Quá trình hình thành và phát triển văn hoá Việt Nam thời tiền sử và sơ sử | Bài tiểu luận học phần Đại cương văn hóa Việt Nam
Văn hóa Việt Nam thời tiền sử và sơ sử không chỉ là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của dân tộc, mà còn phản ánh những giá trị và đặc trưng riêng biệt của người Việt. Từ các giai đoạn hình thành đầu tiên, như văn hóa Đông Sơn , văn hóa Sa Huỳnh và văn hoá Đồng Nai , người Việt đã thể hiện sự sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường sống. Những dấu ấn của đời sống tinh thần, phong tục tập quán và nghệ thuật trong thời kỳ này đã tạo nên một bức tranh đa dạng, phong phú, thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo . Sự kết hợp giữa các yếu tố địa lý, lịch sử, và sự giao lưu với các nền văn hóa khác đã góp phần làm phong phú thêm văn hóa Việt Nam, hình thành những truyền thống và giá trị bền vững cho các thế hệ sau. Qua đó, có thể thấy rằng văn hóa Việt Nam không chỉ là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài, mà còn là nguồn lực quan trọng trong việc định hình bản sắc dân tộc và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.
Môn: Đại cương văn hóa Việt Nam ( Phenika)
Trường: Đại học Phenika
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA KHOA DU LỊCH
CHỦ ĐỀ “ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ VIỆT NAM
THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ “
Giảng viên : TS. Đồng Thị Tuyền
Lớp: Đại Cương văn hóa Việt nam -1-1-24 ( N03 ) Thành viên: Trình Văn Tuấn 23011078
Hà Nội, Tháng 10 / 2024 1 MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................................ 3
1. Văn hoá thời tiền sử ........................................................................................................ 4
1.1. Thời gian xuất hiện ...................................................................................................... 4
1.2. Bối cảnh xuất hiện........................................................................................................ 4
1.3. Đặc trưng văn hóa ........................................................................................................ 4
2. Văn hóa Việt Nam thời kì sơ sử ....................................................................................... 6
2.1.Thời kì xuất hiện ........................................................................................................... 6
2.2. Bối cảnh xuất hiện........................................................................................................ 6
2.3. Văn hoá tiền Đông Sơn đến văn hoá Đông Sơn: ........................................................... 7
2.4. Văn hoá Sa Huỳnh: ...................................................................................................... 9
KẾT LUẬN ............................................................................................................................... 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................................... 12 2 LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin trân trọng cảm ơn giảng viên TS. Đồng Thị Tuyền – người
đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận này.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô giáo trường Đại học
PHENIKAA , đặc biệt là các thầy cô khoa Du Lịch – những người đã truyền lửa
và giảng dạy kiến thức cho em suốt thời gian qua.
Mặc dù đã có những đầu tư nhất định trong quá trình làm bài song cũng khó
có thể tránh khỏi những sai sót, em kính mong nhận được ý kiến đóng góp của quý
thầy cô để bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn. 3
1. Văn hoá thời tiền sử
1.1. Thời gian xuất hiện
Giai đoạn bản địa của văn hoá Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầucó
mặt trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỉ I TCN.Đây là một giai đoạn dài
và có tính chất quyết định; là giai đoạn hình thành; phát triển và định vị của văn hoá Việt Nam..
1.2. Bối cảnh xuất hiện
Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nôi của loàingười.
Cách đây khoảng 40- 50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng
đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con người. 1.3. Đặc trưng văn hóa *Thời kì đồ đá cũ : -
Đã xuất hiện các công cụ thô sơ. Trên bề mặt Núi Đọ; các nhà khảo cổ học
thunhặt được hàng vạn mảnh ghè (hay mảnh tước như các nhà khảo cổ học thường
gọi); có bàn tay gia công của người nguyên thuỷ. Những công cụ đá này rất thô
sơ; chứng tỏ “tay nghề” ghè đẽo còn rất vụng về. Người ta tìm thấy ở đây 8 chiếc
rìu tay; loại công cụ được chế tác cẩn thận nhất của người vượn. Sau văn hoá Núi
Đọ; các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ thuộc hậu kì đá cũ ở Việt
Nam. Đó là văn hoá Sơn Vi (xã Sơn Vi; huyện Lâm Thao; tỉnh Phú Thọ) -
Thời gian vào khoảng từ 20 đến 15 nghìn năm TCN; con người (người
hiệnđạiHomo sapiens) đã cư trú trên một địa bàn rất rộng; họ là chủ nhân của nền
văn hoá Sơn Vi từ Lào Cai ở phía Bắc đến Bình Trị Thiên ở phía Nam; từ Sơn La
ở phía Tây đến vùng sông Lục Nam ở Phía Đông. Người Sơn Vi sống chủ yếu trên
các gò đồi của vùng trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngoài ra; người Sơn Vi
còn sống cả trong các hang động núi đá vôi.
