lOMoARcPSD| 59917604
TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
SAU
ĐẠI
HỌC
......................***......................
TIỂU
LUẬN
MỨC
ĐỘ
TẬP
TRUNG
CỦA
NHÓM
CÁC
DOANH
NGHIỆP
SẢN
XUẤT
GIƯỜNG
TỦ,
BÀN,
GHẾ
BẰNG
GỖ
GIAI
ĐOẠN
2015-2017
SỰ
PHỤ
THUỘC
CỦA
SẢN
LƯỢNG
VÀO
CÁC
YẾU
TỐ
ĐẦU
VÀO
GV
hướng
dẫn:
TS. Chu Thị Mai Phương
Nhóm
sinh
viên:
Nguyễn Minh Khánh
MSSV:
822050
822061
Trần Thu Hà
MSSV:
Nội
4/2023
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................3
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT.....................................................................................................5
1.1 Tổng quan ngành sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ............................................................5
1.1.1. Định nghĩa cấu trúc ngành...................................................................................5
1.1.2. Thực trạng ngành sản xuất đồ gỗ nội thất gỗ......................................................6
1.2 thuyết chung về đo lường mức độ tập trung thị trường...........................................8
1.2.1. Chỉ số HHI..................................................................................................................8
1.2.2. Chỉ số CR4................................................................................................................10
1.3 thuyết chung về hàm sản xuất...................................................................................11
1.3.1. Định nghĩa về hàm sản xuất Cobb-Douglas...........................................................11
1.3.2. Đặc điểm, công thức của hàm sản xuất Cobb-Douglas..........................................11
CHƯƠNG II. XỬ LÝ SỐ LIỆU VÀ TÍNH TOÁN CÁC CHỈ SỐ...................................................13
2.1 Cách xử số liệu.............................................................................................................13
2.2 Kết quả đo lường mức độ tập trung của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn,
ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017................................................................................................13
2.2.1. Kết quả chỉ số CR4...................................................................................................13
2.2.2. Kết quả chỉ số HHI...................................................................................................14
2.3 Kết quả đo lường sự phụ thuộc của sản lượng vào các yếu tố đầu vào các doanh
nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017......................................................14
2.3.1. Phương trình hàm sản xuất Cobb-Douglas............................................................15
2.3.2. Ý nghĩa của sự tác động của các yếu tố đầu vào đến sản lượng............................15
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...........................................................................16
3.1 Kết luận............................................................................................................................16
3.1.1. Mức độ tập trung của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ giai
đoạn 2015-2017.........................................................................................................................16
3.1.2. Sự phụ thuộc của sản lượng của các yếu tố đầu vào của nhóm các doanh nghiệp
sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017................................................................16
3.2 Khuyến ngh.....................................................................................................................16
3.2.1. Khuyến nghị cân nhắc khi gia nhập ngành............................................................16
3.2.2. Khuyến nghị về đảm bảo cạnh tranh nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp............................................................................................................................16
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, Việt Nam đang trên đà hội nhập và phát triển, đặt ra mục
tiêu trở thành nước ng nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng thị trường, hội nhập khu
vực. Với lợi thế đất nước giàu tài nguyên, nước ta đã đang đẩy mạnh phát triển
các ngành lâm, nông, thủy sản thế mạnh của mình, trong đó ngành gỗ. nhóm
ngành sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ một trong những nhóm ngành rất đáng được
quan tâm do các sản phẩm đồ nội thất gỗ từ xưa đến nay đều được người Việt Nam ưa
chuộng sử dụng. Kể cả khi trên thị trường đã thêm nhiều món đồ nội thất được sản
xuất từ các nguyên liệu khác nhưng đồ nội thất gỗ vẫn được ưu tiên lựa chọn hàng đầu.
Tuy nhiên, năm 2022 vừa qua, tốc độ tăng trưởng ngành gỗ chỉ đạt 7,1%. Đây
được xem năm khó khăn nhất từ trước đến nay đối với ngành gỗ với rất nhiều biến
động, từ chính trị thế giới, đến kinh tế toàn cầu khiến cho hoạt động giao thương, xuất
nhập khẩu bị ảnh hưởng.
Do đó, trong năm 2023, các doanh nghiệp trong ngành gỗ nói chung nhóm
ngành sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ cần sự nghiên cứu thấu hiểu về đặc điểm của
nhóm ngành mình tham gia đưa ra những kế hoạch hiệu quả nhằm nâng cao nâng
suất, sản lượng nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Xét thấy tầm quan trọng và nhận thấy những
khó khăn của ngành đang gặp phải, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn chủ đề tiểu luận:
“Mức độ tập trung của nhóm các doanh nghiệp sản xuất giường tủ, bàn, ghế bằng gỗ
giai đoạn 2015-2017 và sự phụ thuộc của sản lượng vào các yếu tố đầu vào”.
Bài tiểu luận nghiên cứu sử dụng phương pháp định ợng. Cụ thể, nhóm nghiên
cứu sử dụng doanh thu bán hàng của các doanh nghiệp để tính thị phần tương ng, từ
đó tính được các chỉ số CR4, HHI và rút ra kết luận về mức độ tập trung của nhóm các
doanh nghiệp thông qua việc. Đồng thời, cũng sử dụng các chỉ số về tài sản và lao động
để xây dựng hàm sản xuất Cobb-Douglas và suy ra sự phụ thuộc của sản lượng vào các
yếu tố đầu vào cùng với đó là các khuyến nghị tương ứng. Bài tiểu luận dùng bộ số liệu
của các doanh nghiệp nhóm ngành sản xuất giường tủ, bàn, ghế bằng gỗ (mã ngành:
31001) trong giai đoạn 2015 – 2017 với 702 bản ghi.
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm còn thể nhiều thiếu sót, mong xem
xét và góp ý để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I. SỞ THUYẾT
1.1 Tổng quan ngành sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ
1.1.1. Định nghĩa cấu trúc ngành
a) Định nghĩa về ngành sản xuất giường, tủ, bàn, ghế
Ngành này bao gồm: Sản xuất đồ đạc các thiết bị liên quan bằng các loại
chất liệu trừ đá, tông, gốm. Quá trình này được sử dụng trong sản xuất thiết bị nội
thất bằng phương pháp tiêu chuẩn lắp đặt vật liệu linh kiện, bao gồm cắt, đúc, dát.
Thiết kế các chi tiết, về cả thẩm mỹ chức năng, một nội dung quan trọng trong
quá trình sản xuất.
Một số công đoạn trong sản xuất thiết bị nội thất cũng tương tự như quá trình sản
xuất trong các công đoạn sản xuất khác. dụ, quá trình cắt lắp đặt trong sản xuất
gỗ được phân ngành 16 (Sản xuất gỗ các sản phẩm từ gỗ). Tuy nhiên, nhiều q
trình sản xuất phân biệt sản xuất thiết bị nội thất gỗ với sản xuất các sản phẩm gỗ.
