Quy luật lưu thông văn học từ ký thuyết dịch qua sáng tác của Haruki Murakami Phần 1

với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

 

MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI...........................................................1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI...........................................................1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................1
1.1. Lý do văn học................................................................................................................................1
1.2. Lí do thực tiễn...............................................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề...........................................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................3
PHẦN 2: BÁO CÁO CHÍNH VĂN........................................................................4
Chương 1: Dịch thuật – Cơ sở tạo ra lưu thông văn học...........................................4
1.1.Dịch thuật......................................................................................................................................4
1.2. Tác động của dịch thuật với nền văn học – Cơ sở tạo ra lưu thông văn học.................................6
Chương 2: Hai quy luật của Lưu thông văn học: Quy luật Dòng chảy và quy luật
Tắc nghẽn......................................................................................................................9
2.1. Cơ sở phân chia hai quy luật.........................................................................................................9
2.2. Quy luật Dòng chảy trong lưu thông văn học.............................................................................10
2.3. Quy luật Tắc nghẽn trong lưu thông văn học..............................................................................11
2.4. Mối quan hệ giữa quy luật Dòng chảy và quy luật Tắc nghẽn.....................................................13
Chương 3: Quy luật Dòng chảy trong sáng tác của Haruki Murakami.................14
3.1. Biểu hiện của quy luật Dòng chảy trong ba phiên bản của “Rēdāhōzen”...................................14
3.2. Nhân tố tác động đến việc hình thành quy luật Dòng chảy của nhà văn Haruki Murakami........20
3.3. Tác động của việc sử dụng quy luật Dòng chảy tới nền văn học Nhật Bản và thế giới................21
Chương 4: Quy luật Tắc nghẽn trong sáng tác của Minae Mizumura...................22
4.1. Biểu hiện của quy luật Tắc trong tác phẩm “Shishosetsu from left to right”.............................22
4.2. Nhân tố tác động đến việc hình thành quy luật Dòng chảy của nhà văn Minae Mizumura........28
4.3. Tác động của việc sử dụng quy luật Tắc nghẽn của Minae Mizumura tới nền văn học Nhật Bản
và thế giới..........................................................................................................................................29
PHẦN 3: KẾT LUẬN............................................................................................30
PHẦN 3: KẾTLUẬN…………………..….....………………………..…………30
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do văn học
Dịch thuật văn học không phải một hiện tượng mới xuất hiện. Thế nhưng vẫn
những nhận thức một chiều rằng dịch thuật thực chất chỉ việc sao chép đơn
thuần văn bản nguồn những công trình nghiên cứu chỉ tìm hiểu dịch thuật với
mối quan hệ tự thân. Tuy nhiên, dịch thuật cũng là một trong những vấn đề của văn
học; mỗi vấn đề văn học luôn nguyên nhân, đặc trưng những tác động
nhất định. Do đó, bài niên luận này nhìn văn họctrong các mối quan hệ: với tác giả,
với bạn đọc, với thực tế đời sống,… để thấy được tác động của dịch thuật với quan
hệ bao quát hơn lưu thông văn học. Trên sở đó, bài niên luận này sẽ nghiên
cứu tập trung vấn đề “Quy luật lưu thông văn học qua lý thuyết dịch”.
Để nghiên cứu vấn đề này, tác giả đã lựa chọn hai nhà văn của nền văn học Nhật
Bản là Haruki Murakami Minae Mizumura. Việc nghiên cứu văn học Nhật Bản
một nền văn học cả yếu tố truyền thống lâu đời cũng như hội nhập sẽ giúp
chúng tác giả nghiên cứu dịch thuật trong tính tổng thể, quá trình của nó. Hơn nữa,
hai nhà văn Haruki Murakami và Minae Mizumura dù sống dưới nền văn học Nhật
Bản nhưng hai nhà văn lại những điểm khác biệt cả về lối sống lối duy
văn học. Do đó, việc tìm hiểu hai tác phẩm của hai nhà văn này sẽ tạo sự đa chiều,
đầy đủ trong kết quả nghiên cứu,
1.2. Lí do thực tiễn
Nền kinh tế hội nhập cùng sự phát triển của hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển, du nhập trao đổi giữa các nền văn học, tưởng của các nước.
Trong quá trình đó, nếu nắm được vấn đề “Lưu thông văn học” thì ta sẽ
những góc nhìn tổng quát cùng định hướng cụ thể về quá trình sáng tác, dịch thuật
và tiếp nhận.
4
Do đó, rất cần một đề tài nghiên cứu vấn đề “Lưu thông văn học” để xác định một
cách tổng quát từ nguồn gốc, bản chất đến các quy luật của quá trình lưu thông văn
học.
