Tích lũy tư bản và liên hệ thực tiễn tại Việt Nam - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU

Tích lũy tư bản và liên hệ thực tiễn tại Việt Nam - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 44820939
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ KINH TẾ SỐ
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: Lý luận của chủ nghĩa mác – lênin về tích lũy tư bản (vốn) và liên hệ
thực tiễn tại việt nam
Họ và tên :
Mã SV:
Lớp:
Hà Nội, tháng 4 năm 2022
lOMoARcPSD| 44820939
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lời giới thiệu
Trong bất cứ nền kinh tế nào từ trước tới nay, muốn buôn bán, kinh doanh
phát triển được thì không ththiếu đi nhân tố “vốn”. Mọi người lâu nay vẫn luôn
quan niệm rằng, phải vốn thì mới sinh ra được lợi nhuận, mặc về bản chất
không phải như vậy, nhưng ta đều công nhận mức độ quan trọng của yếu tố này. Dựa
vào nguồn vốn nhiều hay ít, mà các nhà đầu tư, sản xuất mới xác định được quy mô
làm ăn lớn hay nhỏ, xác định được mặt hàng của riêng mình. Đồng thời, vốn cũng
sở quyết định cho việc đầu o liệu sản xuất như máy móc, thiết bị hỗ
trợ,… thuê nhân công lao động, từ đó doanh nghiệp có thể phát triển, mở rộng, tăng
năng suất tới mức tối ưu. Nói rộng ra, cấu kinh tế của một đất nước cũng phụ
thuộc không ít vào vốn. Vậy, ở quá trình tái sản xuất, thường tái sản xuất mở rộng
của các nhà đầu tư, yêu cầu vốn phải tăng không còn đi vay được như ban đầu
nữa thì vốn từ đâu có? Câu trả lời được đưa ra nhờ vào tích luỹ bản. Tích
luỹ tư bản là gì ? Những nhân tố nào ảnh hưởng tới tích luỹ tư bản? Hiện trạng tích
luỹ tư bản của nhà nước và các doanh nghiệp ở Việt Nam? Làm cách nào để có thể
vận dụng tích luỹ bản một cách hiệu quả nhất? Để đưa ra câu trả lời cho những
câu hỏi trên, tôi đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Tích luỹ tư bản và các nhân tố ảnh
hưởng đến quy mô tích luỹ”.
2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài
Giúp mọi người hiểu được bản chất, động cơ của tích luỹ tư bản
Đi sâu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tích luỹ tư bản
Tìm ra những biện pháp gia tăng quy tích luỹ đối với doanh nghiệp nhà
nước
Rút ra được những kết luận về hệ quả của tích luỹ
lOMoARcPSD| 44820939
Mang đến một cái nhìn tổng quan về hiện trạng tích luỹ tư bản hiện nay, giúp
các doanh nghiệp tham khảo từ đó vận dụng, xác định phương hướng kinh
doanh tốt nhất.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chính mà tôi sử dụng là phương pháp nghiên cứu lý thuyết dựa
trên một số liệu đã sẵn từ trước như sách giáo trình những nguyên bản
của chủ nghĩa Mac-LêNin, internet. Đồng thời, tôi sẽ xử lí, thu thập số liệu liên quan
đến đề tài rồi đưa vào bài làm dẫn chứng thuyết phục người đọc. Để làm rõ hơn về
các yếu tố, tôi cũng dùng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Với mục đích và yêu cầu cụ thể được đặt ra với đề tài này, tôi đã khoanh vùng
tiến hành nghiên cứu thu hẹp trong phạm vi lãnh thổ nước ta trong thời điểm hiện
tại, với đối tượng chủ yếu là các doanh nghiệp.
lOMoARcPSD| 44820939
3
NỘI DUNG ĐTÀI
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN
Trước khi đi vào tìm hiểu cụ thể về tích luỹ tư bản, chúng ta cần phải hiểu
định nghĩa bản gì. Xét vkhía cạnh kinh tế, theo Wikipedia: “tư bản hay
vốn trong kinh tế học khái niệm để chỉ những vật thể giá trị, có khả năng đo
lường được sự giàu của người sở hữu chúng. bản sở hữu về vật chất
thuộc về cá nhân hay tạo ra bởi xã hội.” Nói một cách đơn giản, tư bản là giá trị
có bản năng tự tăng lên mà người chủ của nó không phải tham gia lao động.
1. Bản chất của tích lũy tư bản
Từ xưa đến nay, con người để tồn tại, sau đó sáng tạo, xây dựng cho cuộc
đời đều cần những nhu cầu hỗ trợ như ăn uống, may mặc, tinh thần… Để
đầy đủliệu đáp ứng cho những nhu cầu ấy, tất nhiên con người phải sản xuất
ra chúng. Thế nên mọi người đều ngầm thừa nhận rằng “sản xuất ra của cải vật
chất điều kiện tồn tại của hội loài người”. Trong quá trình kinh doanh sản
xuất, ta thấy đa số các nhà tư bản cũng như doanh nghiệp đều có xu hướng quay
lại tiếp tục đầu tư, sản xuất sau mỗi loạt sản phẩm được bán ra ngoài thị trường.
Quá trình này được các nhà kinh tế học gọi là “tái sản xuất”, nó thường lặp đi lặp
lại và sẽ tiếp diễn một cách liên tục.
Căn cứ vào quy mô, có thể chia tái sản xuất làm hai loại: tái sản xuất giản
đơn và tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất giản đơnquá trình tái sản xuất được
lặp lại với quy mô như cũ, thường gắn liền và là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ.