Tương tự, sản xuất thiết bị nội thất kim loại sử dụng kỹ thuật sản xuất sản phẩm hình
cuộn được phân vào ngành 25 (Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc,
thiết bị)). Quá trình đúc thiết bị nội thất bằng nhựa cũng tương tự như đúc các sản phẩm
nhựa khác. Tuy nhiên, sản xuất thiết bị nội thất bằng nhựa có thể là một hoạt động đặc
biệt.
b) Định nghĩa và cấu trúc nhòm ngành sản xuất giường, tủ, bàn, ghế
Nhóm này gồm: Sản xuất đồ đạc các loại bằng gỗ ở mọi nơi và cho các mục đích
khác nhau. Cụ thể:
- Sản xuất ghế và chỗ ngồi bằng gỗ cho văn phòng, phòng làm việc, khách
sạn, nhà hàng, nơi công cộng và gia dụng;
- Sản xuất ghế và chỗ ngồi bằng gỗ cho nhà hát, rạp chiếu phim;
- Sản xuất ghế và chỗ ngồi cho thiết bị vận tải bằng gỗ;
- Sản xuất ghế xôfa, giường xôfa và bộ xôfa;
- Sản xuất ghế và chỗ ngồi bằng gỗ trong vườn;
- Sản xuất đồ nội thất bằng gỗ đặc biệt cho cửa hàng: quầy thu tiền, giá
trưng bày, kệ, ngăn, giá...
- Sản xuất đồ đạc văn phòng bằng gỗ;
- Sản xuất đồ đạc nhà bếp bằng gỗ;
- Sản xuất đồ đạc gỗ cho phòng ngủ, phòng khách, vườn...
- Sản xuất tủ gỗ cho máy khâu, tivi...
- Sản xuất ghế dài, ghế đẩu cho phòng thí nghiệm, chỗ ngồi khác cho phòng
thí nghiệm, đồ đạc cho phòng thí nghiệm (như tủ và bàn);
- Sản xuất đồ đạc bằng gỗ cho y tế, phẫu thuật, nha sĩ và thú y; - Sản xuất
đồ đạc bằng gỗ cho nhà thờ, trường học, nhà hàng.
Nhóm này cũng gồm:
- Hoàn thiện việc bọc ghế chỗ ngồi bằng gỗ bằng vật liệu dùng để bọc
đồ đạc;
- Hoàn thiện đồ gỗ nội thất như phun, vẽ, đánh xi và nhồi đệm;
- Sản xuất đồ đỡ đệm bằng gỗ;
- Gia công một số chi tiết cho sản phẩm tủ thờ.
1.1.2. Thực trạng ngành sản xuất đồ gỗ nội thất gỗ
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, diện tích rừng trồng tập trong 6 tháng đầu
năm 2022 ước đạt 119 nghìn ha tăng 3,1% so với ng kỳ năm trước. Số cây lâm
nghiệp trồng mới đạt gần 47 triệu cây tăng 6%; sản lượng củi khai thác đạt 9,5 triệu
ste tăng 0,6%; và khai thác gỗ đạt sản ợng gần 8.488 nghìn m3 – tăng 5,9%. Do nhu
cầu sản xuất, chế biến xuất khẩu gỗ tăng cao, từ đó dẫn đến hoạt động khai thác gỗ
đồng thời gia tăng, bên cạnh đó, việc giá xăng dầu liên tục leo thang dẫn đến chi phí
logistic tăng cao, chính vậy các doanh nghiệp chế biến gỗ đã chủ động m kiếm
nguồn nguyên liệu thay thế trong nước từ đó thúc đẩy hoạt động khai thác gỗ phát
triển mạnh.
Theo Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2021, tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động trong ngành đồ gỗ có kết quả sản xuất kinh doanh tại Việt Nam hiện nay là 5.338,
bao gồm các công ty nhà nước, công ty có vốn đầu nước ngoài (FDI) các doanh
nghiệp nhân. Doanh nghiệp tư nhân quy vốn nhỏ 1-5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ lớn nhất
với 33,6%, trong khi đó, các doanh nghiệp với quy mô vốn lớn (trên 200 tỷ đồng) chỉ
chiếm 4,4%.
Trong năm 2021, với những ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, sản xuất đồ
gỗ gặp nhiều khó khăn do Việt Nam áp dụng nhiều biện pháp giãn cách chặt chẽ, dẫn
tới năng suất giảm. Khảo sát nhanh tại Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai do 3 Hiệp
hội HAWA, BIFA DOWA đối với 265 doanh nghiệp thành viên cho thấy tình hình
sản xuất cụ thể của các doanh nghiệp trong giai đoàn này đều bị ảnh hưởng nặng nề.
Hình 1. Kết quả khảo sát 265 doanh nghiệp sản xuất gỗ trong tình hình dịch
bệnh Covid – 19 (2021)
Tuy nhiên, năm 2022 tiếp theo đã đánh dấu những dấu hiệu khởi sắc trở lại của
ngành. Kim ngạch xuất khẩu gỗ sản phẩm đồ nội thất gỗ trong 5 tháng đầu năm 2022
đạt 7,15 tỷ USD – tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2021.
Hình 2. Giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam 2021 – 10/2022
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Hải quan Đơn vị: Triệu USD
Dự báo, hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong nửa đầu năm 2022 thể
đạt mức tăng trưởng gần 8%. Hiệp hội Gỗ Lâm sản Việt Nam đánh giá, xu hướng
xuất khẩu gỗ sản phẩm gỗ đang tập trung vào những mặt hàng có giá trị gia tăng cao
như khung ghế sofa gỗ, đồ nội thất phòng khách nội thất phòng ăn, nội thất phòng
ngủ... Tuy nhiên ngành gỗ vẫn đang đứng trước rất nhiều khó khăn thử thách, cụ thể,
giai đoạn quý 3/2022 tình hình lạm phát trên thế giới diễn ra mạnh mẽ trong, gây ảnh
hưởng tiêu cực đến các đơn hàng cho những tháng cuối năm của ngành gỗ, đưa doanh
nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ vào tình thế trụ được tháng nào hay tháng đó. Thế
nhưng, bằng những nỗ lực của các doanh nghiệp, ngành gỗ cũng tiến dần đến mục tiêu
đã đề ra ngay từ đầu m 2022. Theo thống của Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim
ngạch xuất khẩu gỗ sản phẩm gỗ trong năm 2022 ước đạt 15,8 tỷ USD, trong đó xuất
khẩu sản phẩm gỗ ước đạt 10,92 tỷ USD, tăng 6,7% so với năm 2021. Để đạt được con
số xuất khẩu đó, các doanh nghiệp đã phải tận dụng từng loại phế phẩm từ ngành gỗ,
luân phiên từng đơn hàng để không bị tồn đọng hàng hóa.
