Quan điểm toàn diện và sự vận dụng trong cuộc sống của bản thân - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ****************
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: Quan điểm toàn diện và sự vận dụng
trong cuộc sống của bản thân.
Họ tên : Lê Văn Thắng
Mã sinh viên : 11203536
Lớp : Kinh doanh thương mại 62D
GVHD : TS. Lê Ngọc Thông Hà Nội – 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ****************
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: Quan điểm toàn diện và sự vận dụng
trong cuộc sống của bản thân. Hà Nội – 2020 2 MỤC LỤC
A. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 4
Tính cấp thiết của vấn đề 4 B. NỘI DUNG 5 I. Cơ sở khoa học 5
1. Nguyên lí mối liên hệ phổ biến 5
2. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác – Lênin 8
II. Vận dụng quan điểm toàn diện trong cuộc sống của bản thân 9 1. Thực trạng 9
1.1 Ưu điểm trong việc vận dụng quan điểm toàn diện vào cuộc sống của bản thân 10
1.2 Hạn chế trong việc vận dụng quan điểm toàn diện vào cuộc sống của bản thân 11 2. Nguyên nhân 12 3. Giải pháp 12 C. KẾT LUẬN 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
LỜI CẢM ƠN 15 3
A. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Tính cấp thiết của vấn đề
Trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới đang diễn ra
với một tốc độ chóng mặt. Bên cạnh những thành tựu về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,…
thì sự thay đổi đó cũng tiềm ẩn không ít hạn chế, đặc biệt là những tác động tới tư tưởng và
lối sống của nhiều người.
Đặc biệt ở đây, lối sống của sinh viên là một vấn đề rất được quan tâm. Sinh viên là một bộ
phận đông đảo có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Họ là lớp người
đang được đào tạo toàn diện và đầy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các
lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học… Chính vì vậy, sinh viên mang trong mình sức mạnh
của tuổi trẻ, nắm trong tay tri thức của thời đại và họ sẽ là những người làm nên vận mệnh
của đất nước trong một tương lai không xa. Hơn ai hết, họ là những người cần có nhận thức
đúng đắn trong cách đánh giá, nhìn nhận sự vật, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống hàng
ngày. Tuy nhiên vì phải chịu sự tác động của nhiều yếu tố như chuyên ngành theo học, sự
phân bố khác nhau của các trường đại học, nơi sống và học tập…, lối sống của sinh viên
Việt Nam hiện nay rất khó quản lí. Đặc biệt trong giai đoạn này, trước những sự tác động
của cơ chế thị trường và sự du nhập các nền văn hóa trên thế giới vào Việt Nam, một bộ
phận sinh viên đã có lối sống chưa lành mạnh, bị lôi kéo và dụ dỗ tham gia những hoạt
động ảnh hưởng tới sự phát triển bản thân. Song điều đáng lo ngại hơn là tình trạng này
đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ, những biểu hiện xa rời thực tế, xa rời chủ nghĩa Mác –
Lênin đã gây nên vấn đề nhức nhối trong cộng đồng.
Dẫu biết mỗi người sẽ có một cách thích ứng riêng, theo chủ quan cá nhân nhưng trước
những yêu cầu khách quan của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta cần hành động để hỗ trợ sinh viên trong hoạt động nhận thức và phát triển nhân
cách. Với mong muốn có thể góp sức vào nhiệm vụ đó, em đã thực hiện nghiên cứu đề tài:
“Quan điểm toàn diện và sự vận dụng trong cuộc sống bản thân”. 4 B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC
Trước hết, chúng ta có thể thấy rằng quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn là nguyên tắc được rút ra từ nguyên lí về mối liên hệ phổ biến trong phép
biện chứng duy vật. Việc mỗi người cần nhận thức một cách đúng đắn cũng như nắm được
cách vận dụng nó vào trong cuộc sống của chính mình là điều rất cần thiết. Nhưng trong
quá trình tiếp nhận và vận dụng quan điểm toàn diện, sẽ khó tránh khỏi những sai lầm, bởi
vậy mỗi người phải nắm vững cơ sở lí luận của nó mà quan trọng nhất chính là nguyên lí về
mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin.
1. NGUYÊN LÍ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
Theo quan điểm siêu hình, các sự vật, hiện tượng chỉ đứng bên cạnh nhau, chúng tồn tại
một cách độc lập và hoàn toàn tách rời nhau, giữa chúng không nảy sinh, hình thành bất kì
mối liên hệ hay tương tác nào. Đồng thời, những người theo trường phái này cho rằng nếu
các sự vật, hiện tượng trong thế giới thực tại có sự liên hệ, ràng buộc lẫn nhau thì tất cả
những điều đó cũng chỉ được xem là hình thức bề ngoài, hoàn toàn ngẫu nhiên.
