Tiểu luận môn thị trường lao động - Quản trị nhân lực | Trường đại học Lao động - Xã hội
Tiểu luận môn thị trường lao động - Quản trị nhân lực | Trường đại học Lao động - Xã hội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Quản trị nhân lực (QTNL101)
Trường: Đại học Lao động - Xã hội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
BOÄ LAO ÑOÄNG THÖÔNG BINH & XAÕ HOÄI
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC LAO ÑOÄNG - XAÕ HOÄI ( CƠ SỞ II)
KHOA QUAÛN LÍ LAO ĐỘNG ---- --- TIỂU LUẬN MÔN
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẦU LAO ĐỘNG
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY GVBM
: NGUYỄN NGỌC TUẤN NHÓM SINH VIÊN : LỚP : NIÊN KHÓA :
TPHCM, Tháng 06 năm 2010 SVTH: 1
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới ngày càng phát triển tăng tiến về mọi mặt. Gồm sự tăng trưởng
kinh tế và cùng với nó là sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất
lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế
thế giới đều vận động theo chiều hướng toàn cầu hóa và hội nhập. Hội nhập
kinh tế trên quy mô khu vực và toàn cầu là xu thế tất yếu của kinh tế mỗi nước.
Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật tất yếu này. Cùng với quy luật phát
triển của thế giới Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã
đánh dấu bước đầu phát triển kinh tế nước ta trong thời hội nhập. Đây là một
cơ hội lớn và cũng là thách thức lớn đối với nước ta hiện nay. Một trong những
cơ hội lớn đó là giúp tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, nâng cao chất lượng cuộc
sống, việc làm cho người lao động và người lao động có điều kiện làm việc ở
những lĩnh vực mới, các khu vực mới, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài; khu vực dịch vụ; khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ… Vì các khu vực
này có xu hướng ngày càng gia tăng về nhu cầu sử dụng lao động, cả về số
lượng lẫn chất lượng, có tác động trực tiếp đến vấn đề đào tạo và tuyển dụng
lao động. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng sẽ quyết liệt hơn và việc sử dụng lao
động đang đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế đặt ra,
là yêu cầu phải nâng cao chất lượng nguồn lao động để đáp ứng nhu cầu của
các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Cùng với tình hình đó, thành phố Hồ Chí Minh – một trong những trung
tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam cũng chịu tác động
không nhỏ. Thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh hiện nay phát triển
theo các qui luật mới của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, hội nhập khu
vực và quốc tế với tư cách một hệ thống động và mở: cung và cầu lao động
biến động rất cao, số lao động không ổn định việc làm, mất việc làm, tái bố trí
lại việc làm hàng năm cũng rất lớn.
Như vậy, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay đối với thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng và đất nước ta nói chung là phải phân tích tận dụng cơ hội để
phát triển thị trường lao động và nghiên cứu, đề ra những giải pháp để vượt
qua những khó khăn, thách thức trong vấn đề thị trường lao động, tiến tới cân bằng cung cầu lao động.
Từ đó, tạo điều kiện cho chúng ta phát về mọi mặt, đặc biệt là giúp chúng
ta phát triển đạt đến một nền kinh tế hiện đại làm cho đại bộ phận cuộc sống
của người dân trong xã hội trở nên tươi đẹp hơn vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bài tiểu luận này nhóm chúng em
đã tham khảo nhiều nguồn tài liệu về vấn đề cung cầu lao động và được sự
giúp đỡ tận tình từ thầy Nguyễn Ngọc Tuấn trường ĐH Lao Động Xã Hội (cơ SVTH: 2
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
sở II). Vì vậy, trước khi vào nội dung bài viết em xin gửi lời cảm ơn tới thầy đã
tạo điều kiện giúp chúng em hoàn thành đề tài này. Nhóm thực hiện. SVTH: 3
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN PHẦN: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết sự phát triển về kinh tế và sự ổn định về chính trị -
xã hội không chỉ là cơ sở mà còn là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của một
đất nước. Nó là nền tảng vững chắc của một đất nước phát triển. Vì thế phát
triển về kinh tế - xã hội có nội dung và ý nghĩa khá toàn diện, là mục tiêu và
ước vọng của các dân tộc trên thế gới nói chung và của dân tộc ta nói riêng.
Phát triển kinh tế - xã hội bao hàm trong nó mối quan hệ biện chứng giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế - xã hội là điều kiện
tuyên quyết và cơ bản để nâng cao đời sống nhân dân và đảm bảo công bằng
xã hội thông qua việc ổn định việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao
động. Nó không chỉ là mục tiêu phấn đấu của nhân loại mà còn là động lực của
sự phát triển đất nước. Vì vậy, toàn Đảng toàn dân ta phải tích cực và chủ động
thống nhất đưa ra các biện pháp có tích chất quyết định đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước một cách toàn diện và bền vững lâu dài. Nhằm
đưa đất nước ta phát triển một cách vượt bậc trên mọi phương diện: kinh tế -
văn hóa – xã hội – ngoại giao… Nhưng trước hết, chúng ta cần phải xác định
được những cơ hội và thách thức hiện tại mà nước ta đang có và phải đối mặt
vượt qua. Việc gia nhập vào tồ chức thương mại thế giới đã đem lại nhiều cơ
hội: tăng cơ hội việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, xuất hiện
thêm nhiều ngành nghề mới ở những khu vực – lĩnh vực mới, các khu công
nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) được mọc lên... thì kèm theo đó cũng có
không ít những khó khăn, thử thách được đặt ra cho chung ta như:
Sản phẩm sản xuất ra với chất lượng vẫn còn thấp nên gặp nhiều
khó khăn trong việc tiêu thụ, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu ra nước
ngoài hoặc nếu có xuất khẩu được thì cũng với giá rẻ hơn những sản phẩm
cùng loại của các quốc gia khác. Đó là do trình độ tay nghề và kỹ năng làm
việc của công nhân nước ta còn thấp.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân còn thấp gây khó
khăn trong việc áp dụng những công nghệ mới, khoa học – kỹ thuật hiện đại vào quy trình sản xuất.
Việc đầu tư cho công nghệ mới, máy móc, thiết bị và dây chuyền
sản xuất tiên tiến, hiện đại vẫn còn rất hạn chế vì các doanh nghiệp ít kinh phí.
Cơ chế pháp lý và hệ thống hành chính, Luật Pháp Việt Nam vẫn
còn nhiều bất cập gây khó khăn trong việc thu hút và tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Sự di chuyển lao động giữa các vùng miền và ra nước ngoài
thông qua hoạt động xuất khẩu lao đông gây khó khăn trong việc quản lý và điều tiết lao động.
Chính vì nước ta đang trong thời kỳ hội nhập, cộng với tiến trình phát
triển tất yếu của đất nước, đang tiến lên công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước một cách toàn diện và phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành một SVTH: 4
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Điều này sẽ kích sự di chuyển lao động
giữa các vùng miền, địa phương, các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp thậm
chí là giữa các khu vực. Đó chính là một trong những lý do gây ra việc cung –
cầu lao động giữa những vùng miền, khu vực mất cân bằng. Đây là một vấn đề
nóng bỏng và thực sự cần thiết phải có những giải pháp hiệu quả và thiết thực
để giải quyết. Và thực trạng ấy cũng chính là thực trạng mà thành phố Hồ Chi
Minh hiện đang mắc phải. Do đó, việc nắm vững và điều tiết thị trường cung –
cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới một cách hiệu quả
là hết sức khó khăn. Vì vậy, cần thiết phải có sự phối hợp hoạt động và giải
quyết của những cơ quan, đơn vị chuyên trách và những bộ phận có liên quan.
Tuy nhiên, việc phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp khắc phục tình
trạng này ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua dường như chưa đủ
mạnh, chưa hiệu quả và chưa thiết thực với thực tế. Đây chính là lý do mà
nhóm chúng em quyết định chọn đề tài sau đây để phân tích và đưa ra giải
pháp chiến lược cho vấn đề cung cầu lao động thành phố Hồ Chí Minh:
“Phân tích cung cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay thì vấn đề cung cầu lao động
đang là một vấn đề bức xúc cấp thiết cần phải có những biện pháp giải quyết
một cách triệt để. Ở đây, bên cạnh việc tìm lời giải đáp những vướng mắc của
nhóm về thực trạng cung - cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Chúng em cũng đề ra một số yêu cầu và mục đích khi nghiên cứu đề tài. Nhằm
nhận diện và phân tích những cơ hội cũng thách thức về vấn đề nhân lực và
nguồn lao động tại thành phố trong những năm tiếp theo. Từ đó có thể hiểu và
nắm được quy luật cung - cầu lao động và những cơ hội thách thức về vấn đề
lao động tại thành phố, biết được sự tham gia và hoạt động của các đơn vị liên
quan góp phần vào việc giải quyết vấn đề nóng bỏng này tại thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay. Mặt khác, cũng giúp chúng em trang bị được thêm những kiến
thức cần thiết cho ngành nghề quản trị nhân lực của chúng em trong tương lai.
Ngoài ra, chúng em mong muốn rằng cuốn tiểu luận này sẽ có thể là nguồn tài
liệu có ích giúp cho các nhà nghiên cứu thị trường, các nhà hoạch định chiến
lược có thể đưa ra các biện pháp giải quyết hiệu quả để giải quyết triệt để vấn
đề cung – cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tình hình cung cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh
+ Các doanh nghiệp sản xuất cũng như các KCX, KCN đang hoạt động
trên đại bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
+ Các cơ sở, trung tâm việc làm - dạy nghề và công ty tư vấn trong khu vực thành phố.
- Phạm vi nghiên cứu: toàn địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2010. 4. Số liệu SVTH: 5
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN Số liê v
u từ sở Lao Động Thương Binh- Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh
Giáo trình thị trường lao đô v
ng, giáo trình quản trị nhân lực, giáo trình quản trị doanh nghiê v
p, giáo trình thị trường lao động.
Báo thanh niên, tạp chí Tuổi trẻ… Các trang Web như: http://nhantainhanluc.com
http://www.ubvk.hochiminhcity.gov.vn http://vieclamthainguyen.vn http://www.giaoduc.edu.vn http://vietbao.vn/Viec-lam
http://hieuhoc.com.; thành phố hồ chí minh; sở công nghiê v p thành phố Hồ Chí Minh; doanh nhân; hô v i chợ viê v c làm; chính phủ; v.v…
5. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào giáo trình đã tìm hiểu; Căn cứ vào viê v c tìm kiếm và thu thâ v
p thông tin từ các website, báo chí
Dựa vào sự hỗ trợ của các chuyên gia, các đơn vị cơ quan trong xã hô v i Được thực hiê v
n dựa trên cơ sở sử dụng phương pháp thu thâ v p số liê v u,
thống kê, tổng hợp và phân tích số liê v u và đưa ra nhâ v n định. 6. Kết cấu
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SVTH: 6
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN PHẦN: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN I. Một số khái niệm
1. Thị trường lao động
Trong hệ thống các thị trường (thị trường hàng hóa, thị trường lao động,
thị trường vốn, thị trường đất đai…) thì thị trường lao động là thị trường quan
trọng bậc nhất. Bởi vì, lao động là nhu cầu của con người. Lao động là nguồn
gốc tạo ra phần lớn của cải vật chất trong xã hội. Lao động là nhân tố quyết
định sự hoạt động và phát triển của tất cả các loại thị trường.
Theo Adam Smith “ Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi hàng
hóa sức lao động ( hoặc dịch vụ lao động ) giữa một bên sử dụng lao động và
một bên là người lao động ”.
Theo tiến sỹ Leo Maglen “ Thị trường lao động là một hệ thống trao đổi
giữa những người có việc làm hoặc người đang tìm việc làm (cung lao động)
với những người đang sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động để sử
dụng ( cầu lao động )”
Theo tổ chức lao động quốc tế ( ILO ) “ Thị trường lao động là thị trường
trong đó các dịch vụ lao động được mua bán thông qua một quá trình thỏa
thuận để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền cộng”
Từ đó có thể nêu lên một định nghĩa khái quát về thị trường lao động như
sau: “ Thị trường lao động là nơi ngưới có nhu cầu tìm việc làm và người có
nhu cầu sử dụng lao động trao đổi với nhau, mua bán dịch vụ lao động thông
qua các hình thức giá cả ( tiền công, tiền lương ) và các điều kiện thỏa thuận
khác ( thời gian làm việc, điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội…) trên cơ sở
một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng, hoặc thông qua các
dạng hợp đồng hay thỏa thuận khác.
Như vậy mặc dù có những cách diễn đạt khác nhau, nhưng các định nghĩa
nêu trên đều thống nhất với nhau nhũng nội dung cơ bản về thị trường lao động
là thị trường mà trong đó:
- Có người cần bán sức lao động, cung cấp dịch vụ lao động (người lao động).