1.2 thuyết chung về đo lường mức độ tập trung thị trường
1.2.1. Chỉ số HHI
a) Định nghĩa và đặc trưng:
Chỉ số Herfindahl-Hirschman trong tiếng Anh Herfindahl-Hirschman Index,
viết tắt HHI. HHI chỉ tiêu phản ánh mức tập trung người bán một thị trường
tính đến tổng số công ty trên một thị trường và quy tương đối của họ (tức tỷ trọng
trong tổng sản lượng cung ứng cho thị trường).
( Tà i liệu tham khảo : Nguyễn Văn Ngc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế
Quốc dân)
Một số đặc trưng của chỉ số HHI:
- Chỉ số Herfindahl-Hirschman (HHI) thước đo phổ biến dùng để đo lường mức
độ tập trung thị trường.
- HHI có thể dao động từ gần đến 0 đến 1. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ sử dụng HHI để
đánh giá các thương vụ sáp nhập tiềm năng.
- Các nhà quản thường sử dụng Chỉ số HHI của 50 công ty lớn nhất trong một
ngành cụ thể để xác định xem ngành đó nên được coi là cạnh tranh hay độc quyền.
b) Ưu điểm, nhược điểm
Ưu điểm chính của chỉ số HHI là tính đơn giản của tính toán cần thiết để xác định
nó và số lượng nhỏ dữ liệu cần thiết cho việc tính toán.
Tuy nhiên những bất lợi chính của HHI bắt nguồn từ thực tế rằng nó một biện
pháp đơn giản không nh đến sự phức tạp của các thị trường khác nhau theo
cách cho phép đánh giá chính xác các điều kiện thị trường độc quyền hoặc cạnh tranh.
Sự đơn giản cơ bản của HHI mang một số bất lợi vốn có, chủ yếu là về việc không xác
định được thị trường cụ thể đang được kiểm tra một cách hợp lý và thực tế. Một vấn đề
khác trong việc xác định thị trường và xem xét thị phần thể phát sinh từ các yếu tố
địa lý. Vấn đề này có thể xảy ra khi có các công ty trong một ngành công nghiệp có thị
phần bằng nhau, nhưng mỗi doanh nghiệp chỉ hoạt động những khu vực cụ thể của
đất ớc, do đó mỗi công ty một sự độc quyền trong thị trường cụ thể kinh doanh
.
c) Công thức tính và ý nghĩa
Chỉ số HHI được tính bằng tổng các bình phương thị phần của mỗi công ty cạnh
tranh trong một thị trường. Công thức xác định chỉ số HHI:
HHI = S
1
2
+ S
2
2
+ S
3
2
+…+ S
n
2
Trong
đó:
S
n
tỉ lệ phần trăm thị phần của công ty thứ n được biểu thị dưới dạng một số
nguyên, không phải là số thập phân. Với
- Ý nghĩa của chỉ số: Thị trường càng gần độc quyền thì mức độ tập trung của thị
trường càng cao và cạnh tranh càng thấp. Cụ thể:
HHI < 0,01: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
0,01≤ HHI ≤ 0,1: Mức độ cạnh tranh cao
0,1≤ HHI ≤ 0,18: Thị trường cạnh tranh trung bình
0,18 ≤ HHI: Mức độ tập trung thị trường cao và có xu hướng độc quyền
dụ, nếu chỉ một công ty trong một ngành, công ty đó sẽ 100% thị phần
Chỉ số Herfindahl-Hirschman sẽ bằng 1 cho thấy sự độc quyền. Nếu hàng ngàn
công ty cạnh tranh, mỗi công ty sẽ có gần 0% thị phần và HHI sẽ gần bằng không, cho
thấy sự cạnh tranh gần như hoàn hảo.
- Tại Mỹ, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ coi HHI giá trị từ 0 đến 10.000, thtrường
HHI dưới 1.500 là thị trường cạnh tranh, HHI t1.500 đến 2.500 là thị trường tập trung
vừa phải HHI từ 2.500 trở lên là thị trường tập trung cao độ. Theo nguyên tắc chung,
các vụ sáp nhập làm ng HHI hơn 200 điểm tại các thị trường tập trung cao độ làm
tăng mối lo ngại chống độc quyền.
(Tài liệu tham khảo: Herfindahl-Hirschman Index (HHI), Investopedia)
1.2.2. Chỉ số CR4
a) Định nghĩa:
Tỉ lệ tập trung ngành (CRm) là chỉ số được sử dụng nhiều khi đo lường tập trung
hóa của ngành, được c định bằng tổng sản ợng của m doanh nghiệp lớn trong ngành
trong ngành đó với m một số tùy ý. Đôi khi tỉ lệ tập trung còn đo lường bằng doanh
thu, số nhân công… Nó phản ánh mức độ tập trung hóa người bán trên thị trường. Xu
hướng hiện nay người ta thường đo lường bằng doanh thu của các doanh nghiệp có quy
mô lớn.
Tỷ lệ tập trung bốn công ty (CR4) tổng thị phần của 4 doanh nghiệp hàng đầu
(có thị phần lớn nhất).
b) Công thức tính:
CR4 = W
1
+ W
2
+ W
3
+ W
4
Trong
đó:
W
1
; W
2
;W
3
;W
4
lần lượt là thị phần của doanh nghiệp xếp thứ 1; 2; 3; 4 trên thị
trường. Với w
1
= , w
2
= w
3
= , w
4
= ; S
1
S
2
S
3
S
4
là doanh thu của doanh nghiệp thứ 1;
2; 3; 4 và S
t
là doanh thu của toàn ngành.
c) Ý nghĩa
Tỷ lệ tập trung của bốn công ty (CR4) càng tiệm cận 1 thì độ tập trung của ngành
đó càng cao. Ngược lại, nếu chsố này càng tiệm cận 0 thì độ tập trung càng thấp. Cụ
thể:
CR4 <<<: Cạnh tranh hoàn hảo
CR4 < 65%: Cạnh tranh một cách tương đối
CR4 > 65%: Độc quyền nhóm hoặc có vị trí thống lĩnh thị trường
CR4 xấp xỉ 100%: Độc quyền
1.3 thuyết chung về hàm sản xuất
1.3.1. Định nghĩa về hàm sản xuất Cobb-Douglas
Hàm sản xuất Cobb-Douglas được đưa ra bởi Charles W. Cobb Paul H.
Douglas, một hàm sản xuất đồng nhất tuyến tính, trong đó hàm ý rằng, các yếu tố sản
xuất có thể được thay thế bởi một yếu tố khác đến một mức độ nhất định.
Với sự gia tăng tỉ lệ trong các yếu tố đầu vào, đầu ra cũng tăng theo tỉ lệ tương tự.
Vì vậy, lợi tức sẽ không đổi theo qui mô. Trong hàm sản xuất Cobb-Douglas, chỉ hai
yếu tố đầu vào là lao động (L) và vốn (K) được xem xét, và độ co giãn của
10
các yếu tố thay thế bằng 1. Người ta cũng giả định rằng, nếu bất yếu tố đầu vào
nào bằng 0 thì đầu ra cũng bằng 0.