Đây không phải hình thái điển hình của chủ nghĩa bản. Như chúng ta biết, khát
vọng về giá trị thặng dư của các nhà nhà tư bản là vô hạn; vì vậy hiển nhiên rằng
thay vì việc sdụng toàn bộ thặng cho tiêu dùng cá nhân, giữ nguyên quy
sản xuất, không tăng vốn thì họ lựa chọn không ngừng mở rộng quy sản xuất
để tăng quy giá trị thặng dư. Đó chính hình thức tiến hành của chủ nghĩa
lOMoARcPSD| 44820939
bản - tái sản xuất mở rộng - lặp lại quá trình sản xuất với quy lớn hơn
trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước. Họ sẽ dành ra một phần giá trị thặng
để tăng quy đầu so với năm trước, được gọi bản phụ thêm. Tích
lũy bản trong kinh tế chính trị Mác - Lênin việc biến một bộ phận giá trị
thặng dư trở lại thành tư bản, còn trong các lý luận kinh tế học khác, nó đơn giản
là sự hình thành tư bản (gia tăng lượng vốn dưới hình thức tư bản cố định và lưu
kho của chính phủ tư nhân). Tựu chung lại, tích luỹ bản sự chuyển hoá
của giá trị thặng dư trở lại thành tư bản, theo ngôn ngữ dễ hiểu của các nhà đầu
tư thì đây là quá trình giữ lại một phần lợi nhuận để gộp vào với phần giá trị vốn
bỏ ra từ đầu, sau khi bán hàng đã thu về được đlàm vốn cho việc tái sản xuất
mở rộng vào lần sau. Từ đó, có thể rút ra rằng, thực chất quá trình tích luỹ bản
chính bản hoá giá trị thặng . Sở giá trị thặng thể chuyển hoá
thành tư bản được bởi vì nó đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
2. Động cơ của tích lũy tư bản
Tích luỹ bản động bắt nguồn chủ yếu của hai quy luật kinh tế
khách quan trong chủ nghĩa tư bản:
- Quy luật giá trị thặng : các nhà bản như tôi đã trình bày trênluôn
có xu hướng quay trở lại tái sản xuất mở rộng bởi ham muốn về giá trị thặng dư,
lợi nhuận là hạn. Để làm được điều này, vốn bắt buộc phải tăng, đồng nghĩa
với việc nhà tư bản phải tìm nguồn vốn, nâng cao năng suất lao động,...
- Quy luật cạnh tranh: Để giữ sức cạnh tranh bền vững trong tương
lai.Nếu một doanh nghiệp mãi không chịu lớn, không phát triển thì ắt sẽ bị đào
thải, thu bé đi. Muốn được vị trí nhất định, giành được lợi thế trong thị trường
buôn bán, các nhà bản sẽ tìm đến việc đổi mới thiết bị máy móc, đặc biệt
trong thời kì khoa học kĩ thuật phát triển như hiện nay. Như vậy, yêu cầu về vốn
vẫn là yêu cầu hàng đầu được đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp.
lOMoARcPSD| 44820939
5
Ta thấy rằng ở cả hai quy luật trên, nhà tư bản đều cần đến nguồn vốn. Ắt
hẳn nguồn vốn đầu tiên mọi người tìm đến sẽ phương án đi vay ngân hàng,
bạn bè… Tuy nhiên sau đó chủ sản xuất sẽ phải trả lại không chỉ stiền mình đã
vay thậm chí còn phải trả thêm phần lãi. Vậy nếu các nhà bản muốn
vốn của riêng mình, cách duy nhất chính là tích luỹ tư bản.
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới quy mô của tích lũy tư bản
Với một khối lượng giá trị thặng nhất định thì quy của tích lũy tư
bản phụ thuộc vào tỉ lệ phân chia khối lượng của giá trị thặng đó thành quỹ
tích lũy quỹ tiêu dung của nhà bản, nhưng nếu tỉ lệ phân chia đó đã được
xác định, thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng
dư. Do đó, những nhân tố ảnh hưởng tới khối lượng giá trị thặng dư cũng nhân
tố quyết định quy mô của tích lũy tư bản. Những nhân tố đó là:
3.1.Trình độ bóc lột sức lao động
Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén
vào tiền công. Khi nghiên cứu sự sản xuất của giá trị thặng dư, C.Mác giả định
rằng strao đổi giữa công nhân nhà bản strao đổi ngang giá, tức tiền
công bằng giá trị sức lao động. Nhưng trong thực tế, công nhân không chỉ bị nhà
bản chiếm đoạt lao động thặng dư, còn bị chiếm đoạt một phần lao động
tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích luỹ tư bản.
Các nhà tư bản còn nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng
cường độ lao động và kéo dài ngày lao động để tăng khối lượng gtrị thặng dư,
nhờ đó tăng tích luỹ bản. Cái lợi đây còn thể hiện chỗ nhà bản không
cần ứng thêm tư bản để mua thêm máy móc, thiết bị chỉ cần ứng bản để
mua thêm nguyên liệu thể tăng được khối lượng sản xuất, tận dụng được
công suất của máy móc, thiết bị, nên giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo
quản của máy móc, thiết bị.
lOMoARcPSD| 44820939
3.2.Trình độ năng suất lao động xã hội
Nếu năng suất lao động hội tăng lên, thì giá cả liệu sản xuất
liệu tiêu dùng giảm xuống. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ tư bản:
Một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ
có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà bản không giảm, thậm chí có thể
cao hơn trước;
Hai là, một lượng giá trị thặng nhất định dành cho tích luỹ thể
chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn
hơn trước.
Do đó, quy của tích luỹ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng giá trị
thặng dư được ch luỹ, còn phụ thuộc vào khối lượng hiện vật do giá trị
thặng đó thể chuyển hoá thành. Như vậy năng suất lao động hội tăng
lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành bản mới,
nên làm tăng quy mô của tích luỹ.
3.3.Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
Trong quá trình sản xuất, liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia vào
toàn bộ quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của
chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. vậy có sự chênh lệch giữa
tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù vậy, máy móc gần như giữ nguyên
giá trị sử dụng xuyên suốt thời gian hoạt động. Do đó, nếu không kể đến phần
giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc
phục vụ không công chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Máy móc, thiết bị càng
hiện đại, thì sự chênh lệch giữa bản sử dụng tư bản tiêu dùng càng lớn, do
đó sự phục vụ không công của máy móc càng lớn, tư bản lợi dụng được những
thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều. Sự phục vụ không công đó của lao
lOMoARcPSD| 44820939
7
động quá khứ nhờ lao động sống làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích
luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ tư bản.
3.4.Quy mô của tư bản ứng trước
Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng do khối
lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là
bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được
càng lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy của tích luỹ bản. Từ sự
nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy của tích luỹ bản thể rút ra nhận
xét chung để tăng quy tích luỹ bản, cần khai thác tốt nhất lực lượng
lao động hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy
móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
4. Một số hệ quả của tích lũy tư bản 4.1.Quá trình tích lũy tư bản là
quá trình cấu tạo hữu cơ của tích lũy tư bản
C.Mác cho rằng nền sản xuất có thể được quan sát qua hình thái hiện vật
và hình thái giá trị. Nếu quan sát qua hình thái hiện vật thì mối quan hệ tỷ lệ
giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động được coi là cấu tạo kĩ
thuật.