- Có người cần mua sức lao động ( người sử dụng lao động)
- Có các quan hệ cung cầu lao động, giá cả sức lao động
(tiền công, tiền lương), các quan hệ thỏa thuận khác (thời gian làm việc, điều
kiện lao động, môi trường lao động, bảo hiểm xã hội…) ( giáo trình thị trường lao động, 2008, tr 11- 14) 2. Cung lao động
Cung lao động là số lượng lao động đang tham gia và sẵn sàng tham gia
vào thị trường lao động ở những thời điểm nhất định (thời điểm xem xét). SVTH: 7
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Cung lao động phụ thuộc vào tốc độ tăng nguồn lao động, sự biến động về cầu
lao động, trình độ đào tạo hướng nghiệp – dạy nghề và tiền lương
(tiền công) trên thị trường lao động. (giáo trình thị trường lao động, 2008, tr 53)
Có thể hiểu rõ hơn cung về lao động là tổng nguồn sức lao động do người
lao động tự nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội. Tức là
tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động, có năng lực lao động và cả số nhân
lực không nằm trong độ tuổi lao động, nhưng đã chính thức tham gia vào quá
trình tái sản xuất xã hội. Xét về mặt số lượng, khi nói đến cung trên thị trường
lao động, người ta thường phân biệt rõ thành hai phạm trù: cung thực tế và
cung tiềm năng. Cung tiềm năng về lao động bao gồm những người đủ 15 tuổi
trở lên đang làm việc, những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ
hoặc không có nhu cầu làm việc. Cung thực tế về lao động bao gồm tất cả
những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp, hoặc thiếu việc làm.
Bên cạnh đó, cung về lao động còn được xem xét từ giác độ chất lượng
lao động, tức là các phẩm chất cá nhân của người lao động. Trong đó, trình độ
học vấn, trình độ đào tạo, các kỹ năng chuyên môn, kỷ luật lao động…là
những yếu tố chính, quyết định chất lượng của loại hàng hóa đặc biệt này.
Từ đó có thể thấy rằng các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến cung lao động
là: quy mô và tốc độ tăng dân số; quy định pháp lý về độ tuổi lao động; tỷ
trọng cư dân trong độ tuổi lao động và tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động;
tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động vào thị trường lao động; tình trạng tự
nhiên của người lao động; các phẩm chất cá nhân về học vấn, trình độ tay
nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động, và một số các chỉ số khác. 3. Cầu lao động
Cầu về lao động là số lượng lao động được thuê mướn trên thị trường lao
động. Hay nói cách khác, cầu lao động là toàn bộ cầu về sức lao động của một
nền kinh tế (hoặc của một ngành, địa phương, doanh nghiệp…) ở một thời kỳ
nhất đinh, bao gồm cả mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu và thường được xác
định thông qua chỉ tiêu việc làm. (giáo trình thị trường lao động, 2008, tr 76)
Nhu cầu về cầu lao động thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên
thị trường lao động. Xét từ giác độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao
động không biến đổi, cầu về lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ
sản xuất. Nếu quy mô sản xuất không đổi, cầu về lao động tỷ lệ nghịch với
năng xuất lao động. Còn xét từ giác độ chất lượng, việc nâng cao năng suất lao
động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri thức…của doanh nghiệp càng ngày càng
đòi hỏi nâng cao cầu về chất lượng lao động. Trong đó, các chỉ số quan trọng
nhất thể hiện chất lượng lao động là: trình độ tinh thông nghề nghiệp, mức độ
phù hợp của nghề nghiệp được đào tạo với công việc được giao, kỷ luật lao động… SVTH: 8
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Theo báo cáo của Bộ Lao đông Thương Binh Xã Hội, ở Việt Nam, hiện
việc tính cầu tiềm năng về lao động, tức là việc tính toán nhu cầu về lao động
cho tổng số chỗ làm việc có thể có được, sau khi đã tính đến các yếu tố có khả
năng tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ,
và cả những điều kiện khác như chính trị xã hội…chưa được thực hiện.
Các chỉ số quan trọng để tính thực tế cầu về lao động, tức là nhu cầu thực
tế về lao động cần sử dụng tại một thời điểm nhất định, thể hiện qua số lượng
chỗ làm việc mới, chỗ làm việc bỏ trống, hầu như chưa được thu thập, hoặc có
nhưng không đầy đủ, không hệ thống. Như vậy cầu thực tế về lao động ở nước
ta cho đến nay mới chỉ được xem xét giới hạn trong tổng số chỗ làm việc mới
được tạo ra hàng năm. Theo số liệu thống kê của Bộ LĐ-TB-XH, số lượng chỗ
làm việc mới có xu hướng gia tăng trong suốt thời kỳ từ năm 1991 đến năm
2000. Nếu trong giai đoạn 1991-1995, số chỗ làm việc tăng thêm bình quân
hàng năm khoảng 863 ngàn chỗ thì đến giai đoạn 1996-2000, bình quân mỗi
năm đã có khoảng 1,2 triệu chỗ làm việc mới được tạo ra. So với số lượng
người bước vào độ tuổi lao động tăng lên hàng năm (trên 1,1 triệu người), thì
số chỗ làm mới cho những người này. Tuy nhiên, trên thực tế, do những méo
mó của thị trường lao động này, những người mới tham gia vào lược lượng lao
động lại là nhóm người bị thất nghiệp hoặc thiếu việc làm nhiều nhất.
4. Quan hệ cung cầu lao động
Việc nghiên cứu thị trường lao động bắt đầu và kêt thúc bằng sự phân tích
cung cầu lao động và mối quan hệ giữa chúng. Những kết quả của hoạt động
thị trường lao động liên quan chặt chẽ đến điều kiện lao động (suất lương, tổng
mức lương, điều kiện làm việc) và mức độ làm việc. Bất cứ kết quả hoạt động
nào của thị trường lao động cũng là kết quả hoạt động, tương tác của hai lực
lượng cung và cầu lao động. (giáo trình thị trường lao động, 2008, tr 141)
Cung cầu lao động có quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau để tồn
tại. Sự tác động lẫn nhau của hai chủ thề này quyết định tính cạnh tranh của thị
trường: khi bên cung sức lao động lớn hơn nhu cầu về loại hàng hoa này, thì
bên mua ở vào địa vị có lợi hơn trên thị trường lao động (thị trường của bên
mua). Ngược lại, nếu cầu về sức lao động trên thị trường lớn hơn cung thì
người bán sẽ có lợi hơn, có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn công việc, giá cả sức
lao động vì thế có thể được nâng cao (thị trường của bên bán). Bên cạnh đó,
cũng như bất kỳ mọi dạng thị trường khác, thị trường lao động còn chịu tác
động của nhiều yếu tố khác, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới động thái phát
triển của thị trường này.
II. Các vấn đề mang tính lý luận liên quan đến cung và cầu lao động 1. Kinh tế - xã hội
Gia nhập WTO, Việt Nam đã và đang có những điều kiện thuận lợi chuẩn
bị cho hội nhập kinh tế quốc tế. Riêng trong lĩnh vực lao động, lực lượng lao
động Việt Nam có nhiều ưu thế: lực lượng lao động dồi dào, trẻ, có trình độ
văn hoá khá, đặc biệt khả năng tiếp thu của lao động Việt Nam được các nước
trên thế giới đánh giá là nhanh nhạy. Đặc biệt giá nhân công của Việt Nam lại SVTH: 9
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
rẻ, đây cũng là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Thị trường lao động Việt
Nam và các hoạt động dịch vụ liên quan đã có hơn 10 mười năm phát triển và
đang từng bước hoàn thiện. Hệ thống pháp luật lao động Việt Nam được xây
dựng về cơ bản là tương đối đầy đủ và phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị
trường, đảm bảo được cơ bản các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Các chính sách
về an sinh xã hội đã được Việt Nam chú tâm phát triển trong những năm gần
đây. Với những điều kiện hiện có như vậy, khi Việt Nam gia nhập WTO có
nhiều thuận lợi. Đầu tư nước ngoài tăng, tạo thêm nhiều việc làm mới cùng với
nó là hiện tượng dịch chuyển lao động khiến cơ cấu lao động trở nên năng
động hơn. Có thể khẳng định chắc chắn rằng Việt Nam gia nhập WTO sẽ mang
lại nhiều cơ hội về việc làm và thu nhập cho người lao động. Người lao động
cũng có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận trực tiếp với nền sản xuất hiện đại, nâng
cao trình độ, kỹ năng, tác phong lao động, kinh nghiệm quản lý. Bên cạnh đó,
hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO cũng mang lại cho Việt Nam những
thách thức về lao động, việc làm. Gia nhập WTO, nguy cơ đầu tiên mà người
lao động Việt Nam phải đối đầu là sẽ có nhiều người mất việc làm. Đó có thể
là những lao động giản đơn, trình độ thấp hoặc lao động trong các doanh
nghiệp sắp xếp lại tổ chức, thu hẹp sản xuất hoặc do cải cách về công nghệ
hoặc do bị phá sản, giải thể do không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài…
2. Pháp luật Nhà nước
Trong gần một thập kỷ qua, những chủ trương, đường lối chỉ đạo của
Đảng đã lần lượt được thể chế hóa và đưa vào thực hiện. Trong số các văn bản
pháp lý quan trọng điều chỉnh việc hình thành và vận hành của thị trường lao
động ở nước ta, quan trọng nhất phải kể đến là Bộ Luật Lao động ( năm 1994),
các Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông Tư liên bộ liên quan đến lao động, việc
làm. Chỉ tính riêng từ ngày 1/1/1995 đến nay, cùng với sự ra đời của Bộ Luật
Lao động, đã có hàng trăm văn bản pháp quy liên quan đến thị trường lao động
được ban hành, về căn bản đã tạo ra khung khổ pháp lý cho thị trường lao động ở Việt Nam.
Bộ luật Lao động của nước CHXHCN Việt Nam, được ban hành năm
1994 và bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/1995 với 198 Điều đã tạo thành nền tảng
cho khung khổ pháp lý của thị trường lao động ở nước ta bằng việc công nhận
quyền tự do mua, bán sức lao động trên thị trường. Điều 16 Bộ luật Lao động
đã ghi rõ: Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao
động nào và ở bất kỳ chỗ nào mà pháp luật không cấm; và người sử dụng lao
động có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển
chọn lao động, có quyền tăng giảm lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh
doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy quyền tự do tìm việc làm và
quyền lựa chọn người làm việc cho mình – hai yếu tố cơ bản tạo ra quan hệ
cung cầu cho thị trường lao động đã được Bộ luật này xác nhận.
Một điểm quan trọng nữa là Bộ luật Lao động còn khẳng định khái niệm
mới về việc làm. Nếu như trước đây, chỉ có làm việc trong khu vực quốc doanh
và tập thể mới đựoc coi là việc làm, thì ngày nay Điều 13 của Bộ luật lao động SVTH: 10
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
đã chỉ rõ mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập và không bị pháp luật cấm, đều
được thừa nhận là việc làm. Quy định này của Bộ lao động đã giúp cởi bỏ
những quan niệm cũa về việc làm, thúc đẩy tinh thần tích cực, chủ động của
người lao động trong việc tìm kiếm việc làm, khuyến khích các chủ sử dụng
lao động tạo công ăn việc làm mới, góp phần nâng cao tỷ lệ lao động tham gia
vào thị trường lao động.
Ngoài ra, Bộ luật Lao động còn điều chỉnh nhiều mối quan hệ quan trọng
của thị trường lao động và quan hệ xã hội khác có liên quan như; các quy định
về học nghề; về hợp đồng lao động; về tiền lương- tiền công; về kỷ luật lao
động; về an toàn vệ sinh lao động; về bảo hiểm xã hội; về quan hệ với công
đoàn; về quản lý nhà nước đối với lao động,… Những quy định này có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền có cơ hội bình đẳng về việc làm, và
được trả công bình đẳng của các nhóm dân cư khác nhau, bảo vệ quyền làm
việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động, quyền và các lợi ích hợp
pháp của người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động
được hài hòa và ổn định, góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người
lao động, của người sử dụng và người quản lý lao động.