Tương tự, trong hàm sản xuất đồng nhất tuyến tính, đường mở rộng được tạo bởi
hàm Cobb-Douglas cũng là một đường thẳng đi qua gốc tọa độ.
1.3.2. Đặc điểm, công thức của hàm sản xuất Cobb-Douglas
Hàm Cobb-Douglas có thể được biểu thị như sau:
Q = AL
α
K
β
Trong đó,
- Q là sản lượng
- A, α, β là các hằng số dương
- L là lao động - K là vốn được sử dụng.
α β cho thấy hệ số co giãn của đầu ra tương ứng cho L và K, chúng cố định và
do công nghệ quyết định. Đây một hàm thuần nhất bậc thuần nhất bằng α + β,
khi nhân L và K với hệ số k không đổi nào đó, sản lượng sẽ tăng với tỷ lệ k(α + β).
Nếu: α + β = 1, thì hàm sản xuất có lợi tức không đổi theo qui mô, nghĩa là dù lao
động và vốn có tăng thêm 20% mỗi thứ, thì sản lượng cũng chỉ tăng thêm đúng 20%.
Nếu: α + β < 1, thì hàm sản xuất có lợi tức giảm dần theo qui mô. Còn nếu:
α + β > 1 thì hàm sản xuất có lợi tức tăng dần theo qui mô.
Trong trường hợp thị trường (hay nền kinh tế) ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo, α
β thể xem là tỉ lệ đóng góp của lao động vốn vào sản lượng. Dạng đại snày
của hàm Cobb-Douglas có thể được thay đổi ở dạng tuyến tính log, với sự trợ giúp của
phân tích hồi qui:
Ln Q = ln A + α ln L + β ln K
CHƯƠNG II. XỬ SỐ LIỆU TÍNH TOÁN CÁC CHỈ SỐ
2.1 Cách xử số liệu
Bài tiểu luận sử dụng bộ dữ liệu đã thu thập các doanh nghiệp nhóm ngành Sản
xuất giường, tủ, bàn, ghế bằng gỗ (31001) trong giai đoạn 2015 2017 với tổng cộng
702 quan sát trong 3 năm (Trong đó loại bỏ 1 quan sát bị “missing” doanh thu bán
hàng).
Nhóm nghiên cứu đã sdụng phần mềm Stata để tiến nh tính toán tổng doanh
thu ngành, thị phần của các doanh nghiệp theo năm (Biến T_sales; w).
Sau đó lần lượt tính chỉ số CR4; HHI của các năm; tìm phương trình hàm sản xuất
Cobb-Douglas để suy ra mức độ tập trung của nhóm sự phụ thuộc của sản lượng vào
các yếu tố đầu vào.
2.2 Kết quả đo lường mức độ tập trung của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ,
bàn, ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017
2.2.1. Kết quả chỉ số CR4
Từ bộ dữ liệu ta chỉ số CR4 của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế
bằng gỗ giai đoạn 2015-2017 như sau:
Năm
Số lượng doanh nghiệp
Chỉ số CR4
2015
247
0,1870033 (~18,7%)
2016
235
0,1966656 (~19,7%)
2017
220
0,2125968 (~21,3%)
Nhìn o kết quả chỉ số CR4 trên thể thấy giá trị tăng nhẹ theo thời gian từ
18,7% vào năm 2015 lên đến 21,3% vào năm 2017. Tuy nhiên mức tăng không đáng
kể và giá trị chỉ số vẫn nhỏ hơn 65% rất nhiều. Điều này cho thấy nhóm ngành sản xuất
tủ, bàn, ghế bằng gỗ mức độ tập trung tương đối thấp và thị trường có mức độ cạnh
tranh cao.
2.2.2. Kết quả chỉ số HHI
` Từ bộ dữ liệu ta có chỉ số HHI của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế
bằng gỗ giai đoạn 2015-2017 như sau:
Năm
Số lượng doanh nghiệp
Chỉ số HHI
2015
247
0,0174613
2016
235
0,0187224
2017
220
0,0209498
Tương đồng với kết quả của chỉ số CR4, HHI của nhóm ngành này cho biết nhóm
ngành sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ mức độ tập trung thấp, thị trường cạnh tranh
gay gắt với 0,01≤ HHI ≤ 0,1 – Thậm chí khá tiệm cần mức cận dưới 0,01 cho thấy tính
cạnh tranh rất cao, tuy nhiên chưa đạt đến mức độ thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
2.3 Kết quả đo lường sự phụ thuộc của sản lượng vào các yếu tố đầu vào các doanh
nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017
2.3.1. Phương trình hàm sản xuất Cobb-Douglas
Từ bộ số liệu năm 2015, 2016 2017 của mã ngành 31001, sử dụng phần mềm
Stata để xây dựng phương trình hàm sản xuất Cobb-Douglas theo hình hồi quy, ta
được kết quả như sau:
lnsales
Hệ số
Sai số chuẩn (SE)
T quan sát
lnK
0,324
0,304
10,66
lnL
0,827
0,31
26,58
Hệ số không
đổi
3,21
0,231
13,87
Từ kết quả trên ta có phương trình hàm sản xuất như sau: lnsales =
3,21+ 0,324 lnK + 0,827 lnL + ei
se (0,304) (0,31) (0,231)
t 10,66 26,58 13,87
2.3.2. Ý nghĩa các hệ số sự tác động của các yếu tố đầu vào đến sản lượng
sản xuất
Từ phương trình nêu trên ta có nhận xét về ý nghĩa các hệ số như sau:
- Hệ số không đổi = 3,21 cho biết nếu giá trị vốn và lao động đồng thời bằng 0 thì
sản lượng bằng 3,21 đơn vị. Đó chính trung bình ảnh hưởng của các nhân tố khác
không nằm trong mô hình lên vọng của sản ợng của các doanh nghiệp trong ngành.
- α = 0,324. Khi tổng tài sản bình quân tăng thêm 1% thì sản lượng sẽ tăng thêm
32,4%.
- β = 0,827. Khi tổng số lao động bình quân tăng thêm 1% thì sản lượng sẽ tăng
thêm 82,7%.
Ngoài ra có thể thấy α + β > 1 và đều dương => Hàm sản xuất có lợi tức tăng dần
theo qui sản lượng sản xuất tương quan dương đối với tài sản (vốn) lao
động. Điều này nghĩa khi doanh nghiệp tăng vốn (đầu thêm tài sản) hoặc thuê
thêm lao động thì sản lượng sản xuất sẽ tăng theo.
Bên cạnh đó, α < β khá nhiều, cho thấy sản lượng sản xuất của các doanh nghiệp
thuộc nhóm ngành sản xuất tủ, bàn, ghế phụ thuộc vào lao động nhiều hơn vốn (tài sản).
