



















Preview text:
TÀI LIỆU BẢN TEXT
HỌC PHẦN: CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG KINH DOANH (TXPCOM1111)
(Dùng cho ĐTTX hệ đại học chính quy) NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan về chuyển đổi số trong kinh doanh
Chương 2: Hệ sinh thái chuyển đổi số trong kinh doanh
Chương 3: Quá trình chuyển đổi số trong kinh doanh
Chương 4: Kỹ năng số, chính sách và pháp luật của chuyển đổi số
Chương 5: Hạ tầng công nghệ số của chuyển đổi số trong kinh doanh 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG KINH DOANH
1.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CĐS
1.1.1. Sự hình thành của CĐS
Có nhiều cách mô tả các giai đoạn phát triển của xã hội loài người. Cách mạng
công nghiệp là cách mô tả các giai đoạn phát triển, bắt đầu khi có các đột phá lớn về
khoa học và công nghệ dẫn đến các thay đổi sâu sắc của kinh tế và xã hội.
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là giai đoạn từ cuối thế kỷ XVIII với sự
phát minh ra động cơ hơi nước và tạo ra sản xuất cơ khí, còn gọi là cơ khí hóa. Cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất chỉ diễn ra ở một số nước trên thế giới, mở đầu từ
nước Anh. Lý do diễn ra tại Anh đầu tiên vì: Anh có nguồn tài nguyên lớn và đa dạng
(đặc biệt là than đá gần bề mặt tiếp cận), dễ dàng khai thác, vị trí địa lý thuận lợi cho
vận chuyển và buôn bán, chính trị ổn định bền vững, chính phủ cởi mở hòa đồng với
những ý tưởng của chủ nghĩa tư bản. Từ do, cuộc cách mạng này lan sang những nước
khác như Mỹ và các nước châu Âu, mở đầu quá trình cơ khí hóa ngành công nghiệp dệt,
làm tăng năng suất dệt. Trước đó, 98% người Châu Âu sống và làm việc trong các trang
trại ở nông thôn. Nhưng vào giữa thế kỉ XVIII, chỉ 50 năm sau khi áp dụng cơ khí hóa,
một nửa số người ở Anh đã sống ở các thành phố và làm việc trong các nhà máy. Sự ra
đời của đầu máy xe lửa, tàu thủy chạy bằng động cơ hơi nước đã tạo ra bước phát triển
mạnh cho giao thông đường sắt, đường thủy. Từ đó, động cơ hơi nước được chọn làm
dấu mốc cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. 2
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai là giai đoạn từ đầu thế kỷ XX với sự xuất
hiện của điện lực và tạo ra sản xuất hàng loạt, còn gọi là điện khí hóa. Trong khi cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất được thúc đẩy bởi việc sử dụng động cơ hơi nước,
cuộc Cách mạng công nghiệp lần hai được đặc trưng bởi việc xây dựng các tuyến đường
sắt quy mô lớn. Công nghệ luyện gang, thép, dầu khí, hóa chất, đóng tàu, ô tô ngày càng
hoàn thiện và phát triển với quy mô lớn. Những chiếc xe hơi trở nên phổ biến cho phép
tầng lớp trung lưu không phải sống trong các thành phố quá đông đúc để làm việc trong
cá nhà máy và văn phòng. Mọi người lái xe đi làm ở các khu vực ngoại ô phát triển. Các
phương tiện truyền thông như điện tín và điện thoại ra đời vào năm 1880, liên lạc bằng
điện thoại ngay lập tức được ứng dụng trên khắp thế giới.
Trong giai đoạn từ 1870 đến 1890, đã có sự bùng nổ về kinh tế và năng suất ở
các nước công nghiệp. Kết quả là, điều kiện sống được cải thiện đáng kể và giá cả hàng
hóa giảm mạnh. Với quá trình công nghiệp hóa, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp giảm
mạnh. Điện kéo theo cơ giới hóa, vì vậy, tàu và các tài sản khác trở nên lỗi thời trong
một khoảng thời gian ngắn. Người dân mất tiền và tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt. Đây có thể
coi là tác động lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần hai. Bên cạnh đó, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 2 còn gây ra:
- Đô thị hóa tăng nhanh. Dân số chuyển đến những ngôi nhà được xây dựng ở
các thành phố để gần các nhà máy hơn.
- Tốc độ làm việc do máy móc điều khiển, tăng lên đáng kể. Sức khỏe tổng thể
của lực lượng lao động giảm sút do điều kiện khắc nghiệt và không lành mạnh của các nhà máy. 3
- Mức độ sẵn có của công việc không thể đoán trước vì nó tăng lên và giảm xuống
theo nhu cầu hàng hóa. Các nghệ nhân và thợ thủ công bị mất kế sinh nhai vì không thể
cạnh tranh với giá thành thấp của hàng hóa sản xuất hàng loạt.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba là giai đoạn từ những năm 1970 với sự xuất
hiện của điện tử, máy tính, Internet và tạo ra sản xuất tự động, còn gọi là tự động hóa.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3, hay còn được gọi Cách mạng kỹ thuật số, kỷ nguyên
công nghệ thông tin, với sự áp dụng phổ biến máy tính kỹ thuật số và lưu giữ hồ sơ kỹ
thuật số còn áp dụng đến ngày nay. Ngẫu nhiên, thuật ngữ này cũng dùng đề cập đến
những thay đổi sâu rộng do công nghệ điện toán và truyền thông kỹ thuật số mang lại ở
giai đoạn nửa sau của thế kỷ 20. Tương tự như cuộc Cách mạng Nông nghiệp và Cách
mạng Công nghiệp, cuộc Cách mạng Kỹ thuật số đánh dấu sự khởi đầu của Kỷ nguyên
thông tin. Trọng tâm của cuộc cách mạng này là việc sản xuất hàng loạt và sử dụng rộng
rãi logic kỹ thuật số, bóng bán dẫn, chip mạch tích hợp (IC) và các công nghệ dẫn xuất
của chúng, bao gồm máy tính, bộ vi xử lý, điện thoại di động và Internet. Những đổi
mới công nghệ này đã làm thay đổi các kỹ thuật sản xuất và kinh doanh truyền thống,
tăng năng suất và là động lực thúc đẩy cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Nền tảng cơ bản của Cuộc cách mạng kỹ thuật số là transistor hiệu ứng trường
Oxit Kim loại - Bán dẫn (MOSFET, hoặc bóng bán dẫn MOS), là thiết bị được sản xuất
rộng rãi nhất trong lịch sử. Nó là nền tảng của mọi bộ vi xử lý, chip bộ nhớ và mạch
viễn thông trong sử dụng thương mại. Thang đo MOSFET (thu nhỏ nhanh các bóng bán
dẫn MOS) phần lớn chịu trách nhiệm cho phép định luật Moore, dự đoán rằng số lượng
bóng bán dẫn sẽ tăng theo tốc độ theo cấp số nhân. Theo sự phát triển của máy tính kỹ
thuật số cá nhân, bộ vi xử lý MOS và chip bộ nhớ, với hiệu suất và lưu trữ tăng dần, đã
cho phép công nghệ máy tính được nhúng vào một loạt các đối tượng từ máy ảnh đến
máy nghe nhạc cá nhân. Sự phát triển của các công nghệ truyền dẫn bao gồm mạng máy
tính, Internet và phát sóng kỹ thuật số. Sự thâm nhập xã hội của điện thoại 3G tăng theo
cấp số nhân vào những năm 2000, cũng đóng một vai trò rất lớn trong cuộc cách mạng
kỹ thuật số khi chúng đồng thời cung cấp giải trí, truyền thông và kết nối trực tuyến phổ biến.
Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện tiết kiệm các tài nguyên thiên nhiên và các
nguồn lực xã hội, cho phép chi phí tương đối ít hơn các phương tiện sản xuất để tạo ra
cùng một khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Trong giai đoạn này, các chi phí về sản xuất
giảm đáng kể. Điều này mang lại những giá trị thiết thực cho các ngành nghề nông-lâm- 4
thủy sản, xây dựng, dịch vụ, công nghiệp. Bên cạnh đó, với sự phát triển của công nghệ
Hydro và Internet, khả năng lưu trữ, chia sẻ và phân tán năng lượng rộng rãi hơn. Đây
được xem là bước khởi đầu cho hành trình cải cách năng lượng xanh.
Tiến trình Cách mạng Công nghiệp lần thứ 3:
- Giai đoạn 1947 – 1979: Năm 1947, bóng bán dẫn ra đời, đánh dấu sự phát triển
của máy tính kỹ thuật số hiện đại. Đến năm 1960, 1970 các tổ chức quân đội, chính phủ
bắt đầu sử dụng hệ thống máy tính. Với sự thịnh hành và phát triển không ngừng, năm
1995 mạng toàn cầu World Wide Web chính thức hình thành.
- Những năm 1980: Trong thập niên này, máy tính đã trở thành một công cụ phổ
biến và quen thuộc. Chúng được sử dụng như một phương tiện tất yếu cho nhiều công
việc khác nhau. Ở giai đoạn này, điện thoại di động đầu tiên cũng ra mắt.
- Những năm 1990: Tại thời điểm này, Internet được ứng dụng rộng khắp trong
các hoạt động kinh doanh. Mạng toàn cầu đã trở thành một nhân tố không thể thiếu trong
cuộc sống hằng ngày của một nửa dân số Mỹ vào cuối những năm 1990.
- Năm 2000: Cách mạng Công nghiệp lần thứ 3 trở thành một làn sóng lớn, lan
rộng đến các nước đang phát triển. Internet ngày càng phổ biến, số lượng người sử dụng
điện thoại di động ngày càng tăng. Bên cạnh đó, truyền hình cũng bắt đầu chuyển sang
sử dụng tín hiệu kỹ thuật số.
- Từ năm 2010 đến nay: Đến giai đoạn này, giao tiếp bằng di động đã trở nên phổ
biến hơn. Người dùng sử dụng điện thoại ngày càng nhiều và trở thành xu hướng chuẩn
trong giao tiếp hiện đại của con người, tạo ra một phương thức liên lạc, mua sắm và làm
việc mới. Truyền thông xã hội là hình thức kết nối mới, giúp người dùng kết nối và giao
tiếp dựa trên một nền tảng nhất định.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba mở ra nhiều chương mới về lĩnh vực kỹ thuật
số như: máy bay không người lái dựa trên điện Hydro và phương tiện tự vận hành, hệ
thống robot xã hội linh hoạt, máy in 3D hiện đại và công nghệ nano, trí tuệ nhân tạo
thay thế con người trong các tác vụ mang tính lặp lại, cây trồng biến đổi gen, viễn thám,
nông nghiệp đô thị, kinh tế vũ trụ, vệ tinh nano và robot không gian. Những thành tựu 5
được hình thành từ cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 3 giúp thay đổi toàn bộ cách
thức vận hành, biến mọi thứ phức tạp thành đơn giản hơn. Ngoài ra, hiệu suất làm việc
và chi phí lao động cũng được cắt giảm trong cuộc cách mạng mang tính bước ngoặt này.
Trong tiến trình hình thành Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba, quyền riêng tư
và các vấn đề về thương hiệu, bản quyền là mối quan tâm lớn nhất và. Cuộc cách mạng
tạo ra khả năng theo dõi dữ liệu cá nhân dựa trên các hoạt động và sở thích. Điều này
dẫn đến mối lo ngại về việc bảo mật và an toàn thông tin. Hiện trạng phân phối các tác
phẩm sao chép xuất hiện ngày càng dày đặc, dẫn đến sự hình thành luật sở hữu trí tuệ,
nhất là trong ngành công nghiệp phim ảnh, truyền hình và âm nhạc. Ngoài ra do tốc độ
làm việc của máy móc nhanh hơn rất nhiều so với con người, đồng thời, khả năng hoạt
động liên tục trong khoảng thời gian dài nên tạo thách thức cho lực lượng lao động bị
thay thế bởi robot công nghiệp.
Phải mất hơn 8.000 năm loài người mới chuyển từ cuộc CM nông nghiệp sang
CM công nghiệp đầu tiên, nhưng chỉ mất 50 năm để chuyển từ CM công nghiệp lần thứ
ba sang lần thứ tư. Tốc độ thay đổi này là một thách thức lớn cho khả năng thích ứng của con người.
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Khái niệm Cách mạng Công nghiệp lần
thứ 4 lần đầu được đề cập qua bản “Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao” của
GS. Klaus Schwab. Ông là chủ tịch Diễn đàn Kinh thế Thế giới Industry 4.0. Trong hơn
75 năm qua, Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 đã được ứng dụng trên nhiều lĩnh vực
công nghệ quan trọng. Năm 2011, khái niệm Industry 4.0 được nhắc đến đầu tiên tại Hội
chợ công nghiệp Hannover (Công hòa Liên bang Đức). Công nghệ 4.0 phát triển mạnh
mẽ tại Đức và lan rộng ra ra những quốc gia tiên tiến khác như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật
Bản, Ấn Độ. Năm 2013, theo đà phát triển, từ khóa “Công nghệ 4.0” tiếp tục nổi lên qua
một bài báo cáo của chính phủ Đức. Theo báo cao, cụm từ này đề cập đến những chiến
lược công nghệ cao, tự động hóa các hoạt động sản xuất mà không cần sự góp sức của
con người. Nước Đức đưa ra thuật ngữ Công nghiệp 4.0 để đặc trưng nền công nghiệp
của riêng họ. Khái niệm Công nghiệp 4.0 tiếp tục được khai thác tại Diễn đàn Kinh tế
Thế giới (WEF) lần thứ 46 (Thụy Sĩ). Hiện tại, Công nghiệp 4.0 không còn là dự án
thuộc khuôn khổ của Đức. Thuật ngữ này đã trở thành chủ đề chung của nhiều quốc gia
và trở thành nền tảng quan trọng của cuộc sống hiện đại bây giờ. Nhưng WEF nhận định
có một cuộc cách mạng công nghiệp mới, tứ là một giai đoạn phát triển mới của xã hội
loài người, bắt đầu diễn ra với tên “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Cần phân biệt
“công nghiệp 4.0” là nói riêng về công nghiệp, còn “cách mạng công nghiệp lần thứ tư”
là nói về một giai đoạn phát triển mới của loài người, cả kinh tế, văn hóa, xã hội, công
nghiệp…Vì thế nên dùng cách mạng công nghiệp lần thứ 4 thay vì cách mạng công nghiệp 4.0. 6
Một số phát minh của cách mạng Công nghiệp lần thứ 4: Công nghiệp 4.0 cộng
hưởng với sự bùng nổ của thời đại Internet, tạo ra những bước ngoặt lớn với các phát
minh vĩ đại. Vì vậy, các doanh nghiệp trong thời kỳ này đã hoạt động song hành cùng công nghệ mới như:
- IoT (Internet of Thing – Internet vạn vật): Đây là sự hội tụ giữa ba nhân tố:
mạng Internet, thiết bị vi cơ điện tử và thiết bị không dây. IoT tạo nên các sản phẩm liên
quan đến cuộc sống thường nhật như: máy tính, điện thoại, lò vi sóng, ti vi,… Chúng có
khả năng truyền đạt thông tin qua mạng lưới Internet. IoT giúp doanh nghiệp thu thập
dữ liệu khách hàng dựa trên các sản phẩm được kết nối liên tục. Vì vậy, doanh nghiệp
có thể đánh giá hành vi khách hàng tốt hơn để điều chỉnh chiến lược tiếp thị phù hợp.
- AI (Trí tuệ nhân tạo): Trí tuệ nhân tạo xuất phát từ lĩnh vực khoa học máy tính.
Công nghệ này tạo ra những cỗ máy có khả năng hoạt động và phản ứng tương tự con
người. AI được lập trình với nhiều mục tiêu như: thu thập và xử lý thông tin, đưa ra lập
luận và phán đoán, tự sửa lỗi,… Trong tiếp thị, AI có nhiệm vụ phân tích dữ liệu khách
hàng, đề xuất chiến lược kinh doanh hợp lý. Đặc biệt, khi sử dụng AI, tính cá nhân hóa
được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Đây là xu hướng chung mà mọi doanh nghiệp đều hướng đến.
- Blockchain (Chuỗi khối): Đây được xem là một phương thức ghi và chia sẻ dữ
liệu hiệu quả và an toàn. Blockchain có đặc tính phi tập trung, minh bạch và không phụ
thuộc vào bên thứ 3. Ví dụ điển hình của chuỗi khối là Bitcoin – đồng tiền kỹ thuật số.
Ngoài ra, Blockchain còn được sử dụng cho những mục đích khác như: bảo mật dữ liệu
y tế, chống gian lận trong bầu cử, theo dõi được chuỗi cung ứng,…
- VR, AR (Công nghệ thực tế ảo, thực tế ảo tăng cường): VR, AR là thuật ngữ
miêu tả một môi trường được giả lập (ảo hóa) được tạo ra bởi con người nhờ vào các 7
phần mềm chuyên dụng, và được điều khiển bởi một thiết bị thông minh. VR và AR
khác nhau về cách thức hoạt động. VR sẽ tạo ra một môi trường hoàn toàn ảo, trong khi
đó AR sẽ dựa trên không gian thật của môi trường xung quanh, sau đó thêm một vài yếu
tố ảo hóa vào bên trong. Công nghệ này ứng dụng nhiều trong lĩnh vực giải trí, du lịch số, bất động sản,..
- Cloud (Điện toán đám mây): Với điện toán đám mây, người dùng có thể lưu
trữ, phân loại và sắp xếp dữ liệu trên hệ thống của nhà cung cấp dịch vụ. Chẳng hạn
như: Office 365, Facebook, Youtube,… Các ứng dụng này cho phép doanh nghiệp thực
thi chiến lược tiếp thị tự động nhằm tối ưu nguồn lực và tiết kiệm chi phí.
- Big Data (Dữ liệu lớn): Big Data hỗ trợ người dùng thu thập và lưu trữ khối
lượng lớn dữ liệu, như thông tin cá nhân của từng khách hàng. Việc này giúp doanh
nghiệp nắm bắt được hành vi, xu hướng, nhu cầu,…, của người tiêu dùng. Từ đó, doanh
nghiệp có thể thiết lập các chiến lược tiếp thị phù hợp với từng khách hàng trong các giai đoạn khác nhau.
- Công nghệ sinh học: Hoạt động chính của công nghệ sinh học là phân tích và
khai thác tế bào, phân tử sinh học. Sau đó, những dữ liệu này được dùng để phát triển
công nghệ. Chúng có khả năng phục vụ cho nhiều mục đích như tạo ra dược liệu, vật
phẩm mới. Bên cạnh đó, công nghệ sinh học có thể mở ra quy trình sản xuất công nghiệp
tân tiến với nguồn năng lượng sạch hơn.
- In 3D: Công nghệ này cho phép doanh nghiệp sản xuất in ra các sản phẩm mang
đặc trưng riêng. So với phương thức in truyền thống, in 3D tốn ít công cụ và chi phí với
hiệu suất nhanh hơn. Ngoài ra, quy trình này còn được bổ sung các tùy chỉnh nhằm tạo
ra những tính năng hoàn hảo hơn.
- Robot: Phần lớn robot được ứng dụng trong thiết kế , sản xuất hoặc phục vụ cho
mục đích cá nhân và thương mại. Hiện nay, robot ngày càng có các tính năng phức tạp
và tinh vi hơn. Chúng thường có mặt trong các lĩnh vực chuyên dụng như: chăm sóc sức
khỏe, sản xuất, dịch vụ,…
- RPA (Tự động hóa quy trình robot): Công nghệ này giúp các robot hoạt động
thông qua AI có khả năng tự động hóa những nhiệm vụ kinh doanh đơn giản. Những
hoạt động của con người được thay thế bởi các robot thông minh, chúng đảm nhiệm một
số vai trò phổ biến như: xử lý giao dịch, quản lý nhân sự, hỗ trợ tiếp thị,…
Ngày nay thế giới lại một lần nữa thay đổi. Một trong những thay đổi này là số
hóa và kết nối đã cho phép con người, xưa từ sản xuất cá thể đến sản xuất hàng loạt, nay
sản xuất hướng đến lợi ích, giá trị và nhu cầu của từng cá nhân. Sâu sắc hơn, bản chất
sự thay đổi lần này là quá trình thông minh hóa mọi hoạt động của con người. Điều cần
ý thức là các cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra những thay đổi mang tính khách
quan. Những tiến bộ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là các công nghệ số đã len lỏi
vào cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi tổ chức. Con người một lần nữa phải
thay đổi nếu muốn tồn tại. Nhiều doanh nghiệp trên thế giới đã thay đổi sản xuất và kinh
doanh với các tiến bộ của công nghệ số. Và đây là điểm khởi đầu của chuyển đổi số. 8
Trên thế giới, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm 2015, phổ
biến từ năm 2017. Ở Việt Nam, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng
năm 2018. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia vào
ngày 03/6/2020. Chuyển đổi số là con đường để thành công, là cốt lõi của phát triển
trong kỷ nguyên số và chuyển đổi số là cốt lõi của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trong các công nghệ số thì AI là công nghệ số then chốt để thực hiện chuyển đổi số.
1.1.2. Sự phát triển của CĐS
1.1.2.1. Sự phát triển của CĐS trên thế giới
Mặc dù hiện tại CĐS đang là chủ đề thảo luận phổ biến, nhưng các ý tưởng về
sản phẩm, dịch vụ và phương tiện kỹ thuật số đã được hiểu rõ từ những năm 1990 và
2000 (Auriga 2016). Những năm 1990 và 2000, trong ngành bán lẻ, các chiến dịch quảng
cáo trên phương tiện truyền thông đại chúng được coi là kênh kỹ thuật số quan trọng để
tiếp cận khách hàng, mặc dù việc mua hàng vẫn chủ yếu được thực hiện bên trong các
cửa hàng truyền thống, thường bằng tiền mặt. Từ năm 2000 đến năm 2015, sự gia tăng
của các thiết bị thông minh và nền tảng truyền thông xã hội đã dẫn đến sự thay đổi lớn
về phương thức mà khách hàng sử dụng để giao tiếp với doanh nghiệp cũng như kỳ vọng
của khách hàng về thời gian phản hồi và tính khả dụng của đa kênh. Các doanh nghiệp
bắt đầu thấy rằng họ có thể giao tiếp kỹ thuật số với khách hàng của mình trên cơ sở cá
nhân và thường là trong thời gian thực. Sự lựa chọn ngày càng tăng của thanh toán điện
tử góp phần phát triển thương mại trực tuyến và cơ hội cho các điểm bán hàng dựa trên
web. Ngày nay, người ta tập trung vào thiết bị di động bằng cách tận dụng các loại dữ
liệu khách hàng được cá nhân hóa mà công nghệ di động có thể tạo ra trên quy mô lớn.
Các doanh nghiệp đang cá nhân hóa nhu cầu khách hàng và điều chỉnh các sản phẩm,
dịch vụ, thông tin, nâng cao hiệu quả tương tác với khách hàng nhằm tạo ra giá trị.
Trong giai đoạn 2020-2021, các doanh nghiệp trên thế giới đang có sự thay đổi
rõ rệt trong nhận thức về chuyển đổi số. Đặc biệt sau đại dịch Covid-19, chuyển đổi số
đang dần trở thành một khái niệm quen thuộc và là xu hướng tất yếu để có thể phát triển
và sinh tồn. Hiện nay, Chuyển đổi số đã dần thay đổi nhận thức của các nhà lãnh đạo
trên thế giới. Họ dần nhận thấy được hiệu quả gia tăng năng suất hoạt động, chi phí và
thời gian vận hành khi chuyển đổi số. Cùng với đó, các động thái trong việc áp dụng
chuyển đổi số đã ngay lập tức bắt đầu.
Quan điểm chuyển đổi số chỉ thấy được ở các công ty lớn, giàu tiềm lực về kinh
tế mới có thể tiếp cận được đã không còn chính xác. Hiện nay, những doanh nghiệp vừa
và nhỏ (SMEs) hay doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) có nguồn nhân lực đã có thể tiếp
cận được với những công nghệ, giải pháp số để phục vụ kinh doanh.
Theo khảo sát của Cisco & IDC năm 2020 tại 14 quốc gia thuộc khu vực Châu
Á Thái Bình Dương về mức độ trưởng thành số của các doanh nghiệp SMEs:
- Khoảng 3% các doanh nghiệp cho rằng chuyển đổi số chưa thực sự quan trọng
với hoạt động của doanh nghiệp, thấp hơn nhiều so với con số với năm 2019 là 22%. 9
- 62% doanh nghiệp kỳ vọng chuyển đổi số giúp doanh nghiệp cải thiện và tạo ra
các sản phẩm, dịch vụ mới hiệu quả hơn.
- 56% doanh nghiệp thấy được sự cạnh tranh và chuyển đổi số là yếu tố giúp
doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Khảo sát từ 900 nhà lãnh đạo doanh nghiệp trong báo cáo của Fujitsu về “Chuyển
đổi số toàn cầu năm 2019” cho thấy có tới 40% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã thực
hiện và gặt hái được thành quả từ các dự án chuyển đổi, khoảng 40% các dự án vẫn đang
trong giai đoạn triển khai và chỉ một số ít, dưới 30% các doanh nghiệp chưa thực hiện
dự án chuyển đổi số nào. Cụ thể hơn, các lĩnh vực như tài chính, vận tải, sản xuất, y tế
và bán buôn/bán lẻ là những lĩnh vực có tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện các dự án chuyển
đổi số cao nhất. Đặc biệt, có tới hơn 40% doanh nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng và vận
tải đã triển khai các dự án thành công với kết quả rõ rệt. 10
Có thể thấy, các doanh nghiệp đang dần nhận thức được rõ ràng hơn về tầm quan
trọng của chuyển đổi số cũng như mong muốn tăng tốc và bứt phá tạo nên cách biệt so
với khu vực và trên thế giới. Tốc độ chuyển đổi số trên thế giới tại các khu vực và quốc
gia là khác nhau, tùy thuộc vào mức độ phát triển công nghệ và tốc độ chuyển đổi mô
hình doanh nghiệp. Trong đó, khu vực châu Âu được đánh giá là khu vực có tốc độ
chuyển đổi số nhanh nhất, tiếp đến là Mỹ và quốc gia tại châu Á.
Tốc độ chuyển đổi số trên thế giới tại các khu vực và quốc gia là khác nhau, tùy
thuộc vào mức độ phát triển công nghệ và tốc độ chuyển đổi mô hình doanh nghiệp.
Trong đó, khu vực châu Âu được đánh giá là khu vực có tốc độ chuyển đổi số nhanh
nhất, tiếp đến là Mỹ và quốc gia tại châu Á. Theo Cisco & IDC, có 4 giai đoạn chính
trong tiến trình chuyển đối số của các doanh nghiệp: “xuất phát” – “quan sát” -“Thách
thức” – “Trưởng thành”. Khảo sát từ 900 nhà lãnh đạo doanh nghiệp về tiến trình chuyển
đổi số theo ngành, cho thấy: Gần 40% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã thực hiện và
gặt hái được thành quả từ các dự án chuyển đổi, Khoảng 40% đang trong giai đoạn triển
khai và chỉ một số ít chưa thực hiện dự án chuyển đổi số nào.
Có thể thấy khả năng tác động của chuyển đổi số đối với tăng trưởng GDP là rất
lớn. Điều này được thể hiện qua sự tăng trưởng về GDP của các quốc gia, khu vực khác
nhau. Theo nghiên cứu của Microsoft tại khu vực Châu Á TBD, tác động mà chuyển đổi
số mang lại cho GDP là khoảng 6%, năm 2019 là 25% và tới năm 2021 là 60%. Kết quả 11
nghiên cứu của McKinsey chỉ ra rằng, vào năm 2025, mức độ tác động của chuyển đổi
số tới GDP của nước Mỹ là khoảng 25%, với đất nước Brazil là 35%, còn ở các nước
Châu Âu là khoảng 36%. Bắc Mỹ chiếm tỷ trọng doanh thu lớn nhất hơn 30% vào năm
2021, có vị trí thống trị nổi bật trong các giải pháp phần mềm và lập trình nâng cao, nhờ
vào hoạt động bán lẻ, sản xuất và ô tô cao ở Canada và Hoa Kỳ. Khu vực Châu Á Thái
Bình Dương được cho là sẽ trở thành khu vực phát triển nhanh nhất trong vòng tám năm
tới, do sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ và mở rộng
khu vực dịch vụ. Quy mô thị trường CĐS toàn cầu được đánh giá là 608,72 tỷ USD
(năm 2021) và dự kiến sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là
23,1% từ năm 2022 đến năm 2030. Phân khúc SME dự kiến sẽ đạt tốc độ CAGR cao nhất là 24,6%.
Một xu hướng khác trên thế giới khi chuyển đổi số là sử dụng dịch vụ chuyên
gia. Phân khúc tự thực hiện CĐS chiếm tỷ trọng trên 50% vào năm 2021. Phân khúc
dịch vụ chuyên gia chiếm tỷ trọng doanh thu hơn 70% vào năm 2021. Các doanh nghiệp
đang trong quá trình số hóa cần các dịch vụ chuyên gia để giải quyết các vấn đề như lựa
chọn nhà cung cấp hoặc chuyển đổi văn hóa. Phân khúc này dự kiến sẽ phát triển khi
các nhà cung cấp dịch vụ chuyên gia giúp sử dụng và triển khai các nguồn lực phù hợp
vào đúng thời điểm. Nhiều tổ chức đã lựa chọn triển khai tự xây dựng các giải pháp
chuyển đổi số của mình vì nó cung cấp các lựa chọn hợp lý cho khả năng tùy biến cao
của sản phẩm. Việc tự triển khai cung cấp khả năng bảo mật thông tin cao hơn và hỗ trợ
các tổ chức tuân thủ các quy định và hướng dẫn khác nhau. Các tổ chức lớn đã đầu tư
mạnh cho việc tự triển khai tại chỗ vì đây là một lựa chọn an toàn hơn để giữ bí mật thông tin.
Mỗi quốc gia đều có con đường riêng không phải ai cũng đặt trọng tâm vào công
nghiệp, nhưng đều dùng khoa học và công nghệ để đạt được mục tiêu như chiến lược
quốc gia thông minh của Singapore, sản xuất thông minh của Ấn Độ, Trung Quốc, xã
hội thông minh của Nhật Bản, công nghiệp Luxembourg 4.0, công nghiệp Đức 4.0,
chương trình tăng trưởng của Hàn Quốc hay các ngành công nghiệp mới ở Pháp,…
Trong vòng 10 năm qua, hơn 30 quốc gia đã công bố chiến lược của mình. Mặc
dù phạm vi, trọng tâm, đầu tư,…khác nhau, nhưng có thể thấy hầu hết các nước đều đề
cập những điểm như: phát triển tài năng AI, phát triển nguồn nhân lực AI, đẩy mạnh
nghiên cứu và phát triển AI, xây dựng tài nguyên dữ liệu và hạ tầng số, AI cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, các lĩnh vực chọn lọc, vấn đề đạo đức. Rất
nhiều quốc gia công bố chiến lược trong hai năm 2017, 2018. 12
Ở Châu ÂU, Đan Mạch và Estonia là hai trong số những quốc gia thành công về
phát triển chính phủ số. 100% dịch vụ số với 90% người dân nước này sử dụng, đạt mức
độ phổ cập rất cao. Estonia là quốc gia thành công trong việc chuyển đổi các dịch vụ
công thành các giải pháp số, trở thành quốc gia số hang đầu trên thế giới. Mô hình X-
road kết nối dữ liệu quốc gia của Estonia rất đáng học tập. X-road là hệ thống đảm bảo
trao đổi dữ liệu an toàn và trực tiếp giữa các thành viên. Ruỉ ro với các hệ thống lớn là
không kiểm soát được dữ liệu tập trung, do vậy cơ sở dữ liệu tập trung cần thay bằng
kết nối các cơ sở dữ liệu phân tán. Các cơ sở dữ liệu không nên quá lớn, mỗi tổ chức có
cơ sở dữ liệu riêng. Trong quá trình trao đổi dữ liệu, X-road đảm bảo cho các thành viên:
sự tự chủ, bảo mật, giá trị xác thực và khả năng tương tác. 13
Ở Châu Á, các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore cũng rất thành công. Đăng ký
thành lập mới một doanh nghiệp thực hiện trực tuyến qua mạng chỉ trong 15 phút. Thời
gian thông quan hàng hóa ngắn nhất trong khu vực. Chính phủ Singapore được đánh
giá là minh bạch, chỉ số tham nhũng thuộc loại thấp nhất thế giới, chỉ số phát triển chính
phủ điện tử đứng đầu khu vực Đông Nam Á trong nhiều năm và trong top cao của thế
giới. Hàn Quốc được Liên hợp quốc xếp hạng Chỉ số dịch vụ công trực tuyến cao nhất
thế giới năm 2020 và xếp thứ hai thế giới về chỉ số chung phát triển chính phủ điện tử.
Tại Hàn Quốc, AI có vai trò then chốt trong các công nghệ số trong xây dựng xã hội
thông tin thông minh của Hàn Quốc.
Tại Trung Quốc, TQ đã xây dựng chiến lược “Internet cộng với nông
nghiệp” nhằm tạo ra một hệ sinh thái nông nghiệp và công bố hướng dẫn xây dựng hệ
thống chấm điểm công dân/ hệ thống tính điểm tín dụng xã hội (SCS: Social Credit
System). Hệ thống này sử dụng dữ liệu và các thông tin khác để kiểm tra độ tin cậy của
các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức chính phủ, thông qua đó giới hạn tình trạng ngăn
chặn hành vi gian lận thương mại, trốn thuế và trốn nợ. Tuy nhiên, nhiều người lo ngại
rằng chương trình chấm điểm công dân có thể thu thập thông tin cá nhân, vi phạm quyền
bảo vệ dữ liệu và tự do cá nhân. 14
Với chiến lược “Internet cộng với nông nghiệp”, TQ đã ban hành chiến lược,
nâng cấp chuỗi giá trị nông nghiệp hoàn toàn từ đầu vào, sản xuất, chế biến và tiêu thụ,
bằng cách tích hợp nông nghiệp với Internet và các công nghệ thông tin và truyền thông
khác (tỉnh Hải Nam). Với sự trợ giúp của chiến lược mới, tổng doanh thu bán hàng nông
sản trực tuyến năm 2017 ở Trung Quốc đạt 300 tỷ NDT, giá trị sản lượng của ngành chế
biến nông sản đạt 22 nghìn tỷ NDT và doanh thu từ nông nghiệp giải trí và du lịch nông
thôn đạt 740 tỷ NDT. Chiến lược đã tạo ra hàng triệu việc làm và giúp xóa đói giảm
nghèo ở các vùng nông thôn nghèo.
1.1.2.2. Sự phát triển của CĐS tại Việt Nam
Việc tái cấu trúc thể chế, nền kinh tế và xã hội với các công nghệ số mở ra cho
cá nhân, mọi tổ chức, mọi ngành nghề, mọi quốc gia. Cơ hội này mở ra cho cả những
quốc gia không có truyền thống công nghiệp như Việt Nam, nhưng có tiềm năng trong
nhiều lĩnh vực khác như khả năng tiếp thu công nghệ số, khả năng thích nghi cao,…Việt
Nam không những có thể mà còn nhất thiết phải nhanh chóng thực hiện CĐS. Trong
bảng chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam có
điểm trung bình là 41/120, đứng thứ 55 về mức độ chuyển đổi số trên thế giới. Lợi thế
to lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam chính là sự hỗ trợ của Chính phủ đối với các
doanh nghiệp trong việc ứng dụng CNTT để thúc đẩy tăng trưởng và cạnh tranh với các
nước trong khu vực. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 749/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025,
định hướng đến năm 2030". 15
Quyết định 749 đặc ra các mục tiêu chính như:
* Mục tiêu cơ bản đến năm 2025
- Phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động: 80% dịch vụ
công trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau,
bao gồm cả thiết bị di động; - 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ sơ công việc
tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ
hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); 100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng
hợp báo cáo định kỳ và báo cáo thống kê về kinh tế - xã hội phục vụ sự chỉ đạo, điều
hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu số trên
Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ; 100% cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát
triển Chính phủ điện tử bao gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư, Đất đai, Đăng
ký doanh nghiệp, Tài chính, Bảo hiểm được hoàn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn
quốc; từng bước mở dữ liệu của các cơ quan nhà nước để cung cấp dịch vụ công kịp
thời, một lần khai báo, trọn vòng đời phục vụ người dân và phát triển kinh tế - xã hội;
50% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi
trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý; Việt Nam thuộc nhóm 70 nước
dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI).
- Phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Kinh tế số
chiếm 20% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%;
Năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7%; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu
về công nghệ thông tin (IDI); Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh
tranh (GCI); Việt Nam thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII).
- Phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số: Hạ tầng mạng băng rộng cáp quang
phủ trên 80% hộ gia đình, 100% xã; Phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại
di động thông minh; Tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%; Việt Nam
thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI). 16
* Mục tiêu cơ bản đến năm 2030
- Phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động: 100% dịch vụ
công trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau,
bao gồm cả thiết bị di động; 100% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 90% hồ sơ công việc
tại cấp huyện và 70% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ
hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); Hình thành nền tảng dữ liệu cho các
ngành kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các cơ quan nhà nước và hạ tầng kết nối
mạng Internet vạn vật (IoT), kết nối, chia sẻ rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước, giảm
30% thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ
sáng tạo dựa trên dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp; 70% hoạt động kiểm tra của
cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông
tin của cơ quan quản lý; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI).
- Phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Kinh tế số
chiếm 30% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%; Năng
suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%; Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về
công nghệ thông tin (IDI); Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh
(GCI); Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII).
- Phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số: Phổ cập dịch vụ mạng Internet
băng rộng cáp quang; Phổ cập dịch vụ mạng di động 5G; Tỷ lệ dân số có tài khoản thanh
toán điện tử trên 80%; Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Theo Luật CNTT, cơ sở dữ liệu quốc gia là tập hợp thông tin của một hoặc một
số lĩnh vực kinh tế - xã hội được xây dựng, cập nhật và duy trì đáp ứng yêu cầu truy
nhập và sử dụng thông tin của các ngành kinh tế và phục vụ lợi ích xã hội. Hiện nay,
hàng chục CSDL quy mô quốc gia đã và đang được triển khai. Tuy nhiên, một số CSDL
quốc gia cần được ưu tiên, tập trung nguồn lực triển khai trước, tạo nền tảng cho triển
khai chính phủ điện tử, chính phủ số.
Việt Nam đã xác định 6 CSDL quốc gia cần được ưu tiên khi CĐS là: Cơ quan TT CSDL quốc gia Mô tả chủ quản 1
CSDL quốc gia về Bộ Công Thông tin gốc về người dân phục vụ dân cư an
quản lý hành chính về cư trú, hộ tịch và
sử dụng chung giữa các cơ quan nhà
nước, đơn giản hóa thủ tục hành chính
liên quan đến người dân 2 CSDL đất đai quốc Bộ
tài Thông tin về sử dụng đất đai gia nguyên và môi trường 17 3 CSDL quốc gia về Bộ
Kế Lưu trữ thông tin cơ bản về doanh
đăng ký doanh hoạch và nghiệp, phục vụ: Quản lý và chia sẻ, sử nghiệp Đầu tư
dụng chung giữa các cơ quan nhà nước,
đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp 4 CSDL quốc gia về Bộ
Kế Thông tin tổng hợp về người dân phục
thống kê tổng hợp về hoạch và vụ chia sẻ, dùng chung đa ngành, đa lĩnh dân số Đầu tư vực 5
CSDL quốc gia về tài Bộ
tài Thông tin cơ bản về tài chính ngân sách chính chính
như: thu/chi ngân sách nhà nước, nợ
công, vốn nhà nước tại doanh nghiệp 6
CSDL quốc gia về Bảo hiểm Thông tin cơ bản về bảo hiểm y tế, bảo bảo hiểm
xã hội Việt hiểm xã hội Nam
Ngoài 6 CSDL quốc gia cần ưu tiên, các bộ ngành và địa phương cần xây dựng
các CSDL của mình. Một ví dụ về CSDL quốc gia của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hiện
nay, phần về các trường phổ thông các cấp, CSDL đã có dữ liệu cả nước với 54 nghìn
trường, 760 nghìn lớp, khoảng 1,3 triệu thầy cô giáo và khoảng 23 triệu học sinh. CSDL
chứa dữ liệu chi tiết, như điểm cuối kỳ của từng học sinh.
Cho đến nay, các loại văn bản hành chính ở các cơ quan của Đảng, Chính phủ và
Quốc hội, các bộ ngành và các địa phương vẫn ở dạng giấy hoặc dạng điện tử pdf. Việc
số hóa và áp dụng các công nghệ tiên tiến của học máy và AI, cụ thể là lĩnh vực khai
phá văn bản (text mining), xử lý ngôn ngữ tự nhiên (NLP) và dữ liệu lớn (big data) đã
cho phép tự động hóa gán nhãn các văn bản sau số hóa, kết nối văn bản về nội dung và
tìm kiếm văn bản theo nội dung. Để triển khai hiệu quả và tổng thể, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã ban hành Quyết định số 1282/QĐ-BGDĐT về Kế hoạch tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025
của Bộ Giáo dục và Đào tạo (ngày 10/05/2022). 18
Trong lĩnh vực y tế, có 3 hướng CĐS chính là CĐS bệnh viện, chăm sóc sức
khỏe & phòng bệnh và quản trị y tế. Thực hiện Thông tư số 46/2018/TT-BYT, CĐS như
nhiệm vụ đột phá với hai giai đoạn (2019-2023) với 135 bệnh viện hàng 1 trở lên và
(2024-2030) với tất cả các cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc. Tổ chức khám chữa
bệnh từ xa, tư vấn y tế từ xa, xây dựng bệnh viện thông minh với các dịch vụ khám chữa
bệnh tiên tiến, triển khai các ứng dụng số trên nền tảng di động thông minh và các giải
pháp dịch vụ trực tuyến để thiết lập kênh giao tiếp số, giúp người dân có công cụ tiếp
cận với dịch vụ, thông tin về y tế, sức khỏe. Triển khai ứng dụng sổ y bạ điện tử cho
người dân. Triển khai ứng dụng hệ thống lưu trữ và truyền hình ảnh y tế PACS/RIS
nhằm thay thế việc in phim. Ứng dụng công nghệ số, đặc biệt AI để dự báo, cảnh báo
dịch bệnh. Triển khai các chương trình y tế thông minh theo QĐ số 4888/QĐ-BYT ngày
18/10/2019 về “Phê duyệt Đề án ứng dụng và phát triển CNTT y tế thông minh giai đoạn 2019-2025”.
Quan hệ giữa Bệnh án điện tử, Hồ sơ sức khỏe điện tử và Hồ sơ sức khỏe cá nhân
Trong lĩnh vực nông nghiệp, CĐS giúp sản xuất thông minh và quản lý nông
nghiệp số tại các địa phương. CSDL này cần cập nhật được từ cấp xã lên huyện, lên tỉnh,
lên bộ, dự báo sản xuất trong và ngoài nước thông qua các trang trại thông minh, chăn
nuôi thông minh, trồng trọt thủy canh tự động, nơi dữ liệu được đo đạc, lưu trữ và phân
tích,… Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Quyết định số 5275/QĐ-BNN-
VP về Kế hoạch chuyển đổi số (ngày 31/12/2021). 19
Xây dựng CSDL và bản đồ nông nghiệp số Việt Nam
Các Bộ khác đều đã có kế hoạch CĐS, cụ thể như:
- Bộ Thông tin và Truyền thông: Quyết định 2374/QĐ-BTTTT Kế hoạch chuyển
đổi số của BTTTT 2021 – 2025 (ngày ngày 31/12/2019)
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Quyết định số 12/QĐ-BKHĐT về việc phê duyệt
Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025 (ngày 07/01/2021)
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Quyết định số 949/QĐ-BVHTTDL ban hành
Kế hoạch chuyển đổi số của Bộ năm 2022 (ngày 22/04/2022)
- Bộ Công Thương: Quyết định số 823/QĐ-BCT về Chương trình chuyển đổi số
của Bộ Công Thương giai đoạn 2022 – 2025 (ngày 05/07/2022) -…
Bên cạnh đó, ngày 12/10/2020, Bộ thông tin và truyền thông ban hành Quyết
định 1726/QĐ-BTTT phê duyệt Đề án “Xác định bộ chỉ số đánh giá chuyển đổi số của
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương và của quốc gia”. Quan điểm và nhiệm vụ của Đề án tập trung vào các nội dung như:
- Nhận thức đóng vai trò quyết định trong CĐS: CĐS trước tiên là chuyển đổi
nhận thức, việc đầu tiên là tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, cơ cấu tổ chức, chuyển đổi
các mối quan hệ từ môi trường truyền thống sang môi trường số. Nếu đi nhanh, đi trước
dễ thu hút nguồn lực. Nếu đi chậm, đi sau, khi CĐS trở thành xu hướng phổ biến thì
nguồn lực trở nên khan hiếm, cơ hội ít đi, bỏ lỡ cơ hội phát triển.
- Người dân là trung tâm của CĐS: Thiết bị di động là phương tiện chính trong
thế giới số, hình thành văn hóa số, giá trị đạo đức và chủ quyền số quốc gia. Lĩnh vực
ưu tiên là y tế, giáo dục, tài chính, nông nghiệp, logistics, năng lượng,…
- Thể chế và công nghệ là động lực của CĐS: chính phủ kiến tạo thể chế, chính
sách, sẵn sàng chấp nhận và thử nghiệm cái mới (cơ chế Sandbox).
- Phát triển nền tảng số là giải pháp đột phá để thúc đẩy CĐS nhanh, hiệu quả,
giảm chi phí. Do đó cần xây dựng hệ thống định danh và xác thực điện tử, tiền di động,
điện toán đám mây, xây dựng nền tảng số dùng chung,… 20