Ngoài Bộ Luật Lao động, các văn bản pháp quy khác có liên quan cũng
được ban hành và áp dụng rộng rãi trong những năm gần đây. Trong đó, đáng
chú ý nhất là Nghị định 198/ CP (ngày 31/12/1994) của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng
lao động. Nghị đinh 72/CP (ngày 31/10/1995) của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về việc làm. Nghị
đinh 72/CP có tầm quan trọng đặc biệt đối với thị trường lao động bởi đây là
văn bản pháp quy đầu tiên quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các trung tâm dịch vụ việc làm – một thể chế giao dịch không thể thiếu
của thị trừong lao động. Các quy định về bảo hiểm xã hội được chi tiết hóa tại
Nghị định 12/CP (ngày 26/1/1995) của Chính phủ, Thông tư 06/LĐTBXH
(ngày 4/4/1995) của Bộ LĐ-TB-XH và thông tư 58-TC/HCSN (ngày
24/7/1995). Liên quan đến vấn đề dạy và học nghề, có Nghị đinh 90/CP (ngày
15/12/1995) của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Bộ
luật Lao động về dạy và học nghề; và Thông tư số 20/LĐTTBXH-TT (ngày
21/9/1996) của Bộ LĐ-TB-XH hướng dẫn về việc mở và quản lý cơ sở dạy
nghề. Các nghị định 195/CP (ngày 31/12/1994) của Chính phủ về thời gian làm
việc, nghỉ ngơi; Nghị định 196/CP (ngày 31/12/1994) của Chính phủ về thỏa
ước lao động tập thể; Nghị đinh 197/CP (ngày 31/12/1994) của Chính phủ về
tiền lương… đều là những văn bản pháp lý quan trọng quy định chi tiết và
hướng dẫn thực hiện một số điều của Bộ luật lao động. Đây chính là nền tảng
pháp lý chế định các quan hệ cung và cầu lao động, cho phép hình thành thị
trường lao động kiểu mới ở Việt Nam trong thời gian qua.
Ngoài ra, các luật hoặc văn bản pháp quy khác như Nghị đinh 66/CP,
Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật khuyến khích
đầu tư nước ngoài, Bộ Luật dân sự, Luật Đất đai… cùng với các chính sách
kinh tế - xã hội khác của Đảng và Nhà nước đều đã thực hiện góp phần giải
phóng lực lượng sản xuất, phát huy tiềm năng lao động xã hội; trực tiếp hoặc SVTH: 11
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
gián tiếp có ảnh hưởng đến việc hình thành và vận hành của thị trường lao
động ở nước ta trong những năm gần đây. 3. Về đào tạo
Phát triền kinh tế trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi người lao động phải có
trình độ tay nghề nhất định. Nhận ra yêu cầu bức bách này, trong những năm
gần đây, Nhà nước đã ngày càng chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng tay
nghề cho người lao động. Điều này cò thể nhìn thấy được thông qua những
biến đổi của cơ cấu các nghề được đào tạo: nếu như trước đây chỉ chú trọng
đào tạo các nghề như cơ khí chế tạo, mộc, nề, sửa chữa, dân dụng… thì ngày
nay hoạt động đào tạo đã mở rộng sang các ngành nghề mới như điện tử, tin
học, tài chính, quản trị kinh doanh, các ngành nghề truyền thống dân tộc,..v.v.
Các hoạt động dạy và học nghề được thực hiện không chỉ ở các trường, các
lớp, mà còn được thực hiện ngay tại các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được
khuyến khích đào tạo lao động tại chỗ, hoặc gửi người đi học tại các cơ sở đào
tạo trong hoặc ngoài nước.
Nhà nước có chính sách miễn giảm thuế cho các cơ sở dạy nghề dành
riêng cho người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu
số, đối tượng tệ nạn xã hội; miễn giảm thuế cho các cơ sở dạy nghề có dưới 10
học viên, dạy nghề theo hình thức kèm cặp tại xưởng, nhà máy (miễn thuế
doanh thu, thuế lợi tức). Ngoài ra, Nhà nước còn giảm 50% thuế doanh thu cho
các cơ sở dạy nghề truyền thống, trạm, trổ, khảm trai, sơn mài, mây tre, gốm
sứ, dệt lụa tơ tằm. Bên cạnh đó sau khi thành lập lại Tổng cục dạy nghề (trực
thuộc Bộ Lao Động-Thương binh và Xã hội) Chính phủ đang chỉ đạo việc hoàn
thiện và tăng cường công tác dạy nghề nhằm làm cho công tác dạy nghề gắn
liền với lao động và việc làm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong
giai đoạn tới. Về mặt lý thuyết, đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao kỹ thuật, tay
nghề vốn được coi là một trong những chính sách phát triển thị trường lao
động chủ động quan trọng nhất. Việc Nhà nước ta chú trọng chính sách đào tạo
là điều kiện thuân lợi để thị trường này có thể phát triển trong tương lai.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
I. Thực trạng cung cầu lao động cả nước
Thị trường lao động nước ta phát triển không đồng đều, quan hệ cung-cầu
lao động giữa các vùng, các khu vực, ngành nghề mất cân đối nghiêm trọng.
Theo báo cáo về thực trạng cung cầu lao động, lực lượng lao động cả nước
hiện có trên 48 triệu người, trong đó, 73% số lao động tập trung ở nông thôn.
Trong 47 triệu lao động có việc làm, có tới 70% lao động có việc làm không ổn
định, dễ bị tổn thương và rơi vào nghèo đói, chủ yếu là lao động tự do hoặc
làm việc trong gia đình không hưởng lương. Lao động làm việc trong các khu
vực cũng có sự chênh lệch lớn. Chỉ có 4 triệu người kiếm được việc làm tại
khu vực nhà nước, 1,67 triệu người làm việc ở khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài, trong khi ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước có tới 40 triệu người. Dù SVTH: 12
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
chiếm tỷ lệ lao động lớn nhất, nhưng khối kinh tế ngoài nhà nước chỉ đóng góp
47% GDP và 35% giá trị sản xuất công nghiệp, trong khi khối khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài đóng góp gần 19% GDP và gần 45% giá trị sản xuất công
nghiệp. Chính sự phát triển, phân bố không đồng đều khiến thị trường lao động
rơi vào tình trạng “thừa mà thiếu”. Nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn
trong việc tuyển dụng lao động, kể cả lao động qua đào tạo và lao động phổ
thông. Theo báo cáo của các địa phương, tình trạng lao động không có việc
làm vẫn ở mức cao trong khi nhu cầu tuyển dụng hiện nay rất lớn.
Cụ thể như ở Đồng Nai, hàng năm địa phương này thiếu hụt 20.000 lao
động (5.000 lao động đã qua đào tạo và 15.000 lao động phổ thông). Còn ở
Thành phố Hồ Chí Minh, từ đầu năm đến nay, có trên 23.000 lao động mất
việc làm, nhưng nhu cầu tuyển dụng lên đến trên 61.000 người. Tại Bình
Dương, số lao động cần tuyển là gần 42.000 người, Cần Thơ cần 5.212 người,
Vũng Tàu cần khoảng 5.000 người. Kết quả tổng hợp từ các trung tâm giới
thiệu việc làm và sàn giao dịch việc làm trên cả nước cũng cho thấy, năm 2009
có trên 100.000 chỗ làm cần tuyển người. Tuy nhiên, số người đến đăng ký
tuyển dụng chỉ bằng 17% nhu cầu này, trong đó số người đáp ứng được yêu
cầu của nhà tuyển dụng chỉ chiếm khoảng 6%. Trong số vị trí tuyển, có đến
80% là nhu cầu lao động phổ thông, chủ yếu là các doanh nghiệp may mặc,
giầy da, chế biến nông, lâm sản. Chất lượng lao động qua đào tạo thấp dẫn đến
hệ quả là nguồn cung lao động không đáp ứng nhu cầu. Chỉ khoảng 30%-40%
sinh viên tốt nghiệp đại học có việc làm ngay, số còn lại phải đào tạo bổ sung kiến thức, kỹ năng.
Sắp bước sang quý 2 của năm 2010, nhưng việc việc tuyển dụng lao động
của các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả nước vẫn
đang ở tình trạng cung không đủ cầu.
Theo ý kiến chung của nhiều cán bộ nhân sự tại các khu công nghiệp, khu
chế xuất trên địa bàn Hà Nội và Hưng Yên đều cho rằng, “chưa bao giờ tuyển
lao động lại khó như thời điểm này”. Tình trạng “khủng hoảng” thiếu công
nhân ở mức báo động đã làm ảnh hưởng trầm trọng đến kế hoạch sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Khảo sát gần 90 doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch việc làm Hà Nội
trong ngày 10/3 với nhu cầu tuyển 3.500 lao động nhưng kết quả doanh nghiệp
chỉ tuyển được 312 lao động có nghề và 78 lao động phổ thông. Phụ trách nhân
sự của Công ty Cổ phần May Hưng Long ở Phố Nối, Hưng Yên cho biết: công
ty đang có nhu cầu từ 300 đến 500 lao động phổ thông và sẵn sàng chu cấp chi
phí ăn, ở trong 3 tháng để dạy nghề cho lao động mới nhưng chỉ mới tuyển
được hơn 200 người. Được biết, đây là công ty may có mức thu nhập vào loại
cao (lương bình quân của người lao động đạt 3 triệu đồng/tháng, thưởng Tết
cuối năm 2009, công nhân có năng suất lao động trung bình cũng đạt 9 triệu đồng/người).
Nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu đồ gỗ nội thất ở Hà Nội cũng lâm
vào cảnh lao đao, chạy đôn chạy đáo tìm lao động phổ thông, thợ có nghề. SVTH: 13
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Còn tại các khu công nghiệp tỉnh Long An, theo bà Nguyễn Thị Hương,
Phó trưởng phòng Quản lý lao động của Ban quản lý các khu công nghiệp, các
nhà máy sản xuất ở các khu công nghiệp trong tỉnh đang gặp khó khăn thiếu
hơn 10.000 lao động cho 6 tháng đầu năm 2010. Điều này đã làm ảnh hưởng
không nhỏ đến việc phát triển sản xuất của các nhà máy năm 2010.
Tình trạng thiếu lao động chủ yếu tập trung ở ngành dệt, may. Điển hình
như Công ty Cổ phần Công thương Astagolden (Khu công nghiệp Đức Hòa 3);
Công ty TNHH Túi xách Simone (Khu công nghiệp Long Hậu (Cần Đước);
Công ty TNHH Giày Giai Hiệp (Khu công nghiệp Đức Hòa 1); Công ty dệt
Kim Đông Phương (Khu công nghiệp Xuyến Á) đang thiếu từ 100-500 công
nhân. Công ty TNHH Giày Ching-luh Việt Nam (Khu công nghiệp Thuận Đạo,
huyện Bến Lức) có tới 23.000 lao động, nhưng sau tết công nhân bỏ nghỉ, hiện
nay thiếu 5% lao động ở khâu may. Đó là chưa kể các khu công nghiệp ở
huyện Đức Hòa, Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc đang chuẩn bị đi vào hoạt
động trong quý 2/2010 nhưng vẫn chưa có lao động...
II. Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là
trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam.
Thành phố Hồ Chí Minh tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54'
Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và
Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và
Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa
miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, thành phố Hồ Chí Minh
hình thành nhờ công cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn. Năm 1698,
Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Khi
người Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành
phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai
đô thị quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông hay
Paris Phương Đông. Sài Gòn là thủ đô của Liên Bang Đông Dương giai đoạn
1887-1901. Năm 1954, Sài Gòn trở thành thủ đô của Việt Nam Cộng hòa và
thành phố hoa lệ này trở thành một trong những đô thị quan trọng của vùng
Đông Nam Á. Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975, lãnh thổ Việt Nam hoàn
toàn thống nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống
nhất quyết định đổi tên Sài Gòn thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên vị
Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng
diện tích 2.095,01 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm
0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.123.340 người (chiếm
8,30% dân số Việt Nam), mật độ trung bình 3.401 người/km². Tuy nhiên nếu
tính những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt
trên 8 triệu người. Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, thành
phố Hồ Chí Minh chiếm 20,2 % tổng sản phẩm và 27,9 % giá trị sản xuất công
nghiệp của cả quốc gia. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, nằm ở miền Nam
Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, SVTH: 14
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
trung tâm thành phố cách cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với
vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, thành phố Hồ Chí Minh là một đầu
mối giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không trở
thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và Đông Nam Á.Vào
năm 2007, thành phố đón khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế, tức 70 % lượng
khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí,
thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trò quan trọng bậc nhất.
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam.
Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm
tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án
nước ngoài. Vào năm 2005, thành phố Hồ Chí Minh có 4.344.000 lao động,
trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn đang tham gia làm
việc. Năm 2008, thu nhập bình quân đầu người ở thành phố đạt 2.534
USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 1024 USD/năm.
Nền kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai mỏ,
thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính...
Cơ cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc
doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các
ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công
nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%.
Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp thành phố
Hồ Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án có vốn
đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ USD và 19,5 nghìn tỉ VND.
Thành phố cũng đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài với 2.530 dự án FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 2007. Riêng
trong năm 2007, thành phố thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD.
Về thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống trung tâm mua
sắm, siêu thị, chợ đa dạng. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương
mại từ xa xưa của thành phố, hiện nay vẫn giữ một vai trò quan trọng. Những
thập niên gần đây, nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất hiện như Saigon
Trade Centre, Diamond Plaza... Mức tiêu thụ của thành phố Hồ Chí Minh cũng
cao hơn nhiều so với các tỉnh khác của Việt Nam và gấp 1,5 lần thủ đô Hà Nội.
Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, có mã giao dịch là VN-
Index, được thành lập vào tháng 7 năm 1998. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm
2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng khoán được niêm yết, trong đó có
138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 nghìn tỷ đồng.
