Tiểu luận môn Dẫn luận ngôn ngữ chủ đề Cụm từ cố định

Khi các từ được kết hợp với nhau theo những quan hệ khác nhau ta sẽ thu được các đơn vị cú pháp. Đơn vị cú pháp nhỏ nhất là cụm từ. Tiểu luận dẫn luận ngôn ngữ. Tài liệu giúp các bạn tham khảo và ôn tập để đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem

lOMoARcPSD|45022245
TIỂU LUẬN
MÔN: DẪN LUẬN NGÔN NGỮ
Chủ đề 4: CỤM TỪ CỐ
ĐỊNH
Hà Nội, tháng 11 năm 2021
MỤC LỤC
MỤC LỤC.....................................................................................................................0
LỜI CẢM ƠN................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................2
I. KHÁI NIỆM.......................................................................................................2
1. Cụm từ..........................................................................................................2
2.Cụm từ cố định..............................................................................................3
II. PHÂN LOẠI.....................................................................................................5
-Thành ngữ.......................................................................................................5
2. Quán ngữ......................................................................................................8
3. Ngữ cố định định danh.................................................................................9
III. ĐẶC ĐIỂM....................................................................................................11
1. Đặc điểm tương đương với từ: cách của những đơn vị được làm sẵn
trong ngôn ngữ; tương đương về chức năng định danh, chức năng tham
gia tạo câu.......................................................................................................11
2. Cách xây dựng, tạo lập cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau
không hoàn toàn như nhau.............................................................................11
IV. CHỨC NĂNG................................................................................................11
1. Cụm từ cố định chức năng định danh, chức năng tham gia tạo câu. 2.
So sánh với cụm từ tự do: đơn vị của hệ thống ngôn ngữ ổn định và tồn tại.11
0
lOMoARcPSD|45022245
dưới dạng làm sẵn...........................................................................................11
V. Ý NGHĨA........................................................................................................12
KẾT LUẬN..................................................................................................................12
TÀI LIÊU THAM KHẢO................................................................................................13
LỜI CẢM ƠN
William Arthur Ward đã từ nói: "Người thầy trung bình chỉ biết nói. Người thầy
giỏi biết giải thích. Người thầy xuất chúng biết minh họa. Người thầy đại biết
truyền cảm hứng". Thật như vậy, bằng vốn kiến thức sâu rộng sự giảng dạy nhiệt
huyết, tận tình của Lê Thị Hồng Dung, mỗi một tiết học "Dẫn luận ngôn ngữ" lại
trở lên cùng thú vị, khiến cho bản thân em cùng hào hứng vào mỗi sáng thứ 3
hàng tuần. Bên cạnh đó, em cũng nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ từ cô.
Vì vậy, với lòng biết ơn, em xin chân thành gửi đến cô Lê Thị Hồng Dung thuộc Khoa
Tiếng Việt của Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội lời cảm ơn sâu sắc nhất.
Quá trình học tập bộ môn "Dẫn luận ngôn ngữ" đã cung cấp cho em đầy đủ kiến
thức, kỹ năng, giúp bản thân em thể ứng dụng vào làm đề tài tiểu luận này cũng
như ứng dụng vào thực tế. Tuy nhiên, do kinh nghiệm thực tế kiến thức còn hạn
hẹp nên chắc chắn bài tiểu luận sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong xem
xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
LỜI MỞ ĐẦU
Từ lâu, ngôn ngữ đã xuất hiện cùng con người gắn liền với cuộc sống của
các cộng động loài người trong suốt quá trình phát triển. Ngôn ngữ “công cụ của
duy”, “phương tiện giao tiếp trọng yếu của con người”. Nói rộng hơn, ngôn ngữ
công cụ, phương tiện liên kết con người trong các hoạt động hội, sản xuất, sáng
tạo xây dựng cuộc sống ngày một tiến bộ phát triển. Không nhưng thế, còn
linh hồn của một dân tộc, tinh túy của mỗi một nền văn hóa. Trong đó, từ đơn vị
bản, đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Đây đặc trưng bản, tính chất bao
1
lOMoARcPSD|45022245
trùm, nổi bật nhất của ngôn ngữ. Từ loại vật liệu đặc biệt, thiếu thì ngôn ngữ
không thể tồn tại. Nhưng đơn vị dùng làm chất liệu sở để tạo ra câu đơn vị giao
tiếp – không phải chỉ có từ. Ngoài từ ra, còn có một loại đơn vị gọi là cụm từ cố định.
Cụm từ cố định một kho tàng giá trị to lớn về ngôn ngữ văn hóa, được
sử dụng hằng ngày trong trong cuộc sống của nhân dân cũng như trong các tác phẩm
văn chương. giúp cho lời nói, lời văn trở nên hay hơn, diễn tả ý tưởng một cách
sâu sắc, tế nhị vẫn hàm súc. Việc tìm hiểu cụm từ cố định sẽ giúp cho mỗi người
trau dồi vốn ngôn ngữ của mình, qua đó thể hiện duy, tri thức không chỉ về ngôn
ngữ, còn về văn hóa của bản thân khi áp dụng vào cuộc sống. Do đó, em lựa chọn
đề tài “Cụm t cố định” cho bài tiểu luận của mình với mong muốn làm hơn đặc
điểm, vai trò của “Cụm từ cố định” đối với sự hình thành phát triển ngôn ngữ. Từ
đó, bài tiểu luận có thể đưa ra cái nhìn tổng quan về “Cụm từ cố định”, đồng thời nắm
chắc được nó để thể vận dụng vào thực tế cuộc sống, làm cho khả năng biểu đạt
ngôn ngữ của ta trở lên linh hoạt và phong phú hơn.
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM
1. Cụm từ
Khi các từ được kết hợp với nhau theo những quan hệ khác nhau ta sẽ thu được
