Tiểu luận phân tích các quy định của pháp luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường môn Luật kinh tế 3| Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Xã hội ngày càng phát triển đồng nghĩa với nền kinh tế cũng ngàycàng phát triển nhiều công ty ra đời và nhiều bộ luật liên quan đến quản lý kinh tế đối với các doanh nghiệp được nhà nước thông qua điển hình là luật cạnh trạnh . Luật canh trạnh giúp cho môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trở lên lành mạnh hơn đồng thời cũng tránh tình trạng độc quyền trên thị trường giúp bảo vệ nền kinh tế , các doanh nghiệp và người tiêu dùng . Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46836766
Họ và Tên : Lại Mạnh Tùng Lớp : QL25.15 Mã Sinh Viên : 2520230076
Tiểu luận luật kinh tế 3
Tiểu luận phân tích các quy định của pháp luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường . Bài Làm Mục lục
• 1. Khái niệm và đặc trưng của Luật cạnh tranh
• 1.1 Khái niệm về cạnh tranh
• 1.2 Những đặc trưng cơ bản của cạnh tranh
• 1.3 Ý nghĩa của cạnh tranh
• 2. Các hình thức tồn tại của cạnh tranh
• 2.1 Cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước
• 2.2 Cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền
• 2.3 Cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh Lời mở đầu
Xã hội ngày càng phát triển đồng nghĩa với nền kinh tế cũng ngày càng phát triển nhiều
công ty ra đời và nhiều bộ luật liên quan đến quản lý kinh tế đối với các doanh nghiệp
được nhà nước thông qua điển hình là luật cạnh trạnh . Luật canh trạnh giúp cho môi
trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trở lên lành mạnh hơn đồng thời cũng tránh
tình trạng độc quyền trên thị trường giúp bảo vệ nền kinh tế , các doanh nghiệp và người tiêu dùng .
1. Khái niệm và đặc trưng của Luật cạnh tranh
1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Với đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam thực sự thực thi những nguyên lý
của cơ chế thị trường chưa từng được biết đến trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Chúng ta đã dần quen với việc vận dụng một động lực mới có sự phát triển là cạnh tranh. lOMoAR cPSD| 46836766
Cạnh tranh đã đem lại cho thị trường và đời sống xã hội một diện mạo mới, linh hoạt, đa
dạng, phong phú và ngày càng phát triển, đồng thời cũng làm này sinh nhiều vấn đề xã
hội mà trước đây người ta chỉ tìm thấy trong sách vở, như phá sản, kinh doanh gian dối,
cạnh tranh không lành mạnh. Qua hơn 20 năm phát triển nền kinh tế thị trường, cạnh
tranh đã không có mới mẻ trong đời sống kinh tế xã hội và trong nền khoa học pháp lý
của Việt Nam. Song trong quá trình công tác lập pháp và thực thi pháp luật cạnh tranh,
chúng ta còn quá ít kinh nghiệm Vì thế việc hệ thống hóa các lý thuyết cạnh tranh mà các
nhà kinh tế học, các nhà khoa học pháp lý đã xây dựng qua gần 5 thế kỷ của nền kinh tế
thì trường là điều cần thiết.
Cho đến thời điểm hiện tại pháp luật vẫn chưa có định nghĩa cụ thể về cạnh tranh, các
nhà khoa học dường như chưa thể thỏa mãn với bất cứ khái niệm nào về cạnh tranh.
Bởi lẽ với tư cách là một hiện tượng xã hội riêng có của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh
xuất hiện ở mọi lĩnh vực, mọi công đoạn của quá trình kinh doanh và gắn liền với bất cứ
chủ thể nào đang hoạt động trên thị trường. Do đó cạnh tranh được nhìn nhận ở nhiều
góc độ khác nhau tùy thuộc vào ý định và hướng tiếp cận của các nhà khoa học.