+ Kỹ thuật mài đá : con người (người hiện đại- Homo sapiens) dùng đá cuội để
chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kĩ
thuật chế tác; đã có nhiều hình loại ổn định. Tiêu biểu cho công cụ của các cư dân
Sơn Vi là những hòn đá cuội được ghè đẽo ở hai cạnh. Đa số là công cụ chặt; nạo
hay cắt; có loại cắt ngang ở một đầu;có loại có lưỡi dọc ở rìa cạnh; có loại công
cụ có lưỡi chạy xung quanh theo rìa tròn của viên cuội; hoặc có lưỡi ở hai đầu. 4
Dựa vào kĩ thuật chế tác công cụ của cư dân Sơn Vi; giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng
họ đã có tư duy phân loại tư duy phân loại này thể hiện trong lựa chọn nguyên liệu
đá và trong sự đa dạng của các loại hình công cụ.
+ Người nguyên thuỷ đã biết dùng lửa.
+Thủ tục mai tang: người nguyên thủy chôn người chết cạnh nơi ở việc chôn người
chết trong nơi cư trú nói lên niềm tin của người nguyên thuỷ về một thế giới khác;
mà ở đó người chết vẫn tiếp tục “sống”. Những công cụ lao động được chôn bên
cạnh người chết đã chứng tỏ niềm tin ấy. * Thời kì đồ đá mới - Tiền kì
+ Cách đây khoảng một vạn năm đã có những thay đổi quan trọng; đánh dấubước
tiến mới trong lối sống của con người. Loài người bước vào thời đại đồđá mới.
Thời đại đá mới được đặc trưng bởi những tiến bộ về phương thức sản xuất cũng
như kĩ thuật sản xuất. Toàn trái đất trở nên ấm; ẩm ướt; khí hậu môi trường có
những biến đổi lớn; thuận tiện cho sự tồn tại; phát triển của con người; động và
thực vật. Thời kì này con người nhận biết; tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên
vật liệu như đá; đất sét; xương; sừng; tre; gỗ…
+ Kĩ thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao; loại hình công cụ nhiều.
+ Đặc biệt con người đã biết làm gốm;
+ Thuần dưỡng động vật và cây trồng;
+ Bắt đầu sống định cư; dân số gia tăng.
+ Bước đầu xuất hiện một nền nông nghiệp sơ khai: Gần đây; người ta đã tìm thấy
hạt và quả của nhiều loài cây thuộc họ rau đậu và họ bầu bí; được coi là đã thuần
dưỡng trong một số di chỉ văn hoá . Cuộc sống định cư tương đối là một nhân tố
tạo cho sự nảy sinh nghề trồng trọt. Tất nhiên vai trò của nó còn rất nhỏ bé so với
các hoạt động truyền thống hái lượm; và săn bắt (bắn). Có lẽ các hoạt động này
vẫn là hoạt động kinh tế cơ bản của họ.
+ Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hoá Hoà Bình. Cư dân văn hoá Hoà Bình
sống chủ yếu trong các hang động núi đá vôi. Họ thích cư trú trong các khu vực
gần cửa hang; thoáng đãng; có ánh sáng. Môi trường hoạt động của họ rất rộng 5
bao gồm hang- thung- thềm sông; suối. Vì thế; văn hoá Hoà Bình còn được gọi là
nền văn hoá thung lũng. Văn hoá Hoà Bình kéo dài trong khoảng từ 12.000 đến 7000 năm cách ngày nay
- Trong giai đoạn trung kì và hậu kì
+ Không gian sinh sống: con người đã mở rộng không gian sinh tồn; con người đã
chiếm lĩnh và chinh phục hai vùng sinh thái: núi; trước núi và ven biển. Ở vùng
sinh thái ven biển; nghề đánh cá phát triển mạnh. Thời kì này được đặc trưng bởi
các nền văn hoá Đa Bút (Thanh Hoá); Quỳnh Văn (Nghệ An); Hạ Long…với
những làng định cư lâu dài; ổn định; trong đó; bên cạnh quan hệ dòng máu đã xuất
hiện và ngày càng nhiều những quan hệ láng giềng phức tạp.
+Tri thức Cư dân thời đại đá mới có một tri thức phong phú về tự nhiên; những
hang động và những nơi cư trú khác của họ đều là những địa điểm thuận lợi cho
sinh hoạt và sản xuất. Điều này cho thấy con người thời bấy giờ đã biết thích nghi
một cách hài hoà với tự nhiên.Tư duy về thời gian vũ trụ còn được thể hiện bằng
những hoa văn; kí hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn; hình chữ…vẽ trên đồ gốm.
Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành một loại nông lịch sơ khai.
+ Đã có sự xuất hiện của nghệ thuật Thời kì này cũng để lại những dấu vết của
nghệ thuật như những hiện vật bằng xương có vết khắc hình cá; hình thú và những
hình vẽ trên vách hang Đồng Nội; những mảnh thổ hoàng… Người Hoà Bình
+ Tín ngưỡng: Thời kì này cũng xuất hiện những tín ngưỡng nguyên thuỷ. Là cư
dân nông nghiệp nên mưa; gió và đặc biệt là mặt trời đã trở thành một trong những
thần linh quan trọng đối với con người.
2. Văn hóa Việt Nam thời kì sơ sử 2.1.Thời kì xuất hiện
Cách đây khoảng 4000 năm
2.2. Bối cảnh xuất hiện
- Sau thời đại đá cũ; bẵng đi một thời gian dài; đến khoảng hơn 4000 năm cách
ngày nay; trên đất Đông Nam Bộ xuất hiện một lớp cư dân mới. Họ thuộc chủ
nhân của nền văn hoá Đồng Nai thuộc thời đại kim khí (đồng thau và sắt sớm);
sinh sống ở các tiểu vùng sinh thái khác nhau.- Từ lưu vực sông Hồng cho đến lưu
vực sông Đồng Nai.Thời kì này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại ba trung tâm văn 6
hoá lớn là Đông Sơn (miền Bắc); Sa Huỳnh (miền Trung) và Đồng Nai (miền Nam):
+ Văn hoá Đông Sơn (cả giai đoạn tiền Đông Sơn) được coi là cốt lõi của người Việt cổ
+ Văn hoá Sa Huỳnh (cả giai đoạn tiền Sa Huỳnh) được coi là tiền nhân tố của
người Chăm và vương quốc Chămpa.
+ Văn hoá Đồng Nai (cả giai đoạn đồng và sắt) lại là một trong những cội nguồn
hình thành văn hoá Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai- Đa Đảo sinh sống vào
những thế kỉ sau công nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ.
2.3. Văn hoá tiền Đông Sơn đến văn hoá Đông Sơn:
-Vị trí :Nhiều học giả đã thừa nhận rằng chí ít văn hoá Đông Sơn hình thành trực
tiếp từ ba nền văn hoá ở lưu vực sông Hồng; sông Mã; sông Cả
2.3.1. Giai đoạn 2000 đến 700 năm TCN: - Chế tác công cụ
+ Trong giai đoạn này con người vẫn sử dụng đá; gỗ; tre; nứa; xương; sừng… để
chế tạo công cụ và vũ khí.
+ Bên cạnh đó; việc xuất hiện của vật liệu mới- đồng; đã gây ra những tác động to
lớn đối với kinh tế; xã hội và văn hoá của các cộng đồng người.
- Nông nghiệp: Cư dân tiền Đông Sơn là cư dân trồng lúa nước; họ đã biết
chănnuôi một số gia súc như trâu; bò; lợn gà;…
- Nghề làm gốm: Đồ gốm đạt độ nung cao hơn; dày và cứng hơn; đa số có màuxanh mốc.
- Nghệ thuật : họ đã làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa; biểu hiệntính
đối xứng chặt chẽ của các mô típ hoa văn trong trang trí. Họ biết tới nhiều dạng
đối xứng khác nhau. Điều này cho thấy sự phát triển nhận thức hình học và tư
duy chính xác nhờ hoạt động sản xuất nông nghiệp và kĩ thuật chế tác đá; đúc đồng.