các đơn vị cú pháp. Đơn vị cú pháp nhỏ nhất là cụm từ. Đó là những tổ hợp gồm hai
từ trở lên, trong đó có ít nhất là một thực từ.
VD: Học hành
Lễ hội âm nhạc
学好汉语
说话
Learn English…
2.Cụm từ cố định
a. Khái niệm
2
lOMoARcPSD|45022245
đơn vị đo một số từ hợp lại, tồn tại với cách một đơn vị sẵn như từ,
thành tố cấu tạo và ngữ nghĩa cũng ổn định.
b. Phân biệt cụm từ cố định với từ ghép và cụm từ tự do
Trước hết, nếu so sánh một từ ghép điển hình với một cụm từ cố định điển hình
ta thấy chúng đều giống nhau ở chỗ:
Cùng có hình thức chặt chẽ, cấu trúc cố định.
Cùng có tính thành ngữ.
Cùng là những đơn vị làm sẵn trong ngôn ngữ.
dụ: sinh viên, học tập, đỏ rực, ngon lành, hoa hồng,… ăn ốc nói mò, mặt
trái xoan, vênh váo như bố vợ phải đấm,...
Ở đây, cần nói thêm về cái gọi là tính thành ngữ. Thực ra, khái niệm này chưa
phải đã tuyệt đối ràng. Nói chung, thường gặp nhất cách hiểu như nhau:
Giả sử một kết cấu X gồm các yếu tố a, b, c,… hợp thành X = a + b + c +…
Nếu ý nghĩa của X mà không thể giải thích được bằng ý nghĩa của từng yếu tố a, b,
c,… thì người ta bảo kết cấu X (hoặc tổ hợp X) có tính thành ngữ.
=> Vậy chứng tỏ rằng tính thành ngữ các mức độ cao, thấp khác nhau
trong các tổ hợp, kết cấu khác nhau, bởi cách tổ chức nội dung hình thức của
chúng theo những con đường, những phương sách rất khác nhau. Đối chiếu với các
ví dụ nêu trên, ta sẽ thấy điều đó.
Từ ghép với cụm từ cố định khác nhau ở chỗ:
Về thành tố cấu tạo: Thành t cấu tạo của từ ghép hình vị, còn thành
tốcấu tạo của cụm từ cố định là từ. So sánh:
news + paper – newspaper ễnh + ương – ễnh ương
speak + by + the + book – speak by the book bán +
bò + tậu + ễnh + ương – bán bò tậu ễnh ương.
Về ý nghĩa: Nghĩa của cụm từ cố định được xây dựng t chức theo
lốitổ chức nghĩa của cụm từ, nói chung mang tính hình tượng. Chính vậy,
nếu chỉ căn cứ vào bề mặt, vào nghĩa của từng thành tố cấu tạo thì nói chung
không thể hiểu được đích thực của toàn cụm từ. Ví dụ: anh hùng rơm, đồng không
mông quạnh, tiếng bấc tiếng chì,…
3
lOMoARcPSD|45022245
Trong khi đó, đối với từ ghép, thì nghĩa định danh (trực tiếp hoặc gián tiếp) theo
kiểu tổ chức nghĩa của từ lại là cái cốt lõi và nổi lên hàng đầu.
dụ: mắt (chân), đầu ruồi, chân vịt, đen nhánh, xanh lè, tre pheo, thuyền
trưởng,…
c. Điểm giống và khác nhau giữa cụm từ tự do, cụm từ cố định
- Thứ nhất: cả hai đều là cụm từ, được tạo lập bằng sự tổ hợp của các từ.
- Thứ hai là giống nhau về hình thức ngữ pháp. Điều này dẫn đến hệ quả là quan hệ
ngữ nghĩa giữa các thành tố cấu tạo cũng giống nhau.
Ví dụ: nhà ngói cây mít; nhà tranh vách đất;… (cụm từ cố định).
cháo gà cháo vịt; phở bò miến lươn;… (cụm từ tự do).
Tuy vậy, quan sát kĩ thì thấy chúng khác nhau ở những mặt quan trọng.
Cụm từ cố định hiện diện với cách đơn vị của hệ thống ngôn ngữ,
ổnđịnh tồn tại dưới dạng làm sẵn. Trong khi đó, cụm từ tự do được đặt ra trong
lời nói, trong diễn từ (discourse). hợp thành đấy, rồi tan đấy, không tồn
tại dưới dạng một đơn vị làm sẵn. Cụm từ tự do chỉ một sự lấp đầu từ vào một
mô hình ngữ pháp cho trước mà thôi.
tồn tại ới dạng làm sẵn nên thành tố cấu tạo cụm từ cố định
sốlượng ổn định, không thay đổi. Ngược lại, số thành tố cấu tạo cụm từ tự do
thể thay đổi tuỳ ý. dụ: mẹ tròn con vuông, mồm năm miệng mười,… số thành
tố cấu tạo luôn luôn ổn định. Thế nhưng, một cụm từ tự do "những người cười"
chẳng hạn, có thể thêm bớt các thành tố một cách tuỳ ý để cho ta những cụm từ có
kích thước khác nhau: những người này những người chưa nói đã cười này
những người vừa mới đến mà chưa nói đã cười này,…
Về ý nghĩa, cụm từ cố định ý nghĩa như một chỉnh thể tương ứng
vớimột chỉnh thể cấu trúc vật chất của nó. nghĩa tính thành ngữ rất
cao, còn cụm từ tự do thì không như vậy. dụ, chỉnh thể ý nghĩa của cụm từ cố
định: rán sành ra mỡ, méo miệng đòi ăn xôi vò, say như điếu đổ,… tính thành
ngữ cao đến mức tối đa, còn những cụm từ tự do như rán mỡ, miệng cười, say
thuốc lào,… thì không có tính thành ngữ.
4
lOMoARcPSD|45022245
II. PHÂN LOẠI
Mặc nhiều điểm giống nhau về nguyên tắc, nhưng cách xây dựng, tạo
lập cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau không hoàn toàn như nhau.
thế, cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau thể được phân loại khác
nhau.
Trong tiếng Việt, cụm từ cố định có thể tạm thời phân ra:
-Thành ngữ
- Ngữ cố định, trong đó gồm: Quán ngữ và Ngữ cố định định danh
1. Thành ngữ
a. Định nghĩa:
cụm từ cố định , hoàn chỉnh về cấu trúc ý nghĩa. Nghĩa của chúng
tính hình tượng hoặc gợi cảm.
b. Phân loại
* Thành ngữ so sánh
hình tổng quát của thành ngữ so sánh giống như cấu trúc so sánh thông
thường khác:
A so sánh B: đây A vế được so sánh, B vế đưa ra để so sánh, còn ss
là từ so sánh: như, bằng, tựa, hệt,...
Tuy vậy, sự hiện diện của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt khá đa dạng,
không phải lúc nào ba thành phần trong cấu trúc cũng đầy đủ. Chúng thể
các kiểu:
A so sánh B: Đây là dạng đầy đủ của thành ngữ so sánh. Ví dụ: Đắt như tôm
tươi, Nhẹ tựa lông hồng, Lạnh như tiền, Dai như đỉa đói, Đủng đỉnh như chĩnh
trôi sông, Lừ đừ như ông từ vào đền,...
(A) so sánh B: Ở kiểu này, thành phần A của thành ngữ không nhất thiết phải
mặt. thể xuất hiện hoặc không, nhưng người ta vẫn lĩnh hội ý nghĩa của
thành ngữ dạng toàn vẹn. Ví dụ: (Rẻ) như bèo, (Chắc) như đinh đóng cột, (Vui)
như mở cờ trong bụng, (To) như bồ tuột cạp, (Khinh) như rác, (Khinh) như mẻ,
(Chậm) như rùa,...
5
lOMoARcPSD|45022245
So sánh B: Trường hợp này, thành phần A không phải của thành ngữ. Khi đi
vào hoạt động trong câu nói, thành ngữ kiểu này sẽ được nối thêm với A một cách
tuỳ nghi, nhưng nhất thiết phải có. A của câu nói nằm ngoài thành ngữ.
dụ: Như tằm ăn rỗi, Như vịt nghe sấm, Như con chó ba tiền, Như mắc tóc,