Trong thực tế, chúng ta đã bắt gặp một vài nhà triết học đồng tình với quan điểm các sự vật,
hiện tượng trong thế giới hiện tại có sự ảnh hưởng nhất định tới nhau, nhưng họ cũng nói
rằng giữa những sự vật, hiện tượng đó căn bản không hề tồn tại quá trình chuyển hóa lẫn
nhau, sự liên hệ với nhau vẫn mang tính độc lập và vì vậy mà sẽ tồn tại một cách tách rời
hoàn toàn. Đến đây, ta đã thấy điểm bất cập của quan điểm siêu hình bởi nếu theo quan
điểm này thì có nghĩa mọi sự quá trình biến đổi đang diễn ra của giới tự nhiên, mọi thực thể
đang tồn tại không thể có sự phát triển, tiến hóa, và nếu có thì điều ấy cũng chỉ diễn ra ở
mức rất hạn chế. Do vậy, họ “chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa
những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy sự hình thành và tiêu vong
của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật và không thấy trạng thái động của sự vật, chỉ
thấy cây mà không thấy rừng”. [1]
Ngược lại quan điểm biện chứng thừa nhận có mối liên hệ phổ biến giữa các đối tượng,
mọi tồn tại trong thế giới đều là những mắt khâu của một thể thống nhất. Các sự vật, hiện
tượng ở đây ngoài sự tồn tại độc lập, tách rời thì vẫn có những liên hệ nhất định với nhau,
có sự ảnh hưởng và quy định, chuyển hóa lẫn nhau. Những đối tượng này thông thường sẽ
liên quan tới nhau ở một số mặt và không liên quan ở những mặt còn lại. Và chúng ta cũng
cần nhận ra, có những thay đổi chỉ xảy ra trong sự vật, hiện tượng này nhưng cũng có thể 5
kéo theo sự thay đổi của những sự vật, hiện tượng xung quanh. Sự liên hệ ấy giúp cho các
sự vật, hiện tượng thể hiện được thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong vì vậy nó tồn tại như một sự tất yếu.
Khi đề cập tới vấn đề đâu là yếu tố sẽ quyết định sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng,
chúng ta cũng bắt gặp nhiều ý kiến khác nhau. Đối với những người theo chủ nghĩa duy
tâm, họ cho rằng chính các thế lực siêu nhiên hoặc ý thức, cảm giác của nhân loại là yếu tố
qui định của sự liên hệ và ảnh hưởng qua lại của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Và
trong trường phái này cũng chia ra thành hai xu hướng là duy tâm chủ quan, duy tâm khách
quan. Một trong những nhà triết học nổi tiếng theo xu hướng chủ quan là Béccơli, ông coi
của sự liên hệ giữa các thực thể bắt nguồn từ cảm giác của chúng. Còn Hêghen lại theo xu
hướng khách quan, ông nói các sự vật, hiện tượng liên hệ với nhau phải bắt nguồn từ ý
niệm tuyệt đối của chúng. Khi phân tích, phê phán "logic học" của nhà triết học Hêghen,
Lênin cho rằng: "Nếu tôi không lầm thì ở đây có nhiều chủ nghĩa thần bí và sự trống rỗng
thông thái rởm trong những suy luận ấy của Hêghen, nhưng tư tưởng cơ bản thì thiên tài"[2].
Ở đây, Lênin muốn nói đến: "Tư tưởng về mối liên hệ phổ biến, toàn diện, sống của tất cả,
với tất cả, và về sự phản ánh của mối liên hệ ấy"[3].
Đối với những người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, họ cho rằng mối liên hệ phổ biến
giữa các sự vật, hiện tượng trong thực tại có cơ sở khoa học là tính thống nhất vật chất của
thế giới, theo đó các sự vật, hiện tượng phong phú đang tồn tại chỉ là những dạng khác nhau
của một thế giới vật chất . “Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó và tính vật
chất này được chứng minh không phải bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà
bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên’’[4]. Tất cả những
thứ như ý thức, cảm giác của chúng ta vốn không thể nhìn thấy, cảm nhận được như vật
chất thông thường, nó là những thứ phi vật chất cũng vẫn là sự phản ánh từ các quá trình vật chất đang diễn ra.