2.3.2.Vào khoảng thế kỉ VII TCN 7
- Các nền văn hoá bộ lạc mất dần tính địa phương tiến tới chỗ hoà chung vàomột
nền văn hoá thống nhất- văn hoá Đông Sơn. Đó là lúc các nhóm bộ lạc liên kết
lại trong một quốc gia: nước Văn Lang. Tính thống nhất văn hoá được hiện rõ
trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt- Trung cho đến bờ sông Gianh Quảng Bình
- Nông nghiệp: cư dân văn hoá Đông Sơn vẫn là cư dân nông nghiệp trồng lúa.Họ
canh tác trên nhiều loại đất khác nhau. Hình thức canh tác phổ biến là loại ruộng
chờ mưa. Thời kì này họ có thể đã có những kĩ thuật trị thuỷ như đắp đê chống
lụt. Các loại hình nông cụ của cư dân Đông Sơn đã khá đadạng với cuốc; xẻng;
mai; thuổng và đặc biệt lưỡi cày bằng kim loại đã tạo nên bước nhảy vọt trong kĩ thuật canh tác - Nghề luyện kim
+ Kĩ thuật đúc đồng thau đạt tới đỉnh cao của thời kì này; với một trình độ điêu
luyện đáng kinh ngạc. Số lượng và loại hình công cụ; vũ khí bằng đồng tăng vọt.
Đặc biệt; người Đông Sơn đã đúc những hiện vật bằng đồng kích thước lớn; trang
trí hoa văn phong phú; mà cho tớingày nay nó vẫn là biểu tượng của văn hoá dân
tộc. Đó là những trống đồng; thạp đồng Đông Sơn nổi tiếng; chứng tỏ trình độ kĩ
thuật và bàntay tài hoa của người thợ Đông Sơn.
+Kĩ thuật luyện và rèn sắt cũng khá phát triển; đặc biệt ở giai đoạn cuối của văn hoá Đông Sơn.
- Trang phục: khá phong phú; không phải chỉ biết có ở trần; đóng khổ; mặc vỏsui
như nhiều người thường nghĩ. Dựa trên trang trí trên cán dao găm hình người;
hoa văn trên trống đồng và thư tịch cổ; ta biết được ít nhất có bốn kiêủ để tóc.
Các tài liệu đều phản ánh lối ăn mặc quần áo theo phương châm giản dị; gọn
gàng tới mức tối đa: Ở trần; đóng khố; đi chân đất. Riêng với nữ phổ biến mặc
váy thay khố. Tuy vậy cũng có một số áo cánh dài tay; áo xẻ ngực bên trong có
yếm. Ngoài ra còn có một số trang phục lễ hội như váy lông chim hay lá kết; khố dài thêu…
- Ẩm thực: Khác với cư dân trước đó (ăn gạo nếp là chủ yếu) cư dân Đông Sơnbắt
đầu ăn gạo tẻ. Điều này được các nhà nghiên cứu lí giải bằng sự bùng nổ dân số
vào giai đoạn đầu của văn hoá Đông Sơn; khiến cho cư dân phải mở rộng diện
cư trú đến những vùng đất mới. 8
- Phương thức quảng canh; trồng cấy đại trà ở những vùng đất mới này khôngthích
hợp với giống lúa nếp. Từ đó suy ra hệ quả là gạo tẻ trở thành thành phần chính
trong cơ cấu lương thực; gạo nếp trở thành quý hiếm; được dùng chủ yếu trong
lễ tết cầu cúng.Ngoài gạo họ còn ăn các loại hoa màu; rau quả; thuỷ sản.
- Kiến trúc:Nhà ở của cư dân Đông Sơn được tạo ra bằng những vật liệu dễ bị phá
huỷ theo thời gian. Hình dáng nhà có các loại mái cong; mái tròn; và là nhà sàn.
Lựa chọn kiểu kiến trúc nhà sàn cũng là sự ứng xử thông minh trước môi trường
của người Việt cổ để tránh thú dữ
- Phương tiện di chuyển: về phương tiện đi lại; chủ yếu là thuyền bè; đường vận
chuyển chủ yếu là đường sông và ven biển. Ngoài ra còn có đi bộ; gánh gồng
mang vác trên vai; trên lưng. Và con người đã biết thuần dưỡng voi; dùng voi để chuyên chở.