Như đỉa phải vôi, Như ngậm hột thị,...
Đối với thành ngữ so sánh tiếng Việt, thể nêu một vài nhận xét về cấu
trúc của chúng như sau:
- Vế A (vế được so sánh) không phải bao giờ cũng buộc phải hiện diện
trên cấu trúc hình thức, nhưng nội dung của thì vẫn luôn luôn cái
được
"nhận ra". A thường là những từ ngữ biểu thị thuộc tính, đặc trưng hoặc
trạng thái hành động,... nào đó. Rất ít khi chúng ta gặp những khả năng
khác.
- Từ so sánh trong thành ngữ so sánh tiếng Việt phổ biến từ như; còn
những từ so sánh khác, chẳng hạn như: tựa, tựa như, như thể, bằng,
tày,... (Gương tày liếp, Tội tày đình, Cưới không bằng lại mặt,...) chỉ
xuất hiện hết sức ít ỏi.
- Vế B (vế để so sánh) luôn luôn hiện diện, một mặt để thuyết minh, làm
rõ cho A, mặt khác, nhiều khi nó lại chỉ bộ lộ ý nghĩa của mình trong khi
kết hợp với A, thong qua A. dụ: Ý nghĩa "lạnh" của tiền chỉ bộ lộ
trong Lạnh như tiền thôi. c thành ngữ Nợ như chúa Chổm, Rách
như tổ đỉa, Say như điếu đổ, Say khướt cò bợ,... cũng tương tự như vậy.
Mặt khác, các sự vật, hiện ợng, trạng thái,... được nêu Bphản ánh khá nét
những dấu ấn về đời sống văn hoá vật chất tinh thần của dân tộc Việt. Đối
chiếu với thành ngữ so sánh của các ngôn ngữ khác, ta dễ thấy sắc thái dân tộc
của mỗi ngôn ngữ được thể hiện một phần ở đó.
- Vế B có cấu trúc không thuần nhất:
+ B thể một từ. dụ: Lạnh như tiền, Rách như tổ đỉa, Nợ như
chúa Chổm, Đắng như bồ hòn, Rẻ như bèo, Khinh như mẻ,...
6
lOMoARcPSD|45022245
+ B có thể là một kết cấu chủ-vị (một mệnh đề). Ví dụ: Như đỉa phải
vôi, Như chó nhai giẻ rách, Lừ đừ như ông từ vào đền, Như thầy bói
xem voi, Như xầm sờ vợ,...
Ngoài những điều nói trên, khi đối chiếu các thành ngữ so sánh với cấu trúc so
sánh thông thường của tiếng Việt, ta thấy:
- Các cấu trúc so sánh thông thường thể so sánh bậc ngang hoặc so
sánh bậc hơn. Ví dụ: Anh yêu em như yêu đất nước (so sánh bậc ngang),
Dung biết mình đẹp hơn Mai (so sánh bậc hơn),...
- Từ so sánh các phương tiện so sánh khác (chỗ ngừng, các cặp từ
phiếm định ứng,...) được sử dụng trong các cấu trúc so sánh thông
thường, rất đa dạng: như, bằng, tựa, hệt, giống, chẳng khác gì, y như là,
hơn, hơn là,...
- Một vế A trong cấu trúc so sánh thông thường thể kết hợp với một
hoặc hai, thậm chí một chuỗi nhiều hơn các vế B qua sự nối kết với từ
so sánh. Ví dụ:
+Kết hợp với một B: Cổ tay em trắng như ngà /Đôi mắt em liếc như là
dao cau.
+ Kết hợp với một chuỗi B: Những chị cào cào (...) khuôn mặt trái
xoan như e thẹn, như làm dáng, như ngượng ngùng.
- Cấu trúc so sánh thông thường rất đa dạng, trong khi đó thành ngữ so
sánh ít biến dạng hơn và nếu có thì cũng biến dạng một cách giản dị như
đã nêu trên. do chính chỗ thành ngữ so sánh cụm từ cố định,
chúng phải chặt chẽ và bền vững về mặt cấu trúc và ý nghĩa.
* Thành ngữ miêu tả ẩn dụ
7
lOMoARcPSD|45022245
Thành ngữ miêu tả ẩn dụ thành ngữ được xây dựng trên sở miêu tả
một sự kiện, một hiện tượng bằng cụm từ, nhưng biểu hiện ý nghĩa một cách ẩn
dụ.
Căn cứ vào nội dung của thành ngữ miêu tả ẩn dụ kết hợp cùng với cấu
trúc của chúng, có thể phân loại nhỏ hơn như sau:
Những thành ngữ miêu t ẩn dụ nêu một sự kiện. Trong các thành ngữ
này, chỉ một sự kiện, một hiện tượng nào đó được nêu. Chính vậy, cũng chỉ
một hình ảnh được xây dựng phản ánh. Ví dụ: Ngã vào võng đào, Nuôi ong tay
áo, Nước đổ đầu vịt, Chó váy lĩnh, Hàng thịt nguýt hàng cá, Vải thưa che mắt
thánh, Múa rìu qua mắt thợ,...
Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện tương đồng. đây, trong
mỗi thành ngữ sẽ hai sự kiện, hai hiện tượng được nêu, được phản ánh. Chúng
tương đồng hoặc tương hợp với nhau (hiểu một cách tương đối). dụ: Ba đầu
sáu tay, Nói sách mách chứng, Ăn trên ngồi trốc, M tròn con vuông, Hòn
đất ném đi hòn chì ném lại,...
Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện ơng phản. Ngược lại
với loại trên, mỗi thành ngữ loại này cũng nêu ra hai sự kiện, hai hiện tượng tương
phản nhau hoặc chí ít cũng không tương hợp nhau.dụ: Các thành ngữ Một vốn
bốn lời, Méo miệng đòi ăn xôi vò, Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm, Bán tậu ễnh
ương, Xấu máu đòi ăn của độc,...
2. Quán ngữ
a. Định nghĩa
những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ thuộc phong
cách khác nhau. Chức năng của chúng để đưa đầy, tạo đầu, để nhấn mạnh hoặc
liên kết trong diễn từ.
b. Phân loại
thể phân loại các quán ngữ của tiếng Việt dựa vào phạm vi tính chất
phong cách của chúng, như sau:
8
lOMoARcPSD|45022245
* Những quán ngữ hay dùng trong phong cách hội thoại, khẩu ngữ
dụ: Của đáng tội, Khí phép, Khổ một nỗi là, (Nói) bỏ ngoài tai,
Nói dại đổ đi, Còn mồ ma, chết (một) cái là, Nói (...) bỏ quá cho, Cắn
rơm cắn cỏ, Chẳng nước non gì, Đùng một cái, Chẳng ra chó gì, Nói trộm
bóng vía,...
* Những quán ngữ hay dùng trong phong cách viết (khoa học, chính
luận,...) hoặc diễn giảng
dụ: Nói tóm lại, thể nghĩ rằng, Ngược lại, Một mặt thì, Mặt
khác thì, Có nghĩa là, Như trên đã nói, Có thể cho rằng, Như sau, Như dưới
đây, Như đã nêu trên, Sự thực là, Vấn đề là ở chỗ,...
3. Ngữ cố định định danh
a. Định nghĩa
các cụm từ cố định , nhưng được tạo dựng theo cách gần giống cách tạo
những từ ghép mà người ta văn hay gọi là từ ghép chính phụ.
b. Một số đặc điểm
- Thực chất đó những cụm t cố định, định danh, gọi tên sự vật. Trong
mỗicụm từ như vậy thường một thành tố chính một vài thành tố phụ miêu tả
sự vật được nêu thành tố chính. miêu tả chủ yếu bằng con đường so sánh
nhưng không hề có từ so sánh. Thành tố chính thường bao giờ cũng là thành tố gọi
tên.
Con đường tạo dựng những cụm từ như: Lông mày liễu, Lông mày sâu
róm, Mắt lá răm, Mắt ốc nhồi, Mắt lợn luộc, Mắt bồ câu, Mắt ơn,... gần như