Bên cạnh đó, Việt Nam Nhật Bản đã đang thiết lập mối quan hệ ngoại giao
từ năm 1973 nên việc nghiên cứu quy luật lưu thông của hai nhà văn Nhật Bản
đóng góp lớn trong sự tương tác giữa nền văn học nước nhà nền văn học Nhật.
Từ đó, ta nhận định được nên và không trong sáng tác và lưu hành tác phẩm để giữ
gìn bản sắc văn học dân tộc song song với việc hội nhập quốc tế.
2. Lịch sử vấn đề
Đề tài về “Lưu thông văn học” đối với Việt Nam là một đề tài mới, vì vậy, gần như
chỉ những nghiên cứu riêng lẻ về dịch thuật, chưa nghiên cứu nào về đề tài
“Quy luật lưu thông qua lý thuyết dịch”.
Trên thế giới, đề tài được nghiên cứu với những khía cạnh như:
Năm 2013: “Translation and the international circulation of literature: a
comparative analysis of the reception of Roberto Bolaño's work in Spanish and
English”. (Dịch thuậtlưu thông quốc tế văn học: một phân tích so sánh về việc
tiếp nhận tác phẩm của Roberto Bolaño bằng tiếng Tây Ban Nha Tiếng Anh).
Bài nghiên cứu này đã tìm hiểu quá trình dịch thuật sự lưu thông quốc tế của
những văn bản được dịch qua hai tác phẩm của nước Tây Ban Nha và nước Anh.
Năm 2014: “Goethe, Rémusat, and the Chinese Novel: Translation and the
Circulation of World Literature” (Goethe, Rémusa tiểu thuyết Trung Quốc: bản
dịch sự lưu thông của văn học thế giới). Bài nghiên cứu này tập trung nghiên
cứu về bản dịch với đặc điểm cách thức dịch của dịch giả sự lưu thông của
nó.
Năm 2017: “How do literary works cross borders (or not)? A sociological
approach to world literature” (Tác phẩm văn học xuyên biên giới (hoặc không) như
thế nào? Một cách tiếp cận hội học đối với văn học thế giới”). Bài nghiên cứu
5
này giải quyết câu hỏi về cách thức xuyên biên giới của tác phẩm văn học đề ra
một cách tiếp nhận mới cho bạn đọc.
Như vậy, những nghiên cứu trên đã nghiên cứu về dịch thuật cũng như sự lưu
thông văn học. Tuy nhiên, những nghiên cứu đó chỉ nghiên cứu về cụ thể quá trình
dịch, sự lưu thông hai nước hoặc khái quát hơn nghiên cứu dịch thuật với sự
tiếp nhận chứ chưa chỉ ra được bao quát thuyết dịch với quy luật lưu thông văn
học.
Vậy nên, đề tài này còn nhiều điểm để khám phá và nghiên cứu.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả bài niên luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích - tổng hợp để phân tích những tài liệu đã thu thập
được và tổng hợp chúng.
Thứ hai, phương pháp hệ thống để xác định vị trí của tác giả, nhà văn trong tổng
thể nền văn học và đời sống.
Thứ ba, phương pháp so sánh để đối chiếu các sáng tác của hai nhà văn Haruki
Murakami Minae Mizumura để tìm ra được biểu hiện của quy luật lưu thông
văn học ứng vào trong tác phẩm
Thứ , phương pháp liên ngành để quan tâm đến những vấn đề trong cuộc sống
như địa lý, kinh tế, văn hóa,… nhằm có những kiến giải phù hợp.
6
PHẦN 2: BÁO CÁO CHÍNH VĂN
Chương 1: Dịch thuật – Cơ sở tạo ra lưu thông văn học
1.1.Dịch thuật
1.1.1.Khái niệm “Dịch thuật”
Dịch thuật được hiểu là hành động chuyển ngôn ngữ của văn bản nguồn - được viết
bằng ngôn ngữ nguồn sang văn bản đích – được viết bằng ngôn ngữ đích.
Trong phạm vi đời sống, dịch thuật vai trò như một giải pháp để thỏa mãn nhu
cầu giao tiếp giữa các cộng đồng dân tộc, quốc gia có ngôn ngữ khác biệt. Và trong
phạm vi văn học, dịch thuật được coi như một công cụ để phục vụ quá trình sáng
tác tiếp nhận văn học. Thậm chí, được coi như một phần trong văn học so
sánh.
Trong “On Linguitic Aspectsof Translation” (1959), Roman Jakobson đã chia dịch
thuật làm ba loại: Intralingual Translation Chuyển dịch nội hàm hoặc Tái diễn
đạt; Interlingual Translation or Translation Proper Chuyển dịch đa ngôn hoặc
Diễn dịch hợp lý và Intersemiotic Translation – Chuyển dịch ký hiệu [2].
Cụ thể, Chuyển dịch nội hàm hoặc Tái diễn đạt được hiểu “lời lẽ diễn đạt của
ngôn ngữ được thay thế giải thích bởi lẽ diễn đạt khác trong cùng một ngôn
ngữ. Tái diễn đạt bao gồm sự thay thế, giải ngữ, tóm tắt, phát triển,… nhưng luôn
cần thiết để tìm hiểu văn bản gốc” [3]. Chuyển dịch đa ngôn hoặc Diễn dịch hợp lý
được hiểu là “lời lẽ diễn đạt của ngôn ngữ nguồn được thay thế, giải thích bởi lời lẽ
của ngôn ngữ dịch”. Tức đây được coi như “sự di chuyển ý nghĩa hoặc thông
điệp từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia một cách đúng đắn” [3]. Và Chuyển dịch
hiệu được hiểu “ý nghĩa từ lời lẽ diễn tả được thông qua bởi ý nghĩa của
hiệu không lời, như hiệu cử chỉ, hiệu hình ảnh,….”. Lưu ý cốt lõi đây
khi dịch, “những ký hiệu không lời này sẽ phải được quan tâm khi chuyển dịch lời
nói hay ý nghĩ của nhân vật sang ngôn ngữ dịch” [3].
7
1.1.2. Lý thuyết dịch
Dịch thuật một khái niệm quen thuộc bởi ra đời từ rất lâu. Nguồn gốc sự ra
đời đó gắn liền với nhu cầu giao tiếp trong đời sống cũng như giao tiếp trong văn
học, vậy nên dịch thuật cũng dần phổ biến ở tất cả các nền văn hóa.
Tuy nhiên, lý thuyết dịch với vai trò là một môn khoa học thì không phải cũng phổ
biến ở mọi nền văn hóa như vậy. Việc lý thuyết hóa dịch “hầu như là chuyện riêng
của phương Tây, cụ thể châu Âu Mỹ” [4]. Họ nhấc “dịch” ra khỏi cái bóng
của động thái chuyển nghĩa đơn thuần bằng việc giải phóng dịch “khỏi những quan
niệm truyền thống về nghĩa (meaning), biểu nghĩa (significance), biểu trưng
(representation), khỏi những cách thức tri nhận về ngôn ngữ, văn hóa và tồn tại của
con người theo những hệ hình tĩnh tại”[4].
Theo đó, John Dryden đã xây dựng thuyết dịch với ba cách thức. Thứ nhất,
Metaphrase dịch sát từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ đích (dịch từ theo từ, dòng
theo dòng). Thứ hai, Paraphrase dịchsự thay đổi theo quan điểm dịch (dịch ý
theo ý) và cuối cùng là Imitationdịch tự do như ứng tác (có thể bỏ phần văn bản
gốc và dịch theo ý muốn).
Còn học giả Đức Friedrich Schleimakcher, khi ông sử dụng góc nhìn soi chiếu vào
mối quan hệ giữa tác giả độc giả thì đã thấy được hai chiến lược dịch: Ngoại
chủng hóa Nhập tịch hóa. Ngoại chủng hóa chiến lược xác định được những
đặc tính ngoại lai chủ đích chuyển chúng vào ngôn ngữ đích Nhập tịch
hóa là chiến lược làm cho độc giả ấn tượng như thể bản thân đang đọc tác văn bản
đích.
sau đó, nhà ngôn ngữ, hiệu học R. Jacobson một trong những trụ cột đặt
nền móng cho việc xác định ngôn ngữ nghệ thuật đã cho chúng ta thấy rằng ngoài
ngôn ngữ thì văn bản còn một nữa trong quá trình dịch văn hóa.
Cụ thể, văn bản nguồn văn bản đích chứa những hệ thống văn hóa. Tuy
nhiên sự khác biệt giữa văn hóa văn bản nguồn văn hóa văn bản
đích. Do vậy, trong quá trình dịch thì dịch giả phải chuyển toàn bộ hệ thống đơn vị
8
của thông điệp từ văn bản gốc sang một hệ thống đơn vị khác ứng với văn
bản đích. Khi này chúng ta có một thuật ngữ mới là “nghĩa tương đương”.