1.2 Những đặc trưng cơ bản của cạnh tranh
Cạnh tranh được mô tả bởi các đặc điểm sau:
* Thứ nhất: Cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh
Với tư cách là một hiện tượng xã hội, cạnh tranh chỉ xuất hiện khi tồn tại những tiền lệ nhất định sau đây: -
Có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các hình
thức sở hữu khác nhau. Kinh tế học đã chỉ rõ cạnh tranh là hoạt động của các chủ thể
kinh doanh nhằm tranh giành hoặc mở rộng thị trường, đòi hỏi phảu có sự tồn tại của
nhiều doanh nghiệp trên thị trường. Một khi trong một thị trường nhất định nào đó chỉ có
một doanh nghipeej tồn tại thì chắc chắc nới đó sẽ không có đất cho cạnh tranh nảy sinh
và phát triển. Mặt khác, khi có khi có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp, song chúng chỉ
thuộc về một thành phần kinh tế duy nhất thì sự cạnh tranh chẳng có ý nghĩa gì. Cạnh
tranh chỉ thực sự trở thành động lực thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh tốt hơn nếu
các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau với những lợi ích và tính toán khác nhau. -
Cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể có quyền tự do hành xử trên thị
trường. Tự do khế ước, tự do lập hội và tự chịu trách nhiệm sẽ đảm bảo cho các doanh
nghiệp có thể chủ động tiến hành các cuộc tranh giành để tìm các cơ hội phát triển trên
thương trường. Mọi kế hoạch sắp đặt và các hành vi ứng xử cho dù được thực hiện với
mục đích gì đi nữa đều hạn chế khả năng sáng tại trong kinh doanh. *
Thứ hai: Về mặt hình thức cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các doanh nghiệp. lOMoAR cPSD| 46836766
Nói cách khác cạnh tranh suy cho cùng là các phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi
ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của người tiêu dùng. Trong
kinh doanh, lợi nhuận là động lực cho sự gia nhập thị trường, là thước đo sự thành đạt
và là mục đích hướng đến của các doanh nghiệp. Hình ảnh của cạnh tranh sẽ được minh
họa bằng quan hệ tay ba giữa các doanh nghiệp với nhau và với khách hàng. Các doanh
nghiệp đua nhau lấy lòng khách hàng. Khách hàng là người có quyền lựa chọn người sẽ
cung ứng sản phẩm cho mình. Quan hệ này cũng sẽ được mô tả tương tự khi các doanh
nghiệp cũng nhau tranh giành một nguồn nguyên liệu. Hiện tương tranh đua như vậy
được kinh tế học gọi là cạnh tranh trong thị trường. Từng thủ đoạn được sử dụng để
ganh đua được gọi là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp. *
Thứ ba: Mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng tranh giành thị
trường mua hoặc bán sản phẩm
Với sự giục giã của lợi nhuận, nhà kinh doanh khi tham gia vào thị trường luôn ganh đua
để có thể tranh giành các cơ hội tốt nhất nhằm mục đích mở rộng thị trường. Với sự giúp
đỡ của người tiêu dùng, thị trường sẽ chọn ra người thắng cuộc và trao cho họ lợi ích mà họ mong muốn.
1.3 Ý nghĩa của cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là cốt vaantj chất, giá cả là diện mạo
thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường. Nhờ có sự cạnh tranh, với sự thay đổi liên tục
về nhu cầu và với bản tính tham lam của con người mà nền kinh tế thị trường đã đem lại
những bước phát triển nhảy vọt mà loài người chưa từng có được trong các hình thái
kinh tế trước đó. Sự ham muốn không có điểm dừng đối với lợi nhuận của nhà kinh
doanh sẽ mau chóng trở thành động lực thúc đẩy họ sáng tạo không mệt mỏi, làm cho
cạnh tranh trở thành động lực của sự phát triển. Theo đó cạnh tranh có những vai trò cơ bản sau đây:
- Cạnh tranh đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng;
- Cạnh tranh có vai trò điều phối các hoạt động kinh doanh trên thị trường;
- Cạnh tranh đảm bảo cho sự việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một cách hiệu quả nhất;
- Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong kinh doanh;
- Cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, là nguồn gốc của sự đổi mới liên tục trong đời sống kinh tế - xã hội.
Với ý nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, cạnh tranh luôn là đối
tượng được pháp luật và các chính sách kinh tế quan tâm. Sau vài thế kỷ thăng trầm của
nền kinh tế thị trường và với sự chấm dứt của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, con
người ngày càng nhận thức được sự đúng đắn hơn về bản chất và ý nghĩa của cạnh
tranh đối với sự phát triển chung của đời sống kinh tế. Do đó đã có nhiều nỗ lực xây lOMoAR cPSD| 46836766
dựng và tìm kiến những cơ chế thích hợp để duy trì và bảo vệ cho cạnh tranh được diễn
ra theo đúng chức năng của nó.
2. Các hình thức tồn tại của cạnh tranh
2.1 Cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước
Dựa vào vai trò điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh được chia thành hai loại: Cạnh tranh
tự do và cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước.
- Cạnh tranh tự do :
Lý thuyết về cạnh tranh tự do ra đời vào thời kỳ giá cả tự do vận động lên xuống theo sự
chi phối của quan hệ cung cầu, của các thế lực thị trường. Cùng với chủ nghĩa tự do
trong thương mại, lý thuyết tự do cạnh tranh là ngọn cờ đấu tranh trước những nguy cơ
can thiệp thô bạo từ ohias công quyền vào đời sống kinh doanh, từ đó tạo môi trường
cho chủ nghĩa tư bản phát triển trong những thời kỳ đầu của chúng. Ở một chừng mực
nhất định, các quan điểm về tự do cạnh tranh đã tôn sùng và tạo điều kiện cho sự sáng
tạo của con người vượt ra những quan niệm cổ hủ của tư tưởng phong kiến trọng nông.
- Cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước :
Khác với cạnh tranh tự do, cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước là hình thức cạnh
tranh mà ở đó nhà nước bằng các chính sách và công cụ pháp luật can thiệp vào đời
sống thị trường để điều tiết, hướng các quan hệ cạnh tranh vận động và phát triển trong
một trật tự, đảm bảo sự phát triển công bằng và lành mạnh.
2.2 Cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền
Căn cứ vào tính chất mức độ biểu hiện, cạnh tranh được chia thành cạnh tranh hoàn
hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền
- Cạnh tranh hoàn hảo :
Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà ở đó người mua và người bán đều
không có khả năng tác động đến giá cả của sản phẩm trên thị trường. Trong hình thái thị
trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả của sản phẩm hoàn toàn do quan hệ cung cầu, quy
luật giá trị quyết định; không có sự tồn tại của bất cứ khả năng hay quyền lực nào có thể
chi phối các quan hệ trên thị trường.
- Cạnh tranh không hoàn hảo :
Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản
xuất mà ở đó. các doanh nghiệp phân phối hoặc sản cuất có đủ sức mạnh và thế lực để
có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường.
- Cạnh tranh mang tính độc quyền :
Cạnh tranh mang tính chất độc quyền là hình thức cạnh tranh sản phẩm, mà mỗi doanh
nghiệp đều có mức độ độc quyền nhất định vì học có sản phẩm của riêng mình. Mặc dù lOMoAR cPSD| 46836766
các sản phẩm trên thị trường đều có thể thay thế nhau song các doanh nghiệp luôn nỗ
lực thực hiện cá biệt hóa sản phẩm của mình. Sự thành công trong việc dị biệt hóa sản
phẩm phù hợp với sự đa dạng và tính hay thay đổi của nhu cầu thị trường quyết định
mức độ độc quyền và thành công của doanh nghiệp.
2.3 Cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh
Dựa vào tính lành mạnh và sự tác động của hành vi đối với thị trường, các hành vi cạnh
tranh được chia thành 3 loại: Cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh.
- Hành vi cạnh tranh lành mạnh :
Trong khoa học pháp lý chưa hề có bất kỳ một khái niệm nào về cạnh tranh lành mạnh.
Tuy nhiên các nhà khoa học pháp lý cũng có một sự thống nhất khi đưa ra những đặc
trung của cạnh tranh lành mạnh như sau:
• Cạnh tranh bằng tiềm năng vốn của doanh nghiệp
• Có mục đích thu hút khách hàng
• Không trái pháp luật và tập quán kinh doanh lành mạnh.
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh :
Cạnh tranh không lành mạnh là hành vi:
• Nhằm mục đích cạnh tranh phát sinh trong kinh doanh
• Trái với pháp luật cạnh tranh hoặc tập quán kinh doanh thông thườ ệt hại
cho đối thủ hoặc khách hàng.
- Hành vi hạn chế cạnh tranh :
Là hành vi gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh, bao gồm
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền.
*Hành vi lạm dụng thị trường thống lĩnh
Luật cạnh tranh năm 2018 khẳng định các hành vi lạm dụng vị trí thông lĩnh thị trường
được coi là hành vi hạn chế cạnh tranh vì những hành vi này làm giảm, sai lệch và cản
trở cạnh tranh trên thị trường. Căn cứ quy định tại Điều 11 Luật cạnh tranh năm 2018
thì: doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở
lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng
kể; nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động
nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp sau đây: hai doanh
nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan; ba doanh nghiệp có
tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan; bốn doanh nghiệp có tổng thị
phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan. lOMoAR cPSD| 46836766
Luật cạnh tranh 2018 không đưa ra một định nghĩa cụ thể về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh mà chỉ liệt kê nhưng hành vi bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh. Theo đó,
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường có thể hiểu là những hành vi do doanh
nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện nhằm củng cố
vị trí thống lĩnh bằng cách loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường; ngăn cản, kìm
hãm doanh nghiệp khác không cho gia nhập thị trường, phát triển kinh doanh dẫn đến
những sai lệnh về cạnh tranh trên thị trường hoặc nhằm thu lợi nhuận độc quyền bằng
cách bóc lột khách hàng.
Đối tượng mà các hành vi này hướng đến là đối thủ cạnh tranh. Những hành vi lạm
dụng này có thể không đem lại lợi ích vật chất trực tiếp nhưng tạo cơ hội cho doanh
nghiệp củng cố địa vị bằng cách loại bỏ đối thủ làm giảm bớt sức ép cạnh tranh, đồng
thời làm mất đi cơ hội có được sự lựa chọn trong giao dịch trên thị trường liên quan.
Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm được quy
định tại Điều 27 Luật canh tranh 2018; cụ thể doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường bị cấm thực hiện hành vi sau đây:
+ Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ; dẫn đến hoặc có khả năng
dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
+ Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý; hoặc ấn định giá bán lại tối
thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng.
+ Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường; cản trở sự phát
triển kỹ thuật, công nghệ gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng.
+ Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương; tự dẫn đến hoặc
có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc
loại bỏ doanh nghiệp khác.
+ Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa,
dịch vụ; hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không
liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến
ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác.
+ Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác.
+ Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm theo quy định của luật khác. Lời kết :
Ngày nay, việc bảo vệ quyền tự do cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh
đều được các quốc gia quan tâm, đặc biệt là để bảo đảm cấu trúc thị
trường, bảo vệ cơ chế cạnh tranh, vì thế pháp luật điều chỉnh hạn chế
cạnh tranh có xu hướng phát triển mạnh hơn và được xem là nền tảng của
pháp luật cạnh tranh. Có thể thấy, việc điều chỉnh bằng pháp luật hai bộ
phận: cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh không hoàn toàn lOMoAR cPSD| 46836766
giống nhau ở các quốc gia. Một số nước ban hành các đạo luật riêng để
chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát hành vi hạn chế
cạnh tranh (Đức, Trung Quốc) nhưng một số nước chỉ ban hành luật điều
chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh mà không có đạo luật riêng điều chỉnh
hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Mỹ, Thụy sỹ...). Ở những nước gần
đây mới chú trọng đến việc ban hành luật cạnh tranh như: Ba Lan, Cộng
hoà Séc, Bungari, Hàn Quốc, Đài Loan thì trong cùng một đạo luật chứa
đựng các quy phạm điều chỉnh cả hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh
tranh không lành mạnh, Luật cạnh tranh của Việt Nam năm 2004 cũng theo xu hướng này.