đồng hình với con đường tạo dựng các từ ghép: đen xì, đen sẫm, đen trũi, đen láy,
đen nhánh, đen xỉn,...
Chính bởi vậy, đây hai xu hướng chuyển di ngược chiều nhau thâm
nhập vào nhau. Một số thành ngữ so sánh bị khử từ so sánh dễ được nhập vào số
những cụm từ kiểu này: Ngang cành bứa, Cay xé, Dẻo kẹo, Đen thui, Trẻ măng,...
Ngược lại, một số cụm từ vốn được tạo ra theo kiểu này, nhưng tính thành ngữ,
tính hình tượng đạt tới mức độ gần tương đương với các thành ngữ thực sự, lai rất
thể dễ được nhận vào hàng ngũ của các thành ngữ: dụ: Tuần trăng mật, Kỉ
9
lOMoARcPSD|45022245
luật sắt, Con gái rượu, Sách gối đầu giường, Hòn đá thử vàng, Bạn nối khố, Thẳng
ruột ngựa, Toạc móng héo,...
- Các ngữ cố định định danh thường tập trung với mật độ khá đậm khu
vựctên gọi các bộ phận thể con người như: Tóc rễ tre, Lông mày liễu, Lông
mày sâu róm, Mắt răm, Mắt bồ câu, Mắt ốc nhồi, Râu ngạnh trê, bánh đúc,
Mặt trái xoan, Mũi dọc dừa, Mồm ngão, Răng cải mả, Chân vòng kiềng, Chân
chữ bát, Mặt lưỡi cày, Bụng cóc, Mình trắm,...
Một số ít hơn là tên gọi của các sự vật khác hoặc tên gọi của một trạng thái,
thuộc tính. Chẳng hạn: Giọng ông kễnh, Đá tai mèo, Kỉ luật sắt, Gót sắt, Con gái
rượu, Bạn áo ngắn, Sách gối đầu giường, Hòn đá thử vàng, Bạn nối khố, Cười cầu
tài, Tấm lòng vàng, Bạn vàng, Toạc móng heo, Thẳng ruột ngựa,...
Rõ ràng là cơ chế cấu tạo những cụm từ trên đây không khác những cụm từ
làm tên gọi cho một số sự vật, hiện tượng như: Than quả bàng, Bánh ca vát, Máy
bay chuồn chuồn, Chuối tay bụt,... Chỉ điều, tính thành ngữ của những cụm từ
như thế thấp đến tận cùng mà thôi.
- Cũng như tình trạng của quán ngữ, các cụm từ là ngữ cố định định
danhcó những biểu hiện không đồng đều nhau điểm này hoặc điểm khác.
ràng là, nhìn chung, chúng ổn định cả cấu trúc lẫn ngữ nghĩa. Nhưng tính thành
ngữ thì lại kém, thậm chí kém xa hoặc rất xa so với những thành ngữ chân chính.
Tuy nhiên, chúng cũng không phảitừ ghép, nếu xét về bậc được cấu tạo. Chỉ
điều, việc chế cấu tạo của chúng phần giống với các từ ghép chính phục thì
chúng ta phải thừa nhận.
những mức độ khác nhau, chúng hiện diện như đơn vị đứng giữa cụm
từ cố định-thành ngữ với từ ghép.
10
lOMoARcPSD|45022245
III. ĐẶC ĐIỂM
1. Đặc điểm tương đương với từ: cách của những đơn vị được làm sẵn
trong ngôn ngữ; tương đương về chức năng định danh, chức năng tham
gia tạo câu.
2. Cách xây dựng, tạo lập cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau
không hoàn toàn như nhau.
* Ví dụ
- Thành ngữ so sánh : Rách như tổ đỉa”. Trong lời ăn tiếng nói của dân
gian ta, thành ngữ rách như tổ đỉa được dung để chỉ sự rách nát, nham nhở
của các thứ đồ dung bằng vải, lá,nhất là quần áo.
- Quán ngữ: “Nói trộm bóng vía” được sử dụng để khen những đứa trẻ với
hàm ý muốn nói những đứa trẻ đẹp đẽ, bụ bẫm đáng yêu do các thần
linh, tổ tiên phù hộ, đây là lối nói tâm linh.
- Ngữ cố định định danh : “Anh hùng rơm”. Chỉ những người luôn cho
mình là tài giỏi nhưng thực chất là kẻ hèn nhát, mềm yếu và vô dụng, vô tri
vô giác như ngững con bù nhìn ngoài đồng.
IV. CHỨC NĂNG
1. Cụm từ cố định có chức năng định danh, chức năng tham gia tạo câu. 2. So
sánh với cụm từ tự do: đơn vị của hệ thống ngôn ngữ ổn định và tồn tại
dưới dạng làm sẵn.
* Ví dụ
- Về Tiếng Việt
+ Ao sâu cả: ao sâu biển rộng mới lớn. Phải mạo hiểm ra
ngoài xã hội mới mong học được cái hay, gặt hái được thành công.
+ Mắt ốc nhồi: thể hiện độ nông sâu của mắt
- Về ngoại ngữ
- /zoumaguanhua/ cưỡi ngựa xem hoa: nói đến tác
phong làm việc của 1 nhân hoặc tập thể chỉ lướt qua không tìm
hiểu về chiều sâu khi việc đó cần xem xét kĩ lưỡng.
11
lOMoARcPSD|45022245
- /sangumaolu/ ba lần đến thăm lều tranh: mời với tấm
lòng chân thành (Lưu Bị đích thân ba lần đến lều cỏ của Gia Cát
Lượng để mời bằng được Gia Cát Lượng ra giúp, lần thứ ba mới gặp.
Ý nói chân thành, khẩn khoản, năm lần bảy lượt mời cho được).
V. Ý NGHĨA
Về ý nghĩa, cụm tcố định ý nghĩa như một chỉnh thể tương ứng với một
chỉnh thể cấu trúc vật chất của nó. nghĩa tính thành ngữ rất cao, còn
cụm từ tự do thì không như vậy.
dụ, chỉnh thể ý nghĩa của cụm từ cố định: rán sành ra mỡ, méo miệng đòi
ăn xôi vò, say như điếu đổ,… tính thành ngữ cao đến mức tối đa, còn những
cụm từ tự do như rán mỡ, miệng cười, say thuốc lào,… thì chỉ biểu thị nghĩa đơn
thuần của từ.
KẾT LUẬN
thể nói, cụm từ cố định đơn vị ơng đương với từ. Chúng tương
đương với nhau về cách của những đơn vị được làm sẵn trong ngôn ngữ,
tương đương với nhau về chức năng định danh, chức năng tham gia tạo câu. Cụm
từ cố định cũng đã góp một phần không nhỏ trong làm nên sự phong phú và vẻ đẹp
của ngôn ngữ. Chúng ta thể thấy rất nhiều thứ tiếng trên thế giới như tiếng
Anh, tiếng Trung, tiếng Nga,...đều không thể thiếu cụm từ cố định. Còn trong tiếng
Việt, thông qua những cụm từ cố định cụ thể thành ngữ, ông cha ta đã thể
đúc kết răn dạy chúng ta những bài học, kinh nghiệm quý báu cho đến tận ngày
nay. Không những thế, cụm từ cố định cũng một công cụ khiến cho lời ăn tiếng
nói trong đời sống hàng ngày của chúng trở lên khéo léo, uyển chuyển hơn. Nếu
nói từ một phần không thể thiếu tạo nên ngôn ngữ thì cụm từ cố định cũng
một phần quan trọng không kém để vẽ lên bức tranh ngôn ngữ càng thêm say đắm
lòng người.
12
lOMoARcPSD|45022245
Do đó, chúng ta cũng cần phải nắm chắc những đặc điểm của cụm từ cố
định để thể vận dụng linh hoạt vào trong thực tế. Bởi cụm từ cố định không
chỉ dừng lại việc tạo nên ngôn ngữ mà còn thể hiện sự đặc sắc của ngôn ngữ,
tài sản quý giá đúc kết được qua bao đời ông cha ta. Vì vậy, vận dụngphát triển
cụm từ cố định cũng một cách góp phần vào việc giữ gìn, cũng như phát huy sự
giàu đẹp của tiếng Việt.
TÀI LIÊU THAM KHẢO
Giáo trình Dẫn luận Ngôn ngữ học
Viện ngôn ngữ học.vn
13
| 1/14