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN KHUYẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
3.1.1. Mức độ tập trung của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế
bằng gỗ giai đoạn 2015-2017
3.1.2. Sự phụ thuộc của sản lượng của các yếu tố đầu vào của nhóm các
doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017
3.2 Khuyến nghị
3.2.1. Khuyến nghị cân nhắc khi gia nhập ngành
3.2.2. Khuyến nghị về đảm bảo cạnh tranh nâng cao năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59917604
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG NỘI
KHOA SAU ĐẠI HỌC
......................***...................... TIỂU LUẬN
MỨC ĐỘ TẬP TRUNG CỦA NHÓM CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT GIƯỜNG TỦ,
BÀN, GHẾ BẰNG GỖ GIAI ĐOẠN 2015-2017 SỰ
PHỤ THUỘC CỦA SẢN LƯỢNG VÀO CÁC YẾU
TỐ ĐẦU VÀO
GV hướng dẫn: TS. Chu Thị Mai Phương
Nhóm sinh viên: Nguyễn Minh Khánh MSSV: 822061 Trần Thu Hà MSSV: 822050
Nội 4/2023 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................3
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT.....................................................................................................5 1.1
Tổng quan ngành sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ............................................................5 1.1.1.
Định nghĩa cấu trúc ngành...................................................................................5 1.1.2.
Thực trạng ngành sản xuất đồ gỗ nội thất gỗ......................................................6 1.2
thuyết chung về đo lường mức độ tập trung thị trường...........................................8 1.2.1.
Chỉ số HHI..................................................................................................................8 1.2.2.
Chỉ số CR4................................................................................................................10 1.3
thuyết chung về hàm sản xuất...................................................................................11 1.3.1.
Định nghĩa về hàm sản xuất Cobb-Douglas...........................................................11 1.3.2.
Đặc điểm, công thức của hàm sản xuất Cobb-Douglas..........................................11
CHƯƠNG II. XỬ LÝ SỐ LIỆU VÀ TÍNH TOÁN CÁC CHỈ SỐ...................................................13 2.1
Cách xử số liệu.............................................................................................................13 2.2
Kết quả đo lường mức độ tập trung của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn,
ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017................................................................................................13 2.2.1.
Kết quả chỉ số CR4...................................................................................................13 2.2.2.
Kết quả chỉ số HHI...................................................................................................14 2.3
Kết quả đo lường sự phụ thuộc của sản lượng vào các yếu tố đầu vào các doanh
nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017......................................................14 2.3.1.
Phương trình hàm sản xuất Cobb-Douglas............................................................15 2.3.2.
Ý nghĩa của sự tác động của các yếu tố đầu vào đến sản lượng............................15
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...........................................................................16 3.1
Kết luận............................................................................................................................16 3.1.1.
Mức độ tập trung của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ giai
đoạn 2015-2017.........................................................................................................................16 3.1.2.
Sự phụ thuộc của sản lượng của các yếu tố đầu vào của nhóm các doanh nghiệp
sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017................................................................16 3.2
Khuyến nghị.....................................................................................................................16 3.2.1.
Khuyến nghị cân nhắc khi gia nhập ngành............................................................16 3.2.2.
Khuyến nghị về đảm bảo cạnh tranh nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp............................................................................................................................16
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, Việt Nam đang trên đà hội nhập và phát triển, đặt ra mục
tiêu trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng thị trường, hội nhập khu
vực. Với lợi thế là đất nước giàu tài nguyên, nước ta đã và đang đẩy mạnh phát triển
các ngành lâm, nông, thủy sản thế mạnh của mình, trong đó có ngành gỗ. Và nhóm
ngành sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ là một trong những nhóm ngành rất đáng được
quan tâm do các sản phẩm đồ nội thất gỗ từ xưa đến nay đều được người Việt Nam ưa
chuộng sử dụng. Kể cả khi trên thị trường đã có thêm nhiều món đồ nội thất được sản
xuất từ các nguyên liệu khác nhưng đồ nội thất gỗ vẫn được ưu tiên lựa chọn hàng đầu.
Tuy nhiên, năm 2022 vừa qua, tốc độ tăng trưởng ngành gỗ chỉ đạt 7,1%. Đây
được xem là năm khó khăn nhất từ trước đến nay đối với ngành gỗ với rất nhiều biến
động, từ chính trị thế giới, đến kinh tế toàn cầu khiến cho hoạt động giao thương, xuất
nhập khẩu bị ảnh hưởng.
Do đó, trong năm 2023, các doanh nghiệp trong ngành gỗ nói chung và nhóm
ngành sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ cần có sự nghiên cứu thấu hiểu về đặc điểm của
nhóm ngành mình tham gia và đưa ra những kế hoạch hiệu quả nhằm nâng cao nâng
suất, sản lượng nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Xét thấy tầm quan trọng và nhận thấy những
khó khăn của ngành đang gặp phải, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn chủ đề tiểu luận:
“Mức độ tập trung của nhóm các doanh nghiệp sản xuất giường tủ, bàn, ghế bằng gỗ
giai đoạn 2015-2017 và sự phụ thuộc của sản lượng vào các yếu tố đầu vào”.
Bài tiểu luận nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng. Cụ thể, nhóm nghiên
cứu sử dụng doanh thu bán hàng của các doanh nghiệp để tính thị phần tương ứng, từ
đó tính được các chỉ số CR4, HHI và rút ra kết luận về mức độ tập trung của nhóm các
doanh nghiệp thông qua việc. Đồng thời, cũng sử dụng các chỉ số về tài sản và lao động
để xây dựng hàm sản xuất Cobb-Douglas và suy ra sự phụ thuộc của sản lượng vào các
yếu tố đầu vào cùng với đó là các khuyến nghị tương ứng. Bài tiểu luận dùng bộ số liệu
của các doanh nghiệp nhóm ngành sản xuất giường tủ, bàn, ghế bằng gỗ (mã ngành:
31001) trong giai đoạn 2015 – 2017 với 702 bản ghi.
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm còn có thể có nhiều thiếu sót, mong cô xem
xét và góp ý để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I. SỞ THUYẾT
1.1 Tổng quan ngành sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ
1.1.1. Định nghĩa cấu trúc ngành
a) Định nghĩa về ngành sản xuất giường, tủ, bàn, ghế
Ngành này bao gồm: Sản xuất đồ đạc và các thiết bị có liên quan bằng các loại
chất liệu trừ đá, bê tông, gốm. Quá trình này được sử dụng trong sản xuất thiết bị nội
thất bằng phương pháp tiêu chuẩn lắp đặt vật liệu và linh kiện, bao gồm cắt, đúc, dát.
Thiết kế các chi tiết, về cả thẩm mỹ và chức năng, là một nội dung quan trọng trong quá trình sản xuất.
Một số công đoạn trong sản xuất thiết bị nội thất cũng tương tự như quá trình sản
xuất trong các công đoạn sản xuất khác. Ví dụ, quá trình cắt và lắp đặt trong sản xuất
gỗ được phân ở ngành 16 (Sản xuất gỗ và các sản phẩm từ gỗ). Tuy nhiên, nhiều quá
trình sản xuất phân biệt sản xuất thiết bị nội thất gỗ với sản xuất các sản phẩm gỗ.
