quyết định của Hội đồng về việc
giải quyết khiếu nại sẽ có hiệu lực nếu trong vòng 48 giờ kể từ khi nhận quyết
định, Bộ trưởng Bộ Nội vụ không có phản hồi. Quyết định của Hội đồng kiểm
duyệt có thể là cho phép hoặc không cho phép đăng bài bị kiểm duyệt loại bỏ.
Nhằm đảm bảo an ninh thông tin, sắc lệnh số 41 cũng quy định rất rõ về xử
phạt. Cụ thể, các số báo có thể sẽ bị tịch thu nếu không có tem và không kê rõ
thông tin tờ báo. Nếu tái phạm, chủ nhiệm, quản lý, chủ nhà in sẽ liên đới có thể bị
phạt tiền tùy theo vi phạm từ 5.000 đồng đến 10.000 đồng, thu các số báo và nhà in
báo có thể bị đóng cửa. Nếu không nộp bài báo cho ti kiểm duyệt, quản lý sẽ bị
phạt tiền từ 10 đồng đến 100 đồng.
Có thể nói, sắc lệnh số 41 đã mở ra một môi trường tốt hơn để báo chí nước
nhà phát triển, góp phần đẩy lùi những bất cập trong thông tin trong bối cảnh dân
trí còn thấp, kẻ thù trong và ngoài nước luôn tìm cách làm suy yếu niềm tin của
dân chúng vào Cách mạng.
2. Sắc lệnh số 282-SL năm 1956 kèm theo Luật về chế độ báo chí
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
2.1. Hoàn cảnh ra đời
Quy định về chế độ báo chí năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã ra đời và được thực hiện xuyên suốt 10 năm, cần được bổ sung và phát triển
cho phù hợp với bối cảnh tình hình thế giới và Cách mạng Việt Nam có nhiều biến
chuyển. Chính vì vậy, ngày 14 tháng 12 năm 1956, chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 282-SL kèm theo Luật về chế độ báo
chí. Sắc lệnh 282-SL có 3 chương. 2.2. Nội dung
Chương 1 quy định về tính chất và nghĩa vụ của báo chí. Sắc lệnh này được
ban hành để bảo vệ quyền tự do ngôn luận của người dân trên báo chí và ngăn chặn
việc lạm dụng quyền này gây tổn hại đến cuộc đấu tranh vì hòa bình, thống nhất,
độc lập và dân chủ của đất nước. Báo chí dưới chế độ của chúng ta, dù thuộc cơ
quan chính quyền, đảng phái chính trị, đoàn thể nhân dân hay tư nhân, đều phải là
công cụ phục vụ nhân dân, bảo vệ lợi ích quốc gia, chế độ dân chủ nhân dân và
ủng hộ chính quyền Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Báo chí dưới chế độ của chúng ta có trách nhiệm: tuyên truyền, giáo dục nhân
dân, khích lệ tinh thần đoàn kết để thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Chính
phủ, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, phát triển
tình hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn cũng như những người
yêu chuộng hòa bình trên thế giới, phục vụ cuộc đấu tranh cho một Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và thịnh vượng. Đấu tranh chống lại mọi âm
mưu, hành động và luận điệu phá hoại công cuộc xây dựng miền Bắc vững mạnh,
phá hoại cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, phá hoại hòa bình.
Chương 2 của sắc lệnh quy định về quyền lợi và hoạt động của báo chí. Về
quyền lợi quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí được bảo đảm. Tất cả
các báo chí đều được hưởng quyền tự do ngôn luận. Không phải kiểm duyệt trước
khi in; trong trường hợp khẩn cấp, xét cần phải tạm thời đặt kiểm duyệt, hội đồng
Chính phủ sẽ quyết định. Báo chí có quyền phản ánh quan điểm và nguyện vọng
của người dân tới các cơ quan Nhà nước và các tổ chức nhân dân, đóng góp ý kiến
vào quá trình xây dựng và thực thi chính sách của Chính phủ. Quyền lợi của các
nhà báo chuyên nghiệp sẽ được quy định bởi các nghị định của Thủ tướng Chính phủ.