Tuy vậy, nền kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với
nhiều khó khăn. Toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ
công nghệ hiện đại. Trong đó, có 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở
ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm,
18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy... có trình độ công nghệ, kỹ
thuật sản xuất tiên tiến. Cơ sở hạ tầng của thành phố lạc hậu, quá tải, chỉ giá
tiêu dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp... cũng gây khó khăn cho nền SVTH: 15
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
kinh tế. Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực cao,
đem lại hiệu quả kinh tế hơn.
III. Thực trạng cung cầu lao động ở thành phố Hồ Chí Minh 1. Về cung lao động
1.1 Cung lao động xét từ giác độ số lượng
Theo quy định của Bộ luật Lao động, ở Việt Nam, độ tuổi lao động bao
gồm những người từ 15 đến 60 tuổi đối với nam, và 15 đến 55 tuổi đối với nữ.
Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 thành phố Hồ Chí Minh có dân
số 7.123.340 người , gồm 1.812.086 hộ dân, bình quân 3,93 người/hộ. Phân
theo giới tính: Nam có 3.425.925 người chiếm 48,1%, nữ có 3.697.415 người
chiếm 51,9% . Dân số thành phố tăng nhanh, trong 10 năm từ 1999-2009 dân
số thành phố tăng thêm 2,086.185 người, bính quân tăng gần 209.000
người/năm, tốc độ tăng 3,53%/năm, chiếm 22% số dân tăng thêm của cả nước
trong vòng 10 năm. Thành phố Hồ Chí Minh có nguồn nhân lực 4,7 triệu
người. Tổng số lao đô v ng đang làm viê v c có 3,3 triê v
u người, tổng số người đến
tuổi lao động hàng năm bao gồm người ở tại thành phố và người ở từ các tỉnh,
thành phố khác chuyển đến có nhu cầu đào tạo nghề và tìm việc làm có trên
300.000 người. Tỷ lệ lao động thất nghiệp năm 2009 của thành phố bình quân ở mức 5,4%.
Các chỉ tiêu về lao động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 Đơn vị tính: người Tốc độ tăng 2005 2010 bình quân Chỉ tiêu 2006-2010 (%) DÂN SỐ 6.239.938 7.200.000 2,90 A. NGUỒN LAO ĐỘNG 3.981.375 4.625.360 3,04 1. Số người trong tuổi lao động 3.964.160 4.618.000 3,10 - Mất sức lao động 68.515 76.680 2,28 - Có khả năng lao động 3.895.645 4.541.320 3,11 2. Ngoài tuổi có tham gia lao động 85.730 84.040 -0,40 SVTH: 16
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN - Trên tuổi lao động 58.230 57.100 -0,39 - Dưới tuổi lao động 27.500 26.940 -0,41 B. PHÂN PHỐI LAO ÐỘNG
1. Lao động đang làm việc 2.676.420 3.184.000 3,53 a. Khu vực I (nông - lâm nghiệp - thủy sản) 145.282 121.000 -3,59 b. Khu vực II (công nghiệp - xây dựng) 1.226.932 1.468.000 3,65 Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 1.033.271 1.263.700 4,11 Xây dựng 193.661 204.300 1,08 c. Khu vực III (dịch vụ) 1.304.206 1.595.000 4,11 Thương mại 408.425 519.200 4,92 Dịch vụ 895.781 1.075.800 3,73 2. Học sinh 432.585 515.270 3,56 3. Nội trợ 527.020 590.140 2,29
4. Chưa có việc làm 345.350 335.950 -0,55 Trong đó: Thất nghiệp 245.690 232.000 -1,14
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu Viện Kinh tế
1.2 Cung lao động xét từ giác độ chất lượng
- Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng:
Hiện ở thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 46% lao động qua đào tạo và
tỷ lệ này ở cả nước chỉ khoảng 30%. Trong khi đó, ở các nước châu Âu, tỷ lệ SVTH: 17
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
học sinh theo học trường nghề lên đến 56%, các nước châu Á trung bình 50%.
Do đó, việc phát triển, mở rộng nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường nghề,
trung cấp nghề, cao đẳng nghề là rất cần thiết.
- Trình độ học vấn của người lao động:
Năm 2004, ở thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ nhập học ở các cấp giáo dục là
75%. Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành là 93,2%, HDI 0,814.
- Tình trạng thể lực của lao động:
Người lao động Việt Nam có thể lực kém, thể hiện qua các chỉ số về cân
nặng, chiều cao trung bình, sức bền. Cụ thể, trong khi chiều cao trung bình của
người lao động Việt Nam là 1,47 m; cân nặng 34,4 kg thì các con số tương ứng
của người Philippin là 1,53m; 45,5 kg; người Nhật là 1,46 m; 53,3 kg.
- Kỷ luật lao động của người lao động:
Đại bộ phận người lao động hiện nay của thành phố Hồ Chí Minh còn
chưa được đào tạo về kỷ luật lao động công nghiệp, tùy tiện về giờ giấc và
hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức kỹ năng làm việc
theo nhóm, không có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng
kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Điều này có thể thấy rõ qua hiện tượng
các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( trong các khu chế xuất, khu công
nghiệp), phải mất hàng tháng chỉ để đào tạo tác phong cho công nhân mới
được tuyển đến làm việc tại xí nghiệp.
Nhiều vụ việc mâu thuẫn chủ - thợ tại các xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài có nguồn gốc ban đầu từ những vụ vi phạm kỷ luật
lao động công nghiệp, từ ý thức kỷ luật lao động kém của bản thân người lao động.
1.3 Thực trạng cung lao động thành phố năm 2010
Tháng 5-2010, chỉ số cung nhân lực cũng giảm 21,53% so với tháng 4 do
lực lượng lao động của các tỉnh, thành phố khác vào tìm việc tại thành phố Hồ
Chí Minh cũng giảm nhiều so với các năm trước. Sự thiếu hụt lao động và dịch
chuyển lao động vẫn tiếp tục xảy ra, khả năng nguồn cung chỉ đáp ứng được từ
65%-75% tổng nhu cầu việc làm, đặc biệt vẫn thiếu hụt trên 50% lao động phổ
thông, sơ cấp nghề. Trước đây, do thiếu việc làm, thu nhập ở các đô thị cao
hơn nên dòng chảy lao động nhập cư chỉ có một hướng duy nhất đổ dồn về các
thành phố lớn, nhất là ở phía Nam, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh. Còn
bây giờ ở phía Bắc, miền Trung, người lao động có thể tìm được việc làm tại
chỗ hoặc các khu vực lân cận mà không cần xa nhà do nhiều KCN mới mọc ra,
nhiều nhà máy, xí nghiệp đã khởi động đi vào hoạt động.
Lý do nữa là một phần vì cuối năm 2008 và đầu năm 2009, nhiều công ty
quá khó khăn đã cho công nhân nghỉ việc, công nhân đã đi tìm công ty khác để
có việc làm mới hay chuyển sang các ngành dịch vụ khác. Hiện nay, doanh
nghiệp sau khi có đơn hàng trở lại đã không còn đủ công nhân để thực hiện. Vì
vậy, dấu hiệu thiếu lao động hiện nay còn nặng nề hơn so với trước khi xảy ra suy thoái kinh tế. SVTH: 18
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Ngoài ra, theo đánh giá chung của cơ quan quản lý lao động và trung tâm
giới thiệu việc làm, việc khan hiếm lao động phổ thông còn do nhiều lý do
như: mức sống ở thành phố Hồ Chí Minh hiện quá cao, trong khi mức lương
chưa tăng tương xứng; tiền lương của công nhân không đáp ứng đủ cho các
khoản chi phí như chỗ trọ, tiền ăn…
Khảo sát tại 1156 doanh nghiệp với trên 18.700 nhu cầu tuyển dụng trong
tháng 5-2010 cho thấy, trên 75% người tìm việc làm có kinh nghiệm từ 1 năm
trở lên với mức lương mong muốn trên 5 triệu đồng/tháng. Đối với lao động
phổ thông, sơ cấp nghề, nhu cầu tìm việc làm cũng mong muốn mức lương từ
2– 3 triệu/tháng trở lên. Trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng lao động phổ thông,
sơ cấp đa số ở mức lương trung bình và thấp, khoảng từ 2 triệu/tháng trở
xuống. Khi mức lương chưa tương xứng với công sức người lao động bỏ ra thì
họ không mặn mà với công việc và doanh nghiệp không tuyển đủ là điều dễ hiểu.
Ngoài ra, doanh nghiệp ít quan tâm đến người lao động, nhiều doanh
nghiệp cho công nhân tăng ca, làm thêm giờ nhưng trả lương không đúng luật,
nhiều doanh nghiệp trả lương thấp hơn mức tối thiểu được quy định, vẫn còn
tình trạng một số doanh nghiệp chỉ tuyển lao động theo thời vụ mà không ký
hợp đồng nhằm né tránh các khoản bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội… khiến
người lao động lo ngại và không mặn mà với công việc.
Nhìn chung thị trường lao động tại thành phố Hồ Chí Minh vẫn có những
nghịch lý. Trong khi nguồn lao động phổ thông chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu
tuyển dụng thì nguồn lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn cao (từ
trung cấp trở lên) lại phải đi tìm việc làm mới hoặc đi tìm công việc có điều
kiện làm việc và thu nhập khá hơn.
2. Về cầu lao động
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có trên 50.000 doanh nghiệp, trong đó
doanh nghiệp trong nước chiếm 92%; các cơ sở kinh doanh cá thể có trên
340.000 cơ sở, trong đó các cở sở hoạt động lĩnh vực thương mại dịch vụ
chiếm 87%. Vì vậy, nhu cầu về lao động trong những năm tới tại thành phố là rất lớn.
Lao động mất việc là vấn đề “nóng” được dư luận xã hội quan tâm một
thời gian dài. Nhưng giờ đây, khi một số ngành sản xuất có dấu hiệu hồi phục,
thành phố Hồ Chí Minh lại đối diện với tình hình thiếu hụt trầm trọng lao
động, đặc biệt là lao động phổ thông và công nhân kỹ thuật. Trung tâm Dự báo
nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh đã
khảo sát 27.000 doanh nghiệp về thực trạng sử dụng lao động. Thị trường lao
động thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 sẽ chứng kiến sự chuyển biến tích cực
về cơ cấu ngành nghề và cơ cấu nguồn nhân lực do bước đầu vượt qua thời kỳ
khó khăn về kinh tế và việc làm. Nhiều doanh nghiệp thường xuyên có nhu cầu
tuyển dụng lao động kể cả lao động quản lý, có chuyên môn kỹ thuật và lao
động phổ thông để đào tạo gắn bố trí việc làm tại doanh nghiệp. SVTH: 19
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Theo Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị
trường lao động thành phố Hồ Chí
Minh Trần Anh Tuấn, dự kiến
năm 2010, thành phố có nhu cầu
nhân lực là 280.000 người. Xu
hướng phát triển theo cơ cấu 16
nhóm ngành nghề chính, trong đó
có 10 nhóm ngành nghề chiếm
hơn 80%. Các nhóm ngành này
gồm: may - dệt - giày da - thủ
công mỹ nghệ; công nghệ thông
tin - viễn thông - điện, điện tử -
điện công nghiệp - điện lạnh;
Nhiều công nhân đã có việc làm sau
quản lý - quản trị - hành chính văn
thời gian sản xuất bị ngừng trệ
phòng; cơ khí - xây dựng - giao
thông vận tải - hàng hải; tài chính - ngân hàng - kiểm toán - bảo hiểm; du lịch -
môi trường - nhà hàng - khách sạn; kiến trúc - thiết kế - giấy, bao bì - xuất bản;
marketing - dịch vụ tư vấn; y khoa, y tế - mỹ phẩm - dược; phục vụ, bán hàng.
Trong năm 2010, nhu cầu về lao động có trình độ trên đại học là 1,06%;
Đại học khoảng 7,48%; CĐ chuyên nghiệp, CĐ nghề 5,35%; TCCN - trung
cấp nghề 10,27%; CN kỹ thuật lành nghề 0,67%, còn lại là sơ cấp nghề
(17,55%) và LĐ chưa qua đào tạo chiếm 27,62%.
Thị trường nhân lực 2010 sẽ có xu hướng tăng mạnh nhu cầu về lao động
giản đơn, công nhân kỹ thuật. Theo đó, ngành dệt may, giầy da có nhu cầu
tuyển dụng lao động lớn nhất (18,79%), tiếp theo là công nghệ thông tin, viễn
thông (7,75%). Một số nhóm ngành có nhu cầu tương đương nhau là điện, điện
tử, điện công nghiệp; cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải; du lịch, môi trường…
Một số nghề “nóng” như tài chính, ngân hàng, kiểm toán bình ổn ở tốp
giữa với nhu cầu lao động chiếm 6,83%. Nhóm ngành nông, lâm, ngư, thuỷ sản
có nhu cầu “khiêm tốn” nhất (1,55%).