Tương tự, sản xuất thiết bị nội thất kim loại sử dụng kỹ thuật sản xuất sản phẩm hình
cuộn được phân vào ngành 25 (Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc,
thiết bị)). Quá trình đúc thiết bị nội thất bằng nhựa cũng tương tự như đúc các sản phẩm
nhựa khác. Tuy nhiên, sản xuất thiết bị nội thất bằng nhựa có thể là một hoạt động đặc biệt.
b) Định nghĩa và cấu trúc nhòm ngành sản xuất giường, tủ, bàn, ghế
Nhóm này gồm: Sản xuất đồ đạc các loại bằng gỗ ở mọi nơi và cho các mục đích khác nhau. Cụ thể:
- Sản xuất ghế và chỗ ngồi bằng gỗ cho văn phòng, phòng làm việc, khách
sạn, nhà hàng, nơi công cộng và gia dụng;
- Sản xuất ghế và chỗ ngồi bằng gỗ cho nhà hát, rạp chiếu phim;
- Sản xuất ghế và chỗ ngồi cho thiết bị vận tải bằng gỗ;
- Sản xuất ghế xôfa, giường xôfa và bộ xôfa;
- Sản xuất ghế và chỗ ngồi bằng gỗ trong vườn;
- Sản xuất đồ nội thất bằng gỗ đặc biệt cho cửa hàng: quầy thu tiền, giá
trưng bày, kệ, ngăn, giá...
- Sản xuất đồ đạc văn phòng bằng gỗ;
- Sản xuất đồ đạc nhà bếp bằng gỗ;
- Sản xuất đồ đạc gỗ cho phòng ngủ, phòng khách, vườn...
- Sản xuất tủ gỗ cho máy khâu, tivi...
- Sản xuất ghế dài, ghế đẩu cho phòng thí nghiệm, chỗ ngồi khác cho phòng
thí nghiệm, đồ đạc cho phòng thí nghiệm (như tủ và bàn);
- Sản xuất đồ đạc bằng gỗ cho y tế, phẫu thuật, nha sĩ và thú y; - Sản xuất
đồ đạc bằng gỗ cho nhà thờ, trường học, nhà hàng. Nhóm này cũng gồm:
- Hoàn thiện việc bọc ghế và chỗ ngồi bằng gỗ bằng vật liệu dùng để bọc đồ đạc;
- Hoàn thiện đồ gỗ nội thất như phun, vẽ, đánh xi và nhồi đệm;
- Sản xuất đồ đỡ đệm bằng gỗ;
- Gia công một số chi tiết cho sản phẩm tủ thờ.
1.1.2. Thực trạng ngành sản xuất đồ gỗ nội thất gỗ
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, diện tích rừng trồng tập trong 6 tháng đầu
năm 2022 ước đạt 119 nghìn ha – tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Số cây lâm
nghiệp trồng mới đạt gần 47 triệu cây – tăng 6%; sản lượng củi khai thác đạt 9,5 triệu
ste – tăng 0,6%; và khai thác gỗ đạt sản lượng gần 8.488 nghìn m3 – tăng 5,9%. Do nhu
cầu sản xuất, chế biến và xuất khẩu gỗ tăng cao, từ đó dẫn đến hoạt động khai thác gỗ
đồng thời gia tăng, bên cạnh đó, việc giá xăng dầu liên tục leo thang dẫn đến chi phí
logistic tăng cao, chính vì vậy các doanh nghiệp chế biến gỗ đã chủ động tìm kiếm
nguồn nguyên liệu thay thế ở trong nước từ đó thúc đẩy hoạt động khai thác gỗ phát triển mạnh.
Theo Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2021, tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động trong ngành đồ gỗ có kết quả sản xuất kinh doanh tại Việt Nam hiện nay là 5.338,
bao gồm các công ty nhà nước, công ty có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và các doanh
nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân quy mô vốn nhỏ 1-5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ lớn nhất
với 33,6%, trong khi đó, các doanh nghiệp với quy mô vốn lớn (trên 200 tỷ đồng) chỉ chiếm 4,4%.
Trong năm 2021, với những ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, sản xuất đồ
gỗ gặp nhiều khó khăn do Việt Nam áp dụng nhiều biện pháp giãn cách chặt chẽ, dẫn
tới năng suất giảm. Khảo sát nhanh tại Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai do 3 Hiệp
hội HAWA, BIFA và DOWA đối với 265 doanh nghiệp thành viên cho thấy tình hình
sản xuất cụ thể của các doanh nghiệp trong giai đoàn này đều bị ảnh hưởng nặng nề.
Hình 1. Kết quả khảo sát 265 doanh nghiệp sản xuất gỗ trong tình hình dịch bệnh Covid – 19 (2021)
Tuy nhiên, năm 2022 tiếp theo đã đánh dấu những dấu hiệu khởi sắc trở lại của
ngành. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm đồ nội thất gỗ trong 5 tháng đầu năm 2022
đạt 7,15 tỷ USD – tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2021.
Hình 2. Giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam 2021 – 10/2022
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Hải quan
Đơn vị: Triệu USD
Dự báo, hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong nửa đầu năm 2022 có thể
đạt mức tăng trưởng gần 8%. Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đánh giá, xu hướng
xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đang tập trung vào những mặt hàng có giá trị gia tăng cao
như khung ghế sofa gỗ, đồ nội thất phòng khách và nội thất phòng ăn, nội thất phòng
ngủ... Tuy nhiên ngành gỗ vẫn đang đứng trước rất nhiều khó khăn thử thách, cụ thể,
giai đoạn quý 3/2022 tình hình lạm phát trên thế giới diễn ra mạnh mẽ trong, gây ảnh
hưởng tiêu cực đến các đơn hàng cho những tháng cuối năm của ngành gỗ, đưa doanh
nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ vào tình thế trụ được tháng nào hay tháng đó. Thế
nhưng, bằng những nỗ lực của các doanh nghiệp, ngành gỗ cũng tiến dần đến mục tiêu
đã đề ra ngay từ đầu năm 2022. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim
ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong năm 2022 ước đạt 15,8 tỷ USD, trong đó xuất
khẩu sản phẩm gỗ ước đạt 10,92 tỷ USD, tăng 6,7% so với năm 2021. Để đạt được con
số xuất khẩu đó, các doanh nghiệp đã phải tận dụng từng loại phế phẩm từ ngành gỗ,
luân phiên từng đơn hàng để không bị tồn đọng hàng hóa.
1.2 Lý thuyết chung về đo lường mức độ tập trung thị trường
1.2.1. Chỉ số HHI
a) Định nghĩa và đặc trưng:
Chỉ số Herfindahl-Hirschman trong tiếng Anh là Herfindahl-Hirschman Index,
viết tắt là HHI. HHI là chỉ tiêu phản ánh mức tập trung người bán ở một thị trường có
tính đến tổng số công ty trên một thị trường và quy mô tương đối của họ (tức tỷ trọng
trong tổng sản lượng cung ứng cho thị trường).