Về điều kiện hoạt động của báo chí, tờ báo cần có những người chịu trách
nhiệm chính thức, tôn chỉ, mục đích tờ báo phải rõ ràng, phù hợp với tính chất và
nghĩa vụ đã được nêu và cần có một cơ sở chính thức. Trước khi xuất bản một tờ
báo, cần phải xin phép trước và khai báo đầy đủ tên báo, mục đích, thời gian phát
hành, và thông tin về những người chịu trách nhiệm chính thức.
Để quyền tự do ngôn luận trên báo chí được sử dụng một cách đúng đắn, báo
chí phải tuân theo những điều sau đây: không được tuyên truyền chống pháp luật
của Nhà nước. Không được kích động nhân dân không tuân thủ hoặc chống đối các
luật lệ và chính sách của Nhà nước. Không được viết các bài có nội dung chống
đối chế độ dân chủ nhân dân, chống lại chính quyền nhân dân, gây chia rẽ giữa
nhân dân và chính quyền, hoặc giữa nhân dân và quân đội. Không được gây ra dư
luận hoặc hành động gây tổn hại đến an ninh và trật tự xã hội. Không được tuyên
truyền phá hoại sự nghiệp củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc
lập và dân chủ của nước Việt Nam, làm giảm sút tinh thần đoàn kết, ý chí phấn đấu
của nhân dân và bộ đội. Không được tuyên truyền chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa
nhân dân các nước, làm tổn hại tình hữu nghị giữa nhân dân nước ta với nhân dân
các nước bạn, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, không được
tuyên truyền cho chủ nghĩa đế quốc hoặc cổ vũ chiến tranh. Không được tiết lộ bí
mật quốc gia bao gồm: bí mật quốc phòng, hội nghị cơ mật chưa được cơ quan có
thẩm quyền công bố chính thức, các vụ án đang điều tra chưa xét xử, bản án mà
Tòa án không cho phép công bố, tài liệu và cơ sở về kinh tế tài chính mà Ủy ban
Kế hoạch Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền chưa công bố. Không được tuyên
truyền nội dung dâm ô, trụy lạc hoặc đồi bại. Báo nào đăng bài vu khống, xúc
phạm đến danh dự của tổ chức hay cá nhân, thì người bị xúc phạm có quyền yêu
cầu báo đó cải chính hoặc đăng bài cải chính của mình, và ngoài ra có thể đưa vụ
việc ra tòa án xét xử. Không được phát hành và in lại những báo chí mà cơ quan
chính quyền đã có quyết định thu hồi.
Chương 3 của sắc lệnh quy định về điều khoản thi hành. Về kỷ luật, báo chí
nào không xin phép trước khi muốn xuất bản, không làm đầy đủ những thủ tục về
khai báo, hoạt động khi chưa được cơ quan phụ trách về báo chí của Chính phủ cấp
giấy phép, không khai báo lại khi thay đổi nào về tôn chỉ, mục đích, tên báo, kỳ
hạn phát hành hoặc về những người chịu trách nhiệm chính thức của tờ báo, sẽ bị
trừng phạt: tịch thu ấn phẩm, đình bản vĩnh viễn và truy tố trước toà án, sẽ bị phạt
tiền từ mười vạn đồng (100.000 đ) đến năm mươi vạn đồng (500.000 đ), hoặc
người có trách nhiệm bị phạt tù từ một tháng đến một năm, hoặc cả hai hình phạt đó.
Báo chí nào vi phạm quyền tự do ngôn luận hay phát hành lại những bài
báo đã bị thu hồi sẽ bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch thu
ấn phẩm, đình bản tạm thời, đình bản vĩnh viễn, hoặc bị truy tố trước toà án, có
thể bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000 đ) đến một triệu đồng (1.000.000 đ),
hoặc người chịu trách nhiệm bị phạt tù từ một tháng đến hai năm, hoặc cả hai
hình phạt đó. Nếu xét đương sự phạm vào những luật lệ khác, toà án sẽ chiếu
theo những luật lệ ấy mà trừng phạt thêm.
Báo chí nào đăng bài vu khống, xúc phạm đến danh dự của một tổ chức hay
một cá nhân,sẽ bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà bị cảnh cáo, đình bản tạm
thời, hoặc bị truy tố trước toà án, có thể bị phạt tiền từ năm vạn đồng (50.000 đ)
đến hai chục vạn đồng (200.000 đ).
Báo chí nào không tiến hành thể lệ nộp lưu chiểu, sẽ bị cảnh cáo hoặc tịch
thu ấn phẩm. Trong mọi trường hợp vi phạm chủ nhiệm và chủ bút của tờ báo chịu
trách nhiệm chính; quản lý và người viết bài cũng phải liên đới chịu trách nhiệm về
phần của mình. Nếu in những báo chí đã có lệnh tịch thu, đình bản và những báo
chí chưa có giấy phép thì chủ nhà in cũng phải liên đới chịu trách nhiệm.
Sắc lệnh số 41 (29/3/1946) và Sắc lệnh số 282/SL (14/2/1956) đã mở ra thời
kỳ Tự do báo chí và ngôn luận ở nước ta. Báo chí của chúng ta thời kỳ cách mạng
mang nhiệm vụ cao cả là phục vụ nhân dân, tuyên truyền giải thích đường lối,
chính sách của Đảng và Chính phủ, nên có tính chất quần chúng và tinh thần chiến
đấu. Cả hai sắc lệnh đều nhằm một mục đích bảo đảm quyền tự do ngôn luận và
ngăn cấm những kẻ lợi dụng quyền đó để phá họai sự thống nhất lực lượng dân
tộc, phá hoại sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh của
đất nước. Với sắc lệnh số 282/SL, quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận
trên báo chí đã được nới rộng hơn so với Sắc lệnh năm 1946 khi các bài báo không
cần kiểm duyệt trước khi in. Đến năm 1957, sắc lệnh này cũng được Quốc hội Việt
Nam lựa chọn trở thành Luật báo chí đầu tiên của Việt Nam.
CHƯƠNG 2: LUẬT BÁO CHÍ 1989 VÀ LUẬT SỬA
ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT BÁO CHÍ 1999

1. Luật báo chí 1989
1.1. Bối cảnh ra đời
- Sau 1975, đất nước thống nhất cả 2 miền, lúc này hệ thống quy phạm pháp luật
được thống nhất từ Bắc vào Nam, từ trung ương đến địa phương áp dụng chung 1 hệ thống pháp luật.
- Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai vào cuối thế kỉ XX:
+ Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai, còn gọi là cuộc cách mạng
công nghệ thông tin, đã thay đổi căn bản cách thức con người tiếp cận và chia sẻ
thông tin. Sự ra đời và phát triển của máy tính, internet và các phương tiện
truyền thông kỹ thuật số đã tạo nên một hệ sinh thái thông tin toàn cầu, làm cho
việc tiếp cận thông tin trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.
+ Các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của ngành truyền
thông. Sự ra đời của các công nghệ mới như truyền hình vệ tinh, mạng internet,
tivi đã mở ra những kênh thông tin mới, đa dạng và phong phú hơn, từ đó đặt ra
những yêu cầu mới về quản lý và phát triển báo chí.
- Xu thế đổi mới, cải cách trên toàn cầu và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986.
+ Cải cách kinh tế và chính trị: Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, nhiều nước trên
thế giới, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa, đã bắt đầu tiến hành các cuộc cải
cách kinh tế và chính trị nhằm thích nghi với bối cảnh toàn cầu mới.
+ Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã khởi xướng
đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt phát triển mới của Cách mạng Việt Nam.
+ Công cuộc cải tổ ở Liên Xô, các nước Xã Hội Chủ Nghĩa ở Đông Âu rơi vào
khủng hoảng trầm trọng. Các cải cách này hướng tới việc tự do hóa nền kinh tế,
tăng cường vai trò của thị trường và cải cách hệ thống chính trị để phù hợp với
yêu cầu của thời đại mới.
+ Năm 1986, nước ta đang bắt đầu thực hiện công cuộc Đổi mới với mục tiêu xây
dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước những thay
đổi sâu sắc về kinh tế và xã hội, nhu cầu có một khung pháp lý mới để điều
chỉnh hoạt động báo chí là rất cấp thiết. Luật Báo chí 1957 đã không còn phù
hợp với tình hình mới khi mà báo chí cần phải đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin
đa dạng và phong phú của công chúng trong thời kỳ đổi mới.
+ Trong thời kỳ cuối thập niên 1980, báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả về
số lượng lẫn chất lượng, nhưng cũng gặp nhiều vấn đề như đưa tin giật gân,
thiếu kiểm chứng, làm ảnh hưởng đến mục tiêu chính trị - xã hội. Hơn nữa,
Trước biến chuyển nhanh chóng của tình hình thế giới, để thực hiện các nguyên
tắc, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, Quốc hội nước Cộng hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt khóa VIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật Báo chí vào ngày 28/12/1989.
1.2. Nội dung cơ bản của Luật báo chí năm 1989
 Chương 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Vai trò, chức năng của báo chí
Báo chí ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin
đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội ; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức
của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (dưới đây gọi chung là tổ chức) ; là diễn đàn của nhân dân.
Điều 2. Bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình.
Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ
; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt
động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên
báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.
Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng.
 Chương 2: QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ, QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN
TRÊN BÁO CHÍ CỦA CÔNG DÂN
Điều 4. Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, công dân có quyền:
1- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ;
2- Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh
và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân
nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin ;
3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới ;
4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ;
5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ
chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó.
Điều 5. Trách nhiệm của báo chí đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn
luận trên báo chí của công dân
Cơ quan báo chí có trách nhiệm:
1- Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân ; trong trường hợp không đăng,
phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do ;
2- Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trên báo
chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến.
 Chương 3: NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA BÁO CHÍ
Điều 6. Nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí
Báo chí có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây :
1- Thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ;
2- Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, thành tựu văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong nước và thế giới
theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí ; góp phần nâng cao kiến thức, đáp
ứng nhu cầu văn hoá lành mạnh của nhân dân, bảo vệ truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, xây dựng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đoàn
kết toàn dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ;
3- Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội ; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do
ngôn luận của nhân dân ;
4- Phát hiện, biểu dương gương tốt, nhân tố mới ; đấu tranh chống các hành vi vi
phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác ;
5- Mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc, tham gia vào sự
nghiệp của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.3. Điểm mới và phát triển của Luật Báo chí 1989 so với các sắc lệnh trước đó
- Xác định rõ ràng vai trò và chức năng của báo chí
Luật Báo chí 1989 khẳng định báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội, và là diễn đàn của nhân dân. Điều này cụ thể
hơn so với trước, khi vai trò của báo chí không được xác định rõ ràng như vậy. Báo
chí có nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phản
ánh dư luận xã hội, và là phương tiện giáo dục, động viên nhân dân.
- Bảo đảm quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận
Luật 1989 quy định chi tiết về quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận của công
dân, bao gồm quyền được thông tin, quyền cung cấp và tiếp nhận thông tin, quyền
phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới, và quyền tham gia vào việc xây
dựng chính sách. Điều này cho thấy sự tiến bộ trong việc mở rộng quyền tự do báo
chí và tự do ngôn luận, trong khi vẫn đảm bảo không vi phạm lợi ích của Nhà nước và xã hội.
- Quy định cụ thể về nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí và nhà báo
Luật đưa ra các quy định rõ ràng về nhiệm vụ của báo chí trong việc thông tin
trung thực, tuyên truyền chủ trương của Đảng và Nhà nước, phản ánh dư luận xã
hội, và đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực xã hội. Nhà báo được bảo đảm
các quyền và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định pháp luật trong hoạt động báo chí.
- Điều kiện hoạt động báo chí rõ ràng hơn
Luật quy định rõ về các điều kiện hoạt động của báo chí, bao gồm quy trình cấp
phép, yêu cầu về người chịu trách nhiệm chính thức, tôn chỉ mục đích của tờ báo,
và trụ sở chính thức. Những quy định này giúp tạo ra một hành lang pháp lý rõ
ràng và minh bạch hơn cho hoạt động báo chí so với các quy định trước đó.
- Tăng cường bảo vệ quyền lợi của nhà báo
Luật Báo chí 1989 cũng quy định cụ thể về quyền lợi của những người làm báo,
đảm bảo họ có các quyền lợi tương xứng và được bảo vệ trong quá trình tác
nghiệp. Điều này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà báo trong quá trình làm
việc và đóng góp cho xã hội.
1.4. Đánh giá ưu, nhược điểm của luật báo chí 1989.
Luật Báo chí năm 1989 phản ánh những thay đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế
– xã hội của Việt Nam trong những năm đầu thời kỳ đổi mới. Về mặt nhận thức,
đây là cơ sở pháp lý cơ bản cho hoạt động của các cơ quan báo chí và những người
làm báo. Về đối tượng điều chỉnh, Luật đã xác định rõ cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với cơ quan báo chí và các nhà báo, đồng thời điều chỉnh mối quan hệ
giữa cơ quan báo chí và nhà báo, cũng như giữa họ với công dân. Về phương pháp
điều chỉnh, Luật bảo đảm báo chí được tự do thể hiện ý chí của mình, đồng thời
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
So với Sắc lệnh 1946 và 1956, luật Báo chí năm 1989 thực sự là một bước tiến
mới trong pháp luật báo chí khi đã có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn nhằm
bảo vệ quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Bên cạnh
việc mở rộng quyền tự do báo chí như Sắc lệnh 1956, một số đề mục đã được thêm
vào nhằm đảm bảo sự an toàn cho các nhà báo, đồng thời có nhiều mục quy định
chi tiết về thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân trên báo chí chứ không
đại khái và thiếu rõ ràng như hai Sắc lệnh trước đó.
Tuy nhiên, Với sự phát triển của công nghệ và internet, Luật Báo chí 1989 chưa
bao quát được các loại hình báo chí mới như báo điện tử và các phương tiện truyền
thông số, dẫn đến sự cần thiết phải sửa đổi và bổ sung trong các năm sau. Để nắm
bắt thế chủ động trong cuộc đấu tranh quyết liệt về thông tin, Nhà nước ta đã ban
hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí vào ngày 12 tháng 6 năm 1999.
2. Sự tiến bộ của luật báo chí 1989 và luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của luật báo chí 1999
Trong quá trình phát triển của xã hội, báo chí luôn giữ vai trò quan trọng như là
một kênh thông tin và công cụ giám sát quyền lực. Tại Việt Nam, việc điều chỉnh
và quản lý hoạt động báo chí đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó có
các dấu mốc quan trọng là Luật Báo chí 1989 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Báo chí 1999. Những văn bản này không chỉ cung cấp cơ sở pháp lý cho
hoạt động báo chí mà còn phản ánh sự tiến bộ và thay đổi trong chính sách quản lý của Nhà nước.
2.1. Luật Báo chí 1989
Luật Báo chí 1989 là văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho hoạt động
báo chí tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Trước khi luật này ra đời, hoạt động
báo chí chủ yếu dựa trên các quy định nội bộ của Đảng và Nhà nước mà thiếu một
khung pháp lý cụ thể. Từ khi ban hành luật, báo chí bắt đầu hoạt động năng động
hơn, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới kinh tế và xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, quyền tự do báo chí vẫn bị hạn chế trong phạm vi và sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước.
2.1.1. Cơ sở pháp lý ban đầu
Luật Báo chí 1989 đã xác lập một khung pháp lý rõ ràng, giúp định hướng
hoạt động báo chí theo hướng chuyên nghiệp và có hệ thống hơn. Đây là bước tiến
quan trọng giúp cho báo chí có một nền tảng pháp lý để hoạt động trong môi trường pháp luật.
2.1.2. Quyền tự do báo chí
Luật đã thừa nhận quyền tự do báo chí, một bước tiến quan trọng trong việc
mở rộng không gian tự do cho các cơ quan báo chí và nhà báo. Tuy nhiên, quyền
tự do này vẫn được kiểm soát chặt chẽ bởi Nhà nước, và không phải lúc nào cũng
được thực thi đầy đủ trong thực tế.
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của nhà báo
Luật quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của nhà báo, bao gồm quyền thu
thập, xử lý và công bố thông tin. Nhà báo phải chịu trách nhiệm về tính chính xác
và khách quan của thông tin mà họ đăng tải, đồng thời phải tuân thủ các quy định pháp luật liên quan.
2.2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí 1999
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và sự tiến bộ của công nghệ thông
tin, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí 1999 đã được ban hành.
Những thay đổi này nhằm cập nhật và hoàn thiện các quy định pháp lý về báo chí,
đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của các cơ quan báo chí.
2.2.1. Mở rộng quyền tự do báo chí
Luật sửa đổi năm 1999 đã mở rộng thêm một số quyền tự do cho nhà báo và
cơ quan báo chí, cho phép các nhà báo và cơ quan báo chí hoạt động độc lập hơn,
đồng thời khuyến khích sự đa dạng trong các loại hình báo chí. Các quy định mới
chi tiết hơn, qua đó giúp cho việc thực thi quyền tự do báo chí được hiệu quả, đồng
thời tạo điều kiện cho báo chí phát triển mạnh mẽ.
2.2.2. Quản lý thông tin
Sửa đổi năm 1999 bổ sung các quy định về quản lý thông tin, đặc biệt là
thông tin trên Internet, đảm bảo rằng thông tin trên Internet cũng được kiểm soát
và điều chỉnh. Điều này rất quan trọng trong bối cảnh công nghệ thông tin phát
triển nhanh chóng, và báo chí điện tử trở thành một phần không thể thiếu của hệ
thống thông tin truyền thông.
2.2.3. Bảo vệ nhà báo
Luật sửa đổi đã đưa ra một số quy định nhằm bảo vệ nhà báo, bao gồm
quyền từ chối tiết lộ nguồn tin trong một số trường hợp. Điều này giúp nhà báo có
thể làm việc một cách độc lập và khách quan hơn, đồng thời bảo vệ họ khỏi các áp
lực và nguy cơ tiềm ẩn.
2.2.4. Chế tài xử lý vi phạm
Luật sửa đổi cũng bổ sung các chế tài xử lý nghiêm khắc hơn đối với các
hành vi vi phạm trong hoạt động báo chí. Điều này góp phần nâng cao tính minh
bạch và trách nhiệm của các cơ quan báo chí và nhà báo, đảm bảo rằng các thông
tin được công bố đều có độ tin cậy cao. 2.3. Đánh giá chung
Luật Báo chí 1989 và Luật sửa đổi 1999 đều có những tiến bộ đáng kể trong
việc điều chỉnh hoạt động báo chí tại Việt Nam. Luật Báo chí 1989 đã tạo ra nền
tảng pháp lý ban đầu cho báo chí hoạt động, trong khi Luật sửa đổi 1999 đã mở
rộng và cập nhật các quy định để phù hợp với sự phát triển của xã hội và công
nghệ. Tuy nhiên, cả hai luật này vẫn duy trì sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước
đối với báo chí. Điều này có thể hạn chế một phần tính độc lập và tự do của báo
chí, điều mà cần được tiếp tục cải thiện để đáp ứng các yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế.
Kết luận, Luật Báo chí 1989 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Báo chí 1999 đã có những tiến bộ rõ rệt trong việc điều chỉnh và phát triển hoạt
động báo chí tại Việt Nam. Với việc sửa đổi, bổ sung này, Luật Báo chí đã kịp thời
luật hóa một số hoạt động mới của báo chí cũng như có thêm các loại hình, đồng
thời làm rõ nhiệm vụ và quyền hạn đối với những đối tượng trong lĩnh vực báo chí.
Những thay đổi này phản ánh sự nỗ lực của Nhà nước trong việc tạo ra một môi
trường pháp lý thuận lợi cho báo chí hoạt động, qua đó đảm bảo tính minh bạch và
trách nhiệm của các cơ quan báo chí và nhà báo. Tuy nhiên, để đáp ứng các yêu
cầu phát triển và hội nhập quốc tế, việc tiếp tục cải thiện và điều chỉnh luật báo chí
là cần thiết và quan trọng.
2.4. Tình hình phát triển báo chí trong hơn 15 năm thực hiện luật báo chí
1989 và luật sửa đổi 1999
Việc ban hành Luật Báo chí 1989 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Báo chí 1999 đã tạo ra một khung pháp lý trong bối cảnh đổi mới và hội nhập
quốc tế, nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của xã hội. Báo chí Việt