lOMoARcPSD| 40551442
1
hatbTÀI LIỆU BẢN TEXT
HỌC PHẦN: CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG KINH DOANH (TXPCOM1111)
(Dùng cho ĐTTX hệ đại học chính quy)
NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan về chuyển đổi số trong kinh doanh
Chương 2: Hệ sinh thái chuyển đổi số trong kinh doanh
Chương 3: Quá trình chuyển đổi số trong kinh doanh
Chương 4: Kỹ năng số, chính sách và pháp luật của chuyển đổi số
Chương 5: Hạ tầng công nghệ số của chuyển đổi số trong kinh doanh
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ
TRONG KINH DOANH
1.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CĐS
1.1.1. Sự hình thành của CĐS
nhiều cách tả các giai đoạn phát triển của hội loài người. Cách mạng công
nghiệp là cách mô tả các giai đoạn phát triển, bắt đầu khi có các đột phá lớn về khoa học
và công nghệ dẫn đến các thay đổi sâu sắc của kinh tế và xã hội.
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất giai đoạn từ cuối thế kỷ XVIII với sự
phát minh ra động cơ hơi nước và tạo ra sản xuất cơ khí, còn gọi là cơ khí hóa. Cuộc
lOMoARcPSD| 40551442
2
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất chỉ diễn ra một số nước trên thế giới, mở đầu từ
nước Anh. Lý do diễn ra tại Anh đầu tiên vì: Anh nguồn tài nguyên lớn và đa dạng (đặc
biệt than đá gần bề mặt tiếp cận), dễ dàng khai thác, vị trí địa thuận lợi cho vận
chuyển và buôn bán, chính trị ổn định bền vững, chính phủ cởi mở hòa đồng với những ý
tưởng của chủ nghĩa bản. Từ do, cuộc cách mạng này lan sang những nước khác như
Mỹ và các nước châu Âu, mở đầu quá trình khí hóa ngành công nghiệp dệt, làm tăng
năng suất dệt. Trước đó, 98% người Châu Âu sống và làm việc trong các trang trại nông
thôn. Nhưng vào giữa thế kỉ XVIII, chỉ 50 năm sau khi áp dụng khí hóa, một nửa số
người Anh đã sống các thành phố làm việc trong các nhà máy. Sự ra đời của đầu
máy xe lửa, tàu thủy chạy bằng động cơ hơi nước đã tạo ra bước phát triển mạnh cho giao
thông đường sắt, đường thủy. Từ đó, động cơ hơi nước được chọn làm dấu mốc cho cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai là giai đoạn từ đầu thế kỷ XX với sự xuất hiện của
điện lực và tạo ra sản xuất hàng loạt, còn gọi là điện khí hóa. Trong khi cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất được thúc đẩy bởi việc sử dụng động hơi nước, cuộc Cách
mạng công nghiệp lần hai được đặc trưng bởi việc xây dựng các tuyến đường sắt quy mô
lớn. Công nghệ luyện gang, thép, dầu khí, hóa chất, đóng tàu, ô ngày càng hoàn thiện
phát triển với quy lớn. Những chiếc xe hơi trở n phổ biến cho phép tầng lớp
trung lưu không phải sống trong các thành phố quá đông đúc để làm việc trong nhà
máy văn phòng. Mọi người lái xe đi làm ở các khu vực ngoại ô phát triển. Các phương
tiện truyền thông như điện tín và điện thoại ra đời vào năm 1880, liên lạc bằng điện thoại
ngay lập tức được ứng dụng trên khắp thế giới.
lOMoARcPSD| 40551442
3
Trong giai đoạn từ 1870 đến 1890, đã sự bùng nổ về kinh tế và năng suất ở các nước
công nghiệp. Kết quả là, điều kiện sống được cải thiện đáng kể và giá cả hàng hóa giảm
mạnh. Với quá trình công nghiệp hóa, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp giảm mạnh. Điện kéo
theo giới hóa, vậy, tàu các tài sản khác trở nên lỗi thời trong một khoảng thời
gian ngắn. Người dân mất tiền tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt. Đây thể coi tác động
lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần hai. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 2 còn gây ra:
- Đô thị hóa tăng nhanh. Dân số chuyển đến những ngôi nhà được xây dựng ở các
thành phố để gần các nhà máy hơn.
- Tốc độ làm việc do máy móc điều khiển, tăng lên đáng kể. Sức khỏe tổng thể của
lực lượng lao động giảm sút do điều kiện khắc nghiệt không lành mạnh của các nhà
máy.
- Mức độ sẵn có của công việc không thể đoán trước vì nó tăng lêngiảm xuống
theo nhu cầu hàng hóa. Các nghệ nhân và thợ thủ công bị mất kế sinh nhai không thể
cạnh tranh với giá thành thấp của hàng hóa sản xuất hàng loạt.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba giai đoạn từ những năm 1970 với sự xuất hiện
của điện tử, máy tính, Internet tạo ra sản xuất tự động, còn gọi tự động hóa. Cuộc
cách mạng công nghiệp lần 3, hay còn được gọi Cách mạng kỹ thuật số, kỷ nguyên công
nghệ thông tin, với sự áp dụng phổ biến máy tính kỹ thuật số và lưu giữ hồ sơ kỹ thuật s
còn áp dụng đến ngày nay. Ngẫu nhiên, thuật ngữ này cũng dùng đề cập đến những thay
đổi sâu rộng do công nghệ điện toán và truyền thông kỹ thuật số mang lại giai đoạn nửa
sau của thế kỷ 20. Tương tự như cuộc Cách mạng Nông nghiệp Cách mạng Công
nghiệp, cuộc Cách mạng Kỹ thuật số đánh dấu sự khởi đầu của Kỷ nguyên thông tin.
Trọng tâm của cuộc cách mạng này việc sản xuất hàng loạt sử dụng rộng rãi logic
kỹ thuật số, bóng bán dẫn, chip mạch tích hợp (IC) và các công nghệ dẫn xuất của chúng,
bao gồm máy tính, bộ vi xử lý, điện thoại di động và Internet. Những đổi mới công nghệ
này đã làm thay đổi các kỹ thuật sản xuất và kinh doanh truyền thống, tăng năng suất và
động lực thúc đẩy cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Nền tảng bản của
Cuộc cách mạng kỹ thuật số transistor hiệu ứng trường Oxit Kim loại Bán dẫn
(MOSFET, hoặc bóng bán dẫn MOS), thiết bị được sản xuất rộng rãi nhất trong lịch
sử. nền tảng của mọi bộ vi xử lý, chip bộ nhớ mạch viễn thông trong sử dụng
thương mại. Thang đo MOSFET (thu nhỏ nhanh các bóng bán dẫn MOS) phần lớn chịu
trách nhiệm cho phép định luật Moore, dự đoán rằng số lượng bóng bán dẫn sẽ tăng theo
tốc độ theo cấp số nhân. Theo sự phát triển của máy tính kỹ thuật số cá nhân, bộ vi xử lý
MOS và chip bộ nhớ, với hiệu suất và lưu trữ tăng dần, đã cho phép công nghệ máy tính
được nhúng vào một loạt các đối tượng từ máy ảnh đến máy nghe nhạc cá nhân. Sự phát
triển của các công nghệ truyền dẫn bao gồm mạng máy tính, Internet phát sóng kỹ
thuật số. Sự thâm nhập hội của điện thoại 3G tăng theo cấp số nhân o những năm
lOMoARcPSD| 40551442
4
2000, cũng đóng một vai trò rất lớn trong cuộc cách mạng kỹ thuật số khi chúng đồng
thời cung cấp giải trí, truyền thông và kết nối trực tuyến phổ biến.
Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện tiết kiệm các tài nguyên thiên nhiên và các nguồn
lực xã hội, cho phép chi phí tương đối ít hơn các phương tiện sản xuất để tạo ra cùng một
khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Trong giai đoạn này, các chi phí về sản xuất giảm đáng
kể. Điều này mang lại những giá trị thiết thực cho các ngành nghề nông-lâmthủy sản, xây
dựng, dịch vụ, công nghiệp. Bên cạnh đó, với sự phát triển của công nghệ Hydro
Internet, khả năng lưu trữ, chia sẻ và phân tán năng lượng rộng rãi hơn. Đây được xem
bước khởi đầu cho hành trình cải cách năng lượng xanh.
Tiến trình Cách mạng Công nghiệp lần thứ 3:
- Giai đoạn 1947 1979: Năm 1947, bóng bán dẫn ra đời, đánh dấu sự phát triển
của máy tính kỹ thuật số hiện đại. Đến năm 1960, 1970 các tổ chức quân đội, chính phủ
bắt đầu sử dụng hệ thống máy tính. Với sự thịnh hành phát triển không ngừng, năm
1995 mạng toàn cầu World Wide Web chính thức hình thành.
- Những năm 1980: Trong thập niên này, máy tính đã trở thành một công cụ phổ
biến quen thuộc. Chúng được sử dụng như một phương tiện tất yếu cho nhiều công
việc khác nhau. Ở giai đoạn này, điện thoại di động đầu tiên cũng ra mắt.
- Những năm 1990: Tại thời điểm này, Internet được ứng dụng rộng khắp trong các
hoạt động kinh doanh. Mạng toàn cầu đã trở thành một nhân tố không thể thiếu trong cuộc
sống hằng ngày của một nửa dân số Mỹ vào cuối những năm 1990.
- Năm 2000: Cách mạng Công nghiệp lần thứ 3 trở thành một làn sóng lớn, lan rộng
đến các nước đang phát triển. Internet ngày càng phổ biến, số lượng người sử dụng điện
thoại di động ngày càng tăng. Bên cạnh đó, truyền hình cũng bắt đầu chuyển sang sử dụng
n hiệu kỹ thuật số.
- Từ năm 2010 đến nay: Đến giai đoạn này, giao tiếp bằng di động đã trở nên phổ
biến hơn. Người dùng sử dụng điện thoại ngày càng nhiều và trở thành xu hướng chuẩn
trong giao tiếp hiện đại của con người, tạo ra một phương thức liên lạc, mua sắm và làm
việc mới. Truyền thông xã hội là hình thức kết nối mới, giúp người dùng kết nối giao
tiếp dựa trên một nền tảng nhất định.
lOMoARcPSD| 40551442
5
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba mở ra nhiều chương mới về lĩnh vực kỹ thuật số như:
máy bay không người lái dựa trên điện Hydro và phương tiện tự vận hành, hệ thống robot
hội linh hoạt, máy in 3D hiện đại công nghệ nano, trí tuệ nhân tạo thay thế con
người trong các tác vụ mang tính lặp lại, cây trồng biến đổi gen, viễn thám, nông nghiệp
đô thị, kinh tế vũ trụ, vệ tinh nano và robot không gian. Những thành tựu
được hình thành từ cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 3 giúp thay đổi toàn bộ cách
thức vận hành, biến mọi thứ phức tạp thành đơn giản hơn. Ngoài ra, hiệu suất làm việc và
chi phí lao động cũng được cắt giảm trong cuộc cách mạng mang tính bước ngoặt này.
Trong tiến trình hình thành Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba, quyền riêng và các
vấn đề về thương hiệu, bản quyền mối quan tâm lớn nhất và. Cuộc cách mạng tạo ra
khả năng theo dõi dữ liệu cá nhân dựa trên các hoạt động sở thích. Điều này dẫn đến
mối lo ngại về việc bảo mật và an toàn thông tin. Hiện trạng phân phối các tác phẩm sao
chép xuất hiện ngày càng dày đặc, dẫn đến sự hình thành luật sở hữu trí tuệ, nhất là trong
ngành công nghiệp phim ảnh, truyền hình âm nhạc. Ngoài ra do tốc độ làm việc của
máy móc nhanh hơn rất nhiều so với con người, đồng thời, khả năng hoạt động liên tục
trong khoảng thời gian dài nên tạo thách thức cho lực lượng lao động bị thay thế bởi robot
công nghiệp.
Phải mất hơn 8.000 năm loài người mới chuyển từ cuộc CM nông nghiệp sang CM công
nghiệp đầu tiên, nhưng chỉ mất 50 năm để chuyển từ CM công nghiệp lần thứ ba sang lần
thứ tư. Tốc độ thay đổi này là một thách thức lớn cho khả năng thích ứng của con người.
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Khái niệm Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 lần
đầu được đề cập qua bản “Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao” của GS. Klaus
Schwab. Ông là chủ tịch Diễn đàn Kinh thế Thế giới Industry 4.0. Trong hơn 75 năm qua,
Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 đã được ứng dụng trên nhiều lĩnh vực công nghệ quan
trọng. Năm 2011, khái niệm Industry 4.0 được nhắc đến đầu tiên tại Hội chợ công nghiệp
Hannover (Công hòa Liên bang Đức). Công nghệ 4.0 phát triển mạnh mẽ tại Đức lan
rộng ra ra những quốc gia tiên tiến khác như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ. Năm
lOMoARcPSD| 40551442
6
2013, theo đà phát triển, từ khóa “Công nghệ 4.0” tiếp tục nổi lên qua một bài báo cáo
của chính phủ Đức. Theo báo cao, cụm từ này đề cập đến những chiến lược công nghệ
cao, tự động hóa các hoạt động sản xuất mà không cần sự góp sức của con người. Nước
Đức đưa ra thuật ngữ Công nghiệp 4.0 để đặc trưng nền công nghiệp của riêng họ. Khái
niệm Công nghiệp 4.0 tiếp tục được khai thác tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần
thứ 46 (Thụy Sĩ). Hiện tại, Công nghiệp 4.0 không còn dự án thuộc khuôn khổ của Đức.
Thuật ngữ này đã trở thành chủ đề chung của nhiều quốc gia trở thành nền tảng quan
trọng của cuộc sống hiện đại bây giờ. Nhưng WEF nhận định một cuộc cách mạng
công nghiệp mới, tứ là một giai đoạn phát triển mới của xã hội loài người, bắt đầu diễn ra
với tên “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Cần phân biệt “công nghiệp 4.0” nói riêng
về công nghiệp, còn “cách mạng công nghiệp lần thứ tư” nói về một giai đoạn phát
triển mới của loài người, cả kinh tế, văn hóa, xã hội, công nghiệp…Vì thế nên dùng cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 thay vì cách mạng công nghiệp 4.0.
Một số phát minh của cách mạng Công nghiệp lần thứ 4: Công nghiệp 4.0 cộng hưởng
với sự bùng nổ của thời đại Internet, tạo ra những bước ngoặt lớn với các phát minh
đại. Vì vậy, các doanh nghiệp trong thời kỳ này đã hoạt động song hành cùng công nghệ
mới như:
- IoT (Internet of Thing – Internet vạn vật): Đây là sự hội tụ giữa ba nhân tố: mạng
Internet, thiết bị vi cơ điện tử thiết bị không dây. IoT tạo nên các sản phẩm liên quan
đến cuộc sống thường nhật như: máy tính, điện thoại, vi sóng, ti vi,… Chúng khả
năng truyền đạt thông tin qua mạng lưới Internet. IoT giúp doanh nghiệp thu thập dữ liệu
khách hàng dựa trên các sản phẩm được kết nối liên tục. vậy, doanh nghiệp có thể đánh
giá hành vi khách hàng tốt hơn để điều chỉnh chiến lược tiếp thị phù hợp. - AI (Ttuệ
lOMoARcPSD| 40551442
7
nhân tạo): Trí tuệ nhân tạo xuất phát từ lĩnh vực khoa học máy tính. Công nghệ này tạo ra
những cỗ máy có khả năng hoạt động và phản ứng tương tự con người. AI được lập trình
với nhiều mục tiêu như: thu thập và xử lý thông tin, đưa ra lập luận và phán đoán, tự sửa
lỗi,… Trong tiếp thị, AI nhiệm vụ phân tích dữ liệu khách hàng, đề xuất chiến lược
kinh doanh hợp lý. Đặc biệt, khi sử dụng AI, tính nhân hóa được thúc đẩy mạnh mẽ
hơn. Đây xu hướng chung mọi doanh nghiệp đều hướng đến. VD Tủ lạnh thông
minh thông báo đồ hỏng, liên kết vs các thương mại điện tử để cung cấp, quảng cáo
- Blockchain (Chuỗi khối): Đây được xem một phương thức ghi chia sẻ dữ
liệu hiệu quả và an toàn. Blockchain có đặc tính phi tập trung, minh bạch không phụ
thuộc vào bên thứ 3. Ví dụ điển hình của chuỗi khối Bitcoin đồng tiền kỹ thuật số.
Ngoài ra, Blockchain còn được sử dụng cho những mục đích khác như: bảo mật dữ liệu
y tế, chống gian lận trong bầu cử, theo dõi được chuỗi cung ứng,… ( tôi ghép dữ liệu đó
thành khối và hợp khối đó thành chuỗi, khối nghĩa là đóng nên nó khó truy cập thông tin)
Truy xuất nguồn gốc xuất xứ
- VR, AR (Công nghệ thực tế ảo, thực tế ảo tăng cường): VR, AR là thuật ngữ miêu
tả một môi trường được giả lập (ảo hóa) được tạo ra bởi con người nhờ vào các
phần mềm chuyên dụng, và được điều khiển bởi một thiết bị thông minh. VR và AR khác
nhau về cách thức hoạt động. VR sẽ tạo ra một môi trường hoàn toàn ảo, trong khi đó AR
sẽ dựa trên không gian thật của môi trường xung quanh, sau đó thêm một vài yếu tố ảo
hóa vào bên trong. Công nghệ này ứng dụng nhiều trong lĩnh vực giải trí, du lịch số, bất
động sản,.. Vd game, gameshow nhập vai ở hàn quốc, ngành du lịch trải nghiệmvh
- Cloud (Điện toán đám mây): Với điện toán đám mây, người dùng thể lưu trữ,
phân loại và sắp xếp dữ liệu trên hệ thống của nhà cung cấp dịch vụ. Chẳng hạn như:
Office 365, Facebook, Youtube,… Các ứng dụng này cho phép doanh nghiệp thực thi
chiến lược tiếp thị tự động nhằm tối ưu nguồn lực và tiết kiệm chi phí.
- Big Data (Dữ liệu lớn): Big Data hỗ trợ người dùng thu thập và lưu trữ khối lượng
lớn dữ liệu, như thông tin cá nhân của từng khách hàng. Việc này giúp doanh nghiệp nắm
bắt được hành vi, xu hướng, nhu cầu,…, của người tiêu dùng. Từ đó, doanh nghiệp có thể
thiết lập các chiến lược tiếp thị phù hợp với từng khách hàng trong các giai đoạn khác
nhau. Vd Ngành y tế cần nhiều dữ liệu bệnh nhân càng tốtvhv
- Công nghệ sinh học: Hoạt động chính của công nghệ sinh học là phân tích và khai
thác tế bào, phân tử sinh học. Sau đó, những dữ liệu này được dùng để phát triển công
nghệ. Chúng khả năng phục vụ cho nhiều mục đích như tạo ra dược liệu, vật phẩm
mới. Bên cạnh đó, công nghệ sinh học thể mở ra quy trình sản xuất công nghiệp tân
tiến với nguồn năng lượng sạch hơn.
- In 3D: Công nghệ này cho phép doanh nghiệp sản xuất in ra các sản phẩm mang
đặc trưng riêng. So với phương thức in truyền thống, in 3D tốn ít công cụ chi phí với
hiệu suất nhanh hơn. Ngoài ra, quy trình này còn được bổ sung các tùy chỉnh nhằm tạo ra
những tính năng hoàn hảo hơn.
lOMoARcPSD| 40551442
8
- Robot: Phần lớn robot được ứng dụng trong thiết kế , sản xuất hoặc phục vụ cho
mục đích cá nhân và thương mại. Hiện nay, robot ngày càng có các tính năng phức tạp và
tinh vi hơn. Chúng thường mặt trong các nh vực chuyên dụng như: chăm sóc sức
khỏe, sản xuất, dịch vụ,…
- RPA (Tự động hóa quy trình robot): Công nghệ này giúp các robot hoạt động thông
qua AI có khả năng tự động hóa những nhiệm vụ kinh doanh đơn giản. Những hoạt động
của con người được thay thế bởi các robot thông minh, chúng đảm nhiệm một số vai trò
phổ biến như: xử lý giao dịch, quản lý nhân sự, hỗ trợ tiếp thị,…
Ngày nay thế giới lại một lần nữa thay đổi. Một trong những thay đổi này số hóa
kết nối đã cho phép con người, xưa từ sản xuất thể đến sản xuất hàng loạt, nay sản xuất
hướng đến lợi ích, giá trị và nhu cầu của từng cá nhân. Sâu sắc hơn, bản chất sự thay đổi
lần này là quá trình thông minh hóa mọi hoạt động của con người. Điều cần ý thức là các
cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra những thay đổi mang tính khách quan. Những tiến
bộ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là các công nghệ số đã len lỏi vào cuộc sống của
mỗi người, mỗi gia đình, mỗi tổ chức. Con người một lần nữa phải thay đổi nếu muốn tồn
tại. Nhiều doanh nghiệp trên thế giới đã thay đổi sản xuất kinh doanh với các tiến bộ
của công nghệ số. Và đây là điểm khởi đầu của chuyển đổi số.
Trên thế giới, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm 2015, phổ biến
từ năm 2017. Việt Nam, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm
2018. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia vào ngày
03/6/2020. Chuyển đổi số con đường đthành công, là cốt lõi của phát triển trong kỷ
nguyên số và chuyển đổi số là cốt lõi của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trong các công nghệ số thì AI là công nghệ số then chốt để thực hiện chuyển đổi số.
1.1.2. Sự phát triển của CĐS
1.1.2.1. Sự phát triển của CĐS trên thế giới
Mặc dù hiện tại CĐS đang là chủ đthảo luận phổ biến, nhưng các ý tưởng về sản phẩm,
dịch vụ và phương tiện kỹ thuật số đã được hiểu rõ từ những năm 1990 và 2000 (Auriga
2016). Những năm 1990 2000, trong ngành bán lẻ, các chiến dịch quảng cáo trên
phương tiện truyền thông đại chúng được coi kênh kỹ thuật số quan trọng để tiếp cận
khách hàng, mặc việc mua hàng vẫn chủ yếu được thực hiện bên trong các cửa hàng
truyền thống, thường bằng tiền mặt. Từ năm 2000 đến năm 2015, sự gia tăng của các thiết
bị thông minh và nền tảng truyền thông xã hội đã dẫn đến sự thay đổi lớn về phương thức
mà khách hàng sử dụng để giao tiếp với doanh nghiệp cũng như kỳ vọng của khách hàng
về thời gian phản hồi và tính khả dụng của đa kênh. Các doanh nghiệp bắt đầu thấy rằng
họ có thể giao tiếp kỹ thuật số với khách hàng của mình trên sở cá nhân thường
trong thời gian thực. Sự lựa chọn ngày càng tăng của thanh toán điện tử góp phần phát
triển thương mại trực tuyến hội cho các điểm bán hàng dựa trên web. Ngày nay,
người ta tập trung vào thiết bị di động bằng cách tận dụng các loại dữ liệu khách hàng
được cá nhân hóa mà công nghệ di động có thể tạo ra trên quy mô lớn. Các doanh nghiệp
đang nhân hóa nhu cầu khách hàng điều chỉnh các sản phẩm, dịch vụ, thông tin,
lOMoARcPSD| 40551442
9
nâng cao hiệu quả tương tác với khách hàng nhằm tạo ra giá trị. Trong giai đoạn 2020-
2021, các doanh nghiệp trên thế giới đang có sự thay đổi rõ rệt trong nhận thức về chuyển
đổi số. Đặc biệt sau đại dịch Covid-19, chuyển đổi số đang dần trở thành một khái niệm
quen thuộc và là xu hướng tất yếu để có thể phát triển và sinh tồn. Hiện nay, Chuyển đổi
số đã dần thay đổi nhận thức của các nhà lãnh đạo trên thế giới. Họ dần nhận thấy được
hiệu quả gia tăng năng suất hoạt động, chi phí thời gian vận hành khi chuyển đổi số.
Cùng với đó, các động thái trong việc áp dụng chuyển đổi số đã ngay lập tức bắt đầu.
Quan điểm chuyển đổi schỉ thấy được ở các công ty lớn, giàu tiềm lực về kinh tế mới
có thể tiếp cận được đã không còn chính xác. Hiện nay, những doanh nghiệp vừa và nhỏ
(SMEs) hay doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) nguồn nhân lực đã thể tiếp cận được
với những công nghệ, giải pháp số để phục vụ kinh doanh.
Theo khảo sát của Cisco & IDC năm 2020 tại 14 quốc gia thuộc khu vực Châu Á
Thái Bình Dương về mức độ trưởng thành số của các doanh nghiệp SMEs: -
Khoảng 3% các doanh nghiệp cho rằng chuyển đổi số chưa thực sự quan trọng với hoạt
động của doanh nghiệp, thấp hơn nhiều so với con số với năm 2019 là 22%.
- 62% doanh nghiệp kỳ vọng chuyển đổi số giúp doanh nghiệp cải thiện và tạo ra các
sản phẩm, dịch vụ mới hiệu quả hơn.
- 56% doanh nghiệp thấy được sự cạnh tranh và chuyển đổi số yếu tố giúp doanh
nghiệp tồn tại và phát triển.
Khảo sát từ 900 nhà lãnh đạo doanh nghiệp trong báo cáo ca Fujitsu về “Chuyển đổi số
toàn cầum 2019” cho thấy có tới 40% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã thực hiện và
gặt hái được thành quả tcác dự án chuyển đổi, khoảng 40% các dự án vẫn đang trong
lOMoARcPSD| 40551442
10
giai đoạn triển khai chỉ một số ít, dưới 30% các doanh nghiệp chưa thực hiện dự án
chuyển đổi số nào. Cthể hơn, các lĩnh vực như tài chính, vận tải, sản xuất, y tế và bán
buôn/bán lẻ những lĩnh vực tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện các dự án chuyển đổi số
cao nhất. Đặc biệt, tới hơn 40% doanh nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng vận tải đã
triển khai các dự án thành công với kết quả rõ rệt.
thể thấy, các doanh nghiệp đang dần nhận thức được ràng hơn về tầm quan trọng
của chuyển đổi số cũng như mong muốn tăng tốc và bứt phá tạo nên cách biệt so với khu
vực trên thế giới. Tốc độ chuyển đổi số trên thế giới tại các khu vực quốc gia
khác nhau, tùy thuộc vào mức độ phát triển công nghệ tốc độ chuyển đổi hình
doanh nghiệp. Trong đó, khu vực châu Âu được đánh giá là khu vực có tốc độ chuyển đổi
số nhanh nhất, tiếp đến là Mỹ và quốc gia tại châu Á.
Tốc độ chuyển đổi số trên thế giới tại các khu vực quốc gia khác nhau, tùy thuộc
vào mức độ phát triển công nghệ và tốc độ chuyển đổi mô hình doanh nghiệp. Trong đó,
khu vực châu Âu được đánh giá là khu vực có tốc độ chuyển đổi số nhanh nhất, tiếp đến
Mỹ quốc gia tại châu Á. Theo Cisco & IDC, 4 giai đoạn chính trong tiến trình
chuyển đối số của các doanh nghiệp: “xuất phát” – “quan sát” -“Thách thức” – “Trưởng
thành”. Khảo sát từ 900 nhà lãnh đạo doanh nghiệp về tiến trình chuyển đổi số theo ngành,
cho thấy: Gần 40% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã thực hiện gặt hái được thành
lOMoARcPSD| 40551442
11
quả từ các dự án chuyển đổi, Khoảng 40% đang trong giai đoạn triển khai chỉ một số
ít chưa thực hiện dự án chuyển đổi số nào.
thể thấy khả năng tác động của chuyển đổi số đối với tăng trưởng GDP rất lớn.
Điều này được thể hiện qua sự tăng trưởng về GDP của các quốc gia, khu vực khác nhau.
Theo nghiên cứu của Microsoft tại khu vực Châu Á TBD, tác động chuyển đổi số
mang lại cho GDP khoảng 6%, năm 2019 25% tới năm 2021 60%. Kết quả
nghiên cứu của McKinsey chỉ ra rằng, vào năm 2025, mức độ tác động của chuyển đổi số
tới GDP của nước Mỹ khoảng 25%, với đất nước Brazil là 35%, còn ở các nước Châu
Âu khoảng 36%. Bắc Mỹ chiếm tỷ trọng doanh thu lớn nhất hơn 30% vào năm 2021,
vị trí thống trị nổi bật trong các giải pháp phần mềm lập trình nâng cao, nhờ vào
hoạt động bán lẻ, sản xuất và ô cao ở Canada và Hoa Kỳ. Khu vực Châu Á Thái Bình
Dương được cho sẽ trở thành khu vực phát triển nhanh nhất trong vòng tám năm tới,
do sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các doanh nghiệp vừa nhỏ mở rộng khu
vực dịch vụ. Quy thị trường CĐS toàn cầu được đánh giá 608,72 tỷ USD (năm
2021) và dự kiến sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 23,1% từ
năm 2022 đến năm 2030. Phân khúc SME dự kiến sẽ đạt tốc độ CAGR cao nhất là 24,6%.
Một xu hướng khác trên thế giới khi chuyển đổi số sử dụng dịch vụ chuyên gia(mất
chi phí, chưa hiểu văn hóa, thiếu bảo mật so với Tự làm cần nhiều nhân lực thời gian,
chưa hiểu biết rõ về chuyển đổi số toàn diện, chưa có lộ trình cụ thể, phần mềm phải có
thành phần nào. Liên hệ thưc tế hàn quốc, singapore, trung quốc . Phân khúc tự thực hiện
CĐS chiếm tỷ trọng trên 50% vào năm 2021. Phân khúc dịch vụ chuyên gia chiếm tỷ
trọng doanh thu hơn 70% vào năm 2021. Các doanh nghiệp đang trong quá trình số hóa
cần các dịch vụ chuyên gia để giải quyết các vấn đề như lựa chọn nhà cung cấp hoặc
chuyển đổi văn hóa. Phân khúc này dự kiến sẽ phát triển khi các nhà cung cấp dịch vụ
chuyên gia giúp sử dụng và triển khai các nguồn lực phù hợp vào đúng thời điểm. Nhiều
tổ chức đã lựa chọn triển khai tự xây dựng các giải pháp chuyển đổi số của mình
cung cấp các lựa chọn hợp lý cho khả năng tùy biến cao của sản phẩm. Việc tự triển khai
cung cấp khả năng bảo mật thông tin cao hơn và hỗ trợ các tổ chức tuân thủ các quy định
và hướng dẫn khác nhau. Các tổ chức lớn đã đầu tư mạnh cho việc tự triển khai tại chỗ
đây là một lựa chọn an toàn hơn để giữ bí mật thông tin.
Mỗi quốc gia đều có con đường riêng không phải ai cũng đặt trọng tâm vào công nghiệp,
nhưng đều dùng khoa học công nghệ để đạt được mục tiêu như chiến lược quốc gia
thông minh của Singapore, sản xuất thông minh của Ấn Độ, Trung Quốc, hội thông
minh của Nhật Bản, công nghiệp Luxembourg 4.0, công nghiệp Đức 4.0, chương trình
tăng trưởng của Hàn Quốc hay các ngành công nghiệp mới ở Pháp,… Trong vòng 10 năm
qua, hơn 30 quốc gia đã công bố chiến lược của mình. Mặc phạm vi, trọng tâm, đầu
tư,…khác nhau, nhưng thể thấy hầu hết các nước đều đề cập những điểm như: phát
triển tài năng AI, phát triển nguồn nhân lực AI, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển AI, xây
dựng tài nguyên dữ liệu và hạ tầng số, AI cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng
lOMoARcPSD| 40551442
12
tạo, các lĩnh vực chọn lọc, vấn đề đạo đức. Rất nhiều quốc gia công bố chiến lược trong
hai năm 2017, 2018.
Châu ÂU, Đan Mạch Estonia hai trong số những quốc gia thành công về phát
triển chính phủ số. 100% dịch vụ số với 90% người dân nước này sử dụng, đạt mức độ
phổ cập rất cao. Estonia quốc gia thành công trong việc chuyển đổi các dịch vụ công
thành các giải pháp số, trthành quốc gia số hang đầu trên thế giới. nh Xroad kết
nối dữ liệu quốc gia của Estonia rất đáng học tập. X-road là hệ thống đảm bảo trao đổi d
liệu an toàn và trực tiếp giữa các thành viên. Ruỉ ro với các hệ thống lớn không kiểm
soát được dữ liệu tập trung, do vậy sở dữ liệu tập trung cần thay bằng kết nối các
sở dữ liệu phân tán. Các sở dữ liệu không nên quá lớn, mỗi tổ chức sở dữ liệu
riêng. Trong quá trình trao đổi dữ liệu, X-road đảm bảo cho các thành viên: stự chủ, bảo
mật, giá trị xác thực và khả năng tương tác.
lOMoARcPSD| 40551442
13
Châu Á, các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore cũng rất thành công. Đăng ký thành
lập mới một doanh nghiệp thực hiện trực tuyến qua mạng chỉ trong 15 phút. Thời gian
thông quan hàng hóa ngắn nhất trong khu vực. Chính phủ Singapore được đánh giá
minh bạch, chỉ số tham nhũng thuộc loại thấp nhất thế giới, chỉ số phát triển chính phủ
điện tử đứng đầu khu vực Đông Nam Á trong nhiều năm trong top cao của thế giới.
Hàn Quốc được Liên hợp quốc xếp hạng Chỉ số dịch vụ công trực tuyến cao nhất thế giới
năm 2020 xếp thứ hai thế giới về chỉ số chung phát triển chính phủ điện tử. Tại Hàn
Quốc, AI vai trò then chốt trong các công nghệ số trong xây dựng hội thông tin
thông minh của Hàn Quốc.
lOMoARcPSD| 40551442
14
Tại Trung Quốc, TQ đã xây dựng chiến lược “Internet cộng với nông nghiệp” nhằm tạo
ra một hệ sinh thái nông nghiệp công bố hướng dẫn xây dựng hệ thống chấm điểm
công dân/ hệ thống tính điểm tín dụng xã hội (SCS: Social Credit System). Hệ thống này
sử dụng dữ liệu các thông tin khác để kiểm tra độ tin cậy của các nhân, doanh nghiệp
tổ chức chính phủ, thông qua đó giới hạn tình trạng ngăn chặn hành vi gian lận thương
mại, trốn thuế trốn nợ. Tuy nhiên, nhiều người lo ngại rằng chương trình chấm điểm
công dân thể thu thập thông tin nhân, vi phạm quyền bảo vệ dữ liệu tự do
nhân.
lOMoARcPSD| 40551442
15
Với chiến lược “Internet cộng với nông nghiệp”, TQ đã ban hành chiến lược, nâng cấp
chuỗi giá trị nông nghiệp hoàn toàn từ đầu vào, sản xuất, chế biến và tiêu thụ, bằng cách
tích hợp nông nghiệp với Internet các công nghệ thông tin truyền thông khác (tỉnh
Hải Nam). Với sự trợ giúp của chiến lược mới, tổng doanh thu bán hàng nông sản trực
tuyến năm 2017 Trung Quốc đạt 300 tỷ NDT, giá trị sản lượng của ngành chế biến nông
sản đạt 22 nghìn tỷ NDT doanh thu từ nông nghiệp giải trí du lịch nông thôn đạt
740 tỷ NDT. Chiến lược đã tạo ra hàng triệu việc làm giúp xóa đói giảm nghèo các
vùng nông thôn nghèo
Ưu điểm tiếp cận nhiều khách hàng, mô hình b2c bán hàng trực tiếp ng sản xuất để, cảm nhận
được chất lượng tốt vì đã được chứng kiến nguồn gốc
Khó khăn: xung đột về kênh bán hàng hóa giống nhau, phải chấp nhận rủi ro trong phân
phối, hình thức chưa chắc đẹp, giá cao
. 1.1.2.2. Sự phát triển của CĐS tại Việt Nam
lOMoARcPSD| 40551442
16
Việc tái cấu trúc thể chế, nền kinh tế và xã hội với các công nghệ số mở ra cho cá nhân,
mọi tổ chức, mọi ngành nghề, mọi quốc gia. hội này mở ra cho cả những quốc gia
không có truyền thống công nghiệp như Việt Nam, nhưng có tiềm năng trong nhiều lĩnh
vực khác như khả năng tiếp thu công nghệ số, khả năng thích nghi cao,…Việt Nam không
những thểcòn nhất thiết phải nhanh chóng thực hiện CĐS. Trong bảng chỉ số đánh
giá mức độ chuyển đổi số của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam có điểm trung bình
41/120, đứng thứ 55 về mức độ chuyển đổi số trên thế giới. Lợi thế to lớn nhất của các
doanh nghiệp Việt Nam chính là sự hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp trong
việc ứng dụng CNTT để thúc đẩy tăng trưởng và cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ:
Phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm
2030".
Quyết định 749 đặc ra các mục tiêu chính như: Tìm mục tiêu và nhiệm vụ, liệt kê các bộ
chọn một bộ phân tích ( bộ kế hoạch đầu tư tôt nhất ) nêu các hoạt động chuyển đổi số
* Mục tiêu cơ bản đến năm 2025
- Phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động: 80% dịch vụ công
trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm
cả thiết bị di động; - 90% hồ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ công việc tại cấp
huyện 60% hồ công việc tại cấp được xử trên môi trường mạng (trừ hồ
công việc thuộc phạm vi mật nhà nước); 100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng hợp báo
cáo định kỳ báo cáo thống về kinh tế - xã hội phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu số trên Hệ thống
thông tin báo cáo Chính phủ; 100% sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính
phủ điện tử bao gồm các sở dữ liệu quốc gia về Dân cư, Đất đai, Đăng doanh nghiệp,
Tài chính, Bảo hiểm được hoàn thành kết nối, chia sẻ trên toàn quốc; từng bước mở
lOMoARcPSD| 40551442
17
dữ liệu của các quan nhà nước để cung cấp dịch vụ công kịp thời, một lần khai báo,
trọn vòng đời phục vụ người dân phát triển kinh tế - hội; 50% hoạt động kiểm tra
của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông
tin của quan quản lý; Việt Nam thuộc nhóm 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử
(EGDI).
- Phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Kinh tế số
chiếm 20% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; Năng
suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7%; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về công
nghệ thông tin (IDI); Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI);
Việt Nam thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII). - Phát triển xã hội số,
thu hẹp khoảng cách số: Hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình,
100% xã; Phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh; Tỷ lệ
dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%; Việt Nam thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu
về an toàn, an ninh mạng (GCI).
* Mục tiêu cơ bản đến năm 2030
- Phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động: 100% dịch vụ
công trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao
gồm cả thiết bị di động; 100% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 90% hồ công việc tại
cấp huyện và 70% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ
công việc thuộc phạm vi mật nhà nước); Hình thành nền tảng dữ liệu cho các ngành
kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các quan nhà nước hạ tầng kết nối mạng
Internet vạn vật (IoT), kết nối, chia sẻ rộng khắp giữa các quan nhà nước, giảm 30%
thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ sáng tạo
dựa trên dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp; 70% hoạt động kiểm tra của cơ quan
quản nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số hệ thống thông tin của
quan quản lý; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI).
- Phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Kinh tế số
chiếm 30% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%; Năng
suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%; Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về công
nghệ thông tin (IDI); Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI);
Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII). - Phát triển xã hội số,
thu hẹp khoảng cách số: Phổ cập dịch vụ mạng Internet băng rộng cáp quang; Phổ cập
dịch vụ mạng di động 5G; Tỷ lệ dân số tài khoản thanh toán điện tử trên 80%; Việt
Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Theo Luật CNTT, sở dữ liệu quốc gia tập hợp thông tin của một hoặc một số lĩnh
vực kinh tế - xã hội được xây dựng, cập nhật và duy trì đáp ứng yêu cầu truy nhập và sử
dụng thông tin của các ngành kinh tế và phục vụ lợi ích xã hội. Hiện nay, hàng chục
lOMoARcPSD| 40551442
18
CSDL quy quốc gia đã đang được triển khai. Tuy nhiên, một số CSDL quốc gia
cần được ưu tiên, tập trung nguồn lực triển khai trước, tạo nền tảng cho triển khai chính
phủ điện tử, chính phủ số.
Việt Nam đã xác định 6 CSDL quốc gia cần được ưu tiên khi CĐS là:
TT
CSDL quốc gia
Cơ quan
chủ quản
Mô tả
1
CSDL quốc gia về
dân cư
Bộ
Côn
g an
Thông tin gốc về người dân phục vụ quản
hành chính về trú, hộ tịch sử
dụng chung giữa các quan nhà nước,
đơn giản hóa thủ tục hành chính
liên quan đến người dân
2
CSDL đất đai quốc
gia
Bộ tài
nguyên
môi trường
Thông tin về sử dụng đất đai
3
CSDL quốc gia về
đăng ký doanh
nghiệp
Bộ Kế
hoạch và
Đầu tư
Lưu trữ thông tin bản về doanh
nghiệp, phục vụ: Quản chia sẻ, sử
dụng chung giữa các quan nhà nước,
đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan
đến doanh nghiệp
4
CSDL quốc gia về
thống tổng hợp về
dân số
Bộ Kế
hoạch và
Đầu tư
Thông tin tổng hợp về người dân phục vụ
chia sẻ, dùng chung đa ngành, đa lĩnh vực
5
CSDL quốc gia về tài
chính
Bộ tài
chính
Thông tin bản về tài chính ngân sách
như: thu/chi ngân sách nhà nước, nợ
công, vốn nhà nước tại doanh nghiệp
6
CSDL quốc gia về bảo
hiểm
Bảo hiểm
xã hội Việt
Nam
Thông tin bản về bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội
Ngoài 6 CSDL quốc gia cần ưu tiên, các bộ ngành và địa phương cần xây dựng các CSDL
của mình. Một ví dụ về CSDL quốc gia của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hiện nay, phần về
các trường phổ thông các cấp, CSDL đã dữ liệu cả nước với 54 nghìn trường, 760
nghìn lớp, khoảng 1,3 triệu thầy cô giáo và khoảng 23 triệu học sinh. CSDL chứa dữ liệu
chi tiết, như điểm cuối kỳ của từng học sinh.
lOMoARcPSD| 40551442
19
Cho đến nay, các loại văn bản hành chính các quan của Đảng, Chính phủ và Quốc
hội, các bộ ngành và các địa phương vẫn ở dạng giấy hoặc dạng điện tử pdf. Việc số hóa
áp dụng các công nghệ tiên tiến ca học máy AI, cụ thlà lĩnh vực khai phá văn bản
(text mining), xử ngôn ngữ tự nhiên (NLP) dữ liệu lớn (big data) đã cho phép tự
động hóa gán nhãn các văn bản sau số hóa, kết nối văn bản về nội dung và tìm kiếm văn
bản theo nội dung. Đtriển khai hiệu quả tổng thể, Bộ Giáo dục Đào tạo đã ban
hành Quyết định số 1282/QĐ-BGDĐT vKế hoạch tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo giai đoạn 2022-2025 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo (ngày 10/05/2022).
Trong lĩnh vực y tế, có 3 hướng CĐS chính là CĐS bệnh viện, chăm sóc sức khỏe
& phòng bệnh và quản trị y tế. Thực hiện Thông tư số 46/2018/TT-BYT, CĐS như nhiệm
vụ đột phá với hai giai đoạn (2019-2023) với 135 bệnh viện hàng 1 trở lên và (2024-2030)
với tất cả các sở khám chữa bệnh trên toàn quốc. Tổ chức khám chữa bệnh từ xa,
vấn y tế từ xa, xây dựng bệnh viện thông minh với các dịch vụ khám chữa bệnh tiên tiến,
triển khai các ứng dụng số trên nền tảng di động thông minh và các giải pháp dịch vụ trực
tuyến để thiết lập kênh giao tiếp số, giúp người dân có công c tiếp cận với dịch vụ, thông
tin về y tế, sức khỏe. Triển khai ứng dụng sổ y bạ điện tử cho người dân. Triển khai ứng
dụng hệ thống lưu trữ và truyền hình ảnh y tế PACS/RIS nhằm thay thế việc in phim. Ứng
dụng công nghệ số, đặc biệt AI để dự báo, cảnh báo dịch bệnh. Triển khai các chương
trình y tế thông minh theo số 4888/QĐ-BYT ngày 18/10/2019 về “Phê duyệt Đề án
ứng dụng và phát triển CNTT y tế thông minh giai đoạn 2019-2025”.
lOMoARcPSD| 40551442
20
Quan hệ giữa Bệnh án điện tử, Hồ sơ sức khỏe điện tử và Hồ sơ sức khỏe cá nhân
Trong lĩnh vực nông nghiệp, CĐS giúp sản xuất thông minh và quản lý nông nghiệp số
tại các địa phương. CSDL này cần cập nhật được từ cấp xã lên huyện, lên tỉnh, lên bộ, dự
báo sản xuất trong ngoài nước thông qua các trang trại thông minh, chăn nuôi thông
minh, trồng trọt thủy canh tự động, nơi dữ liệu được đo đạc, lưu trữ và phân tích,
Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn ban hành Quyết định số 5275/QĐ-BNNVP
về Kế hoạch chuyển đổi số (ngày 31/12/2021).
Xây dựng CSDL bản đồ nông nghiệp số Việt Nam Các Bộ
khác đều đã có kế hoạch CĐS, cụ thể như:
- Bộ Thông tin và Truyền thông: Quyết định 2374/QĐ-BTTTT Kế hoạch chuyển đổi số
của BTTTT 2021 – 2025 (ngày ngày 31/12/2019)
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Quyết định số 12/QĐ-BKHĐT về việc phê duyệt

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40551442
hatbTÀI LIỆU BẢN TEXT
HỌC PHẦN: CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG KINH DOANH (TXPCOM1111)
(Dùng cho ĐTTX hệ đại học chính quy) NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan về chuyển đổi số trong kinh doanh
Chương 2: Hệ sinh thái chuyển đổi số trong kinh doanh
Chương 3: Quá trình chuyển đổi số trong kinh doanh
Chương 4: Kỹ năng số, chính sách và pháp luật của chuyển đổi số
Chương 5: Hạ tầng công nghệ số của chuyển đổi số trong kinh doanh
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG KINH DOANH
1.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CĐS
1.1.1. Sự hình thành của CĐS

Có nhiều cách mô tả các giai đoạn phát triển của xã hội loài người. Cách mạng công
nghiệp là cách mô tả các giai đoạn phát triển, bắt đầu khi có các đột phá lớn về khoa học
và công nghệ dẫn đến các thay đổi sâu sắc của kinh tế và xã hội.
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là giai đoạn từ cuối thế kỷ XVIII với sự
phát minh ra động cơ hơi nước và tạo ra sản xuất cơ khí, còn gọi là cơ khí hóa. Cuộc 1 lOMoAR cPSD| 40551442
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất chỉ diễn ra ở một số nước trên thế giới, mở đầu từ
nước Anh. Lý do diễn ra tại Anh đầu tiên vì: Anh có nguồn tài nguyên lớn và đa dạng (đặc
biệt là than đá gần bề mặt tiếp cận), dễ dàng khai thác, vị trí địa lý thuận lợi cho vận
chuyển và buôn bán, chính trị ổn định bền vững, chính phủ cởi mở hòa đồng với những ý
tưởng của chủ nghĩa tư bản. Từ do, cuộc cách mạng này lan sang những nước khác như
Mỹ và các nước châu Âu, mở đầu quá trình cơ khí hóa ngành công nghiệp dệt, làm tăng
năng suất dệt. Trước đó, 98% người Châu Âu sống và làm việc trong các trang trại ở nông
thôn. Nhưng vào giữa thế kỉ XVIII, chỉ 50 năm sau khi áp dụng cơ khí hóa, một nửa số
người ở Anh đã sống ở các thành phố và làm việc trong các nhà máy. Sự ra đời của đầu
máy xe lửa, tàu thủy chạy bằng động cơ hơi nước đã tạo ra bước phát triển mạnh cho giao
thông đường sắt, đường thủy. Từ đó, động cơ hơi nước được chọn làm dấu mốc cho cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai là giai đoạn từ đầu thế kỷ XX với sự xuất hiện của
điện lực và tạo ra sản xuất hàng loạt, còn gọi là điện khí hóa. Trong khi cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất được thúc đẩy bởi việc sử dụng động cơ hơi nước, cuộc Cách
mạng công nghiệp lần hai được đặc trưng bởi việc xây dựng các tuyến đường sắt quy mô
lớn. Công nghệ luyện gang, thép, dầu khí, hóa chất, đóng tàu, ô tô ngày càng hoàn thiện
và phát triển với quy mô lớn. Những chiếc xe hơi trở nên phổ biến cho phép tầng lớp
trung lưu không phải sống trong các thành phố quá đông đúc để làm việc trong cá nhà
máy và văn phòng. Mọi người lái xe đi làm ở các khu vực ngoại ô phát triển. Các phương
tiện truyền thông như điện tín và điện thoại ra đời vào năm 1880, liên lạc bằng điện thoại
ngay lập tức được ứng dụng trên khắp thế giới. 2 lOMoAR cPSD| 40551442
Trong giai đoạn từ 1870 đến 1890, đã có sự bùng nổ về kinh tế và năng suất ở các nước
công nghiệp. Kết quả là, điều kiện sống được cải thiện đáng kể và giá cả hàng hóa giảm
mạnh. Với quá trình công nghiệp hóa, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp giảm mạnh. Điện kéo
theo cơ giới hóa, vì vậy, tàu và các tài sản khác trở nên lỗi thời trong một khoảng thời
gian ngắn. Người dân mất tiền và tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt. Đây có thể coi là tác động
lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần hai. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 còn gây ra: -
Đô thị hóa tăng nhanh. Dân số chuyển đến những ngôi nhà được xây dựng ở các
thành phố để gần các nhà máy hơn. -
Tốc độ làm việc do máy móc điều khiển, tăng lên đáng kể. Sức khỏe tổng thể của
lực lượng lao động giảm sút do điều kiện khắc nghiệt và không lành mạnh của các nhà máy. -
Mức độ sẵn có của công việc không thể đoán trước vì nó tăng lên và giảm xuống
theo nhu cầu hàng hóa. Các nghệ nhân và thợ thủ công bị mất kế sinh nhai vì không thể
cạnh tranh với giá thành thấp của hàng hóa sản xuất hàng loạt.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba là giai đoạn từ những năm 1970 với sự xuất hiện
của điện tử, máy tính, Internet và tạo ra sản xuất tự động, còn gọi là tự động hóa. Cuộc
cách mạng công nghiệp lần 3, hay còn được gọi Cách mạng kỹ thuật số, kỷ nguyên công
nghệ thông tin, với sự áp dụng phổ biến máy tính kỹ thuật số và lưu giữ hồ sơ kỹ thuật số
còn áp dụng đến ngày nay. Ngẫu nhiên, thuật ngữ này cũng dùng đề cập đến những thay
đổi sâu rộng do công nghệ điện toán và truyền thông kỹ thuật số mang lại ở giai đoạn nửa
sau của thế kỷ 20. Tương tự như cuộc Cách mạng Nông nghiệp và Cách mạng Công
nghiệp, cuộc Cách mạng Kỹ thuật số đánh dấu sự khởi đầu của Kỷ nguyên thông tin.
Trọng tâm của cuộc cách mạng này là việc sản xuất hàng loạt và sử dụng rộng rãi logic
kỹ thuật số, bóng bán dẫn, chip mạch tích hợp (IC) và các công nghệ dẫn xuất của chúng,
bao gồm máy tính, bộ vi xử lý, điện thoại di động và Internet. Những đổi mới công nghệ
này đã làm thay đổi các kỹ thuật sản xuất và kinh doanh truyền thống, tăng năng suất và
là động lực thúc đẩy cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Nền tảng cơ bản của
Cuộc cách mạng kỹ thuật số là transistor hiệu ứng trường Oxit Kim loại Bán dẫn
(MOSFET, hoặc bóng bán dẫn MOS), là thiết bị được sản xuất rộng rãi nhất trong lịch
sử. Nó là nền tảng của mọi bộ vi xử lý, chip bộ nhớ và mạch viễn thông trong sử dụng
thương mại. Thang đo MOSFET (thu nhỏ nhanh các bóng bán dẫn MOS) phần lớn chịu
trách nhiệm cho phép định luật Moore, dự đoán rằng số lượng bóng bán dẫn sẽ tăng theo
tốc độ theo cấp số nhân. Theo sự phát triển của máy tính kỹ thuật số cá nhân, bộ vi xử lý
MOS và chip bộ nhớ, với hiệu suất và lưu trữ tăng dần, đã cho phép công nghệ máy tính
được nhúng vào một loạt các đối tượng từ máy ảnh đến máy nghe nhạc cá nhân. Sự phát
triển của các công nghệ truyền dẫn bao gồm mạng máy tính, Internet và phát sóng kỹ
thuật số. Sự thâm nhập xã hội của điện thoại 3G tăng theo cấp số nhân vào những năm 3 lOMoAR cPSD| 40551442
2000, cũng đóng một vai trò rất lớn trong cuộc cách mạng kỹ thuật số khi chúng đồng
thời cung cấp giải trí, truyền thông và kết nối trực tuyến phổ biến.
Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện tiết kiệm các tài nguyên thiên nhiên và các nguồn
lực xã hội, cho phép chi phí tương đối ít hơn các phương tiện sản xuất để tạo ra cùng một
khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Trong giai đoạn này, các chi phí về sản xuất giảm đáng
kể. Điều này mang lại những giá trị thiết thực cho các ngành nghề nông-lâmthủy sản, xây
dựng, dịch vụ, công nghiệp. Bên cạnh đó, với sự phát triển của công nghệ Hydro và
Internet, khả năng lưu trữ, chia sẻ và phân tán năng lượng rộng rãi hơn. Đây được xem là
bước khởi đầu cho hành trình cải cách năng lượng xanh.
Tiến trình Cách mạng Công nghiệp lần thứ 3: -
Giai đoạn 1947 – 1979: Năm 1947, bóng bán dẫn ra đời, đánh dấu sự phát triển
của máy tính kỹ thuật số hiện đại. Đến năm 1960, 1970 các tổ chức quân đội, chính phủ
bắt đầu sử dụng hệ thống máy tính. Với sự thịnh hành và phát triển không ngừng, năm
1995 mạng toàn cầu World Wide Web chính thức hình thành. -
Những năm 1980: Trong thập niên này, máy tính đã trở thành một công cụ phổ
biến và quen thuộc. Chúng được sử dụng như một phương tiện tất yếu cho nhiều công
việc khác nhau. Ở giai đoạn này, điện thoại di động đầu tiên cũng ra mắt. -
Những năm 1990: Tại thời điểm này, Internet được ứng dụng rộng khắp trong các
hoạt động kinh doanh. Mạng toàn cầu đã trở thành một nhân tố không thể thiếu trong cuộc
sống hằng ngày của một nửa dân số Mỹ vào cuối những năm 1990. -
Năm 2000: Cách mạng Công nghiệp lần thứ 3 trở thành một làn sóng lớn, lan rộng
đến các nước đang phát triển. Internet ngày càng phổ biến, số lượng người sử dụng điện
thoại di động ngày càng tăng. Bên cạnh đó, truyền hình cũng bắt đầu chuyển sang sử dụng
tín hiệu kỹ thuật số. -
Từ năm 2010 đến nay: Đến giai đoạn này, giao tiếp bằng di động đã trở nên phổ
biến hơn. Người dùng sử dụng điện thoại ngày càng nhiều và trở thành xu hướng chuẩn
trong giao tiếp hiện đại của con người, tạo ra một phương thức liên lạc, mua sắm và làm
việc mới. Truyền thông xã hội là hình thức kết nối mới, giúp người dùng kết nối và giao
tiếp dựa trên một nền tảng nhất định. 4 lOMoAR cPSD| 40551442
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba mở ra nhiều chương mới về lĩnh vực kỹ thuật số như:
máy bay không người lái dựa trên điện Hydro và phương tiện tự vận hành, hệ thống robot
xã hội linh hoạt, máy in 3D hiện đại và công nghệ nano, trí tuệ nhân tạo thay thế con
người trong các tác vụ mang tính lặp lại, cây trồng biến đổi gen, viễn thám, nông nghiệp
đô thị, kinh tế vũ trụ, vệ tinh nano và robot không gian. Những thành tựu
được hình thành từ cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 3 giúp thay đổi toàn bộ cách
thức vận hành, biến mọi thứ phức tạp thành đơn giản hơn. Ngoài ra, hiệu suất làm việc và
chi phí lao động cũng được cắt giảm trong cuộc cách mạng mang tính bước ngoặt này.
Trong tiến trình hình thành Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba, quyền riêng tư và các
vấn đề về thương hiệu, bản quyền là mối quan tâm lớn nhất và. Cuộc cách mạng tạo ra
khả năng theo dõi dữ liệu cá nhân dựa trên các hoạt động và sở thích. Điều này dẫn đến
mối lo ngại về việc bảo mật và an toàn thông tin. Hiện trạng phân phối các tác phẩm sao
chép xuất hiện ngày càng dày đặc, dẫn đến sự hình thành luật sở hữu trí tuệ, nhất là trong
ngành công nghiệp phim ảnh, truyền hình và âm nhạc. Ngoài ra do tốc độ làm việc của
máy móc nhanh hơn rất nhiều so với con người, đồng thời, khả năng hoạt động liên tục
trong khoảng thời gian dài nên tạo thách thức cho lực lượng lao động bị thay thế bởi robot công nghiệp.
Phải mất hơn 8.000 năm loài người mới chuyển từ cuộc CM nông nghiệp sang CM công
nghiệp đầu tiên, nhưng chỉ mất 50 năm để chuyển từ CM công nghiệp lần thứ ba sang lần
thứ tư. Tốc độ thay đổi này là một thách thức lớn cho khả năng thích ứng của con người.
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Khái niệm Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 lần
đầu được đề cập qua bản “Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao” của GS. Klaus
Schwab. Ông là chủ tịch Diễn đàn Kinh thế Thế giới Industry 4.0. Trong hơn 75 năm qua,
Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 đã được ứng dụng trên nhiều lĩnh vực công nghệ quan
trọng. Năm 2011, khái niệm Industry 4.0 được nhắc đến đầu tiên tại Hội chợ công nghiệp
Hannover (Công hòa Liên bang Đức). Công nghệ 4.0 phát triển mạnh mẽ tại Đức và lan
rộng ra ra những quốc gia tiên tiến khác như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ. Năm 5 lOMoAR cPSD| 40551442
2013, theo đà phát triển, từ khóa “Công nghệ 4.0” tiếp tục nổi lên qua một bài báo cáo
của chính phủ Đức. Theo báo cao, cụm từ này đề cập đến những chiến lược công nghệ
cao, tự động hóa các hoạt động sản xuất mà không cần sự góp sức của con người. Nước
Đức đưa ra thuật ngữ Công nghiệp 4.0 để đặc trưng nền công nghiệp của riêng họ. Khái
niệm Công nghiệp 4.0 tiếp tục được khai thác tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần
thứ 46 (Thụy Sĩ). Hiện tại, Công nghiệp 4.0 không còn là dự án thuộc khuôn khổ của Đức.
Thuật ngữ này đã trở thành chủ đề chung của nhiều quốc gia và trở thành nền tảng quan
trọng của cuộc sống hiện đại bây giờ. Nhưng WEF nhận định có một cuộc cách mạng
công nghiệp mới, tứ là một giai đoạn phát triển mới của xã hội loài người, bắt đầu diễn ra
với tên “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Cần phân biệt “công nghiệp 4.0” là nói riêng
về công nghiệp, còn “cách mạng công nghiệp lần thứ tư” là nói về một giai đoạn phát
triển mới của loài người, cả kinh tế, văn hóa, xã hội, công nghiệp…Vì thế nên dùng cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 thay vì cách mạng công nghiệp 4.0.
Một số phát minh của cách mạng Công nghiệp lần thứ 4: Công nghiệp 4.0 cộng hưởng
với sự bùng nổ của thời đại Internet, tạo ra những bước ngoặt lớn với các phát minh vĩ
đại. Vì vậy, các doanh nghiệp trong thời kỳ này đã hoạt động song hành cùng công nghệ mới như: -
IoT (Internet of Thing – Internet vạn vật): Đây là sự hội tụ giữa ba nhân tố: mạng
Internet, thiết bị vi cơ điện tử và thiết bị không dây. IoT tạo nên các sản phẩm liên quan
đến cuộc sống thường nhật như: máy tính, điện thoại, lò vi sóng, ti vi,… Chúng có khả
năng truyền đạt thông tin qua mạng lưới Internet. IoT giúp doanh nghiệp thu thập dữ liệu
khách hàng dựa trên các sản phẩm được kết nối liên tục. Vì vậy, doanh nghiệp có thể đánh
giá hành vi khách hàng tốt hơn để điều chỉnh chiến lược tiếp thị phù hợp. - AI (Trí tuệ 6 lOMoAR cPSD| 40551442
nhân tạo): Trí tuệ nhân tạo xuất phát từ lĩnh vực khoa học máy tính. Công nghệ này tạo ra
những cỗ máy có khả năng hoạt động và phản ứng tương tự con người. AI được lập trình
với nhiều mục tiêu như: thu thập và xử lý thông tin, đưa ra lập luận và phán đoán, tự sửa
lỗi,… Trong tiếp thị, AI có nhiệm vụ phân tích dữ liệu khách hàng, đề xuất chiến lược
kinh doanh hợp lý. Đặc biệt, khi sử dụng AI, tính cá nhân hóa được thúc đẩy mạnh mẽ
hơn. Đây là xu hướng chung mà mọi doanh nghiệp đều hướng đến. VD Tủ lạnh thông
minh thông báo đồ hỏng, liên kết vs các thương mại điện tử để cung cấp, quảng cáo -
Blockchain (Chuỗi khối): Đây được xem là một phương thức ghi và chia sẻ dữ
liệu hiệu quả và an toàn. Blockchain có đặc tính phi tập trung, minh bạch và không phụ
thuộc vào bên thứ 3. Ví dụ điển hình của chuỗi khối là Bitcoin – đồng tiền kỹ thuật số.
Ngoài ra, Blockchain còn được sử dụng cho những mục đích khác như: bảo mật dữ liệu
y tế, chống gian lận trong bầu cử, theo dõi được chuỗi cung ứng,… ( tôi ghép dữ liệu đó
thành khối và hợp khối đó thành chuỗi, khối nghĩa là đóng nên nó khó truy cập thông tin)
Truy xuất nguồn gốc xuất xứ -
VR, AR (Công nghệ thực tế ảo, thực tế ảo tăng cường): VR, AR là thuật ngữ miêu
tả một môi trường được giả lập (ảo hóa) được tạo ra bởi con người nhờ vào các
phần mềm chuyên dụng, và được điều khiển bởi một thiết bị thông minh. VR và AR khác
nhau về cách thức hoạt động. VR sẽ tạo ra một môi trường hoàn toàn ảo, trong khi đó AR
sẽ dựa trên không gian thật của môi trường xung quanh, sau đó thêm một vài yếu tố ảo
hóa vào bên trong. Công nghệ này ứng dụng nhiều trong lĩnh vực giải trí, du lịch số, bất
động sản,.. Vd game, gameshow nhập vai ở hàn quốc, ngành du lịch trải nghiệmvh -
Cloud (Điện toán đám mây): Với điện toán đám mây, người dùng có thể lưu trữ,
phân loại và sắp xếp dữ liệu trên hệ thống của nhà cung cấp dịch vụ. Chẳng hạn như:
Office 365, Facebook, Youtube,… Các ứng dụng này cho phép doanh nghiệp thực thi
chiến lược tiếp thị tự động nhằm tối ưu nguồn lực và tiết kiệm chi phí. -
Big Data (Dữ liệu lớn): Big Data hỗ trợ người dùng thu thập và lưu trữ khối lượng
lớn dữ liệu, như thông tin cá nhân của từng khách hàng. Việc này giúp doanh nghiệp nắm
bắt được hành vi, xu hướng, nhu cầu,…, của người tiêu dùng. Từ đó, doanh nghiệp có thể
thiết lập các chiến lược tiếp thị phù hợp với từng khách hàng trong các giai đoạn khác
nhau. Vd Ngành y tế cần nhiều dữ liệu bệnh nhân càng tốtvhv -
Công nghệ sinh học: Hoạt động chính của công nghệ sinh học là phân tích và khai
thác tế bào, phân tử sinh học. Sau đó, những dữ liệu này được dùng để phát triển công
nghệ. Chúng có khả năng phục vụ cho nhiều mục đích như tạo ra dược liệu, vật phẩm
mới. Bên cạnh đó, công nghệ sinh học có thể mở ra quy trình sản xuất công nghiệp tân
tiến với nguồn năng lượng sạch hơn. -
In 3D: Công nghệ này cho phép doanh nghiệp sản xuất in ra các sản phẩm mang
đặc trưng riêng. So với phương thức in truyền thống, in 3D tốn ít công cụ và chi phí với
hiệu suất nhanh hơn. Ngoài ra, quy trình này còn được bổ sung các tùy chỉnh nhằm tạo ra
những tính năng hoàn hảo hơn. 7 lOMoAR cPSD| 40551442 -
Robot: Phần lớn robot được ứng dụng trong thiết kế , sản xuất hoặc phục vụ cho
mục đích cá nhân và thương mại. Hiện nay, robot ngày càng có các tính năng phức tạp và
tinh vi hơn. Chúng thường có mặt trong các lĩnh vực chuyên dụng như: chăm sóc sức
khỏe, sản xuất, dịch vụ,… -
RPA (Tự động hóa quy trình robot): Công nghệ này giúp các robot hoạt động thông
qua AI có khả năng tự động hóa những nhiệm vụ kinh doanh đơn giản. Những hoạt động
của con người được thay thế bởi các robot thông minh, chúng đảm nhiệm một số vai trò
phổ biến như: xử lý giao dịch, quản lý nhân sự, hỗ trợ tiếp thị,…
Ngày nay thế giới lại một lần nữa thay đổi. Một trong những thay đổi này là số hóa và
kết nối đã cho phép con người, xưa từ sản xuất cá thể đến sản xuất hàng loạt, nay sản xuất
hướng đến lợi ích, giá trị và nhu cầu của từng cá nhân. Sâu sắc hơn, bản chất sự thay đổi
lần này là quá trình thông minh hóa mọi hoạt động của con người. Điều cần ý thức là các
cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra những thay đổi mang tính khách quan. Những tiến
bộ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là các công nghệ số đã len lỏi vào cuộc sống của
mỗi người, mỗi gia đình, mỗi tổ chức. Con người một lần nữa phải thay đổi nếu muốn tồn
tại. Nhiều doanh nghiệp trên thế giới đã thay đổi sản xuất và kinh doanh với các tiến bộ
của công nghệ số. Và đây là điểm khởi đầu của chuyển đổi số.
Trên thế giới, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm 2015, phổ biến
từ năm 2017. Ở Việt Nam, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm
2018. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia vào ngày
03/6/2020. Chuyển đổi số là con đường để thành công, là cốt lõi của phát triển trong kỷ
nguyên số và chuyển đổi số là cốt lõi của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trong các công nghệ số thì AI là công nghệ số then chốt để thực hiện chuyển đổi số.
1.1.2. Sự phát triển của CĐS
1.1.2.1. Sự phát triển của CĐS trên thế giới

Mặc dù hiện tại CĐS đang là chủ đề thảo luận phổ biến, nhưng các ý tưởng về sản phẩm,
dịch vụ và phương tiện kỹ thuật số đã được hiểu rõ từ những năm 1990 và 2000 (Auriga
2016). Những năm 1990 và 2000, trong ngành bán lẻ, các chiến dịch quảng cáo trên
phương tiện truyền thông đại chúng được coi là kênh kỹ thuật số quan trọng để tiếp cận
khách hàng, mặc dù việc mua hàng vẫn chủ yếu được thực hiện bên trong các cửa hàng
truyền thống, thường bằng tiền mặt. Từ năm 2000 đến năm 2015, sự gia tăng của các thiết
bị thông minh và nền tảng truyền thông xã hội đã dẫn đến sự thay đổi lớn về phương thức
mà khách hàng sử dụng để giao tiếp với doanh nghiệp cũng như kỳ vọng của khách hàng
về thời gian phản hồi và tính khả dụng của đa kênh. Các doanh nghiệp bắt đầu thấy rằng
họ có thể giao tiếp kỹ thuật số với khách hàng của mình trên cơ sở cá nhân và thường là
trong thời gian thực. Sự lựa chọn ngày càng tăng của thanh toán điện tử góp phần phát
triển thương mại trực tuyến và cơ hội cho các điểm bán hàng dựa trên web. Ngày nay,
người ta tập trung vào thiết bị di động bằng cách tận dụng các loại dữ liệu khách hàng
được cá nhân hóa mà công nghệ di động có thể tạo ra trên quy mô lớn. Các doanh nghiệp
đang cá nhân hóa nhu cầu khách hàng và điều chỉnh các sản phẩm, dịch vụ, thông tin, 8 lOMoAR cPSD| 40551442
nâng cao hiệu quả tương tác với khách hàng nhằm tạo ra giá trị. Trong giai đoạn 2020-
2021, các doanh nghiệp trên thế giới đang có sự thay đổi rõ rệt trong nhận thức về chuyển
đổi số. Đặc biệt sau đại dịch Covid-19, chuyển đổi số đang dần trở thành một khái niệm
quen thuộc và là xu hướng tất yếu để có thể phát triển và sinh tồn. Hiện nay, Chuyển đổi
số đã dần thay đổi nhận thức của các nhà lãnh đạo trên thế giới. Họ dần nhận thấy được
hiệu quả gia tăng năng suất hoạt động, chi phí và thời gian vận hành khi chuyển đổi số.
Cùng với đó, các động thái trong việc áp dụng chuyển đổi số đã ngay lập tức bắt đầu.
Quan điểm chuyển đổi số chỉ thấy được ở các công ty lớn, giàu tiềm lực về kinh tế mới
có thể tiếp cận được đã không còn chính xác. Hiện nay, những doanh nghiệp vừa và nhỏ
(SMEs) hay doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) có nguồn nhân lực đã có thể tiếp cận được
với những công nghệ, giải pháp số để phục vụ kinh doanh.
Theo khảo sát của Cisco & IDC năm 2020 tại 14 quốc gia thuộc khu vực Châu Á
Thái Bình Dương về mức độ trưởng thành số của các doanh nghiệp SMEs: -
Khoảng 3% các doanh nghiệp cho rằng chuyển đổi số chưa thực sự quan trọng với hoạt
động của doanh nghiệp, thấp hơn nhiều so với con số với năm 2019 là 22%. -
62% doanh nghiệp kỳ vọng chuyển đổi số giúp doanh nghiệp cải thiện và tạo ra các
sản phẩm, dịch vụ mới hiệu quả hơn. -
56% doanh nghiệp thấy được sự cạnh tranh và chuyển đổi số là yếu tố giúp doanh
nghiệp tồn tại và phát triển.
Khảo sát từ 900 nhà lãnh đạo doanh nghiệp trong báo cáo của Fujitsu về “Chuyển đổi số
toàn cầu năm 2019” cho thấy có tới 40% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã thực hiện và
gặt hái được thành quả từ các dự án chuyển đổi, khoảng 40% các dự án vẫn đang trong 9 lOMoAR cPSD| 40551442
giai đoạn triển khai và chỉ một số ít, dưới 30% các doanh nghiệp chưa thực hiện dự án
chuyển đổi số nào. Cụ thể hơn, các lĩnh vực như tài chính, vận tải, sản xuất, y tế và bán
buôn/bán lẻ là những lĩnh vực có tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện các dự án chuyển đổi số
cao nhất. Đặc biệt, có tới hơn 40% doanh nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng và vận tải đã
triển khai các dự án thành công với kết quả rõ rệt.
Có thể thấy, các doanh nghiệp đang dần nhận thức được rõ ràng hơn về tầm quan trọng
của chuyển đổi số cũng như mong muốn tăng tốc và bứt phá tạo nên cách biệt so với khu
vực và trên thế giới. Tốc độ chuyển đổi số trên thế giới tại các khu vực và quốc gia là
khác nhau, tùy thuộc vào mức độ phát triển công nghệ và tốc độ chuyển đổi mô hình
doanh nghiệp. Trong đó, khu vực châu Âu được đánh giá là khu vực có tốc độ chuyển đổi
số nhanh nhất, tiếp đến là Mỹ và quốc gia tại châu Á.
Tốc độ chuyển đổi số trên thế giới tại các khu vực và quốc gia là khác nhau, tùy thuộc
vào mức độ phát triển công nghệ và tốc độ chuyển đổi mô hình doanh nghiệp. Trong đó,
khu vực châu Âu được đánh giá là khu vực có tốc độ chuyển đổi số nhanh nhất, tiếp đến
là Mỹ và quốc gia tại châu Á. Theo Cisco & IDC, có 4 giai đoạn chính trong tiến trình
chuyển đối số của các doanh nghiệp: “xuất phát” – “quan sát” -“Thách thức” – “Trưởng
thành”. Khảo sát từ 900 nhà lãnh đạo doanh nghiệp về tiến trình chuyển đổi số theo ngành,
cho thấy: Gần 40% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã thực hiện và gặt hái được thành 10 lOMoAR cPSD| 40551442
quả từ các dự án chuyển đổi, Khoảng 40% đang trong giai đoạn triển khai và chỉ một số
ít chưa thực hiện dự án chuyển đổi số nào.
Có thể thấy khả năng tác động của chuyển đổi số đối với tăng trưởng GDP là rất lớn.
Điều này được thể hiện qua sự tăng trưởng về GDP của các quốc gia, khu vực khác nhau.
Theo nghiên cứu của Microsoft tại khu vực Châu Á TBD, tác động mà chuyển đổi số
mang lại cho GDP là khoảng 6%, năm 2019 là 25% và tới năm 2021 là 60%. Kết quả
nghiên cứu của McKinsey chỉ ra rằng, vào năm 2025, mức độ tác động của chuyển đổi số
tới GDP của nước Mỹ là khoảng 25%, với đất nước Brazil là 35%, còn ở các nước Châu
Âu là khoảng 36%. Bắc Mỹ chiếm tỷ trọng doanh thu lớn nhất hơn 30% vào năm 2021,
có vị trí thống trị nổi bật trong các giải pháp phần mềm và lập trình nâng cao, nhờ vào
hoạt động bán lẻ, sản xuất và ô tô cao ở Canada và Hoa Kỳ. Khu vực Châu Á Thái Bình
Dương được cho là sẽ trở thành khu vực phát triển nhanh nhất trong vòng tám năm tới,
do sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ và mở rộng khu
vực dịch vụ. Quy mô thị trường CĐS toàn cầu được đánh giá là 608,72 tỷ USD (năm
2021) và dự kiến sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 23,1% từ
năm 2022 đến năm 2030. Phân khúc SME dự kiến sẽ đạt tốc độ CAGR cao nhất là 24,6%.
Một xu hướng khác trên thế giới khi chuyển đổi số là sử dụng dịch vụ chuyên gia(mất
chi phí, chưa hiểu văn hóa, thiếu bảo mật so với Tự làm cần nhiều nhân lực thời gian,
chưa hiểu biết rõ về chuyển đổi số toàn diện, chưa có lộ trình cụ thể, phần mềm phải có
thành phần nào. Liên hệ thưc tế hàn quốc, singapore, trung quốc . Phân khúc tự thực hiện
CĐS chiếm tỷ trọng trên 50% vào năm 2021. Phân khúc dịch vụ chuyên gia chiếm tỷ
trọng doanh thu hơn 70% vào năm 2021. Các doanh nghiệp đang trong quá trình số hóa
cần các dịch vụ chuyên gia để giải quyết các vấn đề như lựa chọn nhà cung cấp hoặc
chuyển đổi văn hóa. Phân khúc này dự kiến sẽ phát triển khi các nhà cung cấp dịch vụ
chuyên gia giúp sử dụng và triển khai các nguồn lực phù hợp vào đúng thời điểm. Nhiều
tổ chức đã lựa chọn triển khai tự xây dựng các giải pháp chuyển đổi số của mình vì nó
cung cấp các lựa chọn hợp lý cho khả năng tùy biến cao của sản phẩm. Việc tự triển khai
cung cấp khả năng bảo mật thông tin cao hơn và hỗ trợ các tổ chức tuân thủ các quy định
và hướng dẫn khác nhau. Các tổ chức lớn đã đầu tư mạnh cho việc tự triển khai tại chỗ vì
đây là một lựa chọn an toàn hơn để giữ bí mật thông tin.
Mỗi quốc gia đều có con đường riêng không phải ai cũng đặt trọng tâm vào công nghiệp,
nhưng đều dùng khoa học và công nghệ để đạt được mục tiêu như chiến lược quốc gia
thông minh của Singapore, sản xuất thông minh của Ấn Độ, Trung Quốc, xã hội thông
minh của Nhật Bản, công nghiệp Luxembourg 4.0, công nghiệp Đức 4.0, chương trình
tăng trưởng của Hàn Quốc hay các ngành công nghiệp mới ở Pháp,… Trong vòng 10 năm
qua, hơn 30 quốc gia đã công bố chiến lược của mình. Mặc dù phạm vi, trọng tâm, đầu
tư,…khác nhau, nhưng có thể thấy hầu hết các nước đều đề cập những điểm như: phát
triển tài năng AI, phát triển nguồn nhân lực AI, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển AI, xây
dựng tài nguyên dữ liệu và hạ tầng số, AI cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng 11 lOMoAR cPSD| 40551442
tạo, các lĩnh vực chọn lọc, vấn đề đạo đức. Rất nhiều quốc gia công bố chiến lược trong hai năm 2017, 2018.
Ở Châu ÂU, Đan Mạch và Estonia là hai trong số những quốc gia thành công về phát
triển chính phủ số. 100% dịch vụ số với 90% người dân nước này sử dụng, đạt mức độ
phổ cập rất cao. Estonia là quốc gia thành công trong việc chuyển đổi các dịch vụ công
thành các giải pháp số, trở thành quốc gia số hang đầu trên thế giới. Mô hình Xroad kết
nối dữ liệu quốc gia của Estonia rất đáng học tập. X-road là hệ thống đảm bảo trao đổi dữ
liệu an toàn và trực tiếp giữa các thành viên. Ruỉ ro với các hệ thống lớn là không kiểm
soát được dữ liệu tập trung, do vậy cơ sở dữ liệu tập trung cần thay bằng kết nối các cơ
sở dữ liệu phân tán. Các cơ sở dữ liệu không nên quá lớn, mỗi tổ chức có cơ sở dữ liệu
riêng. Trong quá trình trao đổi dữ liệu, X-road đảm bảo cho các thành viên: sự tự chủ, bảo
mật, giá trị xác thực và khả năng tương tác. 12 lOMoAR cPSD| 40551442
Ở Châu Á, các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore cũng rất thành công. Đăng ký thành
lập mới một doanh nghiệp thực hiện trực tuyến qua mạng chỉ trong 15 phút. Thời gian
thông quan hàng hóa ngắn nhất trong khu vực. Chính phủ Singapore được đánh giá là
minh bạch, chỉ số tham nhũng thuộc loại thấp nhất thế giới, chỉ số phát triển chính phủ
điện tử đứng đầu khu vực Đông Nam Á trong nhiều năm và trong top cao của thế giới.
Hàn Quốc được Liên hợp quốc xếp hạng Chỉ số dịch vụ công trực tuyến cao nhất thế giới
năm 2020 và xếp thứ hai thế giới về chỉ số chung phát triển chính phủ điện tử. Tại Hàn
Quốc, AI có vai trò then chốt trong các công nghệ số trong xây dựng xã hội thông tin
thông minh của Hàn Quốc. 13 lOMoAR cPSD| 40551442
Tại Trung Quốc, TQ đã xây dựng chiến lược “Internet cộng với nông nghiệp” nhằm tạo
ra một hệ sinh thái nông nghiệp và công bố hướng dẫn xây dựng hệ thống chấm điểm
công dân/ hệ thống tính điểm tín dụng xã hội (SCS: Social Credit System). Hệ thống này
sử dụng dữ liệu và các thông tin khác để kiểm tra độ tin cậy của các cá nhân, doanh nghiệp
và tổ chức chính phủ, thông qua đó giới hạn tình trạng ngăn chặn hành vi gian lận thương
mại, trốn thuế và trốn nợ. Tuy nhiên, nhiều người lo ngại rằng chương trình chấm điểm
công dân có thể thu thập thông tin cá nhân, vi phạm quyền bảo vệ dữ liệu và tự do cá nhân. 14 lOMoAR cPSD| 40551442
Với chiến lược “Internet cộng với nông nghiệp”, TQ đã ban hành chiến lược, nâng cấp
chuỗi giá trị nông nghiệp hoàn toàn từ đầu vào, sản xuất, chế biến và tiêu thụ, bằng cách
tích hợp nông nghiệp với Internet và các công nghệ thông tin và truyền thông khác (tỉnh
Hải Nam). Với sự trợ giúp của chiến lược mới, tổng doanh thu bán hàng nông sản trực
tuyến năm 2017 ở Trung Quốc đạt 300 tỷ NDT, giá trị sản lượng của ngành chế biến nông
sản đạt 22 nghìn tỷ NDT và doanh thu từ nông nghiệp giải trí và du lịch nông thôn đạt
740 tỷ NDT. Chiến lược đã tạo ra hàng triệu việc làm và giúp xóa đói giảm nghèo ở các vùng nông thôn nghèo
Ưu điểm tiếp cận nhiều khách hàng, mô hình b2c bán hàng trực tiếp ng sản xuất để, cảm nhận
được chất lượng tốt vì đã được chứng kiến nguồn gốc
Khó khăn: xung đột về kênh bán vì hàng hóa giống nhau, phải chấp nhận rủi ro trong phân
phối, hình thức chưa chắc đẹp, giá cao
. 1.1.2.2. Sự phát triển của CĐS tại Việt Nam 15 lOMoAR cPSD| 40551442
Việc tái cấu trúc thể chế, nền kinh tế và xã hội với các công nghệ số mở ra cho cá nhân,
mọi tổ chức, mọi ngành nghề, mọi quốc gia. Cơ hội này mở ra cho cả những quốc gia
không có truyền thống công nghiệp như Việt Nam, nhưng có tiềm năng trong nhiều lĩnh
vực khác như khả năng tiếp thu công nghệ số, khả năng thích nghi cao,…Việt Nam không
những có thể mà còn nhất thiết phải nhanh chóng thực hiện CĐS. Trong bảng chỉ số đánh
giá mức độ chuyển đổi số của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam có điểm trung bình là
41/120, đứng thứ 55 về mức độ chuyển đổi số trên thế giới. Lợi thế to lớn nhất của các
doanh nghiệp Việt Nam chính là sự hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp trong
việc ứng dụng CNTT để thúc đẩy tăng trưởng và cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ:
Phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030".
Quyết định 749 đặc ra các mục tiêu chính như: Tìm mục tiêu và nhiệm vụ, liệt kê các bộ và
chọn một bộ phân tích ( bộ kế hoạch đầu tư tôt nhất ) nêu các hoạt động chuyển đổi số
* Mục tiêu cơ bản đến năm 2025 -
Phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động: 80% dịch vụ công
trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm
cả thiết bị di động; - 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ sơ công việc tại cấp
huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ
công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); 100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng hợp báo
cáo định kỳ và báo cáo thống kê về kinh tế - xã hội phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu số trên Hệ thống
thông tin báo cáo Chính phủ; 100% cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính
phủ điện tử bao gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư, Đất đai, Đăng ký doanh nghiệp,
Tài chính, Bảo hiểm được hoàn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn quốc; từng bước mở 16 lOMoAR cPSD| 40551442
dữ liệu của các cơ quan nhà nước để cung cấp dịch vụ công kịp thời, một lần khai báo,
trọn vòng đời phục vụ người dân và phát triển kinh tế - xã hội; 50% hoạt động kiểm tra
của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông
tin của cơ quan quản lý; Việt Nam thuộc nhóm 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). -
Phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Kinh tế số
chiếm 20% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; Năng
suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7%; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về công
nghệ thông tin (IDI); Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI);
Việt Nam thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII). - Phát triển xã hội số,
thu hẹp khoảng cách số: Hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình,
100% xã; Phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh; Tỷ lệ
dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%; Việt Nam thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu
về an toàn, an ninh mạng (GCI).
* Mục tiêu cơ bản đến năm 2030 -
Phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động: 100% dịch vụ
công trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao
gồm cả thiết bị di động; 100% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 90% hồ sơ công việc tại
cấp huyện và 70% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ
công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); Hình thành nền tảng dữ liệu cho các ngành
kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các cơ quan nhà nước và hạ tầng kết nối mạng
Internet vạn vật (IoT), kết nối, chia sẻ rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước, giảm 30%
thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ sáng tạo
dựa trên dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp; 70% hoạt động kiểm tra của cơ quan
quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ
quan quản lý; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). -
Phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Kinh tế số
chiếm 30% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%; Năng
suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%; Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về công
nghệ thông tin (IDI); Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI);
Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII). - Phát triển xã hội số,
thu hẹp khoảng cách số: Phổ cập dịch vụ mạng Internet băng rộng cáp quang; Phổ cập
dịch vụ mạng di động 5G; Tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 80%; Việt
Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Theo Luật CNTT, cơ sở dữ liệu quốc gia là tập hợp thông tin của một hoặc một số lĩnh
vực kinh tế - xã hội được xây dựng, cập nhật và duy trì đáp ứng yêu cầu truy nhập và sử
dụng thông tin của các ngành kinh tế và phục vụ lợi ích xã hội. Hiện nay, hàng chục 17 lOMoAR cPSD| 40551442
CSDL quy mô quốc gia đã và đang được triển khai. Tuy nhiên, một số CSDL quốc gia
cần được ưu tiên, tập trung nguồn lực triển khai trước, tạo nền tảng cho triển khai chính
phủ điện tử, chính phủ số.
Việt Nam đã xác định 6 CSDL quốc gia cần được ưu tiên khi CĐS là: Cơ quan TT CSDL quốc gia chủ quản Mô tả 1 CSDL quốc gia về Bộ
Thông tin gốc về người dân phục vụ quản dân cư
Côn lý hành chính về cư trú, hộ tịch và sử g an
dụng chung giữa các cơ quan nhà nước,
đơn giản hóa thủ tục hành chính
liên quan đến người dân 2 CSDL đất đai quốc Bộ
tài Thông tin về sử dụng đất đai gia nguyên và môi trường 3 CSDL quốc gia về
Bộ Kế Lưu trữ thông tin cơ bản về doanh đăng ký doanh hoạch và
nghiệp, phục vụ: Quản lý và chia sẻ, sử nghiệp Đầu tư
dụng chung giữa các cơ quan nhà nước,
đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp 4
CSDL quốc gia về Bộ Kế Thông tin tổng hợp về người dân phục vụ
thống kê tổng hợp về hoạch và
chia sẻ, dùng chung đa ngành, đa lĩnh vực dân số Đầu tư 5
CSDL quốc gia về tài Bộ tài
Thông tin cơ bản về tài chính ngân sách chính chính
như: thu/chi ngân sách nhà nước, nợ
công, vốn nhà nước tại doanh nghiệp 6
CSDL quốc gia về bảo Bảo hiểm
Thông tin cơ bản về bảo hiểm y tế, bảo hiểm
xã hội Việt hiểm xã hội Nam
Ngoài 6 CSDL quốc gia cần ưu tiên, các bộ ngành và địa phương cần xây dựng các CSDL
của mình. Một ví dụ về CSDL quốc gia của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hiện nay, phần về
các trường phổ thông các cấp, CSDL đã có dữ liệu cả nước với 54 nghìn trường, 760
nghìn lớp, khoảng 1,3 triệu thầy cô giáo và khoảng 23 triệu học sinh. CSDL chứa dữ liệu
chi tiết, như điểm cuối kỳ của từng học sinh. 18 lOMoAR cPSD| 40551442
Cho đến nay, các loại văn bản hành chính ở các cơ quan của Đảng, Chính phủ và Quốc
hội, các bộ ngành và các địa phương vẫn ở dạng giấy hoặc dạng điện tử pdf. Việc số hóa
và áp dụng các công nghệ tiên tiến của học máy và AI, cụ thể là lĩnh vực khai phá văn bản
(text mining), xử lý ngôn ngữ tự nhiên (NLP) và dữ liệu lớn (big data) đã cho phép tự
động hóa gán nhãn các văn bản sau số hóa, kết nối văn bản về nội dung và tìm kiếm văn
bản theo nội dung. Để triển khai hiệu quả và tổng thể, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban
hành Quyết định số 1282/QĐ-BGDĐT về Kế hoạch tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo (ngày 10/05/2022).
Trong lĩnh vực y tế, có 3 hướng CĐS chính là CĐS bệnh viện, chăm sóc sức khỏe
& phòng bệnh và quản trị y tế. Thực hiện Thông tư số 46/2018/TT-BYT, CĐS như nhiệm
vụ đột phá với hai giai đoạn (2019-2023) với 135 bệnh viện hàng 1 trở lên và (2024-2030)
với tất cả các cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc. Tổ chức khám chữa bệnh từ xa, tư
vấn y tế từ xa, xây dựng bệnh viện thông minh với các dịch vụ khám chữa bệnh tiên tiến,
triển khai các ứng dụng số trên nền tảng di động thông minh và các giải pháp dịch vụ trực
tuyến để thiết lập kênh giao tiếp số, giúp người dân có công cụ tiếp cận với dịch vụ, thông
tin về y tế, sức khỏe. Triển khai ứng dụng sổ y bạ điện tử cho người dân. Triển khai ứng
dụng hệ thống lưu trữ và truyền hình ảnh y tế PACS/RIS nhằm thay thế việc in phim. Ứng
dụng công nghệ số, đặc biệt AI để dự báo, cảnh báo dịch bệnh. Triển khai các chương
trình y tế thông minh theo QĐ số 4888/QĐ-BYT ngày 18/10/2019 về “Phê duyệt Đề án
ứng dụng và phát triển CNTT y tế thông minh giai đoạn 2019-2025”. 19 lOMoAR cPSD| 40551442
Quan hệ giữa Bệnh án điện tử, Hồ sơ sức khỏe điện tử và Hồ sơ sức khỏe cá nhân
Trong lĩnh vực nông nghiệp, CĐS giúp sản xuất thông minh và quản lý nông nghiệp số
tại các địa phương. CSDL này cần cập nhật được từ cấp xã lên huyện, lên tỉnh, lên bộ, dự
báo sản xuất trong và ngoài nước thông qua các trang trại thông minh, chăn nuôi thông
minh, trồng trọt thủy canh tự động, nơi dữ liệu được đo đạc, lưu trữ và phân tích,
… Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Quyết định số 5275/QĐ-BNNVP
về Kế hoạch chuyển đổi số (ngày 31/12/2021).
Xây dựng CSDL và bản đồ nông nghiệp số Việt Nam Các Bộ
khác đều đã có kế hoạch CĐS, cụ thể như:
- Bộ Thông tin và Truyền thông: Quyết định 2374/QĐ-BTTTT Kế hoạch chuyển đổi số
của BTTTT 2021 – 2025 (ngày ngày 31/12/2019)
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Quyết định số 12/QĐ-BKHĐT về việc phê duyệt 20