( Tà i liệu tham khảo : Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân)
Một số đặc trưng của chỉ số HHI:
- Chỉ số Herfindahl-Hirschman (HHI) là thước đo phổ biến dùng để đo lường mức
độ tập trung thị trường.
- HHI có thể dao động từ gần đến 0 đến 1. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ sử dụng HHI để
đánh giá các thương vụ sáp nhập tiềm năng.
- Các nhà quản lí thường sử dụng Chỉ số HHI của 50 công ty lớn nhất trong một
ngành cụ thể để xác định xem ngành đó nên được coi là cạnh tranh hay độc quyền.
b) Ưu điểm, nhược điểm
Ưu điểm chính của chỉ số HHI là tính đơn giản của tính toán cần thiết để xác định
nó và số lượng nhỏ dữ liệu cần thiết cho việc tính toán.
Tuy nhiên những bất lợi chính của HHI bắt nguồn từ thực tế rằng nó là một biện
pháp đơn giản mà nó không tính đến sự phức tạp của các thị trường khác nhau theo
cách cho phép đánh giá chính xác các điều kiện thị trường độc quyền hoặc cạnh tranh.
Sự đơn giản cơ bản của HHI mang một số bất lợi vốn có, chủ yếu là về việc không xác
định được thị trường cụ thể đang được kiểm tra một cách hợp lý và thực tế. Một vấn đề
khác trong việc xác định thị trường và xem xét thị phần có thể phát sinh từ các yếu tố
địa lý. Vấn đề này có thể xảy ra khi có các công ty trong một ngành công nghiệp có thị
phần bằng nhau, nhưng mỗi doanh nghiệp chỉ hoạt động ở những khu vực cụ thể của
đất nước, do đó mỗi công ty có một sự độc quyền trong thị trường cụ thể mà kinh doanh .
c) Công thức tính và ý nghĩa
Chỉ số HHI được tính bằng tổng các bình phương thị phần của mỗi công ty cạnh
tranh trong một thị trường. Công thức xác định chỉ số HHI: HHI = S 2 2 2 2 1 + S2 + S3 +…+ S n Trong đó:
Sn là tỉ lệ phần trăm thị phần của công ty thứ n được biểu thị dưới dạng một số
nguyên, không phải là số thập phân. Với
- Ý nghĩa của chỉ số: Thị trường càng gần độc quyền thì mức độ tập trung của thị
trường càng cao và cạnh tranh càng thấp. Cụ thể:
HHI < 0,01: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
0,01≤ HHI ≤ 0,1: Mức độ cạnh tranh cao
0,1≤ HHI ≤ 0,18: Thị trường cạnh tranh trung bình
0,18 ≤ HHI: Mức độ tập trung thị trường cao và có xu hướng độc quyền
Ví dụ, nếu chỉ có một công ty trong một ngành, công ty đó sẽ có 100% thị phần
và Chỉ số Herfindahl-Hirschman sẽ bằng 1 cho thấy sự độc quyền. Nếu có hàng ngàn
công ty cạnh tranh, mỗi công ty sẽ có gần 0% thị phần và HHI sẽ gần bằng không, cho
thấy sự cạnh tranh gần như hoàn hảo.
- Tại Mỹ, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ coi HHI có giá trị từ 0 đến 10.000, thị trường có
HHI dưới 1.500 là thị trường cạnh tranh, HHI từ 1.500 đến 2.500 là thị trường tập trung
vừa phải và HHI từ 2.500 trở lên là thị trường tập trung cao độ. Theo nguyên tắc chung,
các vụ sáp nhập làm tăng HHI hơn 200 điểm tại các thị trường tập trung cao độ làm
tăng mối lo ngại chống độc quyền.
(Tài liệu tham khảo: Herfindahl-Hirschman Index (HHI), Investopedia)
1.2.2. Chỉ số CR4 a) Định nghĩa:
Tỉ lệ tập trung ngành (CRm) là chỉ số được sử dụng nhiều khi đo lường tập trung
hóa của ngành, được xác định bằng tổng sản lượng của m doanh nghiệp lớn trong ngành
trong ngành đó với m là một số tùy ý. Đôi khi tỉ lệ tập trung còn đo lường bằng doanh
thu, số nhân công… Nó phản ánh mức độ tập trung hóa người bán trên thị trường. Xu
hướng hiện nay người ta thường đo lường bằng doanh thu của các doanh nghiệp có quy mô lớn.
Tỷ lệ tập trung bốn công ty (CR4) là tổng thị phần của 4 doanh nghiệp hàng đầu
(có thị phần lớn nhất). b) Công thức tính: CR4 = W1 + W2 + W3 + W4 Trong đó:
W1 ; W2 ;W3 ;W4 lần lượt là thị phần của doanh nghiệp xếp thứ 1; 2; 3; 4 trên thị
trường. Với w1 = , w2 = w3 = , w4 = ; S1 S2 S3 S4 là doanh thu của doanh nghiệp thứ 1;
2; 3; 4 và St là doanh thu của toàn ngành. c) Ý nghĩa
Tỷ lệ tập trung của bốn công ty (CR4) càng tiệm cận 1 thì độ tập trung của ngành
đó càng cao. Ngược lại, nếu chỉ số này càng tiệm cận 0 thì độ tập trung càng thấp. Cụ thể:
CR4 <<<: Cạnh tranh hoàn hảo
CR4 < 65%: Cạnh tranh một cách tương đối
CR4 > 65%: Độc quyền nhóm hoặc có vị trí thống lĩnh thị trường
CR4 xấp xỉ 100%: Độc quyền 1.3
thuyết chung về hàm sản xuất
1.3.1. Định nghĩa về hàm sản xuất Cobb-Douglas
Hàm sản xuất Cobb-Douglas được đưa ra bởi Charles W. Cobb và Paul H.
Douglas, là một hàm sản xuất đồng nhất tuyến tính, trong đó hàm ý rằng, các yếu tố sản
xuất có thể được thay thế bởi một yếu tố khác đến một mức độ nhất định.
Với sự gia tăng tỉ lệ trong các yếu tố đầu vào, đầu ra cũng tăng theo tỉ lệ tương tự.
Vì vậy, lợi tức sẽ không đổi theo qui mô. Trong hàm sản xuất Cobb-Douglas, chỉ có hai
yếu tố đầu vào là lao động (L) và vốn (K) được xem xét, và độ co giãn của 10
các yếu tố thay thế bằng 1. Người ta cũng giả định rằng, nếu có bất kì yếu tố đầu vào
nào bằng 0 thì đầu ra cũng bằng 0.
Tương tự, trong hàm sản xuất đồng nhất tuyến tính, đường mở rộng được tạo bởi
hàm Cobb-Douglas cũng là một đường thẳng đi qua gốc tọa độ.