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng ở thế giới thực
tại có ba tính chất cơ bản, đó là: tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng. Tính khách
quan của mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được thể hiện ở chỗ sự liên hệ,
ảnh hưởng và qui định lẫn nhau là vốn có của chúng, nó diễn ra không tuân theo ý muốn
của mỗi người. Tiếp theo, với tính phổ biến, ta có thể hiểu rằng bất kì một sự vật, hiện
tượng nào trong thế giới dù ở đâu, vào thời điểm nào cũng sẽ xuất hiện sự liên hệ và tác
động tới những sự vật, hiện tượng xung quanh. Nếu xét trong chính mỗi đối tượng, thì bất 6
kì một bộ phận nào, một nhân tố nào cũng đều tồn tại sự liên hệ với các bộ phận và nhân tố
khác. Tính đa dạng của mối liên hệ là sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian
khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau, tức là tính đa dạng
của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát triển của các sự vật,
hiện tượng. Để thuận tiện hơn trong việc xem xét các mối liên hệ, chúng ta có thể phân
thành nhiều nhóm các mối liên hệ, chẳng hạn như mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên
hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên, mối liên hệ giữa các sự vật
khác nhau và giữa các mặt khác nhau của sự vật v.v.. Việc phân loại như trên, giúp chúng ta
thấy được những mối liên hệ cũng có điểm khác nhau, có vị trí và sự ảnh hưởng, tác động
tới sự tồn tại và phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ bên trong là sự ảnh hưởng, tác động qua lại giữa những thành phần và giữa
những yếu tố, hay những đặc tính, những khía cạnh khác nhau trong cùng một sự vật, hiện
tượng. Chính vì thế, mối liên hệ này mang tính quyết định cao tới mọi mặt trong quá trình
hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong khi đó, sự liên hệ bên ngoài là
những ràng buộc, tác động đến từ các sự vật, các hiện tượng khác nhau mà thông thường,
chúng sẽ tồn tại ở xung quanh nhau trong thế giới vật chất. So với mối liên hệ bên trong, thì
nó không có tính quyết định bằng bởi nó thường phải thông qua những sự biến động qui
định ở bên trong sự vật, hiện tượng để thể hiện vai trò của mình với các quá trình đang diễn
ra của sự vật, hiện tượng được xem xét. Dù vậy, ta cũng không thể khẳng định rằng mối liên
hệ bên ngoài có vai trò thấp, không thể tạo nên những thay đổi lớn, ảnh hưởng mạnh mẽ tới
sự vật, hiện tượng. Chúng ta cần phải nhận rõ điều đó để có thể tránh thái độ coi nhẹ tác
động từ bên ngoài vì trong thực tế, có một số trường hợp yếu tố bên ngoài lại mang tính
quyết định, tạo nên cơ hội lớn cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
Khi xem xét tới ý nghĩa của mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất hay mối
liên hệ tất yếu và mối liên hệ ngẫu nhiên thì chúng ta hoàn toàn có thể thấy được những
tính chất tương tự như trên. Tuy nhiên, ở những mối liên hệ này cũng tồn tại một số đặc
điểm riêng biệt so với các mối liên hệ khác, ví dụ như cùng một thứ nhưng đặt trong tình
hướng này lại là cái ngẫu nhiên nhưng ở một tình huống khác lại là cái tất nhiên. Sở dĩ có
điều này là do ngẫu nhiên và tất yếu vốn có sự liên hệ với nhau, ngẫu nhiên chính là hình
thái được thể hiện ra bên ngoài của tất yếu. Sự vật, hiện tượng đang tồn tại xung quanh
chúng ta chính là hình thái thể hiện của bản chất. 7
Tóm lại, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến, mỗi
chúng ta cần tự công nhận tính tương đối khi sự phân loại những mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng trong thế giới thực tại. Đồng thời, dù giữa chúng ít nhiều có đặc điểm khác
nhau song vẫn hoàn toàn có thể chuyển hóa qua lại tùy vào từng trường hợp mà ta đang xem xét.
2. QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Từ những hiểu biết về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới, ta rút
ra được quan điểm toàn diện để vận dụng vào trong các hoạt động nhận thức và các hoạt
động thực tế. Ở phần phân tích trên, ta đã thấy rằng mỗi sự vật, hiện tượng đều đang tồn tại
trong các mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng xung quanh chúng. Và sự liên hệ ấy không
diễn ra theo hướng đơn độc, lẻ tẻ mà nó diễn ra một cách đồng loại, trên khắp nơi, ở mọi
thời điểm. Điều này đã dẫn đến mối liên hệ của các đối tượng vô cùng đa dạng, phong phú.
Vì thế, khi chúng ta nghiên cứu hay xem xét bất kì một sự vật, hiện tượng nào đều cần biết
vận dụng quan điểm toàn diện của triết học Mác – Lênin để có thể tránh khỏi cách nhìn
phiến diện, một mặt dẫn tới việc vội vàng đưa ra đánh giá về bản chất, thuộc tính của sự vật, hiện tượng.
Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa duy vật biện chứng đòi hỏi để có được sự đánh giá
chuẩn xác về bất kì sự vật, hiện tượng nào, một mặt mình phải xem xét nó ở trong mối liên
hệ lẫn nhau giữa những thành phần, những yếu tố, những thuộc tính của chính nó. Còn ở
khía cạnh khác, mỗi người cũng phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ với
các sự vật, hiện tượng xung quanh nó. Đề cập đến 2 nội dung này, Lênin viết “Muốn thực
sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và
"quan hệ gián tiếp" của sự vật đó”[5]
Đồng thời quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu trong không gian, thời
gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu cả quá trình vận động của sự vật, hiện tượng từ quá
khứ đến hiện tại và phán đoán tương lai của nó. Điều này cũng đã được Lênin viết như sau:
“Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các mặt của mối quan hệ trong sự
phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó.”[6] Chúng ta cần biết phân biệt các mối liên hệ
phổ biến, phải biết để ý, quan tâm đến mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên
hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên… để có thể nắm được đặc tính của sự vật, hiện tượng và
từ đó, mỗi người sẽ tự đề xuất được các giải pháp phù hợp nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất 8
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình. Ở một số tình huống cụ thể,
chúng ta cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa giữa các mối liên hệ.
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện đòi hỏi, muốn có được nhận thức đúng đắn và sự vật,
hiện tượng, ta cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
Bởi vì với mỗi cá nhân khi ở trong một điều kiện, một hoàn cảnh nhất định, không thể nào
phản ánh được đầy đủ tất cả các mối liên hệ đang diễn ra. Trong khi đó, tri thức của mỗi
người về một sự vật, hiện tượng nào đó lại không trọn vẹn, bao quát. Nhìn nhận rõ vấn đề
này, chúng ta mới tránh được việc tuyệt đối hóa vào những tri thức mà bản thân đã có về sự
vật, hiện tượng và tránh thái độ coi nó là các chân lí bất biến, tuyệt đối không thể chỉnh sửa,
không thể bổ sung, không thể phát triển.
Tóm lại quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không
thấy mặt kia. Nhưng việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ vẫn có thể là sai lầm nếu
chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những qui định khác nhau của sự vật được
thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó. Và nếu chú ý tới nhiều mặt mà xem xét một
cách tràn lan, chúng ta rất dễ lắp ghép tùy tiện các mối liên hệ trái ngược vào cùng một mối
liên hệ phổ biến, như vậy quan điểm toàn diện còn đối lập với quan điểm chiết trung . Bên
cạnh đó, quan điểm toàn diện cũng đối lập với quan điểm ngụy biện cố ý đánh tráo các mối
liên hệ. Chúng ta có thể khẳng định rằng quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi con người
phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái
bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO CUỘC SỐNG CỦA BẢN THÂN
1. THỰC TRẠNG
Hiện nay, nền kinh tế, chính trị, xã hội trong nước cũng như trên toàn thế giới đang liên tục
thay đổi một cách chóng mặt. Những ảnh hưởng từ nền kinh tế thị trường và sự tác động từ
hội nhập quốc tế, du nhập văn hóa nước ngoài đang đặt ra cho nước ta rất nhiều yêu cầu và
thách thức mới. Nó đòi hỏi chúng ta phải có những nhận thức mới cho phù hợp với yêu cầu
của thực tiễn, cần nêu cao cách nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng xung quanh chúng ta
một cách toàn diện để từ đó có phương pháp, cách thức giải quyết một cách triệt để và hiệu
quả. Trong khi đó sinh viên chủ yếu là những người tuổi đời còn trẻ, họ có sự nhiệt huyết,
năng nổ, tích cực, dễ tiếp thu cái mới, song họ còn chưa vững vàng trong lí luận, kinh
nghiệm còn ít, họ chưa có nhiều cơ hội tham gia nhiều hoạt động trong cuộc sống thực tế.
Cho nên sinh viên thường dễ mắc phải những sai lầm, thiếu sót trước những vấn đề phức 9
tạp, khó khăn mà họ phải tự giải quyết. Vì vậy sinh viên phải luôn tích cực tự học tập, tu
dưỡng và rèn luyện, không ngừng nâng cao cả phẩm chất và năng lực của bản thân để có
thể thích ứng với sự thay đổi liên tục của xã hội ngày nay. Trong quá trình tự tu dưỡng, rèn
luyện ấy, các bạn sinh viên đã được định hướng và tích cực vận dụng quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện giúp cho chúng ta khi nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng sẽ có
cách nhìn đúng đắn, chính xác, từ đó ta sẽ thấu tỏ được bản chất của sự vật, hiện tượng mà mình quan tâm.
1.1 Ưu điểm trong việc vận dụng quan điểm toàn diện vào cuộc sống của bản thân.
Việc nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng dựa trên nguyên tắc toàn diện của triết học
Mác – Lênin nói chung thể hiện nhiều ưu điểm:
Trước hết, phần lớn sinh viên đã tự nhận thức rõ ràng phải nhìn nhận sự vật, hiện tượng từ
nhiều mặt, trong nhiều mối liên hệ, tránh việc nhìn nhận phiến diện, chủ quan để rồi kết
luận về bản chất của sự vật, hiện tượng một cách mù quáng, sai lầm. Các bạn sinh viên luôn
có tinh thần tích cực rèn luyện cách nhìn nhận, đánh giá tổng thể, toàn diện đối với những
gì đang xảy ra xung quanh cuộc sống của bản thân mình.
Đối với bản thân, các bạn sinh viên luôn cố gắng hiểu rõ con người mình, tìm ra những điều
thực sự mong muốn, khát khao. Họ đã biết hạn chế những tác động từ thế giới bên ngoài,
không xem xét một cách tràn lan, dàn đều để có thể tìm ra đâu là những mặt, những mối
liên hệ gắn với bản chất thật sự trong con người mình.
Đối với những người xung quanh, các bạn sinh viên đã biết suy nghĩ và nhìn nhận sự việc
từ góc độ của họ để từ đó có cái nhìn khách quan, thấu đáo hơn. Trước các vấn đề nóng
được chia sẻ rộng rãi và nhiều khi chưa được kiểm duyệt thông tin trên mạng xã hội, sinh
viên đã từng bước thận trọng hơn trong phát ngôn, hành xử ở thế giới ảo này. Nhiều bạn rất
bình tĩnh khi luôn lắng nghe ý kiến từ những nguồn tin cậy, từ những người trong cuộc,…
rồi mới có động thái ủng hộ hoặc phản đối.
Khi trở thành sinh viên, được tiếp cận với xã hội nhiều hơn, được lắng nghe nhiều câu
chuyện về cuộc sống, không ít sinh viên đã có những chuyển biến sâu sắc trong nhận thức.
Những cô cậu sinh viên còn ham chơi, ham ngủ nghỉ, còn ỉ lại vào gia đình ngày nào giờ
đây cũng biết nhìn nhận sự vất vả, nhọc nhằn của bố mẹ từ góc độ của một người lao động
chân chính để lấy đó làm động lực học tập thật tốt và thay đổi lối sống của bản thân. 10
Nhắc đến ưu điểm của việc vận dụng quan điểm toàn diện không thể không nhắc đến ý thức
tích cực trong việc cổ động thái độ sống văn minh, tiến bộ, biết nhìn nhận sự vật, hiện
tượng đa chiều và gắn liền với cả quá trình vận động của nó.
Tóm lại, ưu điểm nổi bật của việc vận dụng quan điểm toàn diện trong cuộc sống là thái độ
tích cực rèn luyện theo cách nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng trong tổng thể nhiều
mặt, nhiều mối liên hệ và đặc biệt trong suốt quá trình vận động của sự vật, hiện tượng.
Sinh viên cũng có trách nhiệm với xã hội và bản thân hơn khi luôn luôn ủng hộ những biểu
hiện của quan điểm toàn diện trong đời sống.