Ông Trần Anh Tuấn cho biết: “Năm 2010, nhu cầu về lao động tại các
khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp sản xuất rất lớn. Kết quả
khảo sát cho thấy, nhu cầu công nhân kỹ thuật lành nghề lớn nhất (30,7%), sau
đó là lao động phổ thông và sơ cấp nghề”.
Các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố cũng đưa ra đánh giá khái quát
về trình độ lao động. Lao động được đánh giá cao về trình độ cơ bản, nắm
vững chuyên môn ngành nghề được đào tạo, khả năng thích nghi, hoà nhập với
công việc cao. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp cho rằng lao động trẻ còn thiếu
kinh nghiệm, trình độ ngoại ngữ, tin học chưa đáp ứng được yêu cầu.
Ngoài nắm vững kiến thức cơ bản của nghề được đào tạo; nắm vững
chuyên môn kỹ thuật của công việc thực tế thì các doanh nghiệp, đơn vị tuyển
dụng cũng rất chú trọng vào khả năng thích nghi thực tế; thái độ cầu tiến; tác SVTH: 20
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
phong năng động; có kỹ thuật cao; có ý thức trách nhiệm; sự sáng tạo… của
người lao động làm tiêu chí đánh giá hàng đầu trong việc lựa chọn lao động
làm việc tại doanh nghiệp.
Xu hướng phát triển về cơ cấu ngành nghề - việc làm của thị trường lao động
thành phố Hồ Chí Minh 2009 - 2010 Tỷ STT Ngành nghề trọng(%) 1
Công nghệ Thông tin - Viễn thông 7,75 2
Điện - điện tử - điện công nghiệp - điện lạnh 6,82 3
Hóa - Hóa thực phầm - Hóa chất - Hóa dầu 3,15
Cơ khí - Xây dựng - Giao thông vận tải - 4 7,36 Hàng hải 5
Sản xuất đồ gỗ, trang trí nô v i thất 2,07 6
Kiến trúc - Thiết kế - Giấy bao bì - Xuất bản 6,42 7 Giáo dục – Đào tạo 3,08
Tài chính - Ngân hàng – Kiểm toán – Bảo 8 6,83 hiểm 9
Y khoa - Y tế - Mỹ phẩm - Dược 4,56
Du lịch – Môi trường – Nhà hàng – Khách 10 6,45 sạn 11
Marketing – Dịch vụ tư vấn 6,16
Quản lý - Quản trị - Hành chánh – Văn 12 7,60 phòng 13 Phục vụ và bán hàng 5,18 SVTH: 21
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN 14
Nông - Lâm - Ngư – Thủy sản 1,55 15
May dệt – Giày da - Thủ công mỹ nghệ 18,79 16 Các ngành nghề khác 6,43 Tổng cộng 100,00
2.1 Thực trạng cầu lao động quý I năm 2010
Theo Sở LĐ-TB&XH TP Hồ Chí Minh, từ đầu năm 2010 đến nay, thành
phố đã tạo việc làm cho 59.400 lao động, trong đó có 21.500 chỗ làm mới.
Tuy nhiên, con số nay vẫn rất ít so với nhu cầu tuyển lao động của các
doanh nghiệp. Chỉ tính riêng quý 1, thành phố thiếu khoảng 100.000 lao động,
trong đó tập trung nhiều nhất ở lĩnh vực may mặc, giày da, chế biến nông hải
sản… Tình trạng thiếu lao động đã làm cho nhiều doanh nghiệp không dám ký
nhiều hợp đồng sản xuất, gia công hàng có quy mô và giá trị lớn khách hàng nước ngoài.
Theo Công ty giày Gia Định, trước Tết Canh Dần, công ty có trên 1.000
công nhân làm việc nhưng hiện nay chỉ còn khoảng 600 người. Lãnh đạo công
ty đang lo thiếu nguồn lao động trầm trọng trong những tháng tới.
Tương tự, các doanh nghiệp may cũng đang thiếu hàng nghìn công nhân.
Tổng công ty CP may Nhà Bè đang có nhu cầu tuyển thêm 2.000 lao động.
Công ty may Tân Việt cần tuyển 1.200 lao động… Các doanh nghiệp ở các
KCX-KCN đang cần tuyển trên 10.000 lao động làm việc trong các nhà máy
lắp ráp điện tử, dệt, may và chế biến thực phẩm...
Theo Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin trhị trường lao
động thành phố Hồ Chí Minh, hàng trăm doanh nghiệp ở các KCX-KCN và
các quận huyện trên địa bàn thành phố đang thông qua hệ thống các trung tâm
giới thiệu việc làm, các trường đào tạo nghề, các mạng thông tin việc làm… để
tìm kiếm, tuyển chọn công nhân.
Để thu hút lao động, nhiều doanh nghiệp đã đưa ra các chính sách, chế độ
ưu đãi, mức lương hấp dẫn. Tổng công ty CP may Nhà Bè đưa ra mức lương
tối thiểu 2 triệu đồng/tháng/công nhân; lao động không biết may sẽ được đào
tạo nghề, trả tiền ăn và hổ trợ đào tạo 1.200.000 đồng/người/tháng. Công ty
may Tân Việt đang cần tuyển hơn 1.200 lao động với mức lương từ 1,3 – 3
triệu đồng/người/tháng tùy theo tay nghề. Ngoài ra, công ty cũng đưa ra các
chính sách hấp dẫn như thưởng theo hiệu quả công việc, đài thọ cơm trưa và ăn
giữa ca, thưởng chuyên cần… SVTH: 22
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Tuy nhiên, tình hình thiếu hụt lao động của các doanh nghiệp hiện vẫn
chưa được cải thiện. Theo một số chuyên gia về lao động, nguyên nhân do
nhiều địa phương đang xuất khẩu lao động và hầu hết các tỉnh, thành phố trên
cả nước điều mở KCN. Công nhân trở về quê làm việc nhiều nên doanh nghiệp
ở những thành phố lớn khó tuyển dụng. Bên cạnh đó, mặt bằng giá cả ở thành
phố ngày càng đắt đỏ trong khi đồng lương của người lao động tăng không
đáng kể, khiến đời sống của công nhân rất khó khăn.
Một nguyên nhân khác, trong quý 1, thành phố Hồ Chí Minh có thêm
khoảng 6.000 doanh nghiệp trong nước và 74 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài mới được cấp phép hoạt động. Điều này càng làm cho nhu cầu lao động
tăng lên và tình trạng thiếu hụt lao động trầm trọng thêm.
2.2. Thực trạng cầu lao động quý II năm 2010
Thị trường lao động năm 2010 sôi động trong tuyển dụng không phải do
thiếu nhiều mà có cả lý do tuyển dụng để thay thế những nhân lực đã không
còn phù hợp với vị trí công việc, buộc phải thay thế. Vì vậy, nhu cầu tuyển
dụng lại càng lớn. Nhận định của thành phố Hồ Chí Minh, quý II năm 2010,
thiếu 110.000 người lao động. Trong đó, nguồn lao động được phân bổ rõ ràng
về trình độ như 40% nhu cầu lao động chuyên môn cao, 20% lao động có trình
độ cao đẳng, trung cấp và 40% lao động sơ cấp, phổ thông. Điều đó, có nghĩa
là nhu cầu về lao động phổ thông không nhiều, thậm chí thấp so với nhu cầu
lao động có trình độ trên phổ thông.
Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động thành phố Hồ
Chí Minh cho biết, trong tháng 5-2010, Tình trạng thiếu hụt lao động phổ
thông tại thành phố Hồ Chí Minh trong tháng 5 vẫn tiếp tục diễn ra nhưng sẽ
không cao như trong quý một vừa qua. Nhu cầu nhân lực toàn thành phố giảm
tới trên 24,5% so với tháng trước đó. Trên thực tế, nhiều Doanh Nghiệp tuyển
lao động nhưng số chỗ việc làm trống thì ít hơn những tháng trước và đa phần
là ở những vị trí có trình độ nghề chuyên môn và chuyên môn cao, có nhiều
kinh nghiệm. Nhu cầu nhân lực trình độ sơ cấp nghề, lao động phổ thông
chiếm tỷ lệ 40%, tập trung vào những nhóm ngành nghề như dịch vụ, gia công
sản xuất, lắp ráp thiết bị, may, giày da, chế biến thực phẩm, dịch vụ ăn uống và
buôn bán lẻ. Ông Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm dự báo nhu cầu
nhân lực và thông tin thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh, cho biết
năm nghề có nhu cầu tuyển dụng lao động nhiều nhất trong tháng Tư gồm
nhựa-bao bì, cơ khí-luyện kim, điện tử-viễn thông, marketing-nhân viên kinh doanh, dệt may-giày da.
Một số ngành có chỉ số cầu nhân lực cao trong quý II vẫn là dệt may,
giày da (24,92%); marketing, nhân viên kinh doanh (15,44%); bán hàng
(7,38%); giao thông vận tải; xây dựng (9,92%);.... Các ngành kế toán kiểm
toán, tài chính, ngân hàng, chủ yếu tập trung tuyển trình độ đại học, trên đại
học và có kinh nghiệm. Nguồn cung tập trung nhiều nhất ở các nhóm ngành
như kế toán-kiểm toán (37%), quản lý nhân sự-hành chính văn phòng (17%),
marketing-nhân viên kinh doanh (8,5 %) và công nghệ thông tin (5,2 %). SVTH: 23
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
2.3 Dự báo cầu lao động quý III năm 2010
Tháng 6-2010 và quý III-2010, thị trường lao động sẽ có xu hướng ổn
định trở lại. Nhu cầu tuyển dụng lao động của các DN tăng so với tháng 5-
2010 khoảng 15-20% do các DN chuẩn bị công việc sản xuất kinh doanh 6
tháng cuối năm. Nhu cầu tuyển lao động phổ thông, sơ cấp vẫn tiếp tục cần số
lượng lớn cho các ngành dệt may, giày da, điện tử, chế biến thực phẩm, chế
biến nông sản, thủy sản, vệ sinh công nghiệp, phục vụ ăn uống và bán lẻ. Các
DN chú trọng hơn trong việc tuyển dụng nhân lực có tay nghề và trình độ chuyên môn cao.
Dự báo nhu cầu tuyển dụng của các DN sẽ ở mức khoảng 45.000 việc
làm trống, trong đó 12.000 lao động cho các KCX và KCN trên địa bàn thành
phố. Cơ cấu tuyển dụng có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 25%; trung cấp,
công nhân kỹ thuật chiếm 25%; 50% là lực lượng lao động phổ thông, sơ cấp
nghề. Đặc biệt, từ tháng 6, nhu cầu lao động thời vụ cũng cần trên 7.000 người
cho công việc sản xuất, dịch vụ, kinh doanh hàng tiêu dùng và các hoạt động
giới thiệu sản phẩm, hoạt động của các siêu thị trên địa bàn thành phố.
Các doanh nghiệp thành phố Hồ Chí Minh “ chạy đua” tuyển lao động.
Đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất và thực hiện các đơn hàng, nhiều công ty
trong khu chế xuất Tân Thuận đã treo bảng, băng rôn rao tuyển lao động.
Ông Huỳnh Tấn Tài, phụ trách tuyển dụng lao động công ty Hong Ik Vina
(sản xuất hàng inox) cho biết, công ty cần tuyển dụng 500 lao động. Với mức
lương khởi điểm 1,2 triệu đồng/người/tháng không cao, để thu hút được lao
động, công ty đưa ra các chính sách như tiền chuyên cần
50.000đồng/người/tháng nếu số ngày làm việc đủ trong tháng. Ngoài ra còn có
các loại phụ cấp khác..
Công ty FAPV (sản xuất hàng điện tử) cũng đang rao tuyển 500 lao động
nữ tuổi từ 18 đến 35, không cần trình độ văn hoá cao. Những lao động này sẽ
được đào tạo trong quá trình làm việc tại công ty. Cô Tuyết Vân, phụ trách
nhân sự công ty cho biết, số lao động tuyển mới này nhằm thay thế số công
nhân chuyển đi làm việc ở một nhà máy vừa khánh thành ở tỉnh Bến Tre. Công
nhân khi vào làm việc, ngoài tiền chuyên cần, họ còn được hưởng khoản hỗ trợ
tiền thuê nhà 100.000 đồng/người/tháng, tiền đi lại 100.000 đồng/người/tháng.
Tình hình tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp tại KCN Tân Bình
cũng hết sức nhộn nhịp. Điển hình là công ty Tân Việt, do mở rộng sản xuất,
đang cần tuyển hơn 1.200 lao động cho các chức danh quản đốc, chuyền
trưởng, công nhân may, nhân viên… Ngoài việc công khai mức lương từ 1,3
đến 3 triệu đồng/người/tháng tuỳ theo tay nghề và thoả thuận, công ty cũng
đưa ra các chính sách hấp dẫn như thưởng theo hiệu quả công việc, đài thọ
cơm trưa và tăng ca nếu có, thưởng chuyên cần 100.000 đồng, hỗ trợ tiền nhà
70.000 đồng, các khoản phụ cấp, các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…
Đặc biệt, để tăng sức nặng trong khâu tuyển mộ, công ty đưa ra khoản thưởng
100.000 đến 150.000 đồng cho công nhân nào giới thiệu được 1 công nhân may vào làm việc. SVTH: 24
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Đối với ngành may mặc, theo ông Lê Trung Hải - Phó tổng giám đốc tập
đoàn Dệt may Việt Nam, từ giữa năm nay, các đơn vị trong ngành đã sản xuất
ổn định trở lại, các đơn hàng nhiều và đủ để hoạt động trong một thời gian
tương đối dài. Vì vậy, nhiều tập đoàn, tổng công ty đang ráo riết tuyển dụng lao động.
Cụ thể là trường hợp của May Nhà Bè và Việt Tiến. Do yêu cầu mở rộng
sản xuất, Tổng công ty CP May Nhà Bè có nhu cầu tuyển hơn 1.900 nhân viên
từ nay đến hết quý III năm 2010. Ngoài ra, tổng công ty còn tuyển 1.100 lao
động may tại Bình Định và 500 lao động may tại thị xã Lagi, Bình Thuận. Các
chính sách áp dụng tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh gồm ăn lương sản
phẩm tối thiểu 2 triệu/tháng; đối với lao động không biết may, được đào tạo,
bao ăn và hỗ trợ đào tạo 1.200.000 đồng/người/tháng. Tại khu vực khác, lao
động biết may hưởng lương sản phẩm tối thiểu 1,5 triệu/người/tháng; lao động
không biết may được đào tạo, bao ăn và hỗ trợ 600.000 đồng/người/tháng.
Còn Tổng công ty Cổ phần May Việt Tiến, cũng đang có nhu cầu tuyển
trên 1.000 lao động tuổi từ 18 trở lên cho khu vực thành phố Hồ Chí Minh và
các tỉnh. Khác với các đơn vị khác, công nhân viên ở đây phải đóng
1.000đồng/người cho mỗi suất ăn. Mục đích là để công nhân có trách nhiệm
không bỏ bữa, ông Phạm Thanh Hoan, giám đốc phụ trách nhân sự Tổng công ty cho biết.
2.4. Nghịch lý cung – cầu lao động thành phố Hồ Chí Minh
Ông Phan Thanh Hà – Phó phòng Lao động – Thương binh và Xã hội
quận 10 cho biết: “Người lao động và các đơn vị doanh nghiệp săn đầu người
hiện nay tuyển chọn không kỹ càng, thiếu thông tin về nhau. Người tìm việc thì
chưa đủ thông tin về công việc họ cần, vì vậy cả hai đều rất khó gặp được nhau
để có tiếng nói chung”.
2.4.1 Lao đao: người tìm việc
Trong khi các nhà tuyển dụng “đỏ mắt” tìm “thợ” thì “thầy” có chuyên
môn cao vẫn thất nghiệp nhan nhản. Ngoài tâm lý “thầy quyết định thợ”, lí do
căn bản hơn là ở khâu đào tạo lực lượng chưa cân bằng. Vì thế, hiện nay có rất
nhiều ngành nghề đang lâm vào tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực trầm
trọng như: dệt may, công nhân bao bì, giúp việc nhà, vệ sĩ, bảo hiểm,…
Bạn N.T.Nga 23 tuổi, quê Đức Lợi, Quảng Ngãi bày tỏ: “Dù chưa tốt
nghiệp cấp III, có biết một ít về may, nhưng Nga vẫn không chọn nghề này,
cực quá. Suốt ngày phải căng mắt vào máy may, thêm nữa buồn chán lắm, mà
tiền lương thì không được bao nhiêu…”.
Bà Trần Thị Thu, Phụ trách Trung tâm Dịch vụ Lao động và Dạy may
công nghiệp Quế Nga giải thích: “Không giống các doanh nghiệp nước ngoài,
phần đông các doanh nghiệp may Việt Nam trả lương cho công nhân may quá
thấp, điều kiện sống không đảm bảo, người lao động dễ dàng “quay lưng” lại
với ngành nghề này. Thiếu công nhân may là một vấn đề đáng báo động, thế
nhưng, những ngành nghề “cao cấp” khác liên quan đến ngành may như: thiết SVTH: 25
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
kế thời trang, kỹ thuật viên sơ đồ, KCS… cũng lâm vào tình trạng tương tự.
“Con rồng dệt may” Việt Nam” đang gặp khó khăn ở phía trước”.
Anh Tống Thanh Nghị ở đường Đoàn Văn Bơ, Q.4, thành phố Hồ Chí
Minh tốt nghiệp loại khá trường Cao đẳng Bán công Hoa Sen thành phố Hồ
Chí Minh tâm sự: “Tôi mới vào làm việc được một tháng ở một công ty tư
nhân, nhưng tôi muốn chuyển công ty. Lương ở đó chỉ 1,7 triệu, lại làm việc
không đúng chuyên môn kế toán con nợ, nên đã hai ngày nay tôi lo đi tìm việc”.
Có thể thấy lương bổng là một vấn đề khá quan trọng đối với người lao
động, nhất là lực lượng lao động trẻ, nhập cư khá đông ở thành phố. Cho nên,
dù những khó khăn trước mắt khi “đầu quân” vào một công ty mới, họ vẫn
chấp nhận “nhảy cóc” tìm việc, dù công việc có trái ngành. Không riêng gì
ngành dệt may, còn rất nhiều ngành nghề khác hiện nay trong thành phố đang
bị “ghẻ lạnh” cũng chỉ vì lương thấp, chế độ làm việc không được đảm bảo về giờ giấc và sức khỏe.
2.4.2 Nghịch lý: việc tìm người
Chuyện việc tìm người cũng là vấn đề đáng nói, hiện nay các nhà tuyển
dụng tuyển nhân viên cho mình còn trong khuôn khổ gò bó, cứng nhắc thiếu
tính “mở”. Chuyện chỉ nhận người tốt nghiệp đúng chuyên ngành mà cơ quan,
xí nghiệp cần, còn lại số lao động có chuyên môn cao nhưng do học thêm ở
ngoài lại không được trọng dụng, chú ý. Bên cạnh cũng có một vài nghịch lý
khác, bà Nguyễn Thị Linh Đơn Giám đốc Doanh nghiệp Tư nhân Thương mại
– Dịch vụ Lao động – Dạy nghề Linh Đan nhìn nhận: “Thực tế có rất nhiều
việc chúng tôi cung ứng cho người lao động, số lượng người sơ tuyển cũng
nhiều, đặc biệt là rất đông thành phần có trình độ cao đẳng, đại học nhưng
lượng người trúng tuyển thì lại không đủ…”.
Nguyên nhân chính theo bà Đơn thì: “Dù trạng bị khá nhiều bằng cấp,
nhưng người lao động chưa được đào tạo chuyên môn, chưa cọ xát nhiều. Vì
vậy không thể đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng”. Đó là một thực tế
mà không chỉ riêng lao động ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh gặp phải.
Chuyện thừa thấy thiếu thợ đã có từ lâu, hiện nay “thầy” lại lâm vào tình trạng
thiếu kinh nghiệm cũng là một thực tế đáng bàn.
Một điều tra nhỏ mới đây do Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ
Chí Minh cho thấy tỷ lệ lao động được đào tạo hằng năm tại các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài khá cao, hơn 26%. Một thực tế là các doanh nghiệp
nước ngoài sau khi tuyển được người, phải bỏ công đào tạo lại thì mới đáp ứng
được yêu cầu công việc.
Chúng ta không thể bỏ qua nguyên nhân gốc gác chính là ở chương trình
đào tạo nhân lực của các trường cao đẳng, đại học. Cần cho sinh viên của mình
cọ xát hơn nữa với thực tế, thực hành nhiều thay cho thời lượng học lý thuyết
trên giảng đường. Đòi hỏi kinh nghiệm thực tế ở người lao động cũng là
nguyên nhân dẫn đến nghịch lý để việc tìm người. Theo thống kê của Bộ Giáo SVTH: 26
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
dục – Đào tạo, hiện có đến 37% sinh viên tốt nghiệp ra trường không tìm được việc làm. Vì đâu?
Trước thực trạng đáng lo ngại này, cần đào tạo cái mà nhà tuyển dụng
cần, chứ không nên đào tạo cái vốn có. Khâu thiết yếu nữa là sự liên kết chặt
chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp để tìm đầu ra cho nguồn nhân lực sống
này, cũng như giúp các nhà tuyển dụng tránh bớt đi lao đao chuyện việc tìm người.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
I. Phương hướng, mục tiêu, thách thức và giải pháp cho vấn đề cung - cầu
lao động tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. 1. Phương hướng
Cải thiện kết nối cung - cầu nhằm tăng khả năng có việc làm bền vững và
giảm thất nghiệp, thiếu việc làm… là mục tiêu được nhấn mạnh trong chiến
lược việc làm thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2020. Định hướng chính
của chiến lược việc làm này là tạo việc làm với thu nhập đảm bảo cuộc sống (ít
nhất mức thu nhập của người lao động phải trên chuẩn nghèo). Tức là tạo việc
làm có chất lượng, bền vững.
Những chiến lược trước đây đã được thực hiện bằng nhiều chủ trương,
chính sách lớn như: huy động nguồn vốn đầu tư phát triển, đẩy mạnh phát triển
kinh tế tạo nhiều việc làm; cho vay vốn tạo việc làm từ quỹ quốc gia giải quyết
việc làm; phát triển hệ thống các trung tâm giới thiệu việc làm; xây dựng cơ sở
dữ liệu về thị trường lao động; điều tra thị trường lao động ...
Tuy nhiên, với những chính sách nêu trên, chiến lược vẫn bộc lộ nhiều
hạn chế, thu nhập của người lao động chưa đảm bảo cuộc sống, tỷ lệ thất
nghiệp vẫn cao ở thành phố Hồ Chí Minh; dịch chuyển cơ cấu lao động chậm,
năng suất lao động thấp…
Do vậy, chúng ta cần phải thiết lập và đưa ra các chính sách mạnh hơn về
khuyến khích đầu tư, huy động nguồn lực; gắn kết giữa các chính sách kinh tế
xã hội trong giải quyết việc làm; từng bước hình thành và xây dựng chính sách
phát triển thị trường lao động một cách rõ ràng và bền vững… tạo nên mối
quan hệ và sự liên kết vững chắc giữa cung và cầu lao động hiệu quả hơn.
2. Mục tiêu về cung – cầu lao động tại thành phố Hồ Chi Minh
Phát triển thị trường cung – cầu lao động một cách đồng bộ với các thị
trường khác trở thành nhiệm vụ quan trọng và cấp bách đối với thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay. Để có thể chuẩn bị và góp phần đưa nền kinh tế thành phố
Hồ CHí Minh nói riêng và đất nước ta nói chung ngày càng ổn định và phát
triển hơn, đưa nước ta ngày càng tiến gần đến mục tiêu cơ bản trở thành một
nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. SVTH: 27
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
Như chúng ta cũng biết, một thị trường lao động hoạt động tốt đồng nghĩa
với việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, phân chia và điều tiết
hài hoà thu nhập, phân tán và giảm thiểu rủi ro, góp phần vào tăng trưởng,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và phân phối công bằng hơn những
thành quả đạt được của phát triển. Vì vậy, thành phố Hồ Chí Minh trong những
năm tiếp theo muốn được như vậy thì cần phải nhanh chống hoạch định, đưa ra
những mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài tương đối hiệu quả để đảm bảo
cán cân cung – cầu lao động tại thành phố được cân bằng và ổn định.
2.1 Mục tiêu trước mắt
Cần phải tập trung vào việc tạo nên mối liên kết giữa cung và cầu lao
động, cân đối hài hòa an ninh linh hoạt và hỗ trợ các nhóm yếu tố góp phần
vào việc cân bằng cung - cầu lao động như:
- Hoàn thiện các chủ trương, chính sách, chiến lược và các chương trình thị trường lao động:
Có các chiến lược thu hút và giữ chân người lao động;
Đưa ra những chính sách ưu đãi dành cho người lao động có tay nghề cao;
Đảm bảo quyền lợi cho người lao động thông qua pháp luật.
- Nâng cấp các cơ sở hạ tầng của thị trường lao động:
Xây dựng và tổ chức các cơ sở dạy nghề cho người lao động;
Thường xuyên tổ chức các hội chợ việc làm giúp cho người lao động dể
dàng tìm kiếm được việc làm thích hợp.
Xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất tạo nhiều việc làm cho người lao động;
Đảm bảo công ăn việc làm chổ ở cho người lao động được ổn định: xây
dựng thêm các khu nhà tập thể dành công nhân và lao động phổ thông.
- Tạo nên mối quan hệ hài hòa trong quan hệ lao động giữa người sử dụng lao
động và người lao động.
- Nâng cao năng lực bộ phận hoạch định và quản trị chiến lược, hệ thống thanh
tra lao động và đánh giá.
2.2 Mục tiêu lâu dài
Sau khủng hoảng kinh tế thế giới đã tạo ra một làn sóng suy thoái toàn
cầu. Tuy nhiên, đây chính là cơ hội cho nền kinh tế thế giới bắt đầu một tái cấu
trúc mới, các sản phẩm và công nghệ sử dụng nhiều lao động sẽ được dịch
chuyển nhiều hơn sang các nước đang phát triển và các trung tâm kinh tế lớn…
Và nó được nhận định là sẽ có những quá trình thay đổi về chất trong chuyển
đổi việc làm, hướng tới việc làm có năng suất và hiệu quả cao hơn trong các
ngành sản xuất, chế tạo, dịch vụ. Vì vậy, trong những năm tiếp theo nhằm để
đảm bảo cán cân cung - cầu lao động được cân bằng thì thành phố cần phải có
những mục tiêu và chiến lược tương đối lâu dài và hiệu quả như: SVTH: 28
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
+ Đưa ra chiến lược việc làm với mục tiêu là “việc làm đầy đủ và hiệu
quả”, sử dụng những công cụ kinh tế vĩ mô, tập trung vào phía cầu lao động là chủ yếu.
+ Thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực sử dụng những công cụ
giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, tập trung vào chất lượng và cơ cấu
cung lao động là chủ yếu.
+ Phát triển thị trường lao động một cách đồng bộ, đồng thời kết hợp với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với mục tiêu tập trung cải thiện kết nối
cung - cầu lao động, nhằm tăng khả năng có việc làm bền vững và giảm thất
nghiệp, thiếu việc làm cho người lao động.
+ Cần phải xác định rõ: nếu thành phố tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao
động thì chú trọng vào đẳng cấp lao động có chuyển môn – kỹ thuật cao để
được quốc tế thừa nhận. Ngược lại, nếu xác định là nhập khẩu lao động thì phải
có những quy định, mục đích tiếp nhận rõ ràng, cụ thể: tiếp nhận những đối
tượng lao động nào, những lao động mình cần chứ không phải lao động mà các nước thừa.
+ Cân đối hài hoà an ninh – linh hoạt và hỗ trợ các nhóm yếu thế hoà
nhập thị trường lao động. 3. Thách thức 3.1 Trong nước
Kinh tế Việt Nam đang phát triển. Thành Phố Hồ Chí Minh với vai trò là
trung tâm kinh tế. Sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của thành
phố Hồ Chí Minh là quá trình phát triển toàn diện các thị trường trong đó có
nền tảng quan trọng là thị trường lao động. Tuy nhiên, thị trường lao động
thành phố Hồ Chí Minh vẫn gặp nhiều thách thức như:
- Thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh với nhu cầu lao động ngày
càng yêu cầu cao về số lượng và chất lượng nhưng nguồn nhân lực do phân bố
không đồng đều, chênh lệch thu nhập và mức sống dân cư sẽ luôn biến động.
Mức độ dịch chuyển lao động, thay thế chỗ làm việc sẽ diễn ra ở mức độ cao từ
25 đến 30% tổng nguồn nhân lực.
- Mức độ chênh lệch giữa chất lượng nguồn nhân lực và nhu cầu việc làm
còn lớn đặc biệt là kỹ năng nghề. Người chọn đúng nghề và kỹ năng nghề sẽ có
nhiều cơ hội việc làm phù hợp với xu hướng đổi mới công nghệ, nâng cao quản
lý của thị trường lao động.
- Chất lượng nghề vẫn là vấn đề phải tích cực hoàn thiện. Nguồn nhân lực
có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn giỏi vẫn không đủ đáp ứng thị trường lao động.
- Giá nhân công của thị trường lao động vẫn chưa đáp ứng được giá trị
sức lao động và mức sống của dân cư nhất là lao động nghèo, có hoàn cảnh
khó khăn, trình độ nghề giản đơn dẫn đến tình trạng lao động trong các doanh
nghiệp vừa thiếu vừa thừa trong khi đó lực lượng lao động khu vực phi chính SVTH: 29
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
thức, lao động cá thể, tự tạo việc làm vẫn chiếm số lượng lớn (trên 40% tổng
số lao động đang làm việc) cần thiết nhu cầu nguồn nhân lực hỗ trợ của nhà nước và xã hội.
- Các cơ sở đào tạo chưa đủ điều kiện để nhanh chóng nâng cao chất
lượng đào tạo thích ứng với nhu cầu thị trường lao động đặc biệt về kỹ năng
nghề, kinh nghiệm làm việc và ngoại ngữ. Vấn đề này không chỉ là trách nhiệm
của các cơ sở đào tạo nghề mà nguồn nhân lực phải được chuẩn bị từ các bậc
học văn hóa phổ thông và tự rèn luyện khi vào học nghề.
- Cơ sở đào tạo và người học nghề rất khó tiếp cận với các doanh nghiệp
trong quá trình đào tạo để thực hành nghề.
- Đa số doanh nghiệp chưa hoạch định được yêu cầu trung hạn và dài hạn
về nhu cầu nhân lực cụ thể, vì vậy chưa gắn kết được với cơ sở đào tạo. Các
tiêu chí tuyển dụng của doanh nghiệp thường xuất phát theo thực tế tổ chức sản
xuất kinh doanh và thường thay đổi theo hiệu quả sản xuất kinh doanh đạt
được đồng thời nhiều doanh nghiệp còn tư tưởng cho là thị trường lao động rất
dồi dào nhiều nguồn nhân lực.
- Đối với người học nghề đa số chọn nghề theo thị hiếu, theo giá trị bằng
cấp, tiền lương và thiếu thông tin về thị trường lao động, ngành nghề, công việc làm.
- Giữa đào tạo và giới thiệu việc làm thể hiện sự đào tạo một nghề, giới
thiệu làm nhiều nghề khác nhau, chỉ cần thu nhập và thuận lợi trong làm việc.
- Mặc dù hệ thống thông tin thị trường lao động đã được hình thành
nhưng chưa có độ bao phủ rộng khắp, thông tin chưa đa dạng, chưa hấp dẫn
người lao động, cũng như chưa tạo niềm tin cho chủ sử dụng.
Ngoài ra, vấn đề quản lý Nhà nước cũng là một trong những nguyên nhân. Sự
giám sát, kiểm soát thị trường lao động vẫn chưa được chặt chẽ.
Số liệu khảo sát của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy, hiện nay
nhiều doanh nghiệp không đăng ký sổ lao động cho công nhân. Cụ thể, tại
thnh2 phố Hồ Chí Minh năm 2007, khu vực Nhà nước số lao động được cấp sổ
chiếm 5,76%, con số này tại cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể và hộ gia đình
chỉ 1,03%. Doanh nghiệp đăng ký sổ lao động thấp, dẫn đến việc cơ quan quản
lý không nắm được lực lượng lao dộng, không có thông tin đầy đủ khiến các
ngành, các cấp không kịp điều tiết nguồn nhân lực giữa các ngành, vùng và các địa phương. 3.2 Ngoài nước
Khi nước ta đã là thành viên WTO sự tác động của thị trường thế giới vào
thị trường lao động Việt Nam mạnh mẽ hơn. Điều này làm cho sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt hơn, kể cả thị trường lao động trong nước, khu vực và quốc
tế. Vì thế, cơ hội thu hút các nguồn đầu tư, tạo việc làm tăng, nhưng tính chất
rủi ro trong lao động (thất nghiệp, mất việc làm…) cũng sẽ gia tăng do bị tác
động bởi sự biến động của thị trường khu vực và quốc tế khó lường trước
được. Trong khi đó, hệ thống an sinh xã hội, bảo đảm việc làm trong nước
chưa được hoàn thiện so với yêu cầu. Trong lĩnh vực lao động - xã hội chúng SVTH: 30
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
ta không có các chính sách trợ cấp đèn đỏ. Đó là những trợ cấp bị cấm trong
WTO. Hay những trợ cấp đèn vàng là những trợ cấp mà phía đối tác có thể đưa
ra những biện pháp đối kháng. Những trợ cấp hiện nay nằm trong những chính
sách và chương trình về xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho những đối tượng
và những vùng khó khăn. Về bản chất, đó đều là những trợ cấp mang tính chất
xã hội, không mang tính chất kinh tế nên được coi là trợ cấp thuộc nhóm đèn
xanh là những trợ cấp được phép áp dụng trong WTO nên không phải điều chỉnh.
Ngoài ra, hội nhập cũng làm cho cơ hội việc làm có khả năng giảm ở một
số ngành được Nhà nước bảo hộ cũng như ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
Việc sử dụng lao động cũng đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn lao
động quốc tế đã đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng nguồn lao động để
đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư, doanh nghiệp. 4. Giải pháp
Một trong các điều kiện để phát triển thị trường lao động là tạo được sự
gắn kết cung – cầu (người lao động và người sử dụng lao động). Để đạt được
sự gắn kết này thành phố Hồ Chí Minh cần thiết tổ chức hệ thống phục vụ hữu
hiệu như: giáo dục, dạy nghề, dự báo nhu cầu nhân lực, thông tin thị trường lao
động, dịch vụ giới thiệu việc làm và cung ứng lao động…
4.1 Về hệ thống thông tin thị trường lao động
Thứ nhất, cần rà soát, quy hoạch hệ thống các trung tâm giới thiệu việc
làm, nâng cao tính chuyên nghiệp, phát triển mạng lưới giới thiệu việc làm
xuống tận thôn bản, có thể áp dụng theo 4 cấp hành chính từ trung ương đến
phường, xã. Tăng cường kết nối để tuyển lao động qua các kênh khác nhau như
qua các website về việc làm, báo chí, truyền hình…
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật để các doanh
nghiệp, nhất là các tập đoàn, tổng công ty lớn khi đầu tư các dự án lớn phải báo
cáo, dự kiến nhu cầu nhân lực và có kế hoạch chuẩn bị.Cùng với việc mở rộng,
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước cũng cần có chính sách giảm dần
quy mô doanh nghiệp siêu nhỏ (dưới 5 tỷ đồng vốn và dưới 10 lao động) để
nâng cao tính chuyên nghiệp, tăng dần mức đầu tư trang thiết bị và kiến thức cho người lao động.
4.2 Về hệ thống tiền lương – tiền công
Cải cách hệ thống trả công lao động theo hướng thị trường: đảm bảo tiền
công, tiền lương trở thành động lực khuyến khích người lao động nâng cao kỹ
năng nghề, năng suất lao động, kỷ luật lao động và đảm bảo cuộc sống. Các
doanh nghiệp cần phải thay đổi nhận thức để thích nghi với môi trường lao
động và xu thế phát triển của xã hội. Để mời gọi nhiều công nhân đến làm việc,
các DN cần cải thiện chế độ lương, thưởng, hậu đãi nơi ăn, ở, vui chơi giải trí,
du lịch… cho phù hợp hơn với tình hình hiện nay. Giải pháp nữa là dùng biện
pháp kinh tế kết hợp với xây dựng văn hóa doanh nghiệp để giữ chân lao động.
Ngoài việc nâng lương, phụ cấp ăn, ở, nhiều doanh nghiệp đã hướng đến cải SVTH: 31
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
thiện điều kiện làm việc, đặc biệt là không khí làm việc, để người lao động
nhận thấy họ được trọng dụng. 4.3 Về đào tạo
Đào tạo và sử dụng lao động là mối quan hệ chặt chẽ; đào tạo chất lượng
cao sẽ thúc đẩy sử dụng lao động và sản xuất, kinh doanh phát triển. Sử dụng
lao động có hiệu quả thúc đẩy phát triển đào tạo, nâng cao chất lượng, hỗ trợ
đào tạo phát triển. Để tạo sự gắn kết đào tạo và việc làm theo nhu cầu xã hội
cần phải có một quá trình với nhiều giải pháp tích cực thúc đẩy thị trường lao
động phát triển. Công tác đào tạo nghề cần chuyển từ hướng cung sang hướng
cầu của thị trường lao động, phát triển dạy nghề gắn chặt với yêu cầu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội,
nâng cao khả năng phục vụ cuộc sống cộng đồng. Cùng với đó, chính sách dạy
nghề cũng cần theo sát sự chuyển đổi của thị trường lao động.
4.3.1 Đối với nhà trường, cơ sở đào tạo:
Cần tăng cường tiếp cận thông tin nhu cầu nhân lực trong xã hội về cơ
cấu, trình độ nghề, ngành nghề, quy mô, số lượng. Đây cũng là trách nhiệm của
các tổ chức dự báo nhu cầu nhân lực, thông tin thị trường lao động, giới thiệu
việc làm góp phần với nhà trường, cơ sở đào tạo. Nắm được thông tin về người
học, nhu cầu việc làm, điều kiện và khả năng học, tư vấn, hỗ trợ đào tạo; Gắn
bó với doanh nghiệp, xã hội trong quá trình đào tạo như mời doanh nghiệp
tham gia đào tạo, hỗ trợ thực tập, nội dung đào tạo, phối hợp đào tạo theo kế
hoạch. Mở rộng thông tin cho xã hội, doanh nghiệp, người lao động về hoạt
động đào tạo của nhà trường, cơ sở đào tạo. Đồng thời, phát triển mạnh các
hoạt động quan hệ doanh nghiệp và kế hoạch thực tập cho sinh viên, học sinh ;
Thường xuyên tổ chức hoạt động thông tin thị trường lao động; ngày hội nghề
nghiệp – việc làm, hoạt động giới thiệu việc làm cho học viên chú trọng việc
làm bán thời gian, thời vụ.
4.3.2 Đối với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất – kinh doanh
Chú trọng xây dựng kế hoạch nhân lực trung hạn và dài hạn về cơ cấu
ngành nghề, quy mô, chất lượng và thông tin về nhu cầu xã hội. Xây dựng
những chính sách về tiền lương và khen thưởng thu hút nhân lực phù hợp thực
tế đời sống xã hội và giá trí sức lao động, đặc biệt đối với lực lượng lao động
kỹ thuật, lao động phổ thông. Tăng cường quan hệ với nhà trường, cơ sở đào
tạo để đặt yêu cầu và hợp đồng nhân lực. Đồng hành cùng với nhà trường, cơ
sở đào tạo trong quá trình đào tạo. Phối hợp với nhà trường, cơ sở đào tạo tổ
chức đào tạo và có chương trình đào tạo, bồi dưỡng tiếp tục đối với người học
nghề vào làm tại doanh nghiệp theo đặc điểm của doanh nghiệp. Phối hợp với
nhà trường, cơ sở đào tạo về các hoạt động thông tin thị trường lao động, ngày
hội việc làm, hỗ trợ học tập.
4.3.3 Đối với người lao động (học viên - sinh viên)
Tìm hiểu thị trường lao động, doanh nghiệp, nhà trường, cơ sở đào tạo để
biết nhu cầu việc làm, điều kiện làm việc, ngành nghề đào tạo. Chọn nghề, việc
làm, ngành nghề, bậc học phù hợp năng lực, sở trường, điều kiện học tập. Tự SVTH: 32
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
rèn luyện kỹ năng nghề, ngoại ngữ; Xác định nghề nghiệp là yêu cầu học tập
suốt đời. Xây dựng được giá trị năng lực hành nghề. Ngoài ra, người lao động
nên đến những trung tâm giới thiệu việc làm của Nhà nước và các doanh
nghiệp được Nhà nước cấp phép hoạt động để được tư vấn, giới thiệu; chọn lọc
thông tin khi tiếp cận các cơ hội việc làm; tìm hiểu kỹ về việc làm, cơ quan,
doanh nghiệp xin ứng tuyển để có sự chuẩn bị tốt khi được phỏng vấn…
Đồng thời để tạo sự gắn kết đào tạo – việc làm theo nhu cầu xã hội còn
những yêu cầu về hiệu quả quản lý nhà nước; năng lực hoạt động hữu hiệu của
các tổ chức giới thiệu việc làm và các đoàn thể, tổ chức xã hội. 4.4 Về pháp luật
Hoàn thiện hệ thống thể chế thị trường lao động, hoàn thiện chính sách,
pháp luật về thị trường lao động tạo hành lang pháp lý, bảo đảm bình đẳng hài
hòa lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động và lợi ích chung.
Ngoài ra, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện Bảo hiểm thất nghiệp cho người lao
động, nhất là phải tạo thêm nhiều cơ hội việc làm đồng thời gắn với giải quyết
chính sách đối với bô phận lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
II. Nhận xét và một số kiến nghị 1. Nhận xét
Mặc dù mới được công nhận và bước đầu đi vào hoạt động, thị trường lao
động ở nước ta đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Do đây là thị
trường của loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động, và do còn đang
trong giai đoạn hình thành, nên bên cạnh những tiến bộ bước đầu, thị trường
lao động ở nước ta vẫn còn tiềm ẩn trong mình nhiều hạn chế và khiếm khuyết.
Tổng quan về thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và
những năm tới có sự chuyển động mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, nhằm
đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt vượt qua thời kỳ
khó khăn về kinh tế và việc làm. Việc chuyển dịch của thị trường lao động dẫn
đến nhiều người phải chuyển sang công việc khác hoặc tái thất nghiệp, làm cho
nhiều doanh nghiệp luôn trong tình trạng thiếu và thừa nhân lực, việc đào tạo
nghề để cung ứng nhân lực tiếp tục còn nhiều hạn chế do chưa đủ thông tin thị
trường lao động nên các trường dạy nghề chưa dự báo và hoạch định chiến
lược đào tạo gắn kết việc làm và các tổ chức giới thiệu việc làm không cập
nhật kịp thời thông tin thị trường lao động để hoạt động có hiệu quả cao.
Xu hướng phát triển thị trường lao động thành phố vẫn có đặc điểm cơ bản là:
- Lao động vừa thiếu vừa thừa: Thiếu những ứng viên thích hợp cho
những vị trí quan trọng dù nguồn nhân lực có nhu cầu tìm việc làm lúc nào
cũng thừa, còn nhiều người phải thất nghiệp luôn tìm kiếm việc làm hoặc mất
việc làm do ngành nghề thu hẹp, doanh nghiệp giải thể, chuyển sang hoạt động
sản xuất – kinh doanh khác. SVTH: 33
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
- Lực lượng lao động khu vực phi chính thức, tự tạo việc làm vẫn chiếm
số lượng lớn, cần thiết nhu cầu nguồn lực hỗ trợ của nhà nước và xã hội.
- Giá cả nhân công trên thị trường lao động nhìn chung vẫn còn thấp, lực
lượng lao động vẫn trong tình trạng dư thừa, yêu cầu cao các giải pháp chuẩn
bị cho sự chuyển tiếp như đào tạo trình độ kỹ thuật cao phù hợp với công nghệ mới.
- Các doanh nghiệp tăng cường sử dụng lao động không thường xuyên:
nhân lực sẽ luôn được đào tạo và tuyển mới để thay thế các vị trí không còn
phù hợp; yêu cầu chính là nguồn nhân lực năng động và đã qua đào tạo.
- Đối với người lao động sự cạnh tranh chỗ làm việc gay gắt hơn, công
bằng hơn và trong môi trường mở rộng toàn xã hội. yêu cầu người lao động
phải tự đào tạo nghề và các kỹ năng để thích nghi với công việc.
- Vấn đề quan tâm nhất của người lao động đặc biệt lực lượng sinh viên,
học sinh là năng lực về ngoại ngữ, khả năng hợp tác, khả năng làm việc trong
môi trường đa văn hóa và tác phong làm việc công nghiệp.
- Hạn chế về công tác quản lý nguồn nhân lực và thành phố vẫn chưa tổ
chức được hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động
một cách chính xác. Chính từ việc chưa thực hiện tốt công tác dự báo cụ thể về
số lượng ngành nghề, trình độ, kỹ năng của lực lượng lao động và chưa thực
hiện được việc thống kê, phân tích nhu cầu nhân lực của nhà tuyển dụng nên
đào tạo chưa định hướng và chưa gắn với nhu cầu của thị trường lao động;
người lao động tìm việc làm thiếu thông tin về việc làm, người sử dụng lao
động thiếu thông tin về cung – cầu lao động ảnh hưởng đến đầu tư sản xuất –
kinh doanh và phát triển nguồn nhân lực thành phố.
2. Một số kiến nghị
- Thực hiện chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ với chính sách ưu đãi như vay vốn với lãi suất thấp, miễn thuế nhằm tạo ra việc làm.
- Hỗ trợ các hoạt động tạo việc làm ở khu vực phi chính thức và những
người lao động tự tìm việc làm thông qua chương trình mục tiêu quốc gia.
- Tạo hành lang pháp lý thông thoáng nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
- Có chính sách hỗ trợ các trung tâm dạy nghề và trung tâm giới thiệu việc làm. SVTH: 34
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN PHẦN: KẾT LUẬN
Yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đang
đặt ra nhiệm vụ là phải đổi mới chính sách kinh tế - xã hội, hoàn thiện và đồng
bộ hệ thống thị trường, trong đó có thị trường lao động để tạo ra cơ sở thuận
lợi cho việc vận hành hiệu quả nền kinh tế.
Cải cách kinh tế các năm qua đã đem lại những thay đổi toàn diện, sâu
sắc, có tính đột phá liên quan đến phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo việc làm
và không ngừng nâng cao thu nhập, mức sống cho người lao động. Thị trường
lao động được công nhận về mặt pháp luật và đang trong quá trình hình thành,
phát triển, sức lao động trở thành một loại hàng hóa. Người lao động được tự
do tìm việc làm và người sử dụng lao động được quyền thuê mướn lao động.
Thị trường lao động nước ta đang từng bước có mối liên hệ hội nhập với thị
trường lao động khu vực và quốc tế, tạo thêm khả năng tăng cầu về lao động và
nâng cao thu nhập cho người lao động. Cùng với xu thế phát triển đó thị trường
lao động thành phố Hố Chí Minh cũng có những bước phát triển vượt bậc.
Tuy nhiên, hiện nay thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh vẫn đang
có sự mất cân đối lớn về cung cầu lao động, áp lực về cầu lao động lớn. Trong
khi đó, hệ thống chính sách và môi trường cho sự hoạt động và phát triển của
thị trường lao động vẫn còn nhiều bất cập. Do đó, việc phân tích thực trạng
cung cầu và đưa ra giải pháp khắc phục sự mất cân đối cung cầu và giải pháp
phát triển thị trường lao động của thành phố Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết
hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh thị trường lao động nước ta ngày càng hội
nhập sâu rộng vào thị trường lao động quốc tế.
Bài phân tích trên chính là những kết luận được dựa trên kết quả
nghiên cứu phân tích thị trường lao động của thành phố. Từ đó ta thấy được
thực trạng cung cầu lao động thành phố hiện nay đang mất cân đối nghiêm
trọng, cung không đủ cầu. Các giải pháp nhóm em đưa ra đứng trên quan điểm
kinh tế - xã hội nhằm giúp thị trường lao động thành phố phát triển hoàn thiện
hơn. Do kiến thức vẫn còn hạn chế nên đây cũng chỉ là những góp ý của cá
nhân nhóm em nên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì thế chúng em rất mong
được thầy và các bạn đóng góp ý kiến, giúp chúng em sửa chữa các nhược
điểm đó để bài viết được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! SVTH: 35
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN Mục Lục LỜI MỞ ĐẦU 1 PHẦN MỞ ĐẦU 3 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Mục tiêu nghiên cứu 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 4. Số liệu 5
5. Phương pháp nghiên cứu 5 6. Kết cấu 5 PHẦN NỘI DUNG 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN I. Một số khái niệm 7 1. Thị trường lao động 7 2. Cung lao động 8 3. Cầu lao động 8 4. Quan hệ lao động 9
II. Các vấn đề mang tính lý luận liên quan đến cung cầu lao động 10 1. Kinh tế - xã hội 10 2. Pháp luật Nhà Nước 10 3. Đào tạo 12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG TẠI
THÀNH PHỐ HỐ CHÍ MINH
I. Thực trạng cung cầu lao động cả nước 13
II. Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh 15
III. Thực trạng cung cầu lao động ở thành phố Hồ Chí Minh 17 1. Về cung lao động 17
1.1 Cung lao động xét từ giác độ số lượng 17
1.2 Cung lao động xét từ giác độ chất lượng 19
1.3 Thực trạng cung lao động thành phố năm 2010 20 2. Về cầu lao động 21 SVTH: 36
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN
2.1 Thực trạng cầu lao động quý I năm 2010 24
2.2 Thực trạng cầu lao động quý II năm 2010 25
2.3 Dư báo cầu lao động quý III năm 2010 26
2.4 Nghịch lý cung – cầu lao động thành phố Hồ Chí Minh 28
2.4.1 Lao đao: người tìm việc 28
2.4.2 Nghịch lý: việc tìm người 29
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
I. Phương hướng, mục tiêu, thách thức và giải pháp cho vấn đề cung cầu
lao động tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. 30 1. Phương hướng 30
2. Mục tiêu về cung - cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh 30 2.1 Mục tiêu trước mắt 31 2.2 Mục tiêu lâu dài 31 3. Thách thức 32 3.1 Trong nước 32 3.2 Ngoài nước 34 4. Giải pháp 34
4.1 Về hệ thống thông tin thị trường 35
4.2 Về hệ thống tiền lương – tiền công 35 4.3 Về đào tạo 35
4.3.1 Đối với nhà trường, cơ sở đào tạo 36
4.3.2 Đối với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất – kinh doanh 36
4.3.3 Đối với người lao động( học sinh – sinh viên) 36 4.4 Về pháp luật 37
II. Nhân xét và một số đề nghị 37 1. Nhận xét 37 2. Một số kiến nghị 38 PHẦN KẾT 39 SVTH: 37