1.3.2. Đặc điểm, công thức của hàm sản xuất Cobb-Douglas
Hàm Cobb-Douglas có thể được biểu thị như sau: Q = ALα Kβ Trong đó, - Q là sản lượng
- A, α, β là các hằng số dương
- L là lao động - K là vốn được sử dụng.
α và β cho thấy hệ số co giãn của đầu ra tương ứng cho L và K, chúng cố định và
do công nghệ quyết định. Đây là một hàm thuần nhất có bậc thuần nhất bằng α + β, vì
khi nhân L và K với hệ số k không đổi nào đó, sản lượng sẽ tăng với tỷ lệ k(α + β).
Nếu: α + β = 1, thì hàm sản xuất có lợi tức không đổi theo qui mô, nghĩa là dù lao
động và vốn có tăng thêm 20% mỗi thứ, thì sản lượng cũng chỉ tăng thêm đúng 20%.
Nếu: α + β < 1, thì hàm sản xuất có lợi tức giảm dần theo qui mô. Còn nếu:
α + β > 1 thì hàm sản xuất có lợi tức tăng dần theo qui mô.
Trong trường hợp thị trường (hay nền kinh tế) ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo, α
và β có thể xem là tỉ lệ đóng góp của lao động và vốn vào sản lượng. Dạng đại số này
của hàm Cobb-Douglas có thể được thay đổi ở dạng tuyến tính log, với sự trợ giúp của phân tích hồi qui:
Ln Q = ln A + α ln L + β ln K
CHƯƠNG II. XỬ SỐ LIỆU TÍNH TOÁN CÁC CHỈ SỐ
2.1 Cách xử số liệu
Bài tiểu luận sử dụng bộ dữ liệu đã thu thập các doanh nghiệp nhóm ngành Sản
xuất giường, tủ, bàn, ghế bằng gỗ (31001) trong giai đoạn 2015 – 2017 với tổng cộng
702 quan sát trong 3 năm (Trong đó có loại bỏ 1 quan sát bị “missing” doanh thu bán hàng).
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phần mềm Stata để tiến hành tính toán tổng doanh
thu ngành, thị phần của các doanh nghiệp theo năm (Biến T_sales; w).
Sau đó lần lượt tính chỉ số CR4; HHI của các năm; tìm phương trình hàm sản xuất
Cobb-Douglas để suy ra mức độ tập trung của nhóm và sự phụ thuộc của sản lượng vào các yếu tố đầu vào.
2.2 Kết quả đo lường mức độ tập trung của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ,
bàn, ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017
2.2.1. Kết quả chỉ số CR4
Từ bộ dữ liệu ta có chỉ số CR4 của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế
bằng gỗ giai đoạn 2015-2017 như sau: Năm
Số lượng doanh nghiệp
Chỉ số CR4 2015 247 0,1870033 (~18,7%) 2016 235 0,1966656 (~19,7%) 2017 220 0,2125968 (~21,3%)
Nhìn vào kết quả chỉ số CR4 trên có thể thấy giá trị tăng nhẹ theo thời gian từ
18,7% vào năm 2015 lên đến 21,3% vào năm 2017. Tuy nhiên mức tăng không đáng
kể và giá trị chỉ số vẫn nhỏ hơn 65% rất nhiều. Điều này cho thấy nhóm ngành sản xuất
tủ, bàn, ghế bằng gỗ có mức độ tập trung tương đối thấp và thị trường có mức độ cạnh tranh cao.
2.2.2. Kết quả chỉ số HHI `
Từ bộ dữ liệu ta có chỉ số HHI của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế
bằng gỗ giai đoạn 2015-2017 như sau: Năm
Số lượng doanh nghiệp
Chỉ số HHI 2015 247 0,0174613 2016 235 0,0187224 2017 220 0,0209498
Tương đồng với kết quả của chỉ số CR4, HHI của nhóm ngành này cho biết nhóm
ngành sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ có mức độ tập trung thấp, thị trường cạnh tranh
gay gắt với 0,01≤ HHI ≤ 0,1 – Thậm chí khá tiệm cần mức cận dưới 0,01 cho thấy tính
cạnh tranh rất cao, tuy nhiên chưa đạt đến mức độ thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
2.3 Kết quả đo lường sự phụ thuộc của sản lượng vào các yếu tố đầu vào các doanh
nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017
2.3.1. Phương trình hàm sản xuất Cobb-Douglas
Từ bộ số liệu năm 2015, 2016 và 2017 của mã ngành 31001, sử dụng phần mềm
Stata để xây dựng phương trình hàm sản xuất Cobb-Douglas theo mô hình hồi quy, ta
được kết quả như sau: lnsales Hệ số
Sai số chuẩn (SE)
T quan sát lnK 0,324 0,304 10,66 lnL 0,827 0,31 26,58 Hệ số không 3,21 0,231 13,87 đổi
Từ kết quả trên ta có phương trình hàm sản xuất như sau: lnsales =
3,21+ 0,324 lnK + 0,827 lnL + ei se (0,304) (0,31) (0,231) t 10,66 26,58 13,87
2.3.2. Ý nghĩa các hệ số sự tác động của các yếu tố đầu vào đến sản lượng
sản xuất
Từ phương trình nêu trên ta có nhận xét về ý nghĩa các hệ số như sau:
- Hệ số không đổi = 3,21 cho biết nếu giá trị vốn và lao động đồng thời bằng 0 thì
sản lượng bằng 3,21 đơn vị. Đó chính là trung bình ảnh hưởng của các nhân tố khác
không nằm trong mô hình lên kì vọng của sản lượng của các doanh nghiệp trong ngành.
- α = 0,324. Khi tổng tài sản bình quân tăng thêm 1% thì sản lượng sẽ tăng thêm 32,4%.
- β = 0,827. Khi tổng số lao động bình quân tăng thêm 1% thì sản lượng sẽ tăng thêm 82,7%.
Ngoài ra có thể thấy α + β > 1 và đều dương => Hàm sản xuất có lợi tức tăng dần
theo qui mô và sản lượng sản xuất có tương quan dương đối với tài sản (vốn) và lao
động. Điều này có nghĩa là khi doanh nghiệp tăng vốn (đầu tư thêm tài sản) hoặc thuê
thêm lao động thì sản lượng sản xuất sẽ tăng theo.
Bên cạnh đó, α < β khá nhiều, cho thấy sản lượng sản xuất của các doanh nghiệp
thuộc nhóm ngành sản xuất tủ, bàn, ghế phụ thuộc vào lao động nhiều hơn vốn (tài sản).
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN KHUYẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
3.1.1. Mức độ tập trung của nhóm các doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế
bằng gỗ giai đoạn 2015-2017
3.1.2. Sự phụ thuộc của sản lượng của các yếu tố đầu vào của nhóm các
doanh nghiệp sản xuất tủ, bàn, ghế bằng gỗ giai đoạn 2015-2017
3.2 Khuyến nghị
3.2.1. Khuyến nghị cân nhắc khi gia nhập ngành
3.2.2. Khuyến nghị về đảm bảo cạnh tranh nâng cao năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp