-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Quan điểm biện chứng duy vật về phương thức của sự phát triển và nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập... của sinh viên | Bài tập lớn triết học mác - lênin
Quan điểm biện chứng duy vật về phương thức của sự phát triển và nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập... của sinh viên | Tiểu luận triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Quan điểm biện chứng duy vật về phương thức của sự phát triển và nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập... của sinh viên | Bài tập lớn triết học mác - lênin
Quan điểm biện chứng duy vật về phương thức của sự phát triển và nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập... của sinh viên | Tiểu luận triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
lOMoAR cPSD| 44919514
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ----------o0o----------
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN ĐỀ TÀI:
“Quan điểm biện chứng duy vật về phương thức của sự phát
triển và nghĩa của việc nghiên cứu quan điểm đó trong nghiên
cứu, học tập/... của sinh viên.” Họ và tên: Nhữ Đình Tuân Mã số sinh viên: 11226683 Lớp tín chỉ: LLNL1105(222)_13 GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội, tháng 5/2022 lOMoAR cPSD| 44919514 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................3 lOMoAR cPSD| 44919514 LỜI MỞ ĐẦU
Từ xa xưa, con người đã có những thắc mắc, phỏng đoán về sự tác động qua
lại của các sự vật, hiện tượng có sự đối lập. Mọi sự vật và hiện tượng trên thế giới
luôn trong quá trình vận động và phát triển. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự vận
động và phát triển ấy? Trong Triết học và tôn giáo có những quan điểm khác nhau
về vấn đề này. Những người theo chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thường cho rằng,
mọi vật biến hóa trong vũ trụ đều do một lực lượng siêu tự nhiên nào đó ( trời , thần
thánh, ...) gây ra. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, nguồn gốc vận
động, phát triển của mọi sự vật và hiện tượng là do mâu thuẫn trong bản thân chúng.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) là một
trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là quy luật quan trọng nhất
trong phép biện chứng duy vật trong Triết học Mác- Lênin. Quy luật mâu thuẫn thể
hiện bản chất, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật bởi nó đề cập tới vấn đề cơ
bản và quan trọng nhất trong phép biện chứng duy vật- vấn đề nguyên nhân, động
lực của sự vận động, phát triển. Theo Lênin “ có thể định nghĩa vắn tắt phép biện
chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt
nhân của phép biện chứng”. Nắm được linh hồn của quy luật mâu thuẫn giúp ta hình
thành thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn, tư duy khoa học để khám phá bản
chất sự vật và giải quyết đúng đắn, tận gốc của các mâu thuẫn nảy sinh trong sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, em đã chọn đề tài: “Phân tích
quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây
dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn.” Do thời gian có hạn
và kiến thức bản thân còn hạn chế cho nên bài viết sẽ không thể tránh khỏi nhiều
thiếu sót. Vậy kính mong sự góp ý, chỉ bảo của thầy giáo, em xin chân thành cảm ơn! lOMoAR cPSD| 44919514 NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ THUYẾT LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT 1.1
Khái niệm chung
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của quy luật - Khái niệm quy luật: •
Quy luật có thể hiểu theo cách thông thường và đơn giản nhất đó chính là
những hiện tượng có tính logic, trật tự và lặp đi lặp lại trong cuộc sống hằng ngày.
Nó đã trở thành một vòng tuần hoàn lặp đi lặp lại và không dừng lại hay bỏ qua bước nào. •
Còn quy luật được xác định dưới góc nhìn của triết học thì nó lại là sản phẩm
của hoạt động tư duy khoa học. Quy luật sẽ phản ánh sự liên hệ của các sự vật và
tính tổng thể của chúng. Việc này có thể hiểu là những sự việc, hiện tượng trong
cuộc sống, và dưới tư duy, nhận thức của con người, mà nó được đúc kết thành
những quy luật cụ thể. •
Các quy luật được phản ánh trong các khoa học không phải là sự sáng tạo tùy
ý của con người. Các quy luật do khoa học phát hiện ra chính là sự phản ánh các quy
luật khách quan của tự nhiên, xã hội cũng như tư duy con người.
- Đặc điểm của quy luật: •
Về tính khách quan và tính đương nhiên: Như chúng ta đã biết thì sự tồn
tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí, tư duy của con người chính là một trong
những đặc điểm cơ bản và không thể thiếu được của quy luật. Đồng thời, các quy
luật được nêu ra sẽ là sự phản ánh của nhận thức, tư duy của con người đối với thế
giới khách quan bên ngoài. •
Về tính ổn định: Quy luật phản ánh mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến
thì nó được nhận định thông qua đặc điểm về việc mang tính ổn định của nó. Bên
cạnh đó thì quy luật mang tính ổn định được xác định là sự lặp đi lặp lại giữa các lOMoAR cPSD| 44919514
yếu tố, thuộc tính trong cùng một sự vật, hiện tượng xác định hoặc giữa các sự vật với nhau.
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của chất và lượng
a. Khái niệm và đặc điểm của chất - Khái niệm của chất: •
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố
cấu thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các
sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất
vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Tính lỏng của nước ở nhiệt độ thường có sự khác biết với tính rắn của
nước ở nhiệt độ thấp, tính bay hơi của nước ở nhiệt độ cao.
- Đặc điểm của chất: •
Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do những thuộc
tính, những yếu tố cấu thành quy định. Thuộc tính của sự vật là những tính chất,
những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật
từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của
nó. Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra
thông qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác. •
Thể hiện tính tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng. Nghĩa là khi nó chưa
chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Mỗi sự
vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại, phát triển qua nhiều giai đoạn, trong mỗi
giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. •
Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có thể có nhiều chất.
Nhờ đó, con người có thể phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. lOMoAR cPSD| 44919514
Ví dụ: Sắt là nguyên tố hóa học có ký hiệu là Fe, số nguyên tử bằng 26, phân
nhóm 2, chu kỳ 4. Những thuộc tính (tính chất) này nói lên chất riêng của sắt,
phân biệt nó với các kim loại khác. - Biểu hiện của chất: •
Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó, nhưng không
phải bất kì thuộc tính nào cũng có sự biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự
vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật. Đó là những
cái của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và
phát triển của sự vật. Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính lại biểu hiện 1 chất của sự vật. •
Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ,
không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật không có
chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được biểu hiện qua
những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện
chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Ví dụ: Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế tạo
sử dụng công cụ, có tư duy là thuộc tính cơ bản của con người còn những
thuộc tính khác không là thuộc tính cơ bản. Song trong quan hệ giữa những
con người cụ thể với nhau thì những thuộc tính con người về nhận dạng, về
dấu vân tay... lại trở thành thuộc tính cơ bản. •
Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính
chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng
thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Những thuộc tính của sự vật
chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác. Sự phân chia thuộc tính
thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương
đối, tùy theo từng mối quan hệ. Chất của sự vật không những quy định bởi chất của
những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, lOMoAR cPSD| 44919514
nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các
yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác nhau.
Ví dụ: Kim cương và than chì đều có cùng thành phần hoá học là nguyên tố
các bon tạo nên; nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử các bon
là khác nhau, vì thế chất của chúng hoàn toàn khác nhau. Kim cương rất
cứng, còn than chì lại rất mềm. •
Mỗi sự vật có vô vàn chất: vì sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ có ý
nghĩa tương đối, song sự vật có vô vàn thuộc tính nên có vô vàn chất. Chất và sự vật
không tách rời nhau: chất là chất của sự vật, còn sự vật tồn tại với tính quy định về
chất của nó. Chất biểu hiện trạng thái tương đối ổn định của sự vật, là sự kết hợp
tương đối trọn vẹn, hoàn chỉnh, bền vững các thuộc tính của sự vật, làm cho sự vật
này không hòa lẫn với sự vật khác mà tách biệt cái này với cái khác. Chất luôn gắn
liền với lượng của sự vật.
b. Khái niệm và đặc điểm của lượng
- Khái niệm của lượng:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng
như các thuộc tính của sự vật. Lượng của sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người
Ví dụ: Số lượng sinh viên của một lớp là 60 người.
Khi ta nói đến lượng nguyên tố hóa học trong một phân tử nước là H20 nghĩa
là gồm hai nguyên tử hiđrô và một nguyên tử ôxi.
- Đặc điểm của lượng: •
Lượng có tính khách quan bởi vì lượng là một dạng biểu hiện của vật chất, nó
chiếm một vị trí nhất định trong một không gian và tồn tại trong khoảng thời gian lOMoAR cPSD| 44919514
nhất định. Trong các sự vật hiện tượng thì có nhiều loại lượng khác nhau như: có
lượng chính là yếu tố quyết định bên trong, nhưng có lượng chỉ thể hiện các yếu tố
bên ngoài của các sự vật, hiện tượng; các sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng
của chúng cũng sẽ phải phức tạp theo. •
Lượng sẽ thường xuyên biến đổi: Bản thân về lượng không nói lên các sự vật
đó là gì, các thông số về lượng cũng không ổn định mà nó lại thường xuyên biến đổi
cùng với các sự vận động biến đổi của những sự vật , đó chính là mặt không ổn định của các sự vật.
Ví dụ như số lượng của các nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng
nguyên tử này biến đổi không ngừng thông qua các phản ứng hoá học của
nguyên tố đó với môi trường hay các nguyên tố khác. •
Lượng có thể sẽ được xác định bằng những đơn vị đo lường cụ thể hoặc nó
có thể nhận thức bằng những con đường trừu tượng và khái quát hóa.
Ví dụ: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng lượng của
cơ thể hay chiều cao của một con người…
Có những lượng phải bằng khái quát, trừu tượng chúng ta mới nhận thức
được như lượng tri thức hiểu biết của một lớp học cao hay thấp… - Biểu hiện của lượng: •
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy
mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,… •
Lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp
thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có những
lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Ví dụ: Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị
đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây; một
phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử oxy,… lOMoAR cPSD| 44919514
1.1.3 Phân biệt chất và lượng
- Chất và lượng là hai mặt đối lập nhau. Chất mang tính tương đối ổn định. Còn
lượng thì ngược lại, nó có thể thường xuyên thay đổi. Tuy nhiên, chất và lượng
không tách rời nhau mà chúng thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Lượng
thay đổi có thể dẫn đến sự thay đổi về chất.
- Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Điều này phụ
thuộc vào từng mối quan hệ cụ thể xác định. Có những tính quy định trong
mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị
lượng của sự vật và ngược lại. Chẳng hạn số sinh viên học giỏi nhất định của
một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là
dù số lượng cụ thể quy định thuần tuý về lượng, song số lượng ấy cũng có
tính quy định về chất của sự vật.
1.2 Quy luật sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
- Như chúng ta đã biết, quy luật về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Nội dung của nó không chỉ giới hạn trong một hay một số lĩnh vực cụ
thể mà bao trùm lên mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
1.2.1 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng – chất
- Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm chất và lượng nhất định,
trong đó chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự biến
đổi này tạo ra mâu thuẫn giữa lượng và chất. Lượng biến đổi đến một mức độ
nhất định và trong những điều kiện nhất định thì lượng phá vỡ chất cũ, mâu
thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với lượng
mới, nhưng lượng mới lại biến đổi và phá vỡ chất đang kìm hãm nó. Quá trình
tác động lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng tạo nên sự vận động liên tục, từ
biến đổi dần dần đến nhảy vọt, rồi lại biến đổi dần để chuẩn lOMoAR cPSD| 44919514
bị cho bước nhảy vọt tiếp theo. Cứ căn cứ thế, quá trình động biện chứng giữa
chất và lượng tạo nên cách thức vận động, phát triển của sự vật.
- Nói ngắn gọn hơn, bất cứ sự vật nào trong quá trình phát triển đều là quá trình
biến đổi về lượng dẫn đến biến đổi về chất. Biến đổi về lượng đến một mức
nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất mới. Rồi trên nền tảng của
chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về lượng là nền tảng và chuẩn
bị tất yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về chất là kết quả tất yếu của biến đổi
về lượng. Quy luật biến đổi về chất và lượng cho thấy trạng thái và quá trình
phát triển của sự vật.
- Mối quan hệ giữa chất và lượng đều có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn và
nhận thức. Chúng chống lại quan điểm tả khuynh và hữu khuynh. Mối quan
hệ này giúp ta có thái độ khách quan khoa học. Đồng thời là có quyết tâm thực
hiện các thay đổi khi có các điều kiện đầy đủ.
Ví dụ: khi ta nung một thỏi thép đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có
thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí có thể lên tới hàng ngàn độ, song thỏi thép
vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng.
1.2.2 Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất
- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Khi sự vật vận động và
phát triển, chất và lượng của nó cũng vận động, biến đổi, thay đổi. Sự thay
đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát triển
của sự vật. Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ không
tách rời nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng sự thay đổi về
chất của sự vật và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay
đổi về lượng của nó. Sự thay đổi về lượng có thể làm thay đổi ngay lập tức về
chất của sự vật. Mặt khác, có thể trong một giới hạn nhất định khi lượng của
sự vật thay đổi , nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản
- Sự biến đổi về lượng có thể xảy ra theo hai hướng: sự tăng lên hoặc giảm đi
về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay hoặc thay đổi dần dần về chất. Do chất là lOMoAR cPSD| 44919514
cái tương đối ổn định còn lượng là cái thường xuyên biến đổi nên ở một giới
hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi chưa dẫn đến sự thay đổi về chất
của nó. Giới hạn đó được gọi là độ. •
Định nghĩa: “Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa
lượng và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm
thay đổi căn bản về chất của sự vật”.
Ví dụ: Từ 0 đến dưới 100 độ C, nước vẫn ở thể lỏng. Trong khoảng 0 < t <
100 độ C, sự thống nhất giữa trạng thái nước lỏng và nhiệt độ C tương ứng
là “độ” tồn tại của nước lỏng. (Ở đây cần phân biệt “độ C” và “độ tồn tại”
là hai khái niệm khác nhau). Nếu quá 100 độ C, nước sẽ chuyển thành hơi
nước. Nếu ở dưới 0 độ C, nước sẽ ở thể rắn.
- Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về
lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay
đổi căn bản về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. •
Định nghĩa: “Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay
đổi về chất của sự vật gọi là điểm nút”.
Ví dụ: Ở những ví dụ đã nêu trên, 0 độ C, 100 độ C, 146 tuổi là những điểm nút.
- Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới.
Sự thống nhất giữa lượng mới và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút
mới. Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới
và điểm nút mới của sự vật đó, quá trình này diễn ra liên tếp trong sự vật và
vì vậy sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại.
- Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi gây ra gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. lOMoAR cPSD| 44919514 •
Định nghĩa: “Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn
chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra”.
Ví dụ: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là một bước nhảy. Có bước
nhảy này là do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100 độ C.
- Trong lịch sử triết học, do tuyệt đối hóa tính dần dần, tính tiệm tiến của sự
thay đổi về lượng nên các nhà triết học siêu hình đã phủ nhận sự tồn tại của
“bước nhảy”. Triết học Mác – Lênin cho rằng phải có “bước nhảy” thì mới
giải thích được sự vận động, phát triển của thực tế. Bước nhảy là sự kết thúc
của một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn
phát triển mới. Đó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên
tục của sự vật. Có thể nói trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn
là tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
- Các hình thức cơ bản của bước nhảy: •
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn
làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. •
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi. •
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các
yếu tố cấu thành sự vật. •
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất những yếu tố riêng của sự vật.
- Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về
lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.
Song điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay
đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định. Chẳng
hạn thời gian để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá ở mỗi nước là khác lOMoAR cPSD| 44919514
nhau. Có những nước mất 150 năm, có những nước mất 60 năm nhưng cũng
có những nước chỉ mất 15 năm.
1.2.3 Phương pháp luận chung và ý nghĩa phương pháp của quy luật
- Phương pháp luận chung: •
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích lũy
về lượng để có biến đổi về chất, không được nôn nóng cũng như bảo thủ. Bước nhảy
làm cho chất mới ra đời thay thế chất cũ là hình thức tất yếu của sự vận động, phát
triển của sự vật hiện tượng. Tuy nhiên, những thay đổi về chất do bước nhảy gây ra
nên vì vậy khi lượng tích lũy đến mức giới hạn, đến điểm nút, độ nên muốn tạo ra
bước nhảy phải thực hiện quá trình tích lũy về lượng. •
Thứ hai, vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn đến những biến đổi về chất
của sự vật, hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút,
do đó, trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng là khuynh;
mặt khác, theo tính tất yếu quy luật khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn điểm
nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật, hiện tượng. Vì thế
cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Tả
khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí, không tích lũy
về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về chất. Hữu khuynh
là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước nhảy mặc dù
lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự biến hóa về lượng. •
Thứ ba, vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng hết sức đa dạng, phong phú, do
vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức
của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong
đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan,
mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao
tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất
một cách hiệu quả nhất. lOMoAR cPSD| 44919514 •
Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng, do đó
phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó
trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
- Ý nghĩa của phương pháp luận: •
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây: •
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ
dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về
chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết
từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt động
của mình, ông cha ta đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại”,
“năng nhặt, chặt bị”, “góp gió thành bão”,… Những việc làm vĩ đại của con người
bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó.
Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn
nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục. Quy luật
của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của tự
nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua
hoạt động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có
quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng
thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những
thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng
bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh” thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là
sự thay đổi đơn thuần về lượng. •
Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của
bước nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện
khách quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều
kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể. Mặt khác, đời sống xã hội của con người rất đa dạng, lOMoAR cPSD| 44919514
phong phú do rất nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện được bước nhảy toàn
bộ, trước hết, phải thực hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất của từng yếu tố. •
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên
kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động
vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất,
quy luật, kết cấu của sự vật đó. Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về gen, con
người có thể tác động vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm
cho gen biến đổi. Trong một tập thể cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các
thành viên trong tập thể ấy thay đổi có tính chất toàn bộ thì rất có thể sẽ làm cho tập thể đó vững mạnh.