- Tín ngưỡng : Những nghi lễ và tín ngưỡng giai đoạn này gắn chặt với nghềnông
trồng lúa nước. Đó là tục thờ mặt trời; mưa dông; các nghi lễ phồn thực và những
nghi lễ nông nghiệp khác như hát đối đáp gái trai; tục đua thuyền; tục thả diều;…
- Nghệ thuật : Nghệ thuật âm nhạc là ngành nghệ thuật quan trọng đã khá pháttriển
thể hiện đời sống tinh thần của cả cư dân Đông Sơn. Nhạc cụ đáng lưu ý là trống
đồng; sau đó là sênh; phách; khèn. 2.4. Văn hoá Sa Huỳnh:
-Vị trí: từ Đèo Ngang đến Đồng Nai
- Hình thức mai tang : một đặc trưng tiêu biểu của văn hoá Sa Huỳnh là hìnhthức
mai táng bằng chum gốm suốt từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn (ngoại trừ
mộ huyệt đất ở Bình Châu- Quảng Ngãi). Trên địa bàn phân bố của văn hoá Sa
Huỳnh từ gò đồi phía Tây cho đến đồng bằng ven biển và hảiđảo phía Đông; đã
phát hiện nhiều khu mộ- những bãi mộ chum rộng lớn; nhiều tầng lớp với những
loại hình vò; chum mai táng hình cầu; hình trứng; hình trụ có kích thước lớn nắp
đậy hình nón cụt hay lồng bàn; phân bố thànhcụm hay lẻ tẻ.
- Nông nghiệp: Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của những cư dân nông
nghiệptrồng lúa ở những đồng bằng ven biển. Tuy vậy nền kinh tế của họ là nền
kinh tế đa thành phần; họ sớm biết khai thác những nguồn lợi của biển; của rừng,… 9
- Nghề luyện kim : đồng thau đã được người Sa Huỳnh sử dụng để chế tác côngcụ
và vũ khí. Sang tới giai đoạn cuối; đồ sắt chiếm lĩnh cả về số lượng và chất lượng.
Nét độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là kĩ thuật chế tạo đồ sắt (chủ yếu bằng phương
pháp rèn). Nếu thống kê các đồ sắt Sa Huỳnh đã đượcphát hiện đến nay thì số
lượng lên đến hàng trăm chiếc; chủng loại đa dạng gồm rựa; dao quắm; giáo;
mai; liềm; thuổng; kiếm ngắn;…
- Nghề làm gốm: Nghề gốm rất phát triển với nhiều loại chum; vò ; bát bồng;đèn;
hình bình lãng hoa; bình con tiện; cốc cao chân… và vô số những đồ gia dụng.
Gốm được trang trí phong phú với những đồ án phức tạp kết hợp tô màu; khắc
vạch. Nhiều đồ gốm được nung ở nhiệt độ cao; lửa được khống chế tốt (đôi khi cứng như sành)
- Nghề làm thủy tinh: Cư dân văn hóa Sa Huỳnh còn biết nấu cát làm thuỷ tinhvà
dùng thuỷ tinh để chế tạo đồ trang sức (hạt cườm; hạt chuỗi; vòng tai; khuyên tai ba mấu; hai đầu thú…)
- Trang sức : Họ rất ưa dùng đồ trang sức (vòng; nhẫn; khuyên tai…) bằng
thuỷtinh; mã não; đá; gốm; nephrit. Chất liệu được ưa thích nhất là mã não (mã
não được nhập từ nơi khác đến vì vùng miền Trung không có nguyên liệu này).
Khuyên tai (hay bùa đeo) hai đầu thú và ba mẩu là một chế phẩm Sa Huỳnh đặc thù. - Vị trí : Đông Nam Bộ
- Hình thức mai tang: đặc trưng bởi những khu mộ chum kiểu mộ chum văn hoáSa
Huỳnh với những loại hình hiện vật bằng sắt; bằng đá; đá mã não; thuỷ tinh bên
cạnh những hiện vật gốm; đá điển hình của văn hoá Đồng Nai.
- Công cụ sản xuất :Ở cả năm tiểu vùng văn hoá tiền – sơ sử Đông Nam Bộ; divật
được đưa ra khỏi lòng đất từ nhiều dạng di di tích khảo cổ khác nhau với nhiều
chất liệu gốm; đá; gỗ; đồng; sắt; xương…Đó là loại di vật phổ biến và có số
lượng lớn. Đây cũng là đặc điểm lớn nhất của văn hoá Đồng Nai- nơi mà công
cụ; dụng cụ bằng đá lấn át mạnh mẽ và dài lâu- kim loại do thiếu vắng các nguồn
quặng đồng và hợp kim bản địa trong toàn miền. Kĩ thuật chế tác đá mang nhiều
tính chất thực dụng; tiết kiệm tối đa công sức vànguyên liệu. Bộ công cụ đá mang
đặc tính chuyên môn hoá cao. 10
- Nông nghiệp: trồng lúa cạn không dùng sức kéo; trồng rau đậu; cây có quả-củcho
bột bằng phương pháp phát- đốt đặc thù của nông nghiệp nương rẫy; chăn nuôi;
săn bắn; hái lượm; đánh bắt cá; tôm và nhuyễn thể của sông biển. Đặc biệt là đã
có sự chuyên môn hoá- phân công lao động- phân vùng kinh tế hoà nhập với từng miền sinh cảnh.
- Nghề làm gốm: xuất hiện trong những di tích sớm và tồn tại trong suốt quátrình
lịch sử cư dân văn hoá Đồng Nai. Chế tạo và sử dụng đồ dùng đun nấu-ăn uống
đơn giản về dáng vẻ; mộc mạc và trang trí không cầu kì; song gốm được nung ở
độ nung cao và bằng kĩ thuật bàn xoay.
- Nghệ thuật: Một loại hình nữa là đàn đá- đây là chế phẩm đặc thù của
vănhoáĐồng Nai; đàn đá có mặt ở nhiều di tích; có niên đại khoảng 3000 năm
cách ngày nay. Đặc biệt là ở Bình Đa; lần đầu tiên đàn đá được tìm thấy trong
một tầng văn hoá cổ; cùng với tổ hợp di vật gốm đá khác. Phát hiện này đã giúp
xác định được niên đại đàn đá; khẳng định sự tồn tại của một nhạc cụ cổ truyền
ở Đồng Nai nói riêng và ở nước ta nói chung.
- Trang sức: Loại hình trang sức thường gặp là các loại vòng; vật đeo.- Tínngưỡng:
Tín ngưỡng đặc sắc nhất là sưu tập thẻ đeo bằng đá cuội mài dẹt hình gần ôvan
hoặc chữ nhật và bán cầu có lỗ thủng tròn hay tạo núm ở đầu; tượng lợn; rùa
bằng sa thạch; tượng chó săn mồi bằng đồng ở Dốc Chùa; tượng Trút Long giao bằng đồng… 11 KẾT LUẬN
Văn hóa Việt Nam thời tiền sử và sơ sử không chỉ là nền tảng vững chắc cho sự
phát triển của dân tộc, mà còn phản ánh những giá trị và đặc trưng riêng biệt của
người Việt. Từ các giai đoạn hình thành đầu tiên, như văn hóa Đông Sơn , văn hóa
Sa Huỳnh và văn hoá Đồng Nai , người Việt đã thể hiện sự sáng tạo và khả năng
thích ứng với môi trường sống. Những dấu ấn của đời sống tinh thần, phong tục
tập quán và nghệ thuật trong thời kỳ này đã tạo nên một bức tranh đa dạng, phong
phú, thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo . Sự kết hợp giữa các yếu tố địa lý, lịch sử,
và sự giao lưu với các nền văn hóa khác đã góp phần làm phong phú thêm văn hóa
Việt Nam, hình thành những truyền thống và giá trị bền vững cho các thế hệ sau.
Qua đó, có thể thấy rằng văn hóa Việt Nam không chỉ là sản phẩm của quá trình
phát triển lâu dài, mà còn là nguồn lực quan trọng trong việc định hình bản sắc
dân tộc và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế . Nhìn chung,
nghiên cứu về văn hóa Việt Nam thời kỳ này không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về quá khứ, mà còn góp phần định hướng cho sự phát triển văn hóa trong tương
lai, khuyến khích việc gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống trong bối
cảnh hội nhập toàn cầu. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cơ sở văn hóa Việt Nam – Trần Ngọc Thêm
2. https://www.gddt.edu.vn/lich-su-viet-nam/lich-su-viet-nam-thoi-tien- su.html 12