1.2 Hạn chế trong việc vận dụng quan điểm toàn diện vào cuộc sống của bản thân.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, việc vận dụng quan điểm toàn diện vào cuộc sống vẫn
không tránh khỏi các hạn chế. Nó được bộc lộ ngay ở tình trạng ngại tìm hiểu, nghiên cứu
kĩ càng về các vấn đề diễn ra xung quanh mình, tự thỏa hiệp, bằng lòng với nhận thức nông
cạn, đơn giản, mơ hồ của bản thân về sự vật, hiện tượng. Nhiều lúc còn chưa thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc các yêu cầu của quan điểm toàn diện dẫn tới kết luận thiếu sót về bản chất
sự vật, hiện tượng hoặc những kết luận đó chưa đủ độ tin cậy và mang lại giá trị hữu ích.
Một số bạn sinh viên biết cách vận dụng tốt quan điểm toàn diện vào cuộc sống song vẫn
còn dè dặt, làm được nhưng không nói được nên chưa trở thành tấm gương tốt để mọi người
cùng học hỏi, việc nhân rộng tấm gương tốt trong tập thể còn gặp khó khăn.
Ngoài những tư tưởng sai lầm trên, chúng ta có thể nhận thấy rất rõ sự hạn chế trong quá
trình vận dụng quan điểm toàn diện qua tình trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường.
Thất nghiệp là do đâu, phải chăng là:
- Trình độ của sinh viên không đáp ứng được yêu cầu ngày một cao của công việc.
- Chất lượng đào tạo của các trường cao đẳng, đại học còn thấp.
- Do lượng cung lớn hơn lượng cầu về nguồn lao động.
- Do chính sách của nhà nước chưa hợp lí.
- Do chủ quan của sinh viên, không muốn công tác ở nơi xa xôi, khó khăn….
Vấn đề thất nghiệp được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau và vì vậy nếu sinh viên chưa
thể nhìn nhận nó một cách toàn diện, tổng thể thì nguy cơ thất nghiệp sẽ lớn dần. Thực tế
trong nhiều năm gần đây, số lượng cử nhân mới ra trường thất nghiệp luôn duy trì ở con số vài trăm nghìn người.
Như vậy, có thể khái quát thực trạng vận dụng quan điểm toàn diện của sinh viên hiện nay
vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Trong đó, vấn đề đáng chú ý nhất và cần kiên quyết thay đổi 11
là thái độ thỏa hiệp, bằng lòng với bản thân, tự chấp nhận việc nhìn nhận còn hạn hẹp, phiến
diện của mình. Nếu không khắc phục được tư tưởng này trong sinh viên thì thật khó để có
thể vận dụng hiệu quả quan điểm toàn diện trong nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng.
Điều này sẽ dẫn tới việc tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên không thể đáp ứng yêu cầu của
thời đại và gây ra các trở ngại trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. 2. NGUYÊN NHÂN
Nhờ những phân tích thực trạng của vấn đề vận dụng quan điểm toàn diện trong cuộc sống,
chúng ta đã có cái nhìn tương đối rõ ràng về ưu điểm, hạn chế của việc vận dụng đó. Từ
đây, đặt ra yêu cầu cần phải tìm ra nguyên nhân của thực trạng ấy.
Thứ nhất, biện pháp giáo dục, định hướng vận dụng quan điểm toàn diện vào cuộc sống cho
sinh viên tuy được tiến hành nhưng chưa được quan tâm nhiều. Phương pháp giáo dục còn
đơn điệu, chưa thể thu hút sinh viên, còn thiếu biện pháp cụ thể gợi mở cho sinh viên tự
kiểm điểm, tự rèn luyện theo quan điểm toàn diện khi nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng.
Hai là, các bạn sinh viên đã thừa nhận tính cần thiết của việc vận dụng quan điểm toàn diện
trong cuộc sống, có tinh thần học tập, rèn luyện theo quan điểm toàn diện nhưng vẫn còn
chủ quan, nóng vội dẫn đến việc áp dụng nhiều khi còn chưa đúng, chưa nghiêm túc. Từ lí
thuyết tới thực hành vẫn còn khoảng cách rõ rệt.
Ba là, trong xu thế hội nhập và phát triển quốc tế như hiện nay, sự giao lưu và du nhập văn
hóa nước ngoài là tất yếu. Và người Việt chúng ta vẫn có xu hướng síng ngoại nên không ít
các bạn sinh viên bị ảnh hưởng lớn từ các lối sống được du nhập vào Việt Nam. Có bạn biết
chắt lọc và lựa chọn ưu điểm để học hỏi nhưng cũng có những bạn khi xem xét còn chủ
quan nên hình thành tư tưởng không phù hợp với quan điểm toàn diện.
Chúng ta có thể thấy rõ với mỗi nguyên nhân nêu ra đều tồn tại cả hai mặt tích cực và tiêu
cực, đã có những điều chúng ta làm tốt nhưng không có nghĩa là ta phủ nhận những thiếu
sót còn tồn đọng. Điều này cũng phù hợp với thực trạng xen lẫn giữa các ưu điểm là các hạn
chế của việc vận dụng quan điểm toàn diện trong cuộc sống của bản thân. 3. GIẢI PHÁP
Căn cứ trên yêu cầu khách quan của thời đại với xu hướng hội nhập và phát triển cùng
những nguyên nhân, thực trạng trong việc vận dụng quan điểm toàn diện vào cuộc sống của
bản thân, ta sẽ đề cập đến giải pháp để phát huy các ưu điểm đồng thời khắc phục các hạn chế đã nêu ra. 12 Thứ nhất là, giáo
dục, bồi dưỡng nhận thức cho sinh viên đặc biệt là cán bộ lớp nhằm xây
dựng một đội ngũ nòng cốt sẽ trở thành những tấm gương sáng tại các tập thể. Họ sẽ là
những cánh tay nối dài trong công tác phát triển quan điểm toàn diện trong cuộc sống của
các bạn sinh viên khác. Việc giáo dục cần làm rõ được các giá trị, tính đúng đắn và cần thiết
của quan điểm toàn diện khi nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng. Đồng thời, phải nhấn
mạnh tính nghiêm trọng của việc thiếu định hướng của quan điểm trên sẽ dẫn tới nguy cơ
xác định sai bản chất sự vật, hiện tượng. Ngoài ra, chúng ta cần có phương pháp giáo dục
phù hợp hơn, tránh xa rời thực tế, gây nên những khó khăn trong hoạt động nhận thức của sinh viên.
Song song với việc giáo dục, bồi dưỡng nhận thức thì cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu để
kịp thời tổng kết, phát hiện ra thực trạng của vấn đề, nhất là trong thời điểm hiện tại, khi mà
xã hội đang phát triển với một tốc độ chóng mặt, nếu chúng ta không làm tốt công tác định
hướng cách nhìn nhận vấn đề đang xảy ra sẽ có thể gây nên hệ lụy to lớn, ảnh hưởng trực
tiếp tới sự nghiệp đổi mới đất nước.
Cuối cùng, Đảng và nhà nước cần có cơ chế, chính sách phù hợp để đảm bảo việc du nhập
văn hóa sẽ không tạo ra tác động sâu rộng tới xã hội của chúng ta. Và chúng ta cũng cần các
chính sách để thúc đẩy việc tuyên truyền, giáo dục sinh viên tích cực vận dụng quan điểm
toàn diện trong cuộc sống của bản thân.
Trong 3 giải pháp nêu trên, giải pháp thứ nhất và thứ hai chú trọng vào chất lượng giáo dục
và hiệu quả của công tác tổ chức, thực hiện các hoạt động giáo dục, nhận thức nên nó yêu
cầu ta có cái nhìn xuyên suốt theo lịch sử, nhìn lại quá khứ, hiểu rõ hiện tại, thậm chí phán
đoán tương lai để có thể rút ra các kinh nghiệm và bài học đúng đắn, phù hợp, sau đó lấy
đây làm cơ sở cho hoạt động giáo dục và nhận thức. Không chỉ vậy, nó còn yêu cầu sự tinh
tế, sắc bén, tài trí thì mới có thể tìm ra phương pháp truyền tải những bài học đã đúc rút
được một cách gần gũi, dễ hiểu tới các bạn sinh viên. Giải pháp cuối cùng thì đòi hỏi phải
có cái nhìn bao quát, đánh giá được các điều kiện trong nước và nước ngoài, các thế mạnh
và hạn chế nội tại để đưa ra các cơ chế, chính sách kịp thời trong thời đại mới. Có thể nói,
chính con người là yếu tố quyết định việc vận dụng quan điểm toàn diện như thế nào trong
cuộc sống của bản thân nên mỗi người cần tự ý thức được sự cần thiết của quan điểm này
và nghiêm túc thực hiện các giải pháp đã nêu ra để đạt hiệu quả tốt nhất. 13 C. KẾT LUẬN
Trong thời kì hội nhập kinh tế, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, việc vận dụng quan
điểm toàn diện vào cuộc sống của bản thân mỗi người phải trở thành thói quen, hành vi
hàng ngày. Đặc biệt với những bạn sinh viên còn thiếu nhiều kinh nghiệm thực tiễn nhưng
phải thường xuyên đối mặt, giải quyết các vấn đề thực tế càng cần chú ý tới điều này để có
thể tránh được những sai lầm khi nhìn nhận vấn đề.
Chúng ta có thể thấy rằng vai trò của sinh viên trong thời đại mới là vô cùng quan trọng. Họ
chính là đội ngũ nòng cốt, nắm trong tay tri thức của mọi lĩnh vực đời sống, xã hội và trong
tương lai không xa, sinh viên sẽ gánh lấy trách nhiệm tiên phong, đi đầu trong công cuộc
xây dựng đất nước Việt Nam văn minh, giàu mạnh. Ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm
của mình, mọi sinh viên phải ra sức học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện để có đầy đủ các phẩm
chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Trong suốt quá trình học tập, rèn luyện
ấy, mỗi bạn sinh viên cần ý thức được tầm quan trọng của quan điểm toàn diện để có những
quyết định phù hợp nhất. Nhà nước ta cũng phải tạo điều kiện, thường xuyên quan tâm, hỗ
trợ để sinh viên được phát triển toàn diện mà một trong những nhiệm vụ hàng đầu là phải
hình thành được thói quen vận dụng quan điểm toàn diện trong cuộc sống của sinh viên.
Bên cạnh đó, chúng ta sẽ kiên quyết chống lại những quan điểm phiến diện, thiển cận,
những sai lầm của việc vận dụng quan điểm toàn diện. Những biểu hiện nóng vội, tự bằng
lòng với hiểu biết còn mơ hồ của các sinh viên phải được đẩy lùi. Công tác tuyên truyền về
ý nghĩa to lớn và sự cần thiết của quan điểm toàn diện trong cuộc sống được cho là nhiệm
vụ bước đầu, trong đó phải biết tận dụng được sức mạnh của truyền thông để có thể tiếp cận
tới nhiều bạn sinh viên. Không thể thiếu được đó là công tác giáo dục, ta phải có phương
pháp truyền đạt gần gũi, thực tế, tránh việc giảng dạy dàn trải, đặt nặng lí thuyết sẽ dễ gây
nên sự nhàm chán với sinh viên.
Những chỉ dẫn, lưu ý khi nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng từ quan điểm toàn diện
của triết học Mác – Lê nin mãi mãi là hành trang, là kim chỉ nam để mỗi sinh viên chúng ta
tham gia vào hoạt động thực tiễn. Từ đây, nó sẽ tạo cơ sở để mỗi người hình thành thế giới
quan đa chiều, sâu sắc và trở thành công dân có đầy đủ những năng lực, phẩm chất phù hợp với thời đại mới. 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ph.Ăngghen, Chống Duy-ring, tr.39, NXB Sự thật, Hà Nội - 1960.
[2], [3] V.I. Lênin: Bút kí triết học
, Toàn tập, t.29, tr.155, NXB Tiến bộ, Matxcova - 1981.
[4] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.20, tr.712, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995.
[5] V.I. Lênin: Bút kí triết học, Toàn tập, t.29, tr.239, NXB Tiến bộ, Matxcova - 1981.
[6] V.I. Lênin: Bút kí triết học, Toàn tập, t.42, tr.359, NXB Tiến bộ, Matxcova -1981.
Giáo trình triết học Mác – Lênin (Chủ biên: GS.TS Phạm Văn Đức) LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy Lê Ngọc Thông. Trong quá trình tìm
hiểu và học tập bộ môn “Triết học Mác – Lênin”, em đã nhận được sự giảng dạy và hướng
dẫn rất tận tình, tâm huyết của thầy. Thầy đã giúp em biết thêm nhiều điều mới, tích lũy
được cho bản thân những kiến thức hay và hữu ích. Từ những kiến thức ấy, em đã có thể tự
mình nghiên cứu, hoàn thành bài tiểu luận về đề tài: “Quan điểm toàn diện và sự vận dụng
trong cuộc sống của bản thân” để gửi đến thầy.
Tuy nhiên, kiến thức về bộ môn của em vẫn còn những hạn chế nhất định. Do đó, không
tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận này, em rất mong thầy
xem xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin kính chúc thầy luôn dồi dào sức khỏe để tiếp tục dìu dắt nhiều thế hệ
sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Kính chúc thầy ngày càng vui vẻ, hạnh phúc và
đạt được nhiều thành công trong cuộc sống.
Em xin chân thành cảm ơn thầy! 15