Trong cấu tạo kĩ thuật này, nếu quan sát qua hình thái giá trị nó phản ánh
mối quan hệ tỷ lệ giữa bản bất biến bản khả biến. Tỷ lệ giá trị này
được gọi cấu tạo hữu cơ. Cấu tạo hữu luôn xu hướng tăng do cấu tạo
kĩ thuật cũng vận động theo xu hướng tăng lên về lượng. Vì vậy, quá trình tích
lũy tư bản không ngừng làm gia tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
4.2.Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản
Để làm hệ quả này, ta cần phải chỉ rõ ra mối quan hgiữa tích lũy – tích
tụ - tập trung tư bản.
lOMoARcPSD| 44820939
Trong quá trình tái sản xuất, quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua
quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
Tích tụ tư bản sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản
hóa giá trị thặng dư. Tích tụ bản làm tăng quy bản biệt đồng thời
làm tăng quy mô tư bản hội do giá trị thặng dư được biến thành tư bản phụ
thêm. Đây là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của bản cá biệt bằng cách hợp
nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn
hơn.
Tích tụ tập trung bản đều góp phần tạo tiền đề để thể thu được
nhiều giá trị thặng dư hơn cho người mua hàng hóa sức lao động.
4.3.Quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp vô sản
Quá trình tích lũy tư bản tất yếu sẽ dẫn đến sự phân cực: một bên làm cho
chủ nghĩa tư bản phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng thông qua sự tích tụ
và tập trung tư bản, thông qua việc nâng cao cấu tạo hữu cơ tư bản và làm cho
giai cấp bản ngày càng trở nên giàu có; ngược lại, những người dân lao động
không tránh khỏi sự bần cùng hóa thất nghiệp. Đây quy luật chung của
tích lũy tư bản.
Bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái là
bần cùng hóa tương đối bần cùng hóa tuyệt đối. Bần cùng hóa tương đối
cùng với đà tăng trưởng của lực lượng sản xuất, phần sản phẩm phân phối cho
giai cấp công nhân làm thuê tuy có tăng tuyệt đối nhưng lại giảm tương đối so
với phần sản phẩm dành cho giai cấp sản. Bần cùng hóa tuyệt đối thể hiện
sự giảm tuyệt đối về mức sống của nhân dân làm thuê. Bần cùng hóa tuyệt đối
thường xuất hiện với bộ phận giai cấp công nhân đang thất nghiệp đối với
lOMoARcPSD| 44820939
9
toàn bộ giai cấp công nhân đang làm thuê trong các điều kiện kinh tế khó khăn,
đặc biệt là trong khủng hoảng kinh tế.
Qua đó có thể thấy rằng tích lũy tư bản mang lại nhiều lợi ích nhất là cho
giai cấp bản trong chế độ hội chủ nghĩa, tuy nhiên lại không ngừng
làm khoảng cách giàu nghèo trở nên rõ rệt hơn. Mặc dù vậy, chúng ta cần phải
áp dụng hợp quy luật tích lũy bản để nền kinh tế phát triển theo chiều
hướng đi lên.
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN VẬN DỤNG TÍCH LŨY TƯ BẢN (VỐN)
VÀO TĂNG CƯỜNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Khái quát tình hình tích lũy tư bản tại Việt Nam 1.1.Trước thời kỳ
đại dịch
Trải qua hơn 20 năm đổi mới vừa qua, đất nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế ất nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế tốc độ tăng trưởng khá cao, sản
xuất phát triển, có tích luỹ từ nội bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Để giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới sẽ phụ thuộc rất
nhiều vào việc tích lũy, huy động vốn cho nền kinh tế.
Trước đây trong nền kinh tế bao cấp, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá
trình tích lũy vốn còn gặp rất nhiều trở ngại. Nhà nước lại can thiệp quá sâu
vào nền kinh tế dẫn đến việc tổ chức doanh nghiệp không thể phát huy hết khả
năng của mình, nhiệm vụ tích tụ và tập trung vốn không đạt được hiệu quả.
Việc thực hiện CNH- HDH đề ra trong kế hoạch 5 năm tại Đại hội Đảng lần
III 1960-1985 được tiến hành trong điều kiện chế độ quan liêu bao cấp vì vậy
nên còn tồn tại khá nhiều hạn chế.Chỉ khi sau đổi mới 1986, cùng với việc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính sách m
cửa, ngoại giao mềm dẻo, các kênh huy động vốn trở nên phong phú linh hoạt
lOMoARcPSD| 44820939
hơn. Theo thống kê giai đoạn 1996-2000 tăng 66,7% so với 1991-1995, tỷ
trọng vốn đầu tư xã hội 28,6% năm. Tích lũy nội bộ tăng lên 25% GDP. T
2000 đến nay tốc độ lại tiếp tục tăng 2008 tăng 39,6%, 2009 tăng 34,8%, 2010
tăng 37,5% năm, giai đoạn 1011-2017 nguồn vốn đầu tư toàn xã hội 15,524
tỷ, vốn nước ngoài ước tính 1150 tỷ đồng.
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính sách
mở cửa, ngoại giao mềm dẻo, các kênh huy động vốn trở nên phong phú linh
hoạt hơn. Theo thống kê giai đoạn 1996-2000 tăng 66,7% so với 1991-1995,
tỷ trọng vốn đầu tư xã hội 28,6% năm. Tích lũy nội bộ tăng lên 25% GDP. Từ
2000 đến nay tốc độ lại tiếp tục tăng 2008 tăng 39,6%, 2009 tăng 34,8%, 2010
tăng 37,5% năm, giai đoạn 1011-2017 nguồn vốn đầu tư toàn xã hội 15,524
tỷ, vốn nước ngoài ước tính 1150 tỷ đồng.
Từ khi chuyển đổi nền kinh tế, nhất đời sống nhân dân đã được cải thiện
rõ rệt, thu nhập quốc dân tăng lên…tuy nhiên nó vẫn còn quá nhỏ bé so với
nền kinh tế thế giới (nếu quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2003) thì quy
mô vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ tương đương với một tập đoàn
đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới). Trong đó doanh nghiệp Nhà nước
chiếm 59,0/% tổng vốn của doanh nghiệp cả nước, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh chiếm 19,55%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44%
tổng vốn các doanh nghiệp cả nước. Xét riêng đối với mỗi doanh nghiệp, vốn
của từng doanh nghiệp rất nhỏ.