Preview text:

TIỂU LUẬN

MÔN: DẪN LUẬN NGÔN NGỮ

Chủ đề 4: CỤM TỪ CỐ ĐỊNH

Hà Nội, tháng 11 năm 2021

MỤC LỤC

MỤC LỤC 2

LỜI CẢM ƠN 3

LỜI MỞ ĐẦU 4

NỘI DUNG 5

I.KHÁI NIỆM 5

1. Cụm từ 5

2. Cụm từ cố định 5

II. PHÂN LOẠI 7

1. Thành ngữ 7

2. Quán ngữ 11

3. Ngữ cố định định danh 11

III. ĐẶC ĐIỂM 13

1. Đặc điểm tương đương với từ: có tư cách của những đơn vị được làm sẵn trong ngôn ngữ; tương đương về chức năng định danh, và chức năng tham gia tạo câu 13

2. Cách xây dựng, tạo lập cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau không hoàn toàn như nhau 13

IV.CHỨC NĂNG 14

1. Cụm từ cố định có chức năng định danh, chức năng tham gia tạo câu2. So sánh với cụm từ tự do: đơn vị của hệ thống ngôn ngữ ổn định và tồn tại 14

dưới dạng làm sẵn 14

V. Ý NGHĨA 14

KẾT LUẬN 15

TÀI LIÊU THAM KHẢO 16

LỜI CẢM ƠN

William Arthur Ward đã từ nói: "Người thầy trung bình chỉ biết nói. Người thầy giỏi biết giải thích. Người thầy xuất chúng biết minh họa. Người thầy vĩ đại biết truyền cảm hứng". Thật như vậy, bằng vốn kiến thức sâu rộng và sự giảng dạy nhiệt huyết, tận tình của cô Lê Thị Hồng Dung, mỗi một tiết học "Dẫn luận ngôn ngữ" lại trở lên vô cùng thú vị, khiến cho bản thân em vô cùng hào hứng vào mỗi sáng thứ 3 hàng tuần. Bên cạnh đó, em cũng nhận được rất nhiều sự quan tâm và giúp đỡ từ cô. Vì vậy, với lòng biết ơn, em xin chân thành gửi đến cô Lê Thị Hồng Dung thuộc Khoa Tiếng Việt của Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội lời cảm ơn sâu sắc nhất.

Quá trình học tập bộ môn "Dẫn luận ngôn ngữ" đã cung cấp cho em đầy đủ kiến thức, kỹ năng, giúp bản thân em có thể ứng dụng vào làm đề tài tiểu luận này cũng như ứng dụng vào thực tế. Tuy nhiên, do kinh nghiệm thực tế và kiến thức còn hạn hẹp nên chắc chắn bài tiểu luận sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong cô xem xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thành tốt hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

LỜI MỞ ĐẦU

Từ lâu, ngôn ngữ đã xuất hiện cùng con người và gắn liền với cuộc sống của các cộng động loài người trong suốt quá trình phát triển. Ngôn ngữ là “công cụ của tư duy”, là “phương tiện giao tiếp trọng yếu của con người”. Nói rộng hơn, ngôn ngữ là công cụ, là phương tiện liên kết con người trong các hoạt động xã hội, sản xuất, sáng tạo xây dựng cuộc sống ngày một tiến bộ và phát triển. Không nhưng thế, nó còn là linh hồn của một dân tộc, là tinh túy của mỗi một nền văn hóa. Trong đó, từ là đơn vị cơ bản, đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Đây là đặc trưng cơ bản, có tính chất bao trùm, nổi bật nhất của ngôn ngữ. Từ là loại vật liệu đặc biệt, thiếu nó thì ngôn ngữ không thể tồn tại. Nhưng đơn vị dùng làm chất liệu cơ sở để tạo ra câu – đơn vị giao tiếp – không phải chỉ có từ. Ngoài từ ra, còn có một loại đơn vị gọi là cụm từ cố định.

Cụm từ cố định là một kho tàng có giá trị to lớn về ngôn ngữ văn hóa, được sử dụng hằng ngày trong trong cuộc sống của nhân dân cũng như trong các tác phẩm văn chương. Nó giúp cho lời nói, lời văn trở nên hay hơn, diễn tả ý tưởng một cách sâu sắc, tế nhị mà vẫn hàm súc. Việc tìm hiểu cụm từ cố định sẽ giúp cho mỗi người trau dồi vốn ngôn ngữ của mình, qua đó thể hiện tư duy, tri thức không chỉ về ngôn ngữ, mà còn về văn hóa của bản thân khi áp dụng vào cuộc sống. Do đó, em lựa chọn đề tài “Cụm từ cố định” cho bài tiểu luận của mình với mong muốn làm rõ hơn đặc điểm, vai trò của “Cụm từ cố định” đối với sự hình thành và phát triển ngôn ngữ. Từ đó, bài tiểu luận có thể đưa ra cái nhìn tổng quan về “Cụm từ cố định”, đồng thời nắm chắc được nó để có thể vận dụng nó vào thực tế cuộc sống, làm cho khả năng biểu đạt ngôn ngữ của ta trở lên linh hoạt và phong phú hơn.

NỘI DUNG

I. KHÁI NIỆM

1. Cụm từ

Khi các từ được kết hợp với nhau theo những quan hệ khác nhau ta sẽ thu được các đơn vị cú pháp. Đơn vị cú pháp nhỏ nhất là cụm từ. Đó là những tổ hợp gồm hai từ trở lên, trong đó có ít nhất là một thực từ.

VD: Học hành

Lễ hội âm nhạc

学好汉语 说话

Learn English…

2.Cụm từ cố định

  1. Khái niệm

Là đơn vị đo một số từ hợp lại, tồn tại với tư cách một đơn vị có sẵn như từ, có thành tố cấu tạo và ngữ nghĩa cũng ổn định.

  1. Phân biệt cụm từ cố định với từ ghép và cụm từ tự do

Trước hết, nếu so sánh một từ ghép điển hình với một cụm từ cố định điển hình ta thấy chúng đều giống nhau ở chỗ:

    • Cùng có hình thức chặt chẽ, cấu trúc cố định.
    • Cùng có tính thành ngữ.
    • Cùng là những đơn vị làm sẵn trong ngôn ngữ.

Ví dụ: sinh viên, học tập, đỏ rực, ngon lành, hoa hồng,… ăn ốc nói mò, mặt trái xoan, vênh váo như bố vợ phải đấm,...

Ở đây, cần nói thêm về cái gọi là tính thành ngữ. Thực ra, khái niệm này chưa phải là đã tuyệt đối rõ ràng. Nói chung, thường gặp nhất là cách hiểu như nhau: Giả sử có một kết cấu X gồm các yếu tố a, b, c,… hợp thành X = a + b + c +… Nếu ý nghĩa của X mà không thể giải thích được bằng ý nghĩa của từng yếu tố a, b, c,… thì người ta bảo kết cấu X (hoặc tổ hợp X) có tính thành ngữ.

=> Vậy chứng tỏ rằng tính thành ngữ có các mức độ cao, thấp khác nhau trong các tổ hợp, kết cấu khác nhau, bởi vì cách tổ chức nội dung và hình thức của chúng theo những con đường, những phương sách rất khác nhau. Đối chiếu với các ví dụ nêu trên, ta sẽ thấy điều đó.

Từ ghép với cụm từ cố định khác nhau ở chỗ:

  • Về thành tố cấu tạo: Thành tố cấu tạo của từ ghép là hình vị, còn thành tốcấu tạo của cụm từ cố định là từ. So sánh:

news + paper – newspaper ễnh + ương – ễnh ương speak + by + the + book – speak by the book bán + bò + tậu + ễnh + ương – bán bò tậu ễnh ương.

  • Về ý nghĩa: Nghĩa của cụm từ cố định được xây dựng và tổ chức theo lốitổ chức nghĩa của cụm từ, và nói chung là mang tính hình tượng. Chính vì vậy, nếu chỉ căn cứ vào bề mặt, vào nghĩa của từng thành tố cấu tạo thì nói chung là không thể hiểu được đích thực của toàn cụm từ. Ví dụ: anh hùng rơm, đồng không mông quạnh, tiếng bấc tiếng chì,…

Trong khi đó, đối với từ ghép, thì nghĩa định danh (trực tiếp hoặc gián tiếp) theo kiểu tổ chức nghĩa của từ lại là cái cốt lõi và nổi lên hàng đầu.

Ví dụ: mắt cá (chân), đầu ruồi, chân vịt, đen nhánh, xanh lè, tre pheo, thuyền trưởng,…

c. Điểm giống và khác nhau giữa cụm từ tự do, cụm từ cố định

  • Thứ nhất: cả hai đều là cụm từ, được tạo lập bằng sự tổ hợp của các từ.
  • Thứ hai là giống nhau về hình thức ngữ pháp. Điều này dẫn đến hệ quả là quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố cấu tạo cũng giống nhau.

Ví dụ: nhà ngói cây mít; nhà tranh vách đất;… (cụm từ cố định).

cháo gà cháo vịt; phở bò miến lươn;… (cụm từ tự do).

Tuy vậy, quan sát kĩ thì thấy chúng khác nhau ở những mặt quan trọng.

    • Cụm từ cố định hiện diện với tư cách là đơn vị của hệ thống ngôn ngữ, ổnđịnh và tồn tại dưới dạng làm sẵn. Trong khi đó, cụm từ tự do được đặt ra trong lời nói, trong diễn từ (discourse). Nó hợp thành đấy, rồi tan đấy, vì nó không tồn tại dưới dạng một đơn vị làm sẵn. Cụm từ tự do chỉ là một sự lấp đầu từ vào một mô hình ngữ pháp cho trước mà thôi.
    • Vì tồn tại dưới dạng làm sẵn nên thành tố cấu tạo cụm từ cố định có sốlượng ổn định, không thay đổi. Ngược lại, số thành tố cấu tạo cụm từ tự do có thể thay đổi tuỳ ý. Ví dụ: mẹ tròn con vuông, mồm năm miệng mười,… số thành tố cấu tạo luôn luôn ổn định. Thế nhưng, một cụm từ tự do "những người cười" chẳng hạn, có thể thêm bớt các thành tố một cách tuỳ ý để cho ta những cụm từ có kích thước khác nhau: những người này – những người chưa nói đã cười này – những người vừa mới đến mà chưa nói đã cười này,…
    • Về ý nghĩa, cụm từ cố định có ý nghĩa như một chỉnh thể tương ứng vớimột chỉnh thể cấu trúc vật chất của nó. Có nghĩa là nó có tính thành ngữ rất cao, còn cụm từ tự do thì không như vậy. Ví dụ, chỉnh thể ý nghĩa của cụm từ cố định: rán sành ra mỡ, méo miệng đòi ăn xôi vò, say như điếu đổ,… có tính thành ngữ cao đến mức tối đa, còn những cụm từ tự do như rán mỡ, miệng cười, say thuốc lào,… thì không có tính thành ngữ.

II. PHÂN LOẠI

Mặc dù có nhiều điểm giống nhau về nguyên tắc, nhưng cách xây dựng, tạo lập cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau không hoàn toàn như nhau. Vì thế, cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau có thể được phân loại khác nhau.

Trong tiếng Việt, cụm từ cố định có thể tạm thời phân ra:

-Thành ngữ

- Ngữ cố định, trong đó gồm: Quán ngữ và Ngữ cố định định danh

1. Thành ngữ

  1. Định nghĩa:

Là cụm từ cố định , hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa. Nghĩa của chúng có tính hình tượng hoặc gợi cảm.

  1. Phân loại
  • Thành ngữ so sánh

Mô hình tổng quát của thành ngữ so sánh giống như cấu trúc so sánh thông thường khác:

A so sánh B: Ở đây A là vế được so sánh, B là vế đưa ra để so sánh, còn ss là từ so sánh: như, bằng, tựa, hệt,...

Tuy vậy, sự hiện diện của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt khá đa dạng, không phải lúc nào ba thành phần trong cấu trúc cũng đầy đủ. Chúng có thể có các kiểu:

A so sánh B: Đây là dạng đầy đủ của thành ngữ so sánh. Ví dụ: Đắt như tôm tươi, Nhẹ tựa lông hồng, Lạnh như tiền, Dai như đỉa đói, Đủng đỉnh như chĩnh trôi sông, Lừ đừ như ông từ vào đền,...

(A) so sánh B: Ở kiểu này, thành phần A của thành ngữ không nhất thiết phải có mặt. Nó thể xuất hiện hoặc không, nhưng người ta vẫn lĩnh hội ý nghĩa của thành ngữ ở dạng toàn vẹn. Ví dụ: (Rẻ) như bèo, (Chắc) như đinh đóng cột, (Vui) như mở cờ trong bụng, (To) như bồ tuột cạp, (Khinh) như rác, (Khinh) như mẻ, (Chậm) như rùa,...

So sánh B: Trường hợp này, thành phần A không phải của thành ngữ. Khi đi vào hoạt động trong câu nói, thành ngữ kiểu này sẽ được nối thêm với A một cách tuỳ nghi, nhưng nhất thiết phải có. A là của câu nói và nằm ngoài thành ngữ. Ví dụ: Như tằm ăn rỗi, Như vịt nghe sấm, Như con chó ba tiền, Như gà mắc tóc, Như đỉa phải vôi, Như ngậm hột thị,...

Đối với thành ngữ so sánh tiếng Việt, có thể nêu một vài nhận xét về cấu trúc của chúng như sau:

    • Vế A (vế được so sánh) không phải bao giờ cũng buộc phải hiện diện trên cấu trúc hình thức, nhưng nội dung của nó thì vẫn luôn luôn là cái được

"nhận ra". A thường là những từ ngữ biểu thị thuộc tính, đặc trưng hoặc

trạng thái hành động,... nào đó. Rất ít khi chúng ta gặp những khả năng khác.

    • Từ so sánh trong thành ngữ so sánh tiếng Việt phổ biến là từ như; còn những từ so sánh khác, chẳng hạn như: tựa, tựa như, như thể, bằng, tày,... (Gương tày liếp, Tội tày đình, Cưới không bằng lại mặt,...) chỉ xuất hiện hết sức ít ỏi.
    • Vế B (vế để so sánh) luôn luôn hiện diện, một mặt để thuyết minh, làm rõ cho A, mặt khác, nhiều khi nó lại chỉ bộ lộ ý nghĩa của mình trong khi kết hợp với A, thong qua A. Ví dụ: Ý nghĩa "lạnh" của tiền chỉ bộ lộ trong Lạnh như tiền mà thôi. Các thành ngữ Nợ như chúa Chổm, Rách như tổ đỉa, Say như điếu đổ, Say khướt cò bợ,... cũng tương tự như vậy.

Mặt khác, các sự vật, hiện tượng, trạng thái,... được nêu ở Bphản ánh khá rõ nét những dấu ấn về đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc Việt. Đối chiếu với thành ngữ so sánh của các ngôn ngữ khác, ta dễ thấy sắc thái dân tộc của mỗi ngôn ngữ được thể hiện một phần ở đó.

    • Vế B có cấu trúc không thuần nhất:

+ B có thể là một từ. Ví dụ: Lạnh như tiền, Rách như tổ đỉa, Nợ như chúa Chổm, Đắng như bồ hòn, Rẻ như bèo, Khinh như mẻ,...

+ B có thể là một kết cấu chủ-vị (một mệnh đề). Ví dụ: Như đỉa phải vôi, Như chó nhai giẻ rách, Lừ đừ như ông từ vào đền, Như thầy bói xem voi, Như xầm sờ vợ,...

Ngoài những điều nói trên, khi đối chiếu các thành ngữ so sánh với cấu trúc so sánh thông thường của tiếng Việt, ta thấy:

    • Các cấu trúc so sánh thông thường có thể có so sánh bậc ngang hoặc so sánh bậc hơn. Ví dụ: Anh yêu em như yêu đất nước (so sánh bậc ngang), Dung biết mình đẹp hơn Mai (so sánh bậc hơn),...
    • Từ so sánh và các phương tiện so sánh khác (chỗ ngừng, các cặp từ phiếm định hô ứng,...) được sử dụng trong các cấu trúc so sánh thông thường, rất đa dạng: như, bằng, tựa, hệt, giống, chẳng khác gì, y như là, hơn, hơn là,...
    • Một vế A trong cấu trúc so sánh thông thường có thể kết hợp với một hoặc hai, thậm chí một chuỗi nhiều hơn các vế B qua sự nối kết với từ so sánh. Ví dụ:

+Kết hợp với một B: Cổ tay em trắng như ngà /Đôi mắt em liếc như là dao cau.

+ Kết hợp với một chuỗi B: Những chị cào cào (...) khuôn mặt trái xoan như e thẹn, như làm dáng, như ngượng ngùng.

    • Cấu trúc so sánh thông thường rất đa dạng, trong khi đó thành ngữ so sánh ít biến dạng hơn và nếu có thì cũng biến dạng một cách giản dị như đã nêu trên. Lí do chính là ở chỗ thành ngữ so sánh là cụm từ cố định, chúng phải chặt chẽ và bền vững về mặt cấu trúc và ý nghĩa.
  • Thành ngữ miêu tả ẩn dụ

Thành ngữ miêu tả ẩn dụ là thành ngữ được xây dựng trên cơ sở miêu tả một sự kiện, một hiện tượng bằng cụm từ, nhưng biểu hiện ý nghĩa một cách ẩn dụ.

Căn cứ vào nội dung của thành ngữ miêu tả ẩn dụ kết hợp cùng với cấu trúc của chúng, có thể phân loại nhỏ hơn như sau:

    • Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu một sự kiện. Trong các thành ngữ này, chỉ có một sự kiện, một hiện tượng nào đó được nêu. Chính vì vậy, cũng chỉ một hình ảnh được xây dựng và phản ánh. Ví dụ: Ngã vào võng đào, Nuôi ong tay áo, Nước đổ đầu vịt, Chó có váy lĩnh, Hàng thịt nguýt hàng cá, Vải thưa che mắt thánh, Múa rìu qua mắt thợ,...
    • Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện tương đồng. Ở đây, trong mỗi thành ngữ sẽ có hai sự kiện, hai hiện tượng được nêu, được phản ánh. Chúng tương đồng hoặc tương hợp với nhau (hiểu một cách tương đối). Ví dụ: Ba đầu sáu tay, Nói có sách mách có chứng, Ăn trên ngồi trốc, Mẹ tròn con vuông, Hòn đất ném đi hòn chì ném lại,...

Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện tương phản. Ngược lại với loại trên, mỗi thành ngữ loại này cũng nêu ra hai sự kiện, hai hiện tượng tương phản nhau hoặc chí ít cũng không tương hợp nhau. Ví dụ: Các thành ngữ Một vốn bốn lời, Méo miệng đòi ăn xôi vò, Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm, Bán bò tậu ễnh ương, Xấu máu đòi ăn của độc,...

2. Quán ngữ

  1. Định nghĩa

Là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ thuộc phong cách khác nhau. Chức năng của chúng là để đưa đầy, tạo đầu, để nhấn mạnh hoặc liên kết trong diễn từ.

  1. Phân loại

Có thể phân loại các quán ngữ của tiếng Việt dựa vào phạm vi và tính chất phong cách của chúng, như sau:

* Những quán ngữ hay dùng trong phong cách hội thoại, khẩu ngữ

Ví dụ: Của đáng tội, Khí vô phép, Khổ một nỗi là, (Nói) bỏ ngoài tai, Nói dại đổ đi, Còn mồ ma, Nó chết (một) cái là, Nói (...) bỏ quá cho, Cắn rơm cắn cỏ, Chẳng nước non gì, Đùng một cái, Chẳng ra chó gì, Nói trộm bóng vía,...

* Những quán ngữ hay dùng trong phong cách viết (khoa học, chính luận,...) hoặc diễn giảng

Ví dụ: Nói tóm lại, Có thể nghĩ rằng, Ngược lại, Một mặt thì, Mặt khác thì, Có nghĩa là, Như trên đã nói, Có thể cho rằng, Như sau, Như dưới đây, Như đã nêu trên, Sự thực là, Vấn đề là ở chỗ,...

3. Ngữ cố định định danh

  1. Định nghĩa

Là các cụm từ cố định , nhưng được tạo dựng theo cách gần giống cách tạo những từ ghép mà người ta văn hay gọi là từ ghép chính phụ.

  1. Một số đặc điểm
    • Thực chất đó là những cụm từ cố định, định danh, gọi tên sự vật. Trong mỗicụm từ như vậy thường có một thành tố chính và một vài thành tố phụ miêu tả sự vật được nêu ở thành tố chính. Nó miêu tả chủ yếu bằng con đường so sánh nhưng không hề có từ so sánh. Thành tố chính thường bao giờ cũng là thành tố gọi tên.

Con đường tạo dựng những cụm từ như: Lông mày lá liễu, Lông mày sâu róm, Mắt lá răm, Mắt ốc nhồi, Mắt lợn luộc, Mắt bồ câu, Mắt lươn,... gần như đồng hình với con đường tạo dựng các từ ghép: đen xì, đen sẫm, đen trũi, đen láy, đen nhánh, đen xỉn,...

Chính bởi vậy, ở đây có hai xu hướng chuyển di ngược chiều nhau và thâm nhập vào nhau. Một số thành ngữ so sánh bị khử từ so sánh dễ được nhập vào số những cụm từ kiểu này: Ngang cành bứa, Cay xé, Dẻo kẹo, Đen thui, Trẻ măng,... Ngược lại, một số cụm từ vốn được tạo ra theo kiểu này, nhưng vì tính thành ngữ, tính hình tượng đạt tới mức độ gần tương đương với các thành ngữ thực sự, lai rất có thể dễ được nhận vào hàng ngũ của các thành ngữ: Ví dụ: Tuần trăng mật, Kỉ luật sắt, Con gái rượu, Sách gối đầu giường, Hòn đá thử vàng, Bạn nối khố, Thẳng ruột ngựa, Toạc móng héo,...

    • Các ngữ cố định định danh thường tập trung với mật độ khá đậm ở khu vựctên gọi các bộ phận cơ thể con người như: Tóc rễ tre, Lông mày lá liễu, Lông mày sâu róm, Mắt lá răm, Mắt bồ câu, Mắt ốc nhồi, Râu ngạnh trê, Má bánh đúc, Mặt trái xoan, Mũi dọc dừa, Mồm cá ngão, Răng cải mả, Chân vòng kiềng, Chân chữ bát, Mặt lưỡi cày, Bụng cóc, Mình trắm,...

Một số ít hơn là tên gọi của các sự vật khác hoặc tên gọi của một trạng thái, thuộc tính. Chẳng hạn: Giọng ông kễnh, Đá tai mèo, Kỉ luật sắt, Gót sắt, Con gái rượu, Bạn áo ngắn, Sách gối đầu giường, Hòn đá thử vàng, Bạn nối khố, Cười cầu tài, Tấm lòng vàng, Bạn vàng, Toạc móng heo, Thẳng ruột ngựa,...

Rõ ràng là cơ chế cấu tạo những cụm từ trên đây không khác những cụm từ làm tên gọi cho một số sự vật, hiện tượng như: Than quả bàng, Bánh ca vát, Máy bay chuồn chuồn, Chuối tay bụt,... Chỉ có điều, tính thành ngữ của những cụm từ như thế thấp đến tận cùng mà thôi.

    • Cũng như tình trạng của quán ngữ, các cụm từ là ngữ cố định định danhcó những biểu hiện không đồng đều nhau ở điểm này hoặc điểm khác. Rõ ràng là, nhìn chung, chúng ổn định cả cấu trúc lẫn ngữ nghĩa. Nhưng tính thành ngữ thì lại kém, thậm chí kém xa hoặc rất xa so với những thành ngữ chân chính. Tuy nhiên, chúng cũng không phải là từ ghép, nếu xét về bậc được cấu tạo. Chỉ có điều, việc cơ chế cấu tạo của chúng có phần giống với các từ ghép chính phục thì chúng ta phải thừa nhận.

Ở những mức độ khác nhau, chúng hiện diện như là đơn vị đứng giữa cụm từ cố định-thành ngữ với từ ghép.

III. ĐẶC ĐIỂM

1. Đặc điểm tương đương với từ: có tư cách của những đơn vị được làm sẵn trong ngôn ngữ; tương đương về chức năng định danh, và chức năng tham gia tạo câu.

2. Cách xây dựng, tạo lập cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau không hoàn toàn như nhau.

* Ví dụ

  • Thành ngữ so sánh : “ Rách như tổ đỉa”. Trong lời ăn tiếng nói của dân gian ta, thành ngữ rách như tổ đỉa được dung để chỉ sự rách nát, nham nhở của các thứ đồ dung bằng vải, lá,nhất là quần áo.
  • Quán ngữ: “Nói trộm bóng vía” được sử dụng để khen những đứa trẻ với hàm ý muốn nói những đứa trẻ đẹp đẽ, bụ bẫm đáng yêu là do các thần linh, tổ tiên phù hộ, đây là lối nói tâm linh.
  • Ngữ cố định định danh : “Anh hùng rơm”. Chỉ những người luôn cho mình là tài giỏi nhưng thực chất là kẻ hèn nhát, mềm yếu và vô dụng, vô tri vô giác như ngững con bù nhìn ngoài đồng.

IV. CHỨC NĂNG

1. Cụm từ cố định có chức năng định danh, chức năng tham gia tạo câu. 2. So sánh với cụm từ tự do: đơn vị của hệ thống ngôn ngữ ổn định và tồn tại

dưới dạng làm sẵn.

* Ví dụ

  • Về Tiếng Việt

+ Ao sâu cá cả: là ở ao sâu biển rộng mới có cá lớn. Phải mạo hiểm ra ngoài xã hội mới mong học được cái hay, gặt hái được thành công.

+ Mắt ốc nhồi: là thể hiện độ nông sâu của mắt - Về ngoại ngữ

  • 走马观花 /zoumaguanhua/ cưỡi ngựa xem hoa: là nói đến tác phong làm việc của 1 cá nhân hoặc tập thể chỉ lướt qua không tìm hiểu về chiều sâu khi việc đó cần xem xét kĩ lưỡng.
  • 三顾茅庐 /sangumaolu/ ba lần đến thăm lều tranh: là mời với tấm lòng chân thành (Lưu Bị đích thân ba lần đến lều cỏ của Gia Cát Lượng để mời bằng được Gia Cát Lượng ra giúp, lần thứ ba mới gặp.

Ý nói chân thành, khẩn khoản, năm lần bảy lượt mời cho được).

V. Ý NGHĨA

Về ý nghĩa, cụm từ cố định có ý nghĩa như một chỉnh thể tương ứng với một chỉnh thể cấu trúc vật chất của nó. Có nghĩa là nó có tính thành ngữ rất cao, còn cụm từ tự do thì không như vậy.

Ví dụ, chỉnh thể ý nghĩa của cụm từ cố định: rán sành ra mỡ, méo miệng đòi ăn xôi vò, say như điếu đổ,… có tính thành ngữ cao đến mức tối đa, còn những cụm từ tự do như rán mỡ, miệng cười, say thuốc lào,… thì chỉ biểu thị nghĩa đơn thuần của từ.

KẾT LUẬN

Có thể nói, cụm từ cố định là đơn vị tương đương với từ. Chúng tương đương với nhau về tư cách của những đơn vị được làm sẵn trong ngôn ngữ, và tương đương với nhau về chức năng định danh, chức năng tham gia tạo câu. Cụm từ cố định cũng đã góp một phần không nhỏ trong làm nên sự phong phú và vẻ đẹp của ngôn ngữ. Chúng ta có thể thấy có rất nhiều thứ tiếng trên thế giới như tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nga,...đều không thể thiếu cụm từ cố định. Còn trong tiếng Việt, thông qua những cụm từ cố định mà cụ thể là thành ngữ, ông cha ta đã có thể đúc kết và răn dạy chúng ta những bài học, kinh nghiệm quý báu cho đến tận ngày nay. Không những thế, cụm từ cố định cũng là một công cụ khiến cho lời ăn tiếng nói trong đời sống hàng ngày của chúng trở lên khéo léo, uyển chuyển hơn. Nếu nói từ là một phần không thể thiếu tạo nên ngôn ngữ thì cụm từ cố định cũng là một phần quan trọng không kém để vẽ lên bức tranh ngôn ngữ càng thêm say đắm lòng người.

Do đó, chúng ta cũng cần phải nắm chắc những đặc điểm của cụm từ cố định để có thể vận dụng linh hoạt vào trong thực tế. Bởi vì cụm từ cố định không chỉ dừng lại ở việc tạo nên ngôn ngữ mà còn thể hiện sự đặc sắc của ngôn ngữ, là tài sản quý giá đúc kết được qua bao đời ông cha ta. Vì vậy, vận dụng và phát triển cụm từ cố định cũng là một cách góp phần vào việc giữ gìn, cũng như phát huy sự giàu đẹp của tiếng Việt.

TÀI LIÊU THAM KHẢO

  • Giáo trình Dẫn luận Ngôn ngữ học
  • Viện ngôn ngữ học.vn