1.2. Tác động của dịch thuật với nền văn học – Cơ sở tạo ra lưu thông văn học
1.2.1. Tác phẩm dịch thuật mang “tính vượt biên”
Phương diện đầu tiên của “tínhợt biên” xuất phát từ bản chất cốt lõi của hành
động dịch thuật. Dịch thuật chuyển dịch ngôn ngữ giữa văn bản nguồn văn
bản đích, tức từ một tác phẩm với ngôn ngữ nguồn, quốc gia nguồn với người
đọc nguồn sẽ thể mở rộng với ngôn ngữ mới, quốc gia mới tiếp cận với
những người đọc mới. Khi đó, “tính vượt biên” do dịch thuật tạo ra được hiểu rằng
các tác phẩm đã thực hiện “cú nhảy vọt” sang các quốc gia khác nhau. Do vậy,
vượt qua khoảng cách về mặt địa lý, không gian chính là phương diện đầu tiên của
“tính vượt biên”.
Phương diện thứ hai của “tính vượt biên” nảy sinh từ bản chất trong nhận thức của
con người. “People believe that there are clear limits to how much science and
experts know” [6] – Con người luôn tin rằngnhững giới hạnràng về mức độ
hiểu biết của các nhà khoa học chuyên gia. Nhận thức hữu hạn trong khi tri
thức làhạn, vì vậy chúng ta luôn mong cầu chiếm lĩnh càng nhiều tri thức càng
tốt. Do đó, chỉ tiếp nhận tri thức ở trong khuôn khổ những tác phẩm trong phạm vi
một quốc gia chưa đủ cần phải tiếp cận nhiều hơn các tác phẩm quốc gia
khác bởi mỗi tác phẩm ở một quốc gia sẽ chạm tới một vùng tri thức nhất định.
Vậy nên, việc chiêm nghiệm những tác phẩm các quốc gia khác nhau sẽ làm
phong phú vốn hiểu biết đặc biệt sẽ lĩnh hội được những kiến thức mới bản
thân chưa biết, rút ngắn thời gian tìm hiểu. Do vậy, vượt qua khoảng cách về thời
gian chính là phương diện thứ hai của “tính vượt biên”.
chính bởi hai phương diện đó của “tính vượt biên” các dịch phẩm tạo cho
văn học sự lưu hành phong phú với nhiều con đường.
9
1.2.2. Tác phẩm dịch thuật mang theo “tính ngôn ngữ” và “ tính phi ngôn
ngữ”
Trong quá trình hình thành một tác phẩm dịch thuật, dịch giả đã phải thực hiện
thao tác chuyển đổi ngôn ngữ từ ngôn ngữ nguồn ra một hoặc nhiều ngôn ngữ đích.
Đó chính là “tính ngôn ngữ” trong các tác phẩm dịch thuật, tức là có thể “trao đổi”
các loại ngôn ngữ trong tác phẩm.
“Tính ngôn ngữ” đặc điểm rất dễ nhận thấy các tác phẩm dịch. Thế nhưng,
trong quá trình tác phẩm nguồn được sống quốc gia đích với ngôn ngữ đích thì
còn một yếu tố nữa ngoài ngôn ngữ được trao đổi đó chính tưởng, nền văn
hóa. Đây những yếu tố phi ngôn ngữ xuất hiện một cách tất yếu. Bởi trong mỗi
tác phẩm luôn ẩn chứa một nếp nghĩ, cách duy riêng mang dấu ấn thời đại
việc khi tái sinh ở một quốc gia đích nào sẽ không thể làm mất đi các yếu tố này.
Kết hợp “tính ngôn ngữ” và “tính phi ngôn ngữ” sẽ giúp ta nhận thấy tính đa dạng
của nền văn học.
1.2.3. “Tính vượt biên” và “tính ngôn ngữ”, “tính phi ngôn ngữ” là hai cơ sở
của lưu thông văn học
Xét trong góc nhìn của một quốc gia cụ thể thì tất cả những tác phẩm sử dụng quốc
ngữ văn hóa của quốc gia đó thì được coi nền văn học nước nhà. khi
soi chiếu với các quốc gia khác thì sẽ là văn học nước ngoài. Sự xuất hiện của dịch
thuật cùng hai sự tác động của đã tạo nên sự chuyển biến, tương tác giữa “nền
văn học nước nhà” “nền văn học nước ngoài” ấy. Đó chính là “Lưu thông văn
học”.
Cụ thể, với tác động thứ nhất của dịch thuật: làm cho tác phẩm dịch thuật có “tính
vượt biên” đã giúp quá trình tương tác, trao đổi giữa hai nền văn họctrong nước
nước ngoài được diễn ra. Nguyên nhân bởi khi tác phẩm mang “tính vượt
biên” thì thể “mở rộng ra khỏi phạm vi quốc gia, tiến đến tính quốc tế, tính
xuyên quốc gia của văn hóa, trong thời đại nhà văn Salman Rushdie tả
10
| 1/12

Preview text:

MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI...........................................................1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI...........................................................1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................1
1.1. Lý do văn học................................................................................................................................1
1.2. Lí do thực tiễn...............................................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề...........................................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................3
PHẦN 2: BÁO CÁO CHÍNH VĂN........................................................................4
Chương 1: Dịch thuật – Cơ sở tạo ra lưu thông văn học...........................................4
1.1.Dịch thuật......................................................................................................................................4
1.2. Tác động của dịch thuật với nền văn học – Cơ sở tạo ra lưu thông văn học.................................6
Chương 2: Hai quy luật của Lưu thông văn học: Quy luật Dòng chảy và quy luật
Tắc nghẽn......................................................................................................................9

2.1. Cơ sở phân chia hai quy luật.........................................................................................................9
2.2. Quy luật Dòng chảy trong lưu thông văn học.............................................................................10
2.3. Quy luật Tắc nghẽn trong lưu thông văn học..............................................................................11
2.4. Mối quan hệ giữa quy luật Dòng chảy và quy luật Tắc nghẽn.....................................................13
Chương 3: Quy luật Dòng chảy trong sáng tác của Haruki Murakami.................14
3.1. Biểu hiện của quy luật Dòng chảy trong ba phiên bản của “Rēdāhōzen”...................................14
3.2. Nhân tố tác động đến việc hình thành quy luật Dòng chảy của nhà văn Haruki Murakami........20
3.3. Tác động của việc sử dụng quy luật Dòng chảy tới nền văn học Nhật Bản và thế giới................21
Chương 4: Quy luật Tắc nghẽn trong sáng tác của Minae Mizumura...................22
4.1. Biểu hiện của quy luật Tắc trong tác phẩm “Shishosetsu from left to right”.............................22
4.2. Nhân tố tác động đến việc hình thành quy luật Dòng chảy của nhà văn Minae Mizumura........28
4.3. Tác động của việc sử dụng quy luật Tắc nghẽn của Minae Mizumura tới nền văn học Nhật Bản
và thế giới.......................................................................................................................................... 29
PHẦN 3: KẾT LUẬN............................................................................................30
PHẦN 3: KẾTLUẬN…………………..….....………………………..…………30 PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1.1. Lý do văn học
Dịch thuật văn học không phải một hiện tượng mới xuất hiện. Thế nhưng vẫn có
những nhận thức một chiều rằng dịch thuật thực chất chỉ là việc sao chép đơn
thuần văn bản nguồn và những công trình nghiên cứu chỉ tìm hiểu dịch thuật với
mối quan hệ tự thân. Tuy nhiên, dịch thuật cũng là một trong những vấn đề của văn
học; mà mỗi vấn đề văn học luôn có nguyên nhân, đặc trưng và những tác động
nhất định. Do đó, bài niên luận này nhìn văn họctrong các mối quan hệ: với tác giả,
với bạn đọc, với thực tế đời sống,… để thấy được tác động của dịch thuật với quan
hệ bao quát hơn là lưu thông văn học. Trên cơ sở đó, bài niên luận này sẽ nghiên
cứu tập trung vấn đề “Quy luật lưu thông văn học qua lý thuyết dịch”.
Để nghiên cứu vấn đề này, tác giả đã lựa chọn hai nhà văn của nền văn học Nhật
Bản là Haruki Murakami và Minae Mizumura. Việc nghiên cứu văn học Nhật Bản
– một nền văn học có cả yếu tố truyền thống lâu đời cũng như hội nhập sẽ giúp
chúng tác giả nghiên cứu dịch thuật trong tính tổng thể, quá trình của nó. Hơn nữa,
hai nhà văn Haruki Murakami và Minae Mizumura dù sống dưới nền văn học Nhật
Bản nhưng ở hai nhà văn lại có những điểm khác biệt cả về lối sống và lối tư duy
văn học. Do đó, việc tìm hiểu hai tác phẩm của hai nhà văn này sẽ tạo sự đa chiều,
đầy đủ trong kết quả nghiên cứu,
1.2. Lí do thực tiễn
Nền kinh tế hội nhập cùng sự phát triển của xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển, du nhập và trao đổi giữa các nền văn học, tư tưởng của các nước.
Trong quá trình đó, nếu nắm rõ được vấn đề “Lưu thông văn học” thì ta sẽ có
những góc nhìn tổng quát cùng định hướng cụ thể về quá trình sáng tác, dịch thuật và tiếp nhận. 4
Do đó, rất cần một đề tài nghiên cứu vấn đề “Lưu thông văn học” để xác định một
cách tổng quát từ nguồn gốc, bản chất đến các quy luật của quá trình lưu thông văn học.
Bên cạnh đó, Việt Nam và Nhật Bản đã và đang thiết lập mối quan hệ ngoại giao
từ năm 1973 nên việc nghiên cứu quy luật lưu thông của hai nhà văn Nhật Bản có
đóng góp lớn trong sự tương tác giữa nền văn học nước nhà và nền văn học Nhật.
Từ đó, ta nhận định được nên và không trong sáng tác và lưu hành tác phẩm để giữ
gìn bản sắc văn học dân tộc song song với việc hội nhập quốc tế.
2. Lịch sử vấn đề
Đề tài về “Lưu thông văn học” đối với Việt Nam là một đề tài mới, vì vậy, gần như
chỉ có những nghiên cứu riêng lẻ về dịch thuật, chưa có nghiên cứu nào về đề tài
“Quy luật lưu thông qua lý thuyết dịch”.
Trên thế giới, đề tài được nghiên cứu với những khía cạnh như:
Năm 2013: “Translation and the international circulation of literature: a
comparative analysis of the reception of Roberto Bolaño's work in Spanish and
English”. (Dịch thuật và lưu thông quốc tế văn học: một phân tích so sánh về việc
tiếp nhận tác phẩm của Roberto Bolaño bằng tiếng Tây Ban Nha và Tiếng Anh).
Bài nghiên cứu này đã tìm hiểu quá trình dịch thuật và sự lưu thông quốc tế của
những văn bản được dịch qua hai tác phẩm của nước Tây Ban Nha và nước Anh.
Năm 2014: “Goethe, Rémusat, and the Chinese Novel: Translation and the
Circulation of World Literature” (Goethe, Rémusa và tiểu thuyết Trung Quốc: bản
dịch và sự lưu thông của văn học thế giới). Bài nghiên cứu này tập trung nghiên
cứu về bản dịch với đặc điểm và cách thức dịch của dịch giả và sự lưu thông của nó.
Năm 2017: “How do literary works cross borders (or not)? A sociological
approach to world literature” (Tác phẩm văn học xuyên biên giới (hoặc không) như
thế nào? Một cách tiếp cận xã hội học đối với văn học thế giới”). Bài nghiên cứu 5
này giải quyết câu hỏi về cách thức xuyên biên giới của tác phẩm văn học và đề ra
một cách tiếp nhận mới cho bạn đọc.
Như vậy, những nghiên cứu trên đã nghiên cứu về dịch thuật cũng như sự lưu
thông văn học. Tuy nhiên, những nghiên cứu đó chỉ nghiên cứu về cụ thể quá trình
dịch, sự lưu thông ở hai nước hoặc khái quát hơn là nghiên cứu dịch thuật với sự
tiếp nhận chứ chưa chỉ ra được bao quát lý thuyết dịch với quy luật lưu thông văn học.
Vậy nên, đề tài này còn nhiều điểm để khám phá và nghiên cứu.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả bài niên luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích - tổng hợp để phân tích những tài liệu đã thu thập
được và tổng hợp chúng.
Thứ hai, phương pháp hệ thống để xác định vị trí của tác giả, nhà văn trong tổng
thể nền văn học và đời sống.
Thứ ba, phương pháp so sánh để đối chiếu các sáng tác của hai nhà văn Haruki
Murakami và Minae Mizumura để tìm ra được biểu hiện của quy luật lưu thông
văn học ứng vào trong tác phẩm
Thứ tư, phương pháp liên ngành để quan tâm đến những vấn đề trong cuộc sống
như địa lý, kinh tế, văn hóa,… nhằm có những kiến giải phù hợp. 6
PHẦN 2: BÁO CÁO CHÍNH VĂN
Chương 1: Dịch thuật – Cơ sở tạo ra lưu thông văn học 1.1.Dịch thuật
1.1.1.Khái niệm “Dịch thuật”
Dịch thuật được hiểu là hành động chuyển ngôn ngữ của văn bản nguồn - được viết
bằng ngôn ngữ nguồn sang văn bản đích – được viết bằng ngôn ngữ đích.
Trong phạm vi đời sống, dịch thuật có vai trò như một giải pháp để thỏa mãn nhu
cầu giao tiếp giữa các cộng đồng dân tộc, quốc gia có ngôn ngữ khác biệt. Và trong
phạm vi văn học, dịch thuật được coi như một công cụ để phục vụ quá trình sáng
tác và tiếp nhận văn học. Thậm chí, nó được coi như một phần trong văn học so sánh.
Trong “On Linguitic Aspectsof Translation” (1959), Roman Jakobson đã chia dịch
thuật làm ba loại: Intralingual Translation – Chuyển dịch nội hàm hoặc Tái diễn
đạt; Interlingual Translation or Translation Proper – Chuyển dịch đa ngôn hoặc
Diễn dịch hợp lý và Intersemiotic Translation – Chuyển dịch ký hiệu [2].
Cụ thể, Chuyển dịch nội hàm hoặc Tái diễn đạt được hiểu là “lời lẽ diễn đạt của
ngôn ngữ được thay thế và giải thích bởi lẽ diễn đạt khác trong cùng một ngôn
ngữ. Tái diễn đạt bao gồm sự thay thế, giải ngữ, tóm tắt, phát triển,… nhưng luôn
cần thiết để tìm hiểu văn bản gốc” [3]. Chuyển dịch đa ngôn hoặc Diễn dịch hợp lý
được hiểu là “lời lẽ diễn đạt của ngôn ngữ nguồn được thay thế, giải thích bởi lời lẽ
của ngôn ngữ dịch”. Tức là đây được coi như “sự di chuyển ý nghĩa hoặc thông
điệp từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia một cách đúng đắn” [3]. Và Chuyển dịch
ký hiệu được hiểu là “ý nghĩa từ lời lẽ diễn tả được thông qua bởi ý nghĩa của ký
hiệu không lời, như ký hiệu cử chỉ, ký hiệu hình ảnh,….”. Lưu ý cốt lõi ở đây là
khi dịch, “những ký hiệu không lời này sẽ phải được quan tâm khi chuyển dịch lời
nói hay ý nghĩ của nhân vật sang ngôn ngữ dịch” [3]. 7
1.1.2. Lý thuyết dịch
Dịch thuật là một khái niệm quen thuộc bởi nó ra đời từ rất lâu. Nguồn gốc sự ra
đời đó gắn liền với nhu cầu giao tiếp trong đời sống cũng như giao tiếp trong văn
học, vậy nên dịch thuật cũng dần phổ biến ở tất cả các nền văn hóa.
Tuy nhiên, lý thuyết dịch với vai trò là một môn khoa học thì không phải cũng phổ
biến ở mọi nền văn hóa như vậy. Việc lý thuyết hóa dịch “hầu như là chuyện riêng
của phương Tây, cụ thể là châu Âu và Mỹ” [4]. Họ nhấc “dịch” ra khỏi cái bóng
của động thái chuyển nghĩa đơn thuần bằng việc giải phóng dịch “khỏi những quan
niệm truyền thống về nghĩa (meaning), biểu nghĩa (significance), biểu trưng
(representation), khỏi những cách thức tri nhận về ngôn ngữ, văn hóa và tồn tại của
con người theo những hệ hình tĩnh tại”[4].
Theo đó, John Dryden đã xây dựng lý thuyết dịch với ba cách thức. Thứ nhất,
Metaphrase – dịch sát từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ đích (dịch từ theo từ, dòng
theo dòng). Thứ hai, Paraphrase – dịch có sự thay đổi theo quan điểm dịch (dịch ý
theo ý) và cuối cùng là Imitation – dịch tự do như ứng tác (có thể bỏ phần văn bản
gốc và dịch theo ý muốn).
Còn học giả Đức Friedrich Schleimakcher, khi ông sử dụng góc nhìn soi chiếu vào
mối quan hệ giữa tác giả và độc giả thì đã thấy được hai chiến lược dịch: Ngoại
chủng hóa và Nhập tịch hóa. Ngoại chủng hóa là chiến lược xác định được những
đặc tính ngoại lai và có chủ đích chuyển chúng vào ngôn ngữ đích và Nhập tịch
hóa là chiến lược làm cho độc giả ấn tượng như thể bản thân đang đọc tác văn bản đích.
Và sau đó, nhà ngôn ngữ, ký hiệu học R. Jacobson – một trong những trụ cột đặt
nền móng cho việc xác định ngôn ngữ nghệ thuật đã cho chúng ta thấy rằng ngoài
mã ngôn ngữ thì văn bản còn có một mã nữa trong quá trình dịch là mã văn hóa.
Cụ thể, văn bản nguồn và văn bản đích chứa những hệ thống mã văn hóa. Tuy
nhiên có sự khác biệt giữa mã văn hóa ở văn bản nguồn và mã văn hóa ở văn bản
đích. Do vậy, trong quá trình dịch thì dịch giả phải chuyển toàn bộ hệ thống đơn vị 8
mã của thông điệp từ văn bản gốc sang một hệ thống đơn vị mã khác ứng với văn
bản đích. Khi này chúng ta có một thuật ngữ mới là “nghĩa tương đương”.
1.2. Tác động của dịch thuật với nền văn học – Cơ sở tạo ra lưu thông văn học
1.2.1. Tác phẩm dịch thuật mang “tính vượt biên”
Phương diện đầu tiên của “tính vượt biên” xuất phát từ bản chất cốt lõi của hành
động dịch thuật. Dịch thuật là chuyển dịch ngôn ngữ giữa văn bản nguồn và văn
bản đích, tức từ một tác phẩm với ngôn ngữ nguồn, ở quốc gia nguồn với người
đọc nguồn sẽ có thể mở rộng với ngôn ngữ mới, ở quốc gia mới và tiếp cận với
những người đọc mới. Khi đó, “tính vượt biên” do dịch thuật tạo ra được hiểu rằng
các tác phẩm đã thực hiện “cú nhảy vọt” sang các quốc gia khác nhau. Do vậy,
vượt qua khoảng cách về mặt địa lý, không gian chính là phương diện đầu tiên của “tính vượt biên”.
Phương diện thứ hai của “tính vượt biên” nảy sinh từ bản chất trong nhận thức của
con người. “People believe that there are clear limits to how much science and
experts know” [6] – Con người luôn tin rằng có những giới hạn rõ ràng về mức độ
hiểu biết của các nhà khoa học và chuyên gia. Nhận thức là hữu hạn trong khi tri
thức là vô hạn, vì vậy chúng ta luôn mong cầu chiếm lĩnh càng nhiều tri thức càng
tốt. Do đó, chỉ tiếp nhận tri thức ở trong khuôn khổ những tác phẩm trong phạm vi
một quốc gia là chưa đủ mà cần phải tiếp cận nhiều hơn các tác phẩm ở quốc gia
khác bởi mỗi tác phẩm ở một quốc gia sẽ chạm tới một vùng tri thức nhất định.
Vậy nên, việc chiêm nghiệm những tác phẩm ở các quốc gia khác nhau sẽ làm
phong phú vốn hiểu biết và đặc biệt sẽ lĩnh hội được những kiến thức mới mà bản
thân chưa biết, rút ngắn thời gian tìm hiểu. Do vậy, vượt qua khoảng cách về thời
gian chính là phương diện thứ hai của “tính vượt biên”.
Và chính bởi hai phương diện đó của “tính vượt biên” mà các dịch phẩm tạo cho
văn học sự lưu hành phong phú với nhiều con đường. 9
1.2.2. Tác phẩm dịch thuật mang theo “tính ngôn ngữ” và “ tính phi ngôn ngữ”
Trong quá trình hình thành một tác phẩm dịch thuật, dịch giả đã phải thực hiện
thao tác chuyển đổi ngôn ngữ từ ngôn ngữ nguồn ra một hoặc nhiều ngôn ngữ đích.
Đó chính là “tính ngôn ngữ” trong các tác phẩm dịch thuật, tức là có thể “trao đổi”
các loại ngôn ngữ trong tác phẩm.
“Tính ngôn ngữ” là đặc điểm rất dễ nhận thấy ở các tác phẩm dịch. Thế nhưng,
trong quá trình tác phẩm nguồn được sống ở quốc gia đích với ngôn ngữ đích thì
còn một yếu tố nữa ngoài ngôn ngữ được trao đổi đó chính là tư tưởng, nền văn
hóa. Đây là những yếu tố phi ngôn ngữ xuất hiện một cách tất yếu. Bởi trong mỗi
tác phẩm luôn ẩn chứa một nếp nghĩ, cách tư duy riêng mang dấu ấn thời đại mà
việc khi tái sinh ở một quốc gia đích nào sẽ không thể làm mất đi các yếu tố này.
Kết hợp “tính ngôn ngữ” và “tính phi ngôn ngữ” sẽ giúp ta nhận thấy tính đa dạng của nền văn học.
1.2.3. “Tính vượt biên” và “tính ngôn ngữ”, “tính phi ngôn ngữ” là hai cơ sở
của lưu thông văn học

Xét trong góc nhìn của một quốc gia cụ thể thì tất cả những tác phẩm sử dụng quốc
ngữ và mã văn hóa của quốc gia đó thì được coi là nền văn học nước nhà. Và khi
soi chiếu với các quốc gia khác thì sẽ là văn học nước ngoài. Sự xuất hiện của dịch
thuật cùng hai sự tác động của nó đã tạo nên sự chuyển biến, tương tác giữa “nền
văn học nước nhà” và “nền văn học nước ngoài” ấy. Đó chính là “Lưu thông văn học”.
Cụ thể, với tác động thứ nhất của dịch thuật: làm cho tác phẩm dịch thuật có “tính
vượt biên” đã giúp quá trình tương tác, trao đổi giữa hai nền văn học – trong nước
và nước ngoài được diễn ra. Nguyên nhân là bởi khi tác phẩm mang “tính vượt
biên” thì có thể “mở rộng ra khỏi phạm vi quốc gia, tiến đến tính quốc tế, tính
xuyên quốc gia của văn hóa, trong thời đại mà nhà văn Salman Rushdie mô tả là 10