Thực tế cho thấy tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết kiệm và
đầu tư thấp, nhiều hộ gia đình và không ít doanh nghiệp còn đầu tư chưa hiệu
quả, nguồn vốn không được luân chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu. Đầu tư của
nhà nước tăng lên nhưng còn dàn trải,. Việc quản lý sử dụng vốn còn phân
tán, không tập trung tối đa vốn tiền mặt cũng như nhân tài vật lực để giải
lOMoARcPSD| 44820939
11
quyết những công trình thiết yếu của nền kinh tế.Tuy nhiên sự phát triển
nhanh chóng của thị trường chứng khoán cho thấy đây là một kênh huy động
vốn thật sự hấp dẫn và rất đáng kể.
1.2.Khi đại dịch xuất hiện
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới
mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội trong những năm gần đây thì tình hình tích lũy
tư bản của nước ta trong những năm đại dịch vẫn ổn định: Tổng vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/9/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp
mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư
nước ngoài đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong báo
cáo cập nhật kinh tế vĩ mô tháng 9/2021 vừa qua, WB đưa ra nhận định dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam cho thấy lòng tin vào nền
kinh tế vẫn được duy trì. Nhà đầu tư FDI vẫn tin tưởng vào triển vọng của nền
kinh tế Việt Nam. Theo chuyên gia WB, lý do là nền kinh tế Việt Nam vẫn
nằm trong số các quốc gia tăng trưởng tốt (năm 2020 là 2,9%) khi phần lớn
các quốc gia khác suy giảm kinh tế nghiêm trọng. Đó là dấu hiệu của khả
năng phục hồi, cho thấy các nền tảng cơ bản của nền kinh tế Việt Nam là vững
chắc.
Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào tốc độ
tăng tổng giá trị tăng thêm được thống kê như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng
5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành
vận tải, kho bãi giảm 1,88%, làm giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ
lưu trú và ăn uống giảm 14,68%, làm giảm 0,62 điểm phần trăm.
Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào tốc độ
tăng tổng giá trị tăng thêm được thống kê như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng
lOMoARcPSD| 44820939
5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành
vận tải, kho bãi giảm 1,88%, làm giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ
lưu trú và ăn uống giảm 14,68%, làm giảm 0,62 điểm phần trăm.
2. Vận dụng lý luận tích lũy tư bản vào thực tiễn nền kinh tế
2.1. Những ảnh hưởng từ quá trình tích lũy tư bản từ thực tiễn nền kinh tế
Không nằm ngoài những quy luật tác động của quá trình tích lũy tư bản,
quá trình đó cũng dẫn đến những hệ quả kinh tế mang tính quy luật ở nước ta.
Quá trình mở rộng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Sự hình thành các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội
2.2. Các giải pháp tăng cường tích lũy cho nền kinh tế của nước ta
Trong điều kiện đất nước ta, từ sản xuất nhỏ quá độ lên CNXH, chúng ta
không còn cách nào khác là một mặt huy động toàn bộ sức lực của mọi người,
mọi ngành, mọi cấp để tăng gia sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển; mặt khác,
phải triệt để tiết kiệm nhằm ch lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế nước ta cho sự
nghiệp xây dựng phát triển nền kinh tế sản xuất XHCN.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy – tiêu dùng
Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
Tích lũy vốn trong nước Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
KẾT LUẬN
Việt Nam đang từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, với nhiều thành tựu đáng tự hào, nước ta đang trong thời kì phát
triển mạnh mẽ và năng động, với những lợi thế vàng như: nền kinh tế mới nổi,
năng động, chính trị ổn định, dân số trẻ với nguồn lao động dồi dào,... Tuy
lOMoARcPSD| 44820939
13
nhiên, sự phát triển của nền kinh tế cũng đặt ra nhiều áp lực về tăng quy
vốn cho nền kinh tế. Chính vì thế, việc nghiên cứu tích lũy bản việc vận
dụng luận đó vào thực tiễn Việt Nam rất quan trọng cấp thiết. Mục tiêu của
nước ta đến năm 2045, Việt Nam trở thành một nước phát triển, thu nhập cao.
Chặng đường đó còn dài và sẽ còn gặp nhiều khó khăn ththách, nhưng với sự
quyết tâm cao độ của toàn thể nhân dân, sự lãnh đạo sáng xuất của Đảng, đường
lối, chính sách của Nhà nước vận dụng có hiệu quả những nguyên lý kinh tế
của chủ nghĩa Mác Nin vào thực tiễn khách quan, chúng ta sẽ đạt được
những mục tiêu đã đề ra . Trong năm 2021,do ảnh hưởng trực tiếp từ dịch bệnh
COVID-19, các chuyên gia nhận định thị trường vốn Việt Nam đang phải đối
diện với nhiều thách thức như: các ngân hàng khó tăng năng lực tài chính, nguy
cơ nợ xấu ngày một dày lên, do hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh đều
bị ảnh hưởng từ đại dịch, cùng với đó nhiều hình thái tín dụng, thanh toán gắn
với công nghệ như các loại tiền ảo, tiền hóa,.. xuất hiện tràn lan, trong khi
Việt Nam chưa chính sách để quản lý. Tuy nhiên, chúng ta vẫn những
thành quả đáng kể như sự phát triển của thị trường chứng khoán trong vòng 20
năm qua. Hàng trăm ngàn tỷ đồng đã được các doanh nghiệp, các ngân hàng
huy động qua thị trường chứng khoán, tạo nên bức tranh cân đối của thị trường
vốn Việt Nam. Hơn thế, với lợi thế quy mô dân số đông và trẻ, với nhu cầu chi
tiêu lớn và nguồn lao động dồi dào. Điều này sẽ kích thích sự sôi động của thị
trường vốn. Nhưng làm sao để sdụng nguồn vốn đó một cách hiệu quả vẫn
còn là một vấn đề nan giải và cần thời gian điều chỉnh sao cho hợp lý.
Xu hướng toàn cầu hóa tạo ra cho chúng ta rất nhiều hội nhưng cũng
mang lại không ít khó khăn, thử thách. Trong một môi trường kinh doanh năng
động, đầy tính cạnh tranh, buộc mỗi doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng
quy mô vốn để đầu tư phát triển. Con đường duy nhất để tích lũy vốn đó là tích
lũy tư bản để tái sản xuất. Vì thế mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp phải biết ra
lOMoARcPSD| 44820939
sức tích lũy để mở rộng đầu tư hơn nữa. Ngoài ra cần tích cực thu hút vốn đầu
từ nước ngoài(FDI, ODA,..) nhằm tác động lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Đây
cũng là tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, khẳng
định đúng đắn chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN của
nước ta.
| 1/15

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44820939
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ KINH TẾ SỐ BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: Lý luận của chủ nghĩa mác – lênin về tích lũy tư bản (vốn) và liên hệ
thực tiễn tại việt nam Họ và tên : Mã SV: Lớp:
Hà Nội, tháng 4 năm 2022 lOMoAR cPSD| 44820939 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lời giới thiệu
Trong bất cứ nền kinh tế nào từ trước tới nay, muốn buôn bán, kinh doanh
phát triển được thì không thể thiếu đi nhân tố “vốn”. Mọi người lâu nay vẫn luôn
quan niệm rằng, phải có vốn thì mới sinh ra được lợi nhuận, mặc dù về bản chất
không phải như vậy, nhưng ta đều công nhận mức độ quan trọng của yếu tố này. Dựa
vào nguồn vốn nhiều hay ít, mà các nhà đầu tư, sản xuất mới xác định được quy mô
làm ăn lớn hay nhỏ, xác định được mặt hàng của riêng mình. Đồng thời, vốn cũng
là cơ sở quyết định cho việc đầu tư vào tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị hỗ
trợ,… thuê nhân công lao động, từ đó doanh nghiệp có thể phát triển, mở rộng, tăng
năng suất tới mức tối ưu. Nói rộng ra, cơ cấu kinh tế của một đất nước cũng phụ
thuộc không ít vào vốn. Vậy, ở quá trình tái sản xuất, thường là tái sản xuất mở rộng
của các nhà đầu tư, yêu cầu vốn phải tăng mà không còn đi vay được như ban đầu
nữa thì vốn từ đâu mà có? Câu trả lời được đưa ra là nhờ vào tích luỹ tư bản. Tích
luỹ tư bản là gì ? Những nhân tố nào ảnh hưởng tới tích luỹ tư bản? Hiện trạng tích
luỹ tư bản của nhà nước và các doanh nghiệp ở Việt Nam? Làm cách nào để có thể
vận dụng tích luỹ tư bản một cách có hiệu quả nhất? Để đưa ra câu trả lời cho những
câu hỏi trên, tôi đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Tích luỹ tư bản và các nhân tố ảnh
hưởng đến quy mô tích luỹ”.
2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài
• Giúp mọi người hiểu được bản chất, động cơ của tích luỹ tư bản
• Đi sâu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tích luỹ tư bản
• Tìm ra những biện pháp gia tăng quy mô tích luỹ đối với doanh nghiệp và nhà nước
• Rút ra được những kết luận về hệ quả của tích luỹ 1 lOMoAR cPSD| 44820939
• Mang đến một cái nhìn tổng quan về hiện trạng tích luỹ tư bản hiện nay, giúp
các doanh nghiệp tham khảo từ đó vận dụng, xác định phương hướng kinh doanh tốt nhất.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chính mà tôi sử dụng là phương pháp nghiên cứu lý thuyết dựa
trên một số tư liệu đã có sẵn từ trước như sách giáo trình những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mac-LêNin, internet. Đồng thời, tôi sẽ xử lí, thu thập số liệu liên quan
đến đề tài rồi đưa vào bài làm dẫn chứng thuyết phục người đọc. Để làm rõ hơn về
các yếu tố, tôi cũng dùng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Với mục đích và yêu cầu cụ thể được đặt ra với đề tài này, tôi đã khoanh vùng
tiến hành nghiên cứu thu hẹp trong phạm vi lãnh thổ nước ta trong thời điểm hiện
tại, với đối tượng chủ yếu là các doanh nghiệp. lOMoAR cPSD| 44820939 NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN
Trước khi đi vào tìm hiểu cụ thể về tích luỹ tư bản, chúng ta cần phải hiểu
định nghĩa tư bản là gì. Xét về khía cạnh kinh tế, theo Wikipedia: “tư bản hay
vốn trong kinh tế học là khái niệm để chỉ những vật thể có giá trị, có khả năng đo
lường được sự giàu có của người sở hữu chúng. Tư bản là sở hữu về vật chất
thuộc về cá nhân hay tạo ra bởi xã hội.” Nói một cách đơn giản, tư bản là giá trị
có bản năng tự tăng lên mà người chủ của nó không phải tham gia lao động.
1. Bản chất của tích lũy tư bản
Từ xưa đến nay, con người để tồn tại, sau đó sáng tạo, xây dựng cho cuộc
đời đều cần có những nhu cầu hỗ trợ như ăn uống, may mặc, tinh thần… Để có
đầy đủ tư liệu đáp ứng cho những nhu cầu ấy, tất nhiên con người phải sản xuất
ra chúng. Thế nên mọi người đều ngầm thừa nhận rằng “sản xuất ra của cải vật
chất là điều kiện tồn tại của xã hội loài người”. Trong quá trình kinh doanh sản
xuất, ta thấy đa số các nhà tư bản cũng như doanh nghiệp đều có xu hướng quay
lại tiếp tục đầu tư, sản xuất sau mỗi loạt sản phẩm được bán ra ngoài thị trường.
Quá trình này được các nhà kinh tế học gọi là “tái sản xuất”, nó thường lặp đi lặp
lại và sẽ tiếp diễn một cách liên tục.
Căn cứ vào quy mô, có thể chia tái sản xuất làm hai loại: tái sản xuất giản
đơn và tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được
lặp lại với quy mô như cũ, thường gắn liền và là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ.
Đây không phải hình thái điển hình của chủ nghĩa tư bản. Như chúng ta biết, khát
vọng về giá trị thặng dư của các nhà nhà tư bản là vô hạn; vì vậy hiển nhiên rằng
thay vì việc sử dụng toàn bộ thặng dư cho tiêu dùng cá nhân, giữ nguyên quy mô
sản xuất, không tăng vốn thì họ lựa chọn không ngừng mở rộng quy mô sản xuất
để tăng quy mô giá trị thặng dư. Đó chính là hình thức tiến hành của chủ nghĩa 3 lOMoAR cPSD| 44820939
tư bản - tái sản xuất mở rộng - lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn
trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước. Họ sẽ dành ra một phần giá trị thặng
dư để tăng quy mô đầu tư so với năm trước, được gọi là tư bản phụ thêm. Tích
lũy tư bản trong kinh tế chính trị Mác - Lênin là việc biến một bộ phận giá trị
thặng dư trở lại thành tư bản, còn trong các lý luận kinh tế học khác, nó đơn giản
là sự hình thành tư bản (gia tăng lượng vốn dưới hình thức tư bản cố định và lưu
kho của chính phủ và tư nhân). Tựu chung lại, tích luỹ tư bản là sự chuyển hoá
của giá trị thặng dư trở lại thành tư bản, theo ngôn ngữ dễ hiểu của các nhà đầu
tư thì đây là quá trình giữ lại một phần lợi nhuận để gộp vào với phần giá trị vốn
bỏ ra từ đầu, sau khi bán hàng đã thu về được để làm vốn cho việc tái sản xuất
mở rộng vào lần sau. Từ đó, có thể rút ra rằng, thực chất quá trình tích luỹ tư bản
chính là tư bản hoá giá trị thặng dư. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá
thành tư bản được bởi vì nó đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
2. Động cơ của tích lũy tư bản
Tích luỹ tư bản có động cơ bắt nguồn chủ yếu của hai quy luật kinh tế
khách quan trong chủ nghĩa tư bản:
- Quy luật giá trị thặng dư : các nhà tư bản như tôi đã trình bày ở trênluôn
có xu hướng quay trở lại tái sản xuất mở rộng bởi ham muốn về giá trị thặng dư,
lợi nhuận là vô hạn. Để làm được điều này, vốn bắt buộc phải tăng, đồng nghĩa
với việc nhà tư bản phải tìm nguồn vốn, nâng cao năng suất lao động,...
- Quy luật cạnh tranh: Để giữ sức cạnh tranh bền vững trong tương
lai.Nếu một doanh nghiệp mãi không chịu lớn, không phát triển thì ắt sẽ bị đào
thải, thu bé đi. Muốn có được vị trí nhất định, giành được lợi thế trong thị trường
buôn bán, các nhà tư bản sẽ tìm đến việc đổi mới thiết bị máy móc, đặc biệt là
trong thời kì khoa học kĩ thuật phát triển như hiện nay. Như vậy, yêu cầu về vốn
vẫn là yêu cầu hàng đầu được đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp. lOMoAR cPSD| 44820939
Ta thấy rằng ở cả hai quy luật trên, nhà tư bản đều cần đến nguồn vốn. Ắt
hẳn nguồn vốn đầu tiên mà mọi người tìm đến sẽ là phương án đi vay ngân hàng,
bạn bè… Tuy nhiên sau đó chủ sản xuất sẽ phải trả lại không chỉ số tiền mình đã
vay mà thậm chí còn phải trả thêm phần lãi. Vậy nếu các nhà tư bản muốn có
vốn của riêng mình, cách duy nhất chính là tích luỹ tư bản.
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới quy mô của tích lũy tư bản
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích lũy tư
bản phụ thuộc vào tỉ lệ phân chia khối lượng của giá trị thặng dư đó thành quỹ
tích lũy và quỹ tiêu dung của nhà tư bản, nhưng nếu tỉ lệ phân chia đó đã được
xác định, thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng
dư. Do đó, những nhân tố ảnh hưởng tới khối lượng giá trị thặng dư cũng là nhân
tố quyết định quy mô của tích lũy tư bản. Những nhân tố đó là:
3.1.Trình độ bóc lột sức lao động
Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén
vào tiền công. Khi nghiên cứu sự sản xuất của giá trị thặng dư, C.Mác giả định
rằng sự trao đổi giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá, tức là tiền
công bằng giá trị sức lao động. Nhưng trong thực tế, công nhân không chỉ bị nhà
tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động
tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích luỹ tư bản.
Các nhà tư bản còn nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng
cường độ lao động và kéo dài ngày lao động để tăng khối lượng giá trị thặng dư,
nhờ đó tăng tích luỹ tư bản. Cái lợi ở đây còn thể hiện ở chỗ nhà tư bản không
cần ứng thêm tư bản để mua thêm máy móc, thiết bị mà chỉ cần ứng tư bản để
mua thêm nguyên liệu là có thể tăng được khối lượng sản xuất, tận dụng được
công suất của máy móc, thiết bị, nên giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo
quản của máy móc, thiết bị. 5 lOMoAR cPSD| 44820939
3.2.Trình độ năng suất lao động xã hội
Nếu năng suất lao động xã hội tăng lên, thì giá cả tư liệu sản xuất và tư
liệu tiêu dùng giảm xuống. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ tư bản:
Một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ
có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước;
Hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể
chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn hơn trước.
Do đó, quy mô của tích luỹ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng giá trị
thặng dư được tích luỹ, mà còn phụ thuộc vào khối lượng hiện vật do giá trị
thặng dư đó có thể chuyển hoá thành. Như vậy năng suất lao động xã hội tăng
lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới,
nên làm tăng quy mô của tích luỹ.
3.3.Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia vào
toàn bộ quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của
chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy có sự chênh lệch giữa
tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù vậy, máy móc gần như giữ nguyên
giá trị sử dụng xuyên suốt thời gian hoạt động. Do đó, nếu không kể đến phần
giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc
phục vụ không công chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Máy móc, thiết bị càng
hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, do
đó sự phục vụ không công của máy móc càng lớn, tư bản lợi dụng được những
thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều. Sự phục vụ không công đó của lao lOMoAR cPSD| 44820939
động quá khứ là nhờ lao động sống làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích
luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ tư bản.
3.4.Quy mô của tư bản ứng trước
Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối
lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là
bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được
càng lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản. Từ sự
nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản có thể rút ra nhận
xét chung là để tăng quy mô tích luỹ tư bản, cần khai thác tốt nhất lực lượng
lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy
móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
4. Một số hệ quả của tích lũy tư bản 4.1.Quá trình tích lũy tư bản là
quá trình cấu tạo hữu cơ của tích lũy tư bản
C.Mác cho rằng nền sản xuất có thể được quan sát qua hình thái hiện vật
và hình thái giá trị. Nếu quan sát qua hình thái hiện vật thì mối quan hệ tỷ lệ
giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động được coi là cấu tạo kĩ thuật.
Trong cấu tạo kĩ thuật này, nếu quan sát qua hình thái giá trị nó phản ánh
ở mối quan hệ tỷ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tỷ lệ giá trị này
được gọi là cấu tạo hữu cơ. Cấu tạo hữu cơ luôn có xu hướng tăng do cấu tạo
kĩ thuật cũng vận động theo xu hướng tăng lên về lượng. Vì vậy, quá trình tích
lũy tư bản không ngừng làm gia tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
4.2.Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản
Để làm rõ hệ quả này, ta cần phải chỉ rõ ra mối quan hệ giữa tích lũy – tích tụ - tập trung tư bản. 7 lOMoAR cPSD| 44820939
Trong quá trình tái sản xuất, quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua
quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản
hóa giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt đồng thời
làm tăng quy mô tư bản xã hội do giá trị thặng dư được biến thành tư bản phụ
thêm. Đây là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp
nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn.
Tích tụ và tập trung tư bản đều góp phần tạo tiền đề để có thể thu được
nhiều giá trị thặng dư hơn cho người mua hàng hóa sức lao động.
4.3.Quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp vô sản
Quá trình tích lũy tư bản tất yếu sẽ dẫn đến sự phân cực: một bên làm cho
chủ nghĩa tư bản phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng thông qua sự tích tụ
và tập trung tư bản, thông qua việc nâng cao cấu tạo hữu cơ tư bản và làm cho
giai cấp tư bản ngày càng trở nên giàu có; ngược lại, những người dân lao động
không tránh khỏi sự bần cùng hóa và thất nghiệp. Đây là quy luật chung của tích lũy tư bản.
Bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái là
bần cùng hóa tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối. Bần cùng hóa tương đối là
cùng với đà tăng trưởng của lực lượng sản xuất, phần sản phẩm phân phối cho
giai cấp công nhân làm thuê tuy có tăng tuyệt đối nhưng lại giảm tương đối so
với phần sản phẩm dành cho giai cấp tư sản. Bần cùng hóa tuyệt đối thể hiện
sự giảm tuyệt đối về mức sống của nhân dân làm thuê. Bần cùng hóa tuyệt đối
thường xuất hiện với bộ phận giai cấp công nhân đang thất nghiệp và đối với lOMoAR cPSD| 44820939
toàn bộ giai cấp công nhân đang làm thuê trong các điều kiện kinh tế khó khăn,
đặc biệt là trong khủng hoảng kinh tế.
Qua đó có thể thấy rằng tích lũy tư bản mang lại nhiều lợi ích nhất là cho
giai cấp tư bản trong chế độ xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên nó lại không ngừng
làm khoảng cách giàu nghèo trở nên rõ rệt hơn. Mặc dù vậy, chúng ta cần phải
áp dụng hợp lý quy luật tích lũy tư bản để nền kinh tế phát triển theo chiều hướng đi lên.
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN VẬN DỤNG TÍCH LŨY TƯ BẢN (VỐN)
VÀO TĂNG CƯỜNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Khái quát tình hình tích lũy tư bản tại Việt Nam 1.1.Trước thời kỳ đại dịch
Trải qua hơn 20 năm đổi mới vừa qua, đất nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế ất nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế tốc độ tăng trưởng khá cao, sản
xuất phát triển, có tích luỹ từ nội bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Để giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới sẽ phụ thuộc rất
nhiều vào việc tích lũy, huy động vốn cho nền kinh tế.
Trước đây trong nền kinh tế bao cấp, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá
trình tích lũy vốn còn gặp rất nhiều trở ngại. Nhà nước lại can thiệp quá sâu
vào nền kinh tế dẫn đến việc tổ chức doanh nghiệp không thể phát huy hết khả
năng của mình, nhiệm vụ tích tụ và tập trung vốn không đạt được hiệu quả.
Việc thực hiện CNH- HDH đề ra trong kế hoạch 5 năm tại Đại hội Đảng lần
III 1960-1985 được tiến hành trong điều kiện chế độ quan liêu bao cấp vì vậy
nên còn tồn tại khá nhiều hạn chế.Chỉ khi sau đổi mới 1986, cùng với việc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính sách mở
cửa, ngoại giao mềm dẻo, các kênh huy động vốn trở nên phong phú linh hoạt 9 lOMoAR cPSD| 44820939
hơn. Theo thống kê giai đoạn 1996-2000 tăng 66,7% so với 1991-1995, tỷ
trọng vốn đầu tư xã hội 28,6% năm. Tích lũy nội bộ tăng lên 25% GDP. Từ
2000 đến nay tốc độ lại tiếp tục tăng 2008 tăng 39,6%, 2009 tăng 34,8%, 2010
tăng 37,5% năm, giai đoạn 1011-2017 nguồn vốn đầu tư toàn xã hội 15,524
tỷ, vốn nước ngoài ước tính 1150 tỷ đồng.
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính sách
mở cửa, ngoại giao mềm dẻo, các kênh huy động vốn trở nên phong phú linh
hoạt hơn. Theo thống kê giai đoạn 1996-2000 tăng 66,7% so với 1991-1995,
tỷ trọng vốn đầu tư xã hội 28,6% năm. Tích lũy nội bộ tăng lên 25% GDP. Từ
2000 đến nay tốc độ lại tiếp tục tăng 2008 tăng 39,6%, 2009 tăng 34,8%, 2010
tăng 37,5% năm, giai đoạn 1011-2017 nguồn vốn đầu tư toàn xã hội 15,524
tỷ, vốn nước ngoài ước tính 1150 tỷ đồng.
Từ khi chuyển đổi nền kinh tế, nhất đời sống nhân dân đã được cải thiện
rõ rệt, thu nhập quốc dân tăng lên…tuy nhiên nó vẫn còn quá nhỏ bé so với
nền kinh tế thế giới (nếu quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2003) thì quy
mô vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ tương đương với một tập đoàn
đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới). Trong đó doanh nghiệp Nhà nước
chiếm 59,0/% tổng vốn của doanh nghiệp cả nước, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh chiếm 19,55%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44%
tổng vốn các doanh nghiệp cả nước. Xét riêng đối với mỗi doanh nghiệp, vốn
của từng doanh nghiệp rất nhỏ.
Thực tế cho thấy tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết kiệm và
đầu tư thấp, nhiều hộ gia đình và không ít doanh nghiệp còn đầu tư chưa hiệu
quả, nguồn vốn không được luân chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu. Đầu tư của
nhà nước tăng lên nhưng còn dàn trải,. Việc quản lý sử dụng vốn còn phân
tán, không tập trung tối đa vốn tiền mặt cũng như nhân tài vật lực để giải lOMoAR cPSD| 44820939
quyết những công trình thiết yếu của nền kinh tế.Tuy nhiên sự phát triển
nhanh chóng của thị trường chứng khoán cho thấy đây là một kênh huy động
vốn thật sự hấp dẫn và rất đáng kể.
1.2.Khi đại dịch xuất hiện
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới
mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội trong những năm gần đây thì tình hình tích lũy
tư bản của nước ta trong những năm đại dịch vẫn ổn định: Tổng vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/9/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp
mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư
nước ngoài đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong báo
cáo cập nhật kinh tế vĩ mô tháng 9/2021 vừa qua, WB đưa ra nhận định dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam cho thấy lòng tin vào nền
kinh tế vẫn được duy trì. Nhà đầu tư FDI vẫn tin tưởng vào triển vọng của nền
kinh tế Việt Nam. Theo chuyên gia WB, lý do là nền kinh tế Việt Nam vẫn
nằm trong số các quốc gia tăng trưởng tốt (năm 2020 là 2,9%) khi phần lớn
các quốc gia khác suy giảm kinh tế nghiêm trọng. Đó là dấu hiệu của khả
năng phục hồi, cho thấy các nền tảng cơ bản của nền kinh tế Việt Nam là vững chắc.
Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào tốc độ
tăng tổng giá trị tăng thêm được thống kê như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng
5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành
vận tải, kho bãi giảm 1,88%, làm giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ
lưu trú và ăn uống giảm 14,68%, làm giảm 0,62 điểm phần trăm.
Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào tốc độ
tăng tổng giá trị tăng thêm được thống kê như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 11 lOMoAR cPSD| 44820939
5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành
vận tải, kho bãi giảm 1,88%, làm giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ
lưu trú và ăn uống giảm 14,68%, làm giảm 0,62 điểm phần trăm.
2. Vận dụng lý luận tích lũy tư bản vào thực tiễn nền kinh tế
2.1. Những ảnh hưởng từ quá trình tích lũy tư bản từ thực tiễn nền kinh tế
Không nằm ngoài những quy luật tác động của quá trình tích lũy tư bản,
quá trình đó cũng dẫn đến những hệ quả kinh tế mang tính quy luật ở nước ta.
• Quá trình mở rộng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
• Sự hình thành các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
• Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội
2.2. Các giải pháp tăng cường tích lũy cho nền kinh tế của nước ta
Trong điều kiện đất nước ta, từ sản xuất nhỏ quá độ lên CNXH, chúng ta
không còn cách nào khác là một mặt huy động toàn bộ sức lực của mọi người,
mọi ngành, mọi cấp để tăng gia sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển; mặt khác,
phải triệt để tiết kiệm nhằm tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế nước ta cho sự
nghiệp xây dựng phát triển nền kinh tế sản xuất XHCN. •
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy – tiêu dùng •
Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn •
Tích lũy vốn trong nước Thu hút vốn đầu tư nước ngoài KẾT LUẬN
Việt Nam đang từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, với nhiều thành tựu đáng tự hào, nước ta đang trong thời kì phát
triển mạnh mẽ và năng động, với những lợi thế vàng như: nền kinh tế mới nổi,
năng động, chính trị ổn định, dân số trẻ với nguồn lao động dồi dào,... Tuy lOMoAR cPSD| 44820939
nhiên, sự phát triển của nền kinh tế cũng đặt ra nhiều áp lực về tăng quy mô
vốn cho nền kinh tế. Chính vì thế, việc nghiên cứu tích lũy tư bản và việc vận
dụng lí luận đó vào thực tiễn Việt Nam rất quan trọng và cấp thiết. Mục tiêu của
nước ta là đến năm 2045, Việt Nam trở thành một nước phát triển, thu nhập cao.
Chặng đường đó còn dài và sẽ còn gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng với sự
quyết tâm cao độ của toàn thể nhân dân, sự lãnh đạo sáng xuất của Đảng, đường
lối, chính sách của Nhà nước và vận dụng có hiệu quả những nguyên lý kinh tế
của chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào thực tiễn khách quan, chúng ta sẽ đạt được
những mục tiêu đã đề ra . Trong năm 2021,do ảnh hưởng trực tiếp từ dịch bệnh
COVID-19, các chuyên gia nhận định thị trường vốn Việt Nam đang phải đối
diện với nhiều thách thức như: các ngân hàng khó tăng năng lực tài chính, nguy
cơ nợ xấu ngày một dày lên, do hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh đều
bị ảnh hưởng từ đại dịch, cùng với đó nhiều hình thái tín dụng, thanh toán gắn
với công nghệ như các loại tiền ảo, tiền mã hóa,.. xuất hiện tràn lan, trong khi
Việt Nam chưa có chính sách để quản lý. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có những
thành quả đáng kể như sự phát triển của thị trường chứng khoán trong vòng 20
năm qua. Hàng trăm ngàn tỷ đồng đã được các doanh nghiệp, các ngân hàng
huy động qua thị trường chứng khoán, tạo nên bức tranh cân đối của thị trường
vốn Việt Nam. Hơn thế, với lợi thế quy mô dân số đông và trẻ, với nhu cầu chi
tiêu lớn và nguồn lao động dồi dào. Điều này sẽ kích thích sự sôi động của thị
trường vốn. Nhưng làm sao để sử dụng nguồn vốn đó một cách hiệu quả vẫn
còn là một vấn đề nan giải và cần thời gian điều chỉnh sao cho hợp lý.
Xu hướng toàn cầu hóa tạo ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội nhưng cũng
mang lại không ít khó khăn, thử thách. Trong một môi trường kinh doanh năng
động, đầy tính cạnh tranh, buộc mỗi doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng
quy mô vốn để đầu tư phát triển. Con đường duy nhất để tích lũy vốn đó là tích
lũy tư bản để tái sản xuất. Vì thế mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp phải biết ra 13 lOMoAR cPSD| 44820939
sức tích lũy để mở rộng đầu tư hơn nữa. Ngoài ra cần tích cực thu hút vốn đầu
tư từ nước ngoài(FDI, ODA,..) nhằm tác động lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Đây
cũng là tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, khẳng
định đúng đắn chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta.