Tiểu luận Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường quản lý rác thải sinh hoạt ở Thành phố Hà Nội.pdf

Tiểu luận Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường quản lý rác thải sinh hoạt ở Thành phố Hà Nội Tiểu luận môn Kinh tế môi trường của Học viên Nông nghiệp Việt nam giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao.

Trường:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam 392 tài liệu

Thông tin:
19 trang 10 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tiểu luận Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường quản lý rác thải sinh hoạt ở Thành phố Hà Nội.pdf

Tiểu luận Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường quản lý rác thải sinh hoạt ở Thành phố Hà Nội Tiểu luận môn Kinh tế môi trường của Học viên Nông nghiệp Việt nam giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao.

83 42 lượt tải Tải xuống
Bài tiểu luận
Môn: Kinh tế môi trường
Họ tên: Quang Hiển
Chủ đề: Thực trạng giải pháp nhằm tăng cường quản rác thải sinh hoạt
Thành phố Nội
Phần I: MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Quá trình đô thị hóa cùng stăng trưởng kinh tế gia tăng dân số, khiến
lượng rác thải tại Việt Nam không ngừng tăng cao. Tốc độ gia tăng dân số nhanh
chóng đã phát sinh khối lượng lớn rác thải sinh hoạt làm tăng áp lực lên môi
trường; mỗi ngày lượng rác thải sinh hoạt của con người thải ra ngoài môi trường
cùng lớn đa dạng, tnhững chai nhựa, túi nilon cho đến nước thải sinh
hoạt, đồ ăn thừa,... Tất cả đều được xả thải trực tiếp ra ngoài môi trường tự nhiên.
Số lượng rác thải tích tụ ngày một lớn sẽ khiến cho tình trạng ô nhiễm môi trường
ngày càng trở nên trầm trọng. Báo cáo của Trung tâm Sống và Học tập Môi
trường Cộng đồng, ước tính trong vòng chưa đầy 15 năm, khối lượng rác thải
phát sinh đã tăng gấp đôi.
một trong hai trung tâm kinh tế lớn của Việt Nam, Thành phố Nội thu
hút nhiều nguồn lao động đến sinh sống làm việc, dẫn đến sự quá tải về hạ tầng
đô thị do gia tăng dân số, đi cùng với quá trình đô thị hóa nhanh khiến môi trường
Thủ đô bị ô nhiễm nghiêm trọng. Lượng rác thải sinh hoạt tăng mạnh, nhất sự
gia tăng mạnh mẽ rác thải không nguồn gốc hữu cơ, không phân hủy hay tái chế
được, khiến tình hình ô nhiễm do rác thải sinh hoạt trở thành vấn đề đáng báo
động. Vấn đề tăng cường quản lý rác thải sinh hoạt cũng được người dân và các cơ
quan chức năng hết sức quan tâm phải được xem xét toàn diện không chỉ riêng
rẽ trong một thể đô thị phải trên diện rộng như vùng, liên đô thị... Mặt
khác việc quản chất thải sinh hoạt muốn đạt hiệu quả tốt ng phải đón đầu được
sự phát triển chứ không chạy theo sự phát triển của các đô thị hiện nay.
Thực hiện chủ đề: “Thực trạng giải pháp tăng cường quản rác thải sinh
hoạt Thành phố Nội”. Bởi rác thải sinh hoạt tại Thủ đô hiện đang vấn đề
nhức nhối gây ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, đời sống
sinh hoạt, sản xuất cũng như vui chơi giải trí của người dân nơi đây. Mặc những
năm qua, công tác thu gom, xử rác thải của TP Nội đạt được nhiều kết quả
tích cực nhưng vẫn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Th
đô. Việc huy động sự quan tâm tham gia đóng góp nhiều hơn từ phía người dân
yêu cầu cấp bách. Sự tham gia của cộng đồng trong việc tăng cường quản chất
thải sinh hoạt góp phần rất lớn trong việc nhận ra các nguy đối với môi trường,
mang lại nhiều phương án về chính sách hơn cho sự chọn lựa, tạo sở để lựa
chọn phương án giải quyết tối ưu. Vì vậy cần giải pháp phù hợp, mang tính bền
vững lâu dài đem lại hiệu quả cao trong công tác quản môi trường nói chung
và quản lý chất thải sinh hoạt nói riêng.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Bài tiểu luận nêu lên những vấn đề bản về rác thải sinh hoạt: thực trạng,
phân tích những yếu t ảnh hưởng, đxuất định hướng và các giải pháp nhằm
khuyến khích, nâng cao ý thức, trách nhiệm hiệu quả tham gia của cộng đồng
trong việc tăng cường quản lý rác thải sinh hoạt ở Thành phố Hà Nội.
III. Phương pháp nghiên cu
Phương pháp thu thập, đánh giá, tổng hợp, hệ thống hóa tài liệu thứ cấp.
Phương pháp phân tích: nghiên cứu các vấn đluận, đánh giá thực trạng
về quản lý rác thải sinh hoạt ở Hà Nội.
Phương pháp thống kê: thu thập, xử các tài liệu, số liệu liên quan đến vấn đề
nêu trên.
Phương pháp tổng hợp: chủ yếu được sử dụng trong việc kết luận của tiểu
luận.
Ngoài ra, trong bài tiểu luận các phương pháp như: phương pháp khảo sát thực tiễn
đánh giá, phương pháp so sánh... cũng được sử dụng để giải quyết vấn đề đặt ra.
Phần 2: NỘI DUNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. Khái quát chung về rác thải sinh hoạt
1. Khái nim
Rác thải sinh hoạt là các chất thải sinh ra từ các hoạt động sinh hoạt của con
người mà con người không sử dụng tới, thải ra môi trường như: bao ni lông, thức
ăn, vỏ trái cây, các đồ vật không sử dụng được hoặc hư hỏng,… mà nếu không
được xử bằng một chu trình khoa học chắc chắn sẽ gây ra nhiều hệ lụy đến môi
trường, đòi hỏi trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình trong cộng đồng.
Thông thường, nguồn phát sinh chất thải sinh hoạt bao gồm:
- Hộ gia đình
- Khu thương mại (nhà hàng, khách sạn, siêu thị, chợ...)
- Công sở (cơ quan, trường học, trung tâm, viện nghiên cứu, bệnh viện...)
- Khu công cộng (nhà ga, bến tàu, sân bay, công viên, khu vui chơi giải trí,
đường phố...)
- Hoạt động xây dựng
- Dịch vụ công cộng (quét đường,..)
2. Phân loại rác thải sinh hoạt
- sao phải phân loại rác thải ?
Rác thải sinh hoạt ảnh hưởng rất lớn đến môi trường; một trong những
nguyên nhân chính gây ra làm tăng thêm tình trạng ô nhiễm môi trường. Với số
lượng rác thải thu gom hàng ngày khổng lồ, việc phân loại càng khó khăn hơn, gây
quá tải cho các bãi rác.
Thói quen của nhiều người dân tại Việt Nam gom vất chung tất cả các
loại rác bao gồm thực phẩm thừa, vật hỏng… Rác thải hiện nay chưa được
các gia đình quan tâm đúng mức, hầu hết mọi người đều quan niệm cái không
xài được thì vứt đi. m người dân cho rằng, việc phân loại rác do đơn vị
quản rác thải thực hiện, rác thải đều được bỏ chung trong một thùng rác
không cần biết trong số chất thải sinh hoạt hàng ngày loại thể đưa vào tái chế
và phục vụ cho cuộc sống con người.
vậy, việc phân loại rác tại hộ gia đình một việc làm rất ý nghĩa, rất
cần thiết và dễ dàng hơn rất nhiều so với phân loại bãi rác tập trung. Mỗi gia đình
thể tiết kiệm được một khoản chi phí không nhỏ thông qua việc tái chế và tái s
dụng các vật dụng hỏng; đồng thời, việc phân loại rác tại hộ gia đình còn góp
phần làm giảm khối lượng chất thải rắn đổ về các bãi rác, góp phần bảo vệ sức
khỏe con người môi trường sinh thái đang ngày xuống thấp đến mức báo động
như hiện nay.
Rác thải sinh hoạt được chia làm 3 loại: rác tái chế, rác hữu và rác vô cơ.
Rác tái chế: những loại rác thải sau khi con người loại bỏ vẫn thể
được tái sdụng lại như: chai nhựa, vỏ hộp, túi nhựa, giấy báo,…Đây loại rác
thải khó phân hủy nhưng vẫn thể được tái chế với mục đích phục vụ cho đời
sống
Rác hữu cơ: những loại rác dễ dàng phân hủy, gồm: hoa quả, trà,
café, rau củ, thức ăn thừa, cây,… Chúng phần bỏ đi của thực phẩm sau khi chế
biến, phần thực phẩm thừa hoặc hỏng không thể sử dụng; chúng thường được
tận dụng làm phân xanh (phân hữu cơ) hoặc làm thức ăn cho động vật nuôi.
Rác cơ: rác thải không thể sử dụng không thể tái chế. Với những
loại rác thải này, chỉ cách chôn dưới đất hoặc đốt, gồm: các loại bao dùng để
bọc bên ngoài hộp/chai thực phẩm, các loại túi ni lông, đồ chơi, quần áo, xương
động vật, giấy ăn, than, vỏ sò, vỏ hến,…
3. Tác động của rác thải sinh hoạt đến môi trường sức khỏe cộng đồng
Rác khi thải vào môi trường gây ô nhiễm, đất, nước, không khí. Ngoài ra, rác
thải còn làm mất vệ sinh công cộng, làm mất mỹ quan môi trường. Rác thải là nơi
trú ngụ và phát triển lý tưởng của các loài gây bệnh hại cho người và gia súc.
Ảnh hưởng đến môi trường không khí: Nguồn rác thải từ các hộ gia đình
thường các loại thực phẩm chiếm tlcao trong toàn bộ khối lượng rác thải ra.
Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm a nhiều nước ta điều kiện thuận lợi cho các
thành phần hữu cơ phân huỷ, thúc đẩy nhanh quá trình lên men, thối rữa và tạo nên
mùi khó chịu cho con người. Các chất thải kphát ra từ các quá trình này thường
là H
2
S, NH
3
, CH
4
, SO
2
, CO
2
.
Theo thói quen nhiều người thường đổ rác tại bờ sông, hồ, ao, cống rãnh.
Lượng rác này sau khi bị phân huỷ sẽ tác động trực tiếp gián tiếp đến chất lượng
nước mặt, nước ngầm trong khu vực. Rác có thể bị cuốn trôi theo nước mưa xuống
ao, hồ, sông, ngòi, kênh rạch, sẽ làm nguồn nước mặt đây bị nhiễm bẩn. Mặt
khác, lâu dần những đống rác này sẽ làm giảm diện tích ao hồ, giảm khả năng tự
làm sạch của nước gây cản trở các dòng chảy, tắc cống rãnh thoát nước. Hậu quả
của hiện tượng này hệ sinh thái nước trong các ao hồ bị huỷ diệt . Việc ô nhiễm
các nguồn nước mặt này cũng một trong những nguyên nhân gây các bệnh tiêu
chảy, tả, lỵ trực khuẩn thương hàn,ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ cộng đồng.
Ảnh hưởng của rác thải tới môi trường đất: Trong thành phần rác thải chứa
nhiều các chất độc, do đó khi rác thải được đưa vào môi trường thì các chất độc
xâm nhập vào đất sẽ tiêu diệt nhiều loài sinh vật ích cho đất như: giun, vi sinh
vật, nhiều loài động vật không xương sống, ếch nhái ... làm cho môi trường đất bị
giảm tính đa dạng sinh học phát sinh nhiều sâu bọ phá hoại cây trồng. Đặc biệt
hiện nay việc sử dụng tràn lan các loại túi nilông trong sinh hoạt đời sống, khi
xâm nhập vào đất cần tới 50 - 60 năm mới phân huỷ hết do đó chúng tạo thành
các "bức tường ngăn cách" trong đất hạn chế mạnh đến quá trình phân huỷ, tổng
hợp các chất dinh dưỡng, làm cho đất giảm độ phì nhiêu, đất bị chua năng suất
cây trồng giảm sút .
Ảnh hưởng của rác thải đối với sức khoẻ con người: Trong thành phần rác
thải sinh hoạt, thông thường hàm lượng hữu chiếm tllớn. Loại rác này rất dễ
bị phân huỷ, lên men, bốc mùi i thối. Rác thải không được thu gom, tồn đọng
trong không khí, lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ con người sống xung quanh.
Chẳng hạn, những người tiếp xúc thường xuyên với rác như những người làm công
việc thu nhặt các phế liệu từ bãi rác dễ mắc các bệnh như viêm phổi, sốt rét, các
bệnh về mắt, tai, mũi họng, ngoài da, phụ khoa..
II. Thực trạng quản rác thải sinh hoạt Thành phố Nội
1. Bối cảnh kinh tế - hội Thành ph Nội
Trong quý I năm 2023, kinh tế thế giới tiếp tục nhiều biến động phức tạp
và bất ổn; lạm phát toàn cầu mặc dù đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao; sự phục hồi
chậm suy giảm nhu cầu tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn; giá năng
lượng thế giới tăng cao; chiến sự Nga - Ucraina kéo dài… Mặc vậy, kinh tế Việt
Nam đã đạt được những kết quả tích cực. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất
nước, thủ đô Hà Nội là đã và đang có sự thay đổi ấn tượng về tăng trưởng kinh tế.
Tốc độ tăng GDP GRDP của 5 thành phố trực thuộc Trung ương
quý I năm 2023 (%)
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê)
Tốc độ đô thị hóa ở TP Nội diễn ra mạnh mẽ, thể hiện qua tỷ lệ dân số khu
vực thành thị tăng nhanh từ 36,8% năm 1999 lên 41% năm 2009 49,2% năm
2019. Các quận như Đống Đa, Thanh Xuân, Hai Trưng Cầu Giấy những
nơi mật độ dân số cao nhất, tương ứng 37.347 người/km2; 32.291 người/km2;
29.589 người/km2 23.745 người/km2. Những quận mới thành lập như Hoàng
Mai, Nam Từ Liêm, Bắc Từ Liêm và Đông do dân số tăng nhanh đã trở thành
những địa bàn có mật độ dân cư đông đúc không thua kém các quận trung tâm.
Tốc độ đô thị hóa nhanh đã đang tác động tích cực đến phát triển kinh tế -
hội của nước ta như góp phần tăng trưởng kinh tế, phát triển loại hình du lịch đô
thị, cải thiện tình trạng đói nghèo,… Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực này
thì quá trình độ thị hóa thể tạo ra những thách thức, hệ lụy lớn cho phát triển
bền vững nếu không có quy hoạch khoa học cũng như tầm nhìn xa rộng. Vấn đề
ô nhiễm môi trường một trong những hệ lụy được quan tâm đầu tiên khi bài toán
về rác thải sinh hoạt từ lâu vẫn chưa có lời giải.
2. Thực trạng rác thải sinh hoạt Thành phố Nội
2.1. Thành phần khối lượng
Do quá trình đô thị hoá, điều kiện và thói quen sinh hoạt thay đổi, thành phần
rác thải sinh hoạt tại Nội tỉ lệ khác nhau. Đối với thành phần chất thải từ các
hộ gia đình, chất thải hữu chiếm tỉ lệ cao nhất tất cả các năm với tỉ lệ trên
50%, cho thấy tiềm năng cao trong việc thực hiện chế biến phân hữu từ rác thải
rắn tại đây. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc nhiều vào chất lượng của rác đầu
vào, cụ thể việc thực hiện phân loại chất thải tại đầu nguồn phát sinh mà phân
loại rác thải tại nguồn chưa trở thành hoạt động thường xuyên và phổ biến.
Tỷ lệ thành phần chất thải tại nội thành Nội (ĐVT: %)
(Nguôn: Theo báo cáo năm 2022 của Công ty Môi trường đô thị Nội)
Thành phố Nội đang phải đối mặt với những vấn đề về môi trường rất lớn
khi mỗi ngày phát sinh ra khoảng 6.500 - 7000 tấn rác thải sinh hoạt, nhiều rác
chưa thể thu gom xử vậy nên các bãi rác tự nhiên” cứ thế mọc lên bất chấp
nơi nào. Khối lượng rác thải không ngừng tăng lên theo tốc độ đô thị hóa nhưng
nghịch Nội chỉ ba khu xử rác đều đang trong tình trạng quá tải nên
Hà Nội đang phải đối mặt với nhiều áp lực và hệ lụy từ rác.
Mới đây nhất từ ngày 15-20/6/2022, trên địa bàn một số quận Thanh Xuân,
Cầu Giấy, Đống Đa, Nam Từ Liêm ùn rác thải sinh hoạt nghiêm trọng. Tại
những khu vực rác thải ùn khiến nước rỉ rác chảy tràn ra đường trong lúc thời tiết
nóng bức, bốc mùi hôi thối khó chịu. Nguyên nhân được xác định do Khu liên hiệp
xử rác thải Nam Sơn (bãi rác Nam Sơn) huyện Sóc Sơn đang bị quá tải khiến
phương tiện đi vào bãi khó khăn, ảnh hưởng đến việc xử lý.
Trong đó, lượng rác thải sinh hoạt được xử tại Khu liên hợp xử chất thải
Nam Sơn, huyện Sóc Sơn khoảng 5.000 - 5.300 tấn/ngày đêm; tại Khu xử chất
thải rắn Xuân Sơn, thị Sơn Tây khoảng 1.200 - 1.300 tấn/ngày đêm. Hiện tại
việc xử chất thải rắn sinh hoạt được thực hiện với 2 phương pháp chôn lấp
khoảng 89% 11% được xử bằng phương pháp đốt. Như vậy, bản mới tạo
lợi ích vệ sinh môi trường, ít có lợi ích về kinh tế, xã hội.
Vấn đề tốc độ xử lý rác thải bị chậm do quá tải cũng để lại vô số hệ lụy:
Các địa điểm thu gom, phân loại, xử rác thải luôn trong tình trạng quá tải sẽ
dẫn đến chất lượng xử không đạt được hiệu quả cao, dẫn đến lợi ích về môi
trường bị ảnh hưởng. Giả sử, lượng rác thải quá lớn, không thể phân loại 1 cách
chính xác, vậy, kể cả khi dùng phương pháp đốt hay phương pháp chôn lấp để
xử lý, cũng để lại ảnh hưởng không tốt đến môi trường. Bên cạnh đó, việc quá tải
các điểm xử lý rác tập trung của thành phố Nội sẽ dẫn đến việc các địa điểm
này tạm ngưng thu gom rác để xkhối lượng đang tồn đọng trong các bãi rác
này, điều này sẽ gián tiếp tạo nên các bãi rác tự phát trong thành phố, ví dụ như: lề
đường, các khu vực chợ dân sinh, sông, mương,...
Tình trạng quá tải các khu xử rác thải ng đồng nghĩa với việc tình trạng
ùn rác thải trong khu vực nội đô khu đông dân kéo dài, đặc biệt hơn, tình
trạng này thường xuất hiện vào mùa hè Hà Nội, mùa có thời tiết nóng bức, rác
thải sinh hoạt ùn các tuyến đường thể bốc mùi hôi thối, khó chịu gây mất
mỹ quan đô thị tạo điều kiện cho các vi khuẩn gây bệnh phát triển, ảnh hưởng
đến người dân sống và làm việc ở gần khu vực bị ùn ứ rác thải.
Tình trạng ùn rác kéo dài cũng gây ảnh hưởng về mặt kinh tế, Nội sẽ
phải chi nhiều hơn để xử lý gấp rút vấn đề này do có quá nhiều ảnh hưởng tiêu cực
nếu tiếp diễn quá lâu.
2.2. Khó khăn trong xử rác thải sinh hoạt
Thực tế trên đang tồn tại mâu thuẫn đáng lo ngại, đó là lượng rác thải của
Thành phố ngày càng tăng, trong khi công nghệ, htầng, quy xử rác thì vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu. Ngoài các khu xử rác nhỏ lẻ thì Nội chỉ 3
khu vực xử rác chính Khu liên hợp xử chất thải Nam Sơn (Sóc Sơn), Khu
xử chất thải rắn Xuân Sơn (Sơn Tây) Khu xử lý chất thải Cầu Diễn (Nam Từ
Liêm). Trong đó, Khu liên hợp xử chất thải Nam Sơn công suất lớn nhất, với
gần 4.000 tấn rác/ngày.
Đội ngũ những người làm công tác thu gom rác thải sẽ tổng hợp rác thải sinh
hoạt từ các hộ gia đình, các khu dân cư hoặc từ các thùng đựng rác, thùng rác nhựa
cố định tại các địa điểm công cộng (công viên, vườn hoa, bệnh viện, trường học…)
.
đồ xử rác thải sinh hoạt chủ yếu hiện nay
Việc thu gom vận chuyển được thực hiện khác nhau giữa đô thị và nông thôn,
giữa các địa phương và thậm chí giữa các vùng trong cùng một địa phương. Cụ thể
như, tại đô thị, chất thải phát sinh tại các hộ gia đình thông thường được các đơn vị
thu gom theo giờ nhất định, các phương tiện xe thủ công được người thu gom sử
dụng để chuyển rác thải ra các điểm tập kết, từ đó đưa lên xe vận chuyển về sở
xử hoặc vtrạm trung chuyển trước khi chuyển về sở xử lý. Khu vực nông
thôn, nhiều địa phương đã có các tổ tự quản, hội phụ nữ thu gom chất thải theo tần
suất nhất định chuyển đến điểm tập kết để các công ty môi trường đô thị vận
chuyển về sxử lý. Tuy nhiên, nhiều trường hợp không được thu gom dẫn đến
việc hình thành các bãi rác tạm gây ô nhiễm môi trường tại các khu vực nông thôn.
Công tác vận chuyển hiện cũng gặp nhiều khó khăn, các bãi chôn lấp chất thải
thường xa khu dân m tăng chi phí vận chuyển. Trong khi đó, mức phí vệ
sinh môi trường (giá dịch vụ thu gom, vận chuyển) thu tcác hộ gia đình mới chỉ
chi trả được một phần cho hoạt động thu gom chất thải, không đủ để chi trả cũng
như duy trì cho hoạt động vận chuyển.
Phương thức xử rác thải các khu xtrên hiện chủ yếu vẫn là chôn lấp,
lạc hậu, chưa ứng dụng công nghệ tiên tiến vào xử lý, như: Công nghệ đốt rác,
công nghệ chuyển đổi rác thành năng lượng... Chính thế qua thời gian, diện
tích dùng để chôn lấp bị thu hẹp, hạ tầng quá tải dẫn đến phát sinh các sự cố.
Những lần như vậy, việc thu gom, xử rác bgián đoạn, gây tồn đọng rác ngoài
môi trường nhiều ngày. Ngoài ra, các phương pháp mới đưa vào sử dụng nhằm tận
dụng lại một phần rác thải như biến rác hữu cơ thành phân bón hữu cơ cũng không
mang lại quá nhiều lợi ích kinh tế, chi phí để quản và tạo ra phân bón quá cao
trong khi giá trị mang lại không quá nhiều, khiến cho việc sử dụng phương pháp
này không được các địa điểm xử lý rác chú trọng.
"Vào thời điểm năm 2008-2009, khi rác hữu được đưa đi sản xuất phân
bón, công nhân phải phân loại thêm, sau đó vận chuyển lên bãi rác Nam Sơn, tốn
kém chi phí. Giá thành phân hữu bán ra lại không đắp được chi phí đầu vào
nên càng làm càng lỗ. thế, đến nay, Nhà máy Chế biến phân hữu Cầu Diễn
vẫn đang tạm dừng hoạt động thời hạn, trang thiết bị máy móc thể trở thành
một đống sắt vụn. Phân bón làm ra không bán được cho ai, nên nhà máy không thể
hoạt động được- đại diện Chi cục Môi trường Nội nói về dự án này"
1
.
Bên cạnh đó, chính quyền nhiều địa phương chưa quan tâm đúng mức, chưa
thực hiện đầy đủ trách nhiệm về quản chất thải. Các đề án được đxuất qua
hàng thập kvẫn chưa được phê duyệt hay thậm chí sửa đổi, các phương án xử
rác thải đã được thông qua nhưng tại nhiều nơi vẫn chưa cấp vốn để triển khai thực
hiện
Nhận thức của người dân trong thu gom, phân loại, vận chuyển và xử CTR
còn nhiều hạn chế, chưa tích cực tham gia vào các hoạt động thu gom, vận chuyển
CTRSH, chưa đóng phí vệ sinh môi trường đầy đủ. Trong khi đó, ý thức của một
số doanh nghiệp trong lĩnh vực quản chất thải chưa cao, gây ô nhiễm môi trường
trong quá trình vận chuyển, xử lý chất thải.
Trao đổi với phóng viên Lao Động về nguyên nhân chưa thể phân loại rác tại
Nội thời gian qua, một đại diện Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Nội
(URENCO) tiết lộ: Dự án đó chưa được sự vào cuộc mạnh mẽ của chính quyền,
chưa quy định nào cả chỉ mang tính chất đoàn thể tuyên truyền nâng cao ý
thức của người dân.
"Cứ đi tuyên truyền ra rả, thậm chí nơi cả các bác tổ trưởng dân phố
đứng ngay tại thùng rác để u cầu người dân phân loại rác, nhưng làm sao thể
làm như vậy mãi? Rồi trong thu gom thì 2 thùng phân loại riêng nhưng lại đổ ụp
làm 1, phân hữu được làm từ rác không bán được, nhà máy không hoạt động
được. Nếu được hỗ trợ hoạt động trở lại thì nhà máy đó cũng chỉ xử được
một phần rất nhỏ rác thải hữu của thành phố thôi"- vị này nói
2
.
1 Theo báo Lao Động.
2 Theo báo Lao Động.
Hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý CTR ở nhiều nơi còn mang tính chất
cộng đồng, nên chưa thúc đẩy được tính chuyên nghiệp của các tổ dịch vụ, hợp tác
xã, công ty dịch vụ môi trường…
Trên địa bàn các huyện Ba Vì, Mỹ Đức, Ứng Hòa, Phú Xuyên đều đang diễn
ra tình trạng các khu xử chất thải đã được quy hoạch nhưng chậm tiến độ do
diện tích, công suất không phù hợp với định hướng công nghệ phát triển đô thị
của TP hiện nay hoặc vướng mắc trong khâu giải phóng mặt bằng.
"Theo Phó Giám đốc Sở TN&MT Nội Mai Trọng Thái, nguyên nhân dẫn
tới các dự án chậm tiến độ do người dân khu vực triển khai dự án chưa đồng
thuận với chủ trương các dự án mở rộng theo quy hoạch, lo ngại ô nhiễm môi
trường. Bên cạnh đó, tiến độ thực hiện ng tác giải phóng mặt bằng, tái định
của các chủ đầu còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác bồi thường,
hỗ trợ vùng ảnh hưởng môi trường, các chính sách hỗ trợ Nhân dân về bảo hiểm y
tế, khám chữa bệnh, quan trắc giám sát môi trường còn chưa kịp thời đáp ứng nhu
cầu của người dân"
3
.
Kế hoạch vận hành của khu xrác thải lớn nhất Nội không ổn định,
phải thay đổi từng ngày cho phù hợp với tình trạng của các bãi chôn lấp lượng
rác đưa về. Từ đây, nguy xảy ra sự cố chất thải trong quá trình vận hành luôn
rình rập, ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận, xử lý. Mỗi lần xảy ra sự cố các khu
xử rác, nhiều khu vực trong khu dân cư, thậm chí ngay lòng đường phố trở
thành nơi chứa rác bất đắc gây mất quan, làm giảm chất lượng không khí,
cản trở giao thông làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống người dân xung
quanh cũng như người đi đường...
Hiện nay, khoảng 90% rác thải sinh hoạt của Nội được xử lý theo phương
thức chôn lấp truyền thống, chỉ 10% áp dụng công nghệ cao. Việc chôn lấp chủ yếu
được thực hiện tại các bãi tập kết rác thải sinh hoạt chủ yếu của Hà Nội ở bãi Nam
Sơn, huyện c Sơn với khối lượng chiếm trên 70% lượng rác thải sinh hoạt được
thu gom của Thành phố. Tuy nhiên, bãi rác Nam Sơn lại trở thành điểm ô nhiễm
môi trường lớn nhất Hà Nội và gây ra tình trạng khủng hoảng cuộc sống của người
dân khu vực này.
"Ông Cao Xuân Thìn-Phó Giám đốc Công ty TNHH Một thành viên Môi
trường đô thị Nội (Urenco) - chi nhánh Nam Sơn - cho biết, tối 13.7.2020,
người dân thuộc 2 Hồng Kỳ Nam Sơn (Sóc Sơn) đã cản trở không cho xe chở
rác o Khu Liên hợp xử chất thải Nam Sơn.
3 Theo Báo Kinh tế & Đô thị.
Theo lãnh đạo Urenco-chi nhánh Nam Sơn, người dân làm lều lán ngăn
không cho xe chở rác tại 2 cổng của bãi rác.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên liên quan đến việc thành phố chậm chi
trả đền giải phóng mặt bằng vùng ảnh hưởng môi trường bán kính 500m của
Khu Liên hợp xử chất thải Sóc Sơn.
Được biết, chiều nay, các cấp chính quyền đang thực hiện đối thoại với người
dân địa phương trước những vấn đề họ phản ánh.
Đề tránh ùn rác khu vực nội thành, Sở Xây dựng Nội đang lên kế hoạch
phân luồng rác về bãi rác Xuân Sơn (Sơn Tây). Urenco đã yêu cầu các chi nhánh
chủ động lưu rác trên xe đảm bảo vệ sinh.
Trước đó, 3 lần vào tháng 12, tháng 7 tháng 1 năm 2019, người dân 2
trên đã chặn không cho các xe chở rác vào Khu liên hợp xử chất thải Nam
Sơn. Việc này khiến nhiều quận nội thành bị ùn ứ, tồn đọng lượng rác lớn, chất
thành đống ngổn ngang"
4
.
Điều này cho thấy, hiện nay, vấn đthu gom rác thải sinh hoạt rác thải rắn
thiếu sự đa dạng trong lựa chọn, sự phụ thuộc hoàn toàn vào bãi rác Nam Sơn
khiến cho Nội phải trả giá khi hoạt động của bãi rác này bđình trệ. Tương tự
như vậy, việc xrác thải rắn cũng gặp nhiều khó khăn do lượng xả lớn, trong
khi đó các nhà máy xử lý chất thải rắn theo hướng áp dụng công nghệ hiện đại còn
hạn chế. Do đó, lượng rác thải rắn chủ yếu được xử lý dựa trên công nghệ đốt hoặc
tái chế truyền thống. Đây lại nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường nước
môi trường không khí trên địa bàn Thành phố.
"Mặt khác, chưa chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực môi trường để thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới công
nghệ trong công tác thu gom, vận chuyển rác. Việc bố trí quỹ đất cho các dự án
đầu tư, xây dựng vận hành công trình bảo vệ đã được quy định tại Khoản 6,
Điều 78, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 chưa sát với thực tế thu gom xử
rác nội đô… Đối với phân loại rác tại nguồn cũng chưa kế hoạch thực hiện,
không quy hoạch hạ tầng đối với các sở tập trung phân loại tái chế của
thành phố…"
5
3. Giải pháp xử rác thải hiệu quả nhằm tăng cường quản rác thải
sinh hoạt Nội
4 Theo Báo Lao Động.
5 Theo Báo Công Thương.
Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đang trong quá trình công nghiệp
hóa, đô thị hóa mạnh mẽ. Cùng với đó, sự gia tăng dân số,o theo chất thải rắn
rác thải sinh hoạt tăng về khối lượng gây áp lực lớn cho công tác bảo vệ môi
trường. Quá trình thu gom, xử rác thải sinh hoạt bảo đảm hiệu quả đối với các
đô thị lớn như Nội đòi hỏi cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp từ phân loại
rác đến đầu hạ tầng. Việc phân công trách nhiệm cho các sở, ngành, quan,
đơn vị liên quan trên địa bàn Thành phố đóng vai tquan trọng trong công tác
bảo vệ môi trường nói chung và quản lý rác thải sinh hoạt nói riêng. .
3.1. Phân loại rác thải trước khi xử lý, học hỏi kinh nghiệm một số nước tiên
tiến trên thế giới
Đây điều quan trọng giúp cho khâu xử rác thải được dễ dàng hơn, hiệu
quả hơn dễ kiểm soát hơn, nhất đối với những loại rác khó phân hủy gây
nguy hại tới môi trường. Để ththực hiện tốt giải pháp này, cần phải tuyên
truyền các chế tài xđối với các hành vi thải rác ra môi trường một cách
tiêu cực.
Cần thống nhất vai trò quản chất thải rắn trên địa bàn Thành phố cho Sở
Tài nguyên và Môi trường. Tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động thu gom, vận
chuyển và xử rác thải để phòng ngừa cũng như kịp thời phát hiện xử các tổ
chức, cá nhân vi phạm gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Tăng cường thanh tra
trách nhiệm quản lý nhà nước trong công tác quản lý rác thải sinh hoạt.
Học hỏi kinh nghiệm quý các nước đối với vấn đề rác thải như:
- Ở Nhật Bản, vứt rác bừa bãi có thể bị phạt tù:
"Hiện tại, công tác xử rác thải sinh hoạt tại Nhật Bản được quản theo
cấp độ địa phương (quận, huyện). Mỗi địa phương cách phân loại rác khác
nhau nhưng về bản rác thải sinh hoạt tại Nhật được chia thành 4 loại chính:
rác đốt được, rác không đốt được, rác nguyên liệu rác thải cỡ lớn.
Loại rác phổ biến được thải ra hàng ngày nhiều nhất rác đốt được,
thường rác thải từ nhà bếp, vụn giấy, quần áo cũ, cây… Mỗi loại này sẽ được
thu gom theo từng túi nilong riêng, sau đó buộc vào một túi chung. Loại rác này
thường được thu gom với tần suất hai lần một tuần.
Rác không đốt được bao gồm kim loại, thủy tinh, gốm sứ, pin khô các
thiết bị điện gia dụng nhỏ như máy sấy tóc… thường không phổ biến nên tần
suất thu gom mỗi tháng một lần.
Rác nguyên liệu gồm c loại chai lọ thủy tinh, lon nước, báo, tạp chí
thùng carton… được thu gom một lần mỗi tuần. Chai lọ như sữa hoặc đồ uống,
được khuyến nghị rửa sạch trước khi vứt để tránh gây mùi khó chịu cho nhân
viên tái chế.
Với rác thải cỡ lớn gồm các loại chăn đệm, đồ gia dụng như quạt, máy hút
bụi, tivi, tủ lạnh, máy in, bàn ghế, đồ chơi trẻ em cỡ lớn, khi đổ loại rác này, người
dân phải đăng trước trả phí từ 3.000 đến 10.000 yên (hơn 600.000 đến hơn 2
triệu đồng) tùy kích thước.
Việc xử phạt khi vi phạm quy định về vứt rác tại Nhật rất nghiêm khắc. Vứt
rác bừa bãi thể bị phạt 5 năm hoặc 10 triệu yên (2,2 tỷ đồng). Vứt tàn thuốc
vào rãnh mương tạm giam một đến 30 ngày, phạt tiền từ 1.000 đến một vạn yên
(200.000 đến 2,2 triệu đồng). Vứt rác từ xe hơi bị phạt từ 5 vạn yên (11 triệu
đồng).
- Người Đức phân loại rác theo màu
Người dân Đức phân loại rác theo màu, gọi sáng kiến (Green Dot). Theo
đó, đựng trong thùng màu nâu các loại rác hữu thể phân hủy, như thức ăn
thừa, rau hoa quả, vỏ trứng, vỏ các loại hạt, phê chè, cây rụng, cỏ…
Rác thải thường không chứa chất độc hại, nhưng khó phân hủy, được đựng trong
thùng màu đen như tàn thuốc lá, tro, đầu mẩu thuốc lá, mẩu cao su thừa, băng gạc
vệ sinh, bỉm trẻ em, sản phẩm làm từ da đồ giả da.
Thùng rác màu vàng đựng các loại chất dẻo như túi nilông, đồ hộp/lon
rỗng, hộp đựng nước. Thùng đựng rác giấy màu xanh da trời, thể vứt các loại
báo cũ, tạp chí cũ, tờ rơi, sách , bao bằng giấy, hoặc bìa cứng. Riêng thùng
thủy tinh để vứt chai, lọ thùng to tròn màu xanh cây với nhiều ngăn. Trong
đó, chai, lọ thủy tinh bỏ vào một ngăn, còn các chai, lọ nhựa khác bỏ vào ngăn
khác không vứt các loại vỏ chai thể tái sử dụng.
Ngoài ra, đối với các loại rác cồng kềnh, khó xử như đồ nội thất không
được phép vứt bừa bãi, phải gọi cho công ty môi trường đến thu gom, tân trang
bán các khu chợ đồ cũ.
Khi phân loại không đúng, rác sẽ không được thu gom. Nếu bị c công ty
môi trường phát hiện vứt rác bừa bãi, người dân thể bị phạt tiền"
6
.
3.2. Đẩy nhanh tiến độ c dự án đang chậm tiến độ
Khu xử chất thải Đồng (Chương Mỹ, HN), dự án Nhà máy đốt rác
phát điện công suất x1200 tấn/ ngày-đêm, Khu xử chất thải rắn Xuân Sơn
(huyện Ba thị Sơn Tây), dự án đốt rác phát điện với công suất 1000
tấn/ngày-đêm, Nhà máy Điện rác Sóc Sơn (Sóc Sơn, HN),... các nhà máy cần phải
đẩy nhanh tiến độ đưa vào sử dụng sớm nhất để giảm áp lực cho các nhà máy
đang hoạt động xử khối lượng rác lớn hơn trước nhu cầu ngày càng cao của
thủ đô Hà Nội.
Xác định việc đẩy nhanh tiến độ đầu xây dựng các nhà máy xrác thải
nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, các sở, ngành cũng quyết liệt thực hiện nhiệm vụ
thành phố giao, thường xuyên tổ chức họp nhằm giải quyết kịp thời khó khăn,
vướng mắc, phấn đấu đcác dự án sớm khởi công, đi vào vận hành trong trong
thời gian gần nhất.
Cần có ưu đãi về thuế, đất đai, hỗ trợ giá mua điện từ các dự án phát điện sử
dụng chất thải; xây dựng chế, chính sách hỗ trợ người dân sống gần khu xử lý
rác thải để khuyến khích người dân ủng hộ việc xây dựng nhà máy xử chất thải
đồng thuận giao đất. Thành phố cũng cần làm các tiêu chí về năng lực, công
nghệ, kinh nghiệm, tài chính, thời gian hoàn thành dự án khi lựa chọn nhà đầu tư.
3.3. Tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
Chuyển giao công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Thủ đô trong dự báo,
phòng ngừa, kiểm soát, xử lý, giảm thiểu ô nhiễm, khắc phục hậu quả và sự cố môi
trường. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc tìm hiểu ứng dụng công nghệ, giải pháp
6 Theo thiennhien.net.
tiên tiến, hiện đại vào việc quản lý, soát, xây dựng quy định quản rác thải; quy
trình thu gom, phân loại rác tại nguồn; việc vận chuyển, xử lý; thúc đẩy tái chế rác,
các sáng tạo trong việc xử rác thải.Nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công
nghệ xử lý chất thải rắn hiện đại, thân thiện với môi trường, theo hướng giảm thiểu
ợng chất thải rắn chôn lấp, tăng cường tỷ lệ tái chế, tái sử dụng thu hồi năng
lượng từ chất thải.
soát đề xuất các chính sách ưu đãi hỗ trợ đồng thời, sớm triển khai chế
huy động vốn đầu tư, thtục đầu rút gọn, các chính sách ưu đãi đặc thù, giải
pháp công nghệ phù hợp; quản lý, vận hành với sự tham gia của doanh nghiệp,
cộng đồng, tổ chức nước ngoài nhằm thúc đẩy việc áp dụng khoa học kỹ thuật
trong công tác thu gom, vận chuyển, xử rác thải đẩy mạnh hội hóa nhằm
thu hút, tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư.
Singapore đầu tư công nghệ đốt rác phát điện:
"Để tiết kiệm diện tích đất giảm lượng rác phải chôn lấp, Singapore triển
khai nhiều biện pháp như đầu vào công nghệ đốt rác phát điện; tăng cường
phân loại rác tại nguồn; phạt nặng đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường; đẩy
mạnh tái chế rác thải; tuyên truyền cho người dân về bảo vệ môi trường…
Từ năm 1979, quốc đảo này xây dựng Nhà máy đốt rác phát điện đầu tiên
tại Ulu Pandan. Sau đó, Singapore tiếp tục xây dựng thêm 4 nhà máy đốt rác khác
Senoko, Tuas, Tuas South Keppel Seghers Tuas (KST).
Theo thống của quan Môi trường quốc gia Singapore (NEA), mỗi
ngày, nước này thải ra khoảng 21.023 tấn rác các loại. Trong đó, 58% lượng rác
được đưa đến các nhà máy tái chế, 41% đem đến những nhà máy đốt rác phát
điện, 2% không đốt được, mang đến bãi chôn lấp Semakau để xử lý.
Việc đốt rác phát điện giúp Singapore giảm đến 90% lượng chất thải rắn
phải chôn lấp, đáp ứng gần 3% nhu cầu điện năng của đất nước, nhất trong bối
cảnh diện tích đất ngày càng hạn hẹp. Tuy nhiên, vẫn còn tồn số chất thải
không đốt được như bùn thải, chất thải nhà máy đóng tàu, chất thải xây dựng…
tro xỉ của các nhà máy đốt cần phải chôn lấp.
Trước tình hình đó, Chính phủ Singapore quyết định xây dựng bãi chôn lấp
rác ngoài khơi, trên 2 hòn đảo gần nhau Pulau Semakau Pulau Seking.
Số rác chôn lấp tại đảo Semakau tro rác rác không đốt cháy được. Sau
khi đổ tro vào những ô trống được chuẩn bị sẵn, người ta còn lấp đất lên. Mục
đích dụ các loài côn trùng chim chóc đến làm màu mỡ cho đất. Ý tưởng này
thành công ngoài mong đợi khi Semakau hiện điểm quan sát chim nổi tiếng bậc
nhất của Singapore.
Từ năm 2001, Chính phủ Singapore triển khai chương trình xử rác thải
nhằm tăng tỷ lệ tái chế thông qua phân loại rác tại nguồn từ các hộ gia đình, các
chợ, sở kinh doanh"
7
.
3.4. Tăng cường nguồn nhân lực, hoàn thiện các chế về chính sách
khuyến khích răn đe để kiểm soát lượng rác thải sinh hoạt
Đào tào, tập huấn, đảm bảo quyền lợi cho công nhân trực tiếp thu gom, vận
chuyển, xử rác thải sinh hoạt tại các địa phương. Lãnh đạo chính quyền, các
ngành, tổ chức chính trị - hội quan tâm kịp thời biểu dương, khen thưởng các
tập thể, nhân tham gia thực hiện tốt nh và lan tỏa điển hình trong cộng
đồng về hoạt động bảo vệ môi trường, chung tay góp sức để làm sạch thủ đô hay
tuyên truyền giảm thiểu, cách xử nâng cao ý thức người dân vtác hại của
rác thải sinh hoạt...
Hiện nay, các chế tài, quy định có các mức xử phạt vẫn còn thấp, ví dụ, hành
vi xả rác bừa bãi mức xử phạt hành chính chỉ từ 50.000 đến 100.000 đồng, thậm
chí quy định này còn được áp dụng rất hời hợt, thiếu hiệu quả. Do đó cần phải
chế tài xử lý mạnh tay, tăng tính răn đe, để các nhân, tập thể, doanh nghiệp có ý
thức khi thải rác sinh hoạt ra môi trường.
Ngoài ra, nguồn nhân lực đxử rác thải HN đang thiếu nhiêm trọng cả
về số lượng trình độ, cần thêm nguồn nhân lực trình độ cả số lượng để
nâng cao hiệu quả xử rác thủ đô, tránh để tình trạng ùn c trong khu vực nội
đô, gây mất mỹ quan đô thị và vô số hệ lụy kèm theo.
7 Theo thiennhien.net
Phần 3. KẾT LUẬN
Trên sở tài liệu thu thập được khảo sát thực tiễn, các giải pháp đã đề
xuất, tác giả kết luận một số nội dung sau:
1. Công tác quản rác thải đã được chính quyền các cấp của Thành phố
Nội đặc biệt quan tâm xử lý, nhằm mang lại môi trường xanh, sạch, đẹp cho
người dân Thành phố; cấu tổ chức hệ thống quản rác thải đã được hoàn thiện
đầy đủ; các đơn vị sự nghiệp công ích trong thu gom xrác thải đã đang
thực hiện nhiệm vụ thu gom x rác thải trên toàn địa bàn thành phố, tuy
nhiên vấn đề rác thải nói chung, rác thải sinh hoạt nói riêng vẫn tồn tại một số vấn
đề cần giải quyết, như: dịch vụ công ích trong thu gom xử rác thải còn nhiều
hạn chế; tình trạng vứt rác bừa bãi vẫn còn xảy ra khá phổ biến; hệ thống nước thải
chưa được xtriệt để dẫn đến làm ô nhiễm khá nghiêm trọng các ao hồ, sông
rạch trên địa bàn thành phố (sông Kim Ngưu, sông Tô Lịch; hồ Trúc Bạch, Giảng
Võ…); đường phố, công viên nhiều nơi rác thải còn vứt bừa bãi…
2. Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài,
nhằm giải quyết dứt điểm, tận gốc trong thu gom xử rác thải, quan tâm xây
dựng hoàn thiện các bãi rác, nhà máy xử lý rác, nâng cáo chất lượng hoạt động của
đơn vị snghiệp công ích đối với vấn đề rác thải, nhằm giảm thiểu tối đa ảnh
hưởng của rác thải tới đời sống người dân trên địa bàn Thành phố, xây dựng thành
phố thủ đô luôn xanh, sạch, đẹp và an toàn theo hướng bền vững.
3. Cần huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc trong công tác quản lý, hoàn
thiện hệ thống chính sách về vấn đề rác thải; khuyến khích cạnh tranh trong thu
gom xử c thải; tuyên truyền vận động người dân nêu cao ý thức trách nhiệm
trong quản rác thải sinh hoạt, thay đổi hành vi đặc biệt vấn đvứt rác bừa bãi
và phân loại rác thải sinh hoạt.
Trên đây kết quả nghiên cứu đề xuất của tác giả với chủ đề: "Thực
trạng giải pháp nhằm tăng cường quản rác thải sinh hoạt Thành phố
Nội".
Trân trọng kính đề nghị Thầy góp ý!
Trân trọng!
| 1/19

Preview text:

Bài tiểu luận
Môn: Kinh tế môi trường
Họ tên: Quang Hiển
Chủ đề: Thực trạng giải pháp nhằm tăng cường quản rác thải sinh hoạt
Thành phố Nội
Phần I: MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Quá trình đô thị hóa cùng sự tăng trưởng kinh tế và gia tăng dân số, khiến
lượng rác thải tại Việt Nam không ngừng tăng cao. Tốc độ gia tăng dân số nhanh
chóng đã phát sinh khối lượng lớn rác thải sinh hoạt làm tăng áp lực lên môi
trường; mỗi ngày lượng rác thải sinh hoạt của con người thải ra ngoài môi trường
là vô cùng lớn và đa dạng, từ những chai nhựa, túi nilon cho đến nước thải sinh
hoạt, đồ ăn thừa,... Tất cả đều được xả thải trực tiếp ra ngoài môi trường tự nhiên.
Số lượng rác thải tích tụ ngày một lớn sẽ khiến cho tình trạng ô nhiễm môi trường
ngày càng trở nên trầm trọng. Báo cáo của Trung tâm Sống và Học tập vì Môi
trường và Cộng đồng, ước tính trong vòng chưa đầy 15 năm, khối lượng rác thải
phát sinh đã tăng gấp đôi.
Là một trong hai trung tâm kinh tế lớn của Việt Nam, Thành phố Hà Nội thu
hút nhiều nguồn lao động đến sinh sống và làm việc, dẫn đến sự quá tải về hạ tầng
đô thị do gia tăng dân số, đi cùng với quá trình đô thị hóa nhanh khiến môi trường
Thủ đô bị ô nhiễm nghiêm trọng. Lượng rác thải sinh hoạt tăng mạnh, nhất là sự
gia tăng mạnh mẽ rác thải không có nguồn gốc hữu cơ, không phân hủy hay tái chế
được, khiến tình hình ô nhiễm do rác thải sinh hoạt trở thành vấn đề đáng báo
động. Vấn đề tăng cường quản lý rác thải sinh hoạt cũng được người dân và các cơ
quan chức năng hết sức quan tâm và phải được xem xét toàn diện không chỉ riêng
rẽ trong một cá thể đô thị mà phải ở trên diện rộng như vùng, liên đô thị... Mặt
khác việc quản lý chất thải sinh hoạt muốn đạt hiệu quả tốt cũng phải đón đầu được
sự phát triển chứ không chạy theo sự phát triển của các đô thị hiện nay.
Thực hiện chủ đề: “Thực trạng và giải pháp tăng cường quản lý rác thải sinh
hoạt ở Thành phố Hà Nội”. Bởi rác thải sinh hoạt tại Thủ đô hiện đang là vấn đề
nhức nhối gây ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, đời sống
sinh hoạt, sản xuất cũng như vui chơi giải trí của người dân nơi đây. Mặc dù những
năm qua, công tác thu gom, xử lý rác thải của TP Hà Nội đạt được nhiều kết quả
tích cực nhưng vẫn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Thủ
đô. Việc huy động sự quan tâm tham gia và đóng góp nhiều hơn từ phía người dân
là yêu cầu cấp bách. Sự tham gia của cộng đồng trong việc tăng cường quản lý chất
thải sinh hoạt góp phần rất lớn trong việc nhận ra các nguy cơ đối với môi trường,
mang lại nhiều phương án về chính sách hơn cho sự chọn lựa, tạo cơ sở để lựa
chọn phương án giải quyết tối ưu. Vì vậy cần có giải pháp phù hợp, mang tính bền
vững lâu dài và đem lại hiệu quả cao trong công tác quản lý môi trường nói chung
và quản lý chất thải sinh hoạt nói riêng.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Bài tiểu luận nêu lên những vấn đề cơ bản về rác thải sinh hoạt: thực trạng,
phân tích những yếu tố ảnh hưởng, đề xuất định hướng và các giải pháp nhằm
khuyến khích, nâng cao ý thức, trách nhiệm và hiệu quả tham gia của cộng đồng
trong việc tăng cường quản lý rác thải sinh hoạt ở Thành phố Hà Nội.
III. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập, đánh giá, tổng hợp, hệ thống hóa tài liệu thứ cấp.
Phương pháp phân tích: nghiên cứu các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng
về quản lý rác thải sinh hoạt ở Hà Nội.
Phương pháp thống kê: thu thập, xử lí các tài liệu, số liệu liên quan đến vấn đề nêu trên.
Phương pháp tổng hợp: chủ yếu được sử dụng trong việc kết luận của tiểu luận.
Ngoài ra, trong bài tiểu luận các phương pháp như: phương pháp khảo sát thực tiễn
và đánh giá, phương pháp so sánh... cũng được sử dụng để giải quyết vấn đề đặt ra.
Phần 2: NỘI DUNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. Khái quát chung về rác thải sinh hoạt 1. Khái niệm
Rác thải sinh hoạt là các chất thải sinh ra từ các hoạt động sinh hoạt của con
người mà con người không sử dụng tới, thải ra môi trường như: bao ni lông, thức
ăn, vỏ trái cây, các đồ vật không sử dụng được hoặc hư hỏng,… mà nếu không
được xử lý bằng một chu trình khoa học chắc chắn sẽ gây ra nhiều hệ lụy đến môi
trường, đòi hỏi trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình trong cộng đồng.
Thông thường, nguồn phát sinh chất thải sinh hoạt bao gồm: - Hộ gia đình
- Khu thương mại (nhà hàng, khách sạn, siêu thị, chợ...)
- Công sở (cơ quan, trường học, trung tâm, viện nghiên cứu, bệnh viện...)
- Khu công cộng (nhà ga, bến tàu, sân bay, công viên, khu vui chơi giải trí, đường phố...)
- Hoạt động xây dựng
- Dịch vụ công cộng (quét đường,..)
2. Phân loại rác thải sinh hoạt
- Vì sao phải phân loại rác thải ?
Rác thải sinh hoạt có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường; là một trong những
nguyên nhân chính gây ra và làm tăng thêm tình trạng ô nhiễm môi trường. Với số
lượng rác thải thu gom hàng ngày khổng lồ, việc phân loại càng khó khăn hơn, gây
quá tải cho các bãi rác.
Thói quen của nhiều người dân tại Việt Nam là gom và vất chung tất cả các
loại rác – bao gồm thực phẩm thừa, vật tư hư hỏng… Rác thải hiện nay chưa được
các gia đình quan tâm đúng mức, hầu hết mọi người đều quan niệm cái gì không
xài được thì vứt đi. Tâm lý người dân cho rằng, việc phân loại rác là do đơn vị
quản lý rác thải thực hiện, rác thải đều được bỏ chung trong một thùng rác mà
không cần biết trong số chất thải sinh hoạt hàng ngày có loại có thể đưa vào tái chế
và phục vụ cho cuộc sống con người.
Vì vậy, việc phân loại rác tại hộ gia đình là một việc làm rất có ý nghĩa, rất
cần thiết và dễ dàng hơn rất nhiều so với phân loại ở bãi rác tập trung. Mỗi gia đình
có thể tiết kiệm được một khoản chi phí không nhỏ thông qua việc tái chế và tái sử
dụng các vật dụng hư hỏng; đồng thời, việc phân loại rác tại hộ gia đình còn góp
phần làm giảm khối lượng chất thải rắn đổ về các bãi rác, góp phần bảo vệ sức
khỏe con người và môi trường sinh thái đang ngày xuống thấp đến mức báo động như hiện nay.
Rác thải sinh hoạt được chia làm 3 loại: rác tái chế, rác hữu cơ và rác vô cơ.
Rác tái chế: Là những loại rác thải mà sau khi con người loại bỏ vẫn có thể
được tái sử dụng lại như: chai nhựa, vỏ hộp, túi nhựa, giấy báo,…Đây là loại rác
thải khó phân hủy nhưng vẫn có thể được tái chế với mục đích phục vụ cho đời sống
Rác hữu cơ: Là những loại rác dễ dàng phân hủy, gồm: hoa quả, bã trà, bã
café, rau củ, thức ăn thừa, lá cây,… Chúng là phần bỏ đi của thực phẩm sau khi chế
biến, là phần thực phẩm thừa hoặc hư hỏng không thể sử dụng; chúng thường được
tận dụng làm phân xanh (phân hữu cơ) hoặc làm thức ăn cho động vật nuôi.
Rác cơ: Là rác thải không thể sử dụng và không thể tái chế. Với những
loại rác thải này, chỉ có cách chôn dưới đất hoặc đốt, gồm: các loại bao bì dùng để
bọc bên ngoài hộp/chai thực phẩm, các loại túi ni lông, đồ chơi, quần áo, xương
động vật, giấy ăn, than, vỏ sò, vỏ hến,…
3. Tác động của rác thải sinh hoạt đến môi trường sức khỏe cộng đồng
Rác khi thải vào môi trường gây ô nhiễm, đất, nước, không khí. Ngoài ra, rác
thải còn làm mất vệ sinh công cộng, làm mất mỹ quan môi trường. Rác thải là nơi
trú ngụ và phát triển lý tưởng của các loài gây bệnh hại cho người và gia súc.
Ảnh hưởng đến môi trường không khí: Nguồn rác thải từ các hộ gia đình
thường là các loại thực phẩm chiếm tỷ lệ cao trong toàn bộ khối lượng rác thải ra.
Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm và mưa nhiều ở nước ta là điều kiện thuận lợi cho các
thành phần hữu cơ phân huỷ, thúc đẩy nhanh quá trình lên men, thối rữa và tạo nên
mùi khó chịu cho con người. Các chất thải khí phát ra từ các quá trình này thường là H2S, NH3, CH4, SO2, CO2.
Theo thói quen nhiều người thường đổ rác tại bờ sông, hồ, ao, cống rãnh.
Lượng rác này sau khi bị phân huỷ sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng
nước mặt, nước ngầm trong khu vực. Rác có thể bị cuốn trôi theo nước mưa xuống
ao, hồ, sông, ngòi, kênh rạch, sẽ làm nguồn nước mặt ở đây bị nhiễm bẩn. Mặt
khác, lâu dần những đống rác này sẽ làm giảm diện tích ao hồ, giảm khả năng tự
làm sạch của nước gây cản trở các dòng chảy, tắc cống rãnh thoát nước. Hậu quả
của hiện tượng này là hệ sinh thái nước trong các ao hồ bị huỷ diệt . Việc ô nhiễm
các nguồn nước mặt này cũng là một trong những nguyên nhân gây các bệnh tiêu
chảy, tả, lỵ trực khuẩn thương hàn,ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ cộng đồng.
Ảnh hưởng của rác thải tới môi trường đất: Trong thành phần rác thải có chứa
nhiều các chất độc, do đó khi rác thải được đưa vào môi trường thì các chất độc
xâm nhập vào đất sẽ tiêu diệt nhiều loài sinh vật có ích cho đất như: giun, vi sinh
vật, nhiều loài động vật không xương sống, ếch nhái ... làm cho môi trường đất bị
giảm tính đa dạng sinh học và phát sinh nhiều sâu bọ phá hoại cây trồng. Đặc biệt
hiện nay việc sử dụng tràn lan các loại túi nilông trong sinh hoạt và đời sống, khi
xâm nhập vào đất cần tới 50 - 60 năm mới phân huỷ hết và do đó chúng tạo thành
các "bức tường ngăn cách" trong đất hạn chế mạnh đến quá trình phân huỷ, tổng
hợp các chất dinh dưỡng, làm cho đất giảm độ phì nhiêu, đất bị chua và năng suất cây trồng giảm sút .
Ảnh hưởng của rác thải đối với sức khoẻ con người: Trong thành phần rác
thải sinh hoạt, thông thường hàm lượng hữu cơ chiếm tỉ lệ lớn. Loại rác này rất dễ
bị phân huỷ, lên men, bốc mùi hôi thối. Rác thải không được thu gom, tồn đọng
trong không khí, lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ con người sống xung quanh.
Chẳng hạn, những người tiếp xúc thường xuyên với rác như những người làm công
việc thu nhặt các phế liệu từ bãi rác dễ mắc các bệnh như viêm phổi, sốt rét, các
bệnh về mắt, tai, mũi họng, ngoài da, phụ khoa..
II. Thực trạng quản rác thải sinh hoạt Thành phố Nội
1. Bối cảnh kinh tế - hội Thành phố Nội
Trong quý I năm 2023, kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều biến động phức tạp
và bất ổn; lạm phát toàn cầu mặc dù đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao; sự phục hồi
chậm và suy giảm nhu cầu tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn; giá năng
lượng thế giới tăng cao; chiến sự Nga - Ucraina kéo dài… Mặc dù vậy, kinh tế Việt
Nam đã đạt được những kết quả tích cực. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất
nước, thủ đô Hà Nội là đã và đang có sự thay đổi ấn tượng về tăng trưởng kinh tế.
Tốc độ tăng GDP GRDP của 5 thành phố trực thuộc Trung ương
quý I năm 2023 (%)
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê)
Tốc độ đô thị hóa ở TP Hà Nội diễn ra mạnh mẽ, thể hiện qua tỷ lệ dân số khu
vực thành thị tăng nhanh từ 36,8% năm 1999 lên 41% năm 2009 và 49,2% năm
2019. Các quận như Đống Đa, Thanh Xuân, Hai Bà Trưng và Cầu Giấy là những
nơi có mật độ dân số cao nhất, tương ứng 37.347 người/km2; 32.291 người/km2;
29.589 người/km2 và 23.745 người/km2. Những quận mới thành lập như Hoàng
Mai, Nam Từ Liêm, Bắc Từ Liêm và Hà Đông do dân số tăng nhanh đã trở thành
những địa bàn có mật độ dân cư đông đúc không thua kém các quận trung tâm.
Tốc độ đô thị hóa nhanh đã và đang tác động tích cực đến phát triển kinh tế -
xã hội của nước ta như góp phần tăng trưởng kinh tế, phát triển loại hình du lịch đô
thị, cải thiện tình trạng đói nghèo,… Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực này
thì quá trình độ thị hóa có thể tạo ra những thách thức, hệ lụy lớn cho phát triển
bền vững nếu không có quy hoạch khoa học cũng như tầm nhìn xa và rộng. Vấn đề
ô nhiễm môi trường là một trong những hệ lụy được quan tâm đầu tiên khi bài toán
về rác thải sinh hoạt từ lâu vẫn chưa có lời giải.
2. Thực trạng rác thải sinh hoạt Thành phố Nội
2.1. Thành phần khối lượng
Do quá trình đô thị hoá, điều kiện và thói quen sinh hoạt thay đổi, thành phần
rác thải sinh hoạt tại Hà Nội có tỉ lệ khác nhau. Đối với thành phần chất thải từ các
hộ gia đình, chất thải hữu cơ chiếm tỉ lệ cao nhất ở tất cả các năm với tỉ lệ trên
50%, cho thấy tiềm năng cao trong việc thực hiện chế biến phân hữu cơ từ rác thải
rắn tại đây. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc nhiều vào chất lượng của rác đầu
vào, cụ thể là việc thực hiện phân loại chất thải tại đầu nguồn phát sinh mà phân
loại rác thải tại nguồn chưa trở thành hoạt động thường xuyên và phổ biến.
Tỷ lệ thành phần chất thải tại nội thành Nội (ĐVT: %)
(Nguôn: Theo báo cáo năm 2022 của Công ty Môi trường đô thị Nội)
Thành phố Hà Nội đang phải đối mặt với những vấn đề về môi trường rất lớn
khi mà mỗi ngày phát sinh ra khoảng 6.500 - 7000 tấn rác thải sinh hoạt, nhiều rác
chưa thể thu gom và xử lý vậy nên các bãi rác “tự nhiên” cứ thế mọc lên bất chấp
nơi nào. Khối lượng rác thải không ngừng tăng lên theo tốc độ đô thị hóa nhưng
nghịch lý là Hà Nội chỉ có ba khu xử lý rác đều đang trong tình trạng quá tải nên
Hà Nội đang phải đối mặt với nhiều áp lực và hệ lụy từ rác.
Mới đây nhất từ ngày 15-20/6/2022, trên địa bàn một số quận Thanh Xuân,
Cầu Giấy, Đống Đa, Nam Từ Liêm ùn ứ rác thải sinh hoạt nghiêm trọng. Tại
những khu vực rác thải ùn ứ khiến nước rỉ rác chảy tràn ra đường trong lúc thời tiết
nóng bức, bốc mùi hôi thối khó chịu. Nguyên nhân được xác định do Khu liên hiệp
xử lý rác thải Nam Sơn (bãi rác Nam Sơn) ở huyện Sóc Sơn đang bị quá tải khiến
phương tiện đi vào bãi khó khăn, ảnh hưởng đến việc xử lý.
Trong đó, lượng rác thải sinh hoạt được xử lý tại Khu liên hợp xử lý chất thải
Nam Sơn, huyện Sóc Sơn khoảng 5.000 - 5.300 tấn/ngày đêm; tại Khu xử lý chất
thải rắn Xuân Sơn, thị xã Sơn Tây khoảng 1.200 - 1.300 tấn/ngày đêm. Hiện tại
việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt được thực hiện với 2 phương pháp chôn lấp
khoảng 89% và 11% được xử lý bằng phương pháp đốt. Như vậy, cơ bản mới tạo
lợi ích vệ sinh môi trường, ít có lợi ích về kinh tế, xã hội.
Vấn đề tốc độ xử lý rác thải bị chậm do quá tải cũng để lại vô số hệ lụy:
Các địa điểm thu gom, phân loại, xử lý rác thải luôn trong tình trạng quá tải sẽ
dẫn đến chất lượng xử lý không đạt được hiệu quả cao, dẫn đến lợi ích về môi
trường bị ảnh hưởng. Giả sử, lượng rác thải quá lớn, không thể phân loại 1 cách
chính xác, vì vậy, kể cả khi dùng phương pháp đốt hay phương pháp chôn lấp để
xử lý, cũng để lại ảnh hưởng không tốt đến môi trường. Bên cạnh đó, việc quá tải ở
các điểm xử lý rác tập trung của thành phố Hà Nội sẽ dẫn đến việc các địa điểm
này tạm ngưng thu gom rác để xử lý khối lượng đang tồn đọng trong các bãi rác
này, điều này sẽ gián tiếp tạo nên các bãi rác tự phát trong thành phố, ví dụ như: lề
đường, các khu vực chợ dân sinh, sông, mương,...
Tình trạng quá tải ở các khu xử lý rác thải cũng đồng nghĩa với việc tình trạng
ùn ứ rác thải trong khu vực nội đô và khu đông dân cư kéo dài, đặc biệt hơn, tình
trạng này thường xuất hiện vào mùa hè ở Hà Nội, là mùa có thời tiết nóng bức, rác
thải sinh hoạt ùn ứ ở các tuyến đường có thể bốc mùi hôi thối, khó chịu gây mất
mỹ quan đô thị và tạo điều kiện cho các vi khuẩn gây bệnh phát triển, ảnh hưởng
đến người dân sống và làm việc ở gần khu vực bị ùn ứ rác thải.
Tình trạng ùn ứ rác kéo dài cũng gây ảnh hưởng về mặt kinh tế, Hà Nội sẽ
phải chi nhiều hơn để xử lý gấp rút vấn đề này do có quá nhiều ảnh hưởng tiêu cực
nếu tiếp diễn quá lâu.
2.2. Khó khăn trong xử rác thải sinh hoạt
Thực tế trên đang tồn tại mâu thuẫn đáng lo ngại, đó là lượng rác thải của
Thành phố ngày càng tăng, trong khi công nghệ, hạ tầng, quy mô xử lý rác thì vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu. Ngoài các khu xử lý rác nhỏ lẻ thì Hà Nội chỉ có 3
khu vực xử lý rác chính là Khu liên hợp xử lý chất thải Nam Sơn (Sóc Sơn), Khu
xử lý chất thải rắn Xuân Sơn (Sơn Tây) và Khu xử lý chất thải Cầu Diễn (Nam Từ
Liêm). Trong đó, Khu liên hợp xử lý chất thải Nam Sơn có công suất lớn nhất, với gần 4.000 tấn rác/ngày.
Đội ngũ những người làm công tác thu gom rác thải sẽ tổng hợp rác thải sinh
hoạt từ các hộ gia đình, các khu dân cư hoặc từ các thùng đựng rác, thùng rác nhựa
cố định tại các địa điểm công cộng (công viên, vườn hoa, bệnh viện, trường học…) .
đồ xử rác thải sinh hoạt chủ yếu hiện nay
Việc thu gom vận chuyển được thực hiện khác nhau giữa đô thị và nông thôn,
giữa các địa phương và thậm chí giữa các vùng trong cùng một địa phương. Cụ thể
như, tại đô thị, chất thải phát sinh tại các hộ gia đình thông thường được các đơn vị
thu gom theo giờ nhất định, các phương tiện xe thủ công được người thu gom sử
dụng để chuyển rác thải ra các điểm tập kết, từ đó đưa lên xe vận chuyển về cơ sở
xử lý hoặc về trạm trung chuyển trước khi chuyển về cơ sở xử lý. Khu vực nông
thôn, nhiều địa phương đã có các tổ tự quản, hội phụ nữ thu gom chất thải theo tần
suất nhất định và chuyển đến điểm tập kết để các công ty môi trường đô thị vận
chuyển về cơ sở xử lý. Tuy nhiên, nhiều trường hợp không được thu gom dẫn đến
việc hình thành các bãi rác tạm gây ô nhiễm môi trường tại các khu vực nông thôn.
Công tác vận chuyển hiện cũng gặp nhiều khó khăn, các bãi chôn lấp chất thải
thường ở xa khu dân cư làm tăng chi phí vận chuyển. Trong khi đó, mức phí vệ
sinh môi trường (giá dịch vụ thu gom, vận chuyển) thu từ các hộ gia đình mới chỉ
chi trả được một phần cho hoạt động thu gom chất thải, không đủ để chi trả cũng
như duy trì cho hoạt động vận chuyển.
Phương thức xử lý rác thải ở các khu xử lý trên hiện chủ yếu vẫn là chôn lấp,
lạc hậu, chưa ứng dụng công nghệ tiên tiến vào xử lý, như: Công nghệ đốt rác,
công nghệ chuyển đổi rác thành năng lượng... Chính vì thế mà qua thời gian, diện
tích dùng để chôn lấp bị thu hẹp, hạ tầng quá tải dẫn đến phát sinh các sự cố.
Những lần như vậy, việc thu gom, xử lý rác bị gián đoạn, gây tồn đọng rác ngoài
môi trường nhiều ngày. Ngoài ra, các phương pháp mới đưa vào sử dụng nhằm tận
dụng lại một phần rác thải như biến rác hữu cơ thành phân bón hữu cơ cũng không
mang lại quá nhiều lợi ích kinh tế, chi phí để quản lý và tạo ra phân bón quá cao
trong khi giá trị mang lại không quá nhiều, khiến cho việc sử dụng phương pháp
này không được các địa điểm xử lý rác chú trọng.
"Vào thời điểm năm 2008-2009, khi rác hữu được đưa đi sản xuất phân
bón, công nhân phải phân loại thêm, sau đó vận chuyển lên bãi rác Nam Sơn, tốn
kém chi phí. Giá thành phân hữu bán ra lại không đắp được chi phí đầu vào
nên càng làm càng lỗ. thế, đến nay, Nhà máy Chế biến phân hữu Cầu Diễn
vẫn đang tạm dừng hoạt động thời hạn, trang thiết bị máy móc thể trở thành
một đống sắt vụn. Phân bón làm ra không bán được cho ai, nên nhà máy không thể
hoạt động được- đại diện Chi cục Môi trường Nội nói về dự án này"1.
Bên cạnh đó, chính quyền ở nhiều địa phương chưa quan tâm đúng mức, chưa
thực hiện đầy đủ trách nhiệm về quản lý chất thải. Các đề án được đề xuất qua
hàng thập kỷ vẫn chưa được phê duyệt hay thậm chí sửa đổi, các phương án xử lý
rác thải đã được thông qua nhưng tại nhiều nơi vẫn chưa cấp vốn để triển khai thực hiện
Nhận thức của người dân trong thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý CTR
còn nhiều hạn chế, chưa tích cực tham gia vào các hoạt động thu gom, vận chuyển
CTRSH, chưa đóng phí vệ sinh môi trường đầy đủ. Trong khi đó, ý thức của một
số doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý chất thải chưa cao, gây ô nhiễm môi trường
trong quá trình vận chuyển, xử lý chất thải.
Trao đổi với phóng viên Lao Động về nguyên nhân chưa thể phân loại rác tại
Nội thời gian qua, một đại diện Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Nội
(URENCO) tiết lộ: Dự án đó chưa được sự vào cuộc mạnh mẽ của chính quyền,
chưa quy định nào cả chỉ mang tính chất đoàn thể tuyên truyền nâng cao ý
thức của người dân.
"Cứ đi tuyên truyền ra rả, thậm chí nơi cả các bác tổ trưởng dân phố
đứng ngay tại thùng rác để yêu cầu người dân phân loại rác, nhưng làm sao thể
làm như vậy mãi? Rồi trong thu gom thì 2 thùng phân loại riêng nhưng lại đổ ụp
làm 1, phân hữu được làm từ rác không bán được, nhà máy không hoạt động
được. Nếu được hỗ trợ hoạt động trở lại thì nhà máy đó cũng chỉ xử được
một phần rất nhỏ rác thải hữu của thành phố thôi"- vị này nói2. 1 Theo báo Lao Động. 2 Theo báo Lao Động.
Hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý CTR ở nhiều nơi còn mang tính chất
cộng đồng, nên chưa thúc đẩy được tính chuyên nghiệp của các tổ dịch vụ, hợp tác
xã, công ty dịch vụ môi trường…
Trên địa bàn các huyện Ba Vì, Mỹ Đức, Ứng Hòa, Phú Xuyên đều đang diễn
ra tình trạng các khu xử lý chất thải dù đã được quy hoạch nhưng chậm tiến độ do
diện tích, công suất không phù hợp với định hướng công nghệ và phát triển đô thị
của TP hiện nay hoặc vướng mắc trong khâu giải phóng mặt bằng.
"Theo Phó Giám đốc Sở TN&MT Nội Mai Trọng Thái, nguyên nhân dẫn
tới các dự án chậm tiến độ do người dân khu vực triển khai dự án chưa đồng
thuận với chủ trương các dự án mở rộng theo quy hoạch, lo ngại ô nhiễm môi
trường. Bên cạnh đó, tiến độ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, tái định
của các chủ đầu còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác bồi thường,
hỗ trợ vùng ảnh hưởng môi trường, các chính sách hỗ trợ Nhân dân về bảo hiểm y
tế, khám chữa bệnh, quan trắc giám sát môi trường còn chưa kịp thời đáp ứng nhu
cầu của người dân"3.
Kế hoạch vận hành của khu xử lý rác thải lớn nhất Hà Nội không ổn định,
phải thay đổi từng ngày cho phù hợp với tình trạng của các bãi chôn lấp và lượng
rác đưa về. Từ đây, nguy cơ xảy ra sự cố chất thải trong quá trình vận hành luôn
rình rập, ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận, xử lý. Mỗi lần xảy ra sự cố ở các khu
xử lý rác, nhiều khu vực trong khu dân cư, thậm chí là ngay lòng đường phố trở
thành nơi chứa rác bất đắc dĩ gây mất mĩ quan, làm giảm chất lượng không khí,
cản trở giao thông và làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống người dân xung
quanh cũng như người đi đường...
Hiện nay, khoảng 90% rác thải sinh hoạt của Hà Nội được xử lý theo phương
thức chôn lấp truyền thống, chỉ 10% áp dụng công nghệ cao. Việc chôn lấp chủ yếu
được thực hiện tại các bãi tập kết rác thải sinh hoạt chủ yếu của Hà Nội ở bãi Nam
Sơn, huyện Sóc Sơn với khối lượng chiếm trên 70% lượng rác thải sinh hoạt được
thu gom của Thành phố. Tuy nhiên, bãi rác Nam Sơn lại trở thành điểm ô nhiễm
môi trường lớn nhất Hà Nội và gây ra tình trạng khủng hoảng cuộc sống của người dân khu vực này.
"Ông Cao Xuân Thìn-Phó Giám đốc Công ty TNHH Một thành viên Môi
trường đô thị Nội (Urenco) - chi nhánh Nam Sơn - cho biết, tối 13.7.2020,
người dân thuộc 2 Hồng Kỳ Nam Sơn (Sóc Sơn) đã cản trở không cho xe chở
rác vào Khu Liên hợp xử chất thải Nam Sơn.
3 Theo Báo Kinh tế & Đô thị.
Theo lãnh đạo Urenco-chi nhánh Nam Sơn, người dân làm lều lán ngăn
không cho xe chở rác tại 2 cổng của bãi rác.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên liên quan đến việc thành phố chậm chi
trả đền giải phóng mặt bằng vùng ảnh hưởng môi trường bán kính 500m của
Khu Liên hợp xử chất thải Sóc Sơn.
Được biết, chiều nay, các cấp chính quyền đang thực hiện đối thoại với người
dân địa phương trước những vấn đề họ phản ánh.
Đề tránh ùn rác khu vực nội thành, Sở Xây dựng Nội đang lên kế hoạch
phân luồng rác về bãi rác Xuân Sơn (Sơn Tây). Urenco đã yêu cầu các chi nhánh
chủ động lưu rác trên xe đảm bảo vệ sinh.
Trước đó, 3 lần vào tháng 12, tháng 7 tháng 1 năm 2019, người dân 2
trên đã chặn không cho các xe chở rác vào Khu liên hợp xử chất thải Nam
Sơn. Việc này khiến nhiều quận nội thành bị ùn ứ, tồn đọng lượng rác lớn, chất
thành đống ngổn ngang"4.
Điều này cho thấy, hiện nay, vấn đề thu gom rác thải sinh hoạt và rác thải rắn
thiếu sự đa dạng trong lựa chọn, sự phụ thuộc hoàn toàn vào bãi rác Nam Sơn
khiến cho Hà Nội phải trả giá khi hoạt động của bãi rác này bị đình trệ. Tương tự
như vậy, việc xử lý rác thải rắn cũng gặp nhiều khó khăn do lượng xả lớn, trong
khi đó các nhà máy xử lý chất thải rắn theo hướng áp dụng công nghệ hiện đại còn
hạn chế. Do đó, lượng rác thải rắn chủ yếu được xử lý dựa trên công nghệ đốt hoặc
tái chế truyền thống. Đây lại là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường nước và
môi trường không khí trên địa bàn Thành phố.
"Mặt khác, chưa chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực môi trường để thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới công
nghệ trong công tác thu gom, vận chuyển rác. Việc bố trí quỹ đất cho các dự án
đầu tư, xây dựng vận hành công trình bảo vệ đã được quy định tại Khoản 6,
Điều 78, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 chưa sát với thực tế thu gom xử
rác nội đô… Đối với phân loại rác tại nguồn cũng chưa kế hoạch thực hiện,
không quy hoạch hạ tầng đối với các sở tập trung phân loại tái chế của
thành phố…"5
3. Giải pháp xử rác thải hiệu quả nhằm tăng cường quản rác thải
sinh hoạt Nội 4 Theo Báo Lao Động. 5 Theo Báo Công Thương.
Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đang trong quá trình công nghiệp
hóa, đô thị hóa mạnh mẽ. Cùng với đó, sự gia tăng dân số, kéo theo chất thải rắn và
rác thải sinh hoạt tăng về khối lượng gây áp lực lớn cho công tác bảo vệ môi
trường. Quá trình thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt bảo đảm hiệu quả đối với các
đô thị lớn như Hà Nội đòi hỏi cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp từ phân loại
rác đến đầu tư hạ tầng. Việc phân công rõ trách nhiệm cho các sở, ngành, cơ quan,
đơn vị có liên quan trên địa bàn Thành phố đóng vai trò quan trọng trong công tác
bảo vệ môi trường nói chung và quản lý rác thải sinh hoạt nói riêng. .
3.1. Phân loại rác thải trước khi xử lý, học hỏi kinh nghiệm một số nước tiên
tiến trên thế giới
Đây là điều quan trọng giúp cho khâu xử lý rác thải được dễ dàng hơn, hiệu
quả hơn và dễ kiểm soát hơn, nhất là đối với những loại rác khó phân hủy và gây
nguy hại tới môi trường. Để có thể thực hiện tốt giải pháp này, cần phải tuyên
truyền và có các chế tài xử lý đối với các hành vi thải rác ra môi trường một cách tiêu cực.
Cần thống nhất vai trò quản lý chất thải rắn trên địa bàn Thành phố cho Sở
Tài nguyên và Môi trường. Tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động thu gom, vận
chuyển và xử lý rác thải để phòng ngừa cũng như kịp thời phát hiện và xử lý các tổ
chức, cá nhân vi phạm gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Tăng cường thanh tra
trách nhiệm quản lý nhà nước trong công tác quản lý rác thải sinh hoạt.
Học hỏi kinh nghiệm quý ở các nước đối với vấn đề rác thải như:
- Ở Nhật Bản, vứt rác bừa bãi có thể bị phạt tù:
"Hiện tại, công tác xử rác thải sinh hoạt tại Nhật Bản được quản theo
cấp độ địa phương (quận, huyện). Mỗi địa phương cách phân loại rác khác
nhau nhưng về bản rác thải sinh hoạt tại Nhật được chia thành 4 loại chính:
rác đốt được, rác không đốt được, rác nguyên liệu rác thải cỡ lớn.
Loại rác phổ biến được thải ra hàng ngày nhiều nhất rác đốt được,
thường rác thải từ nhà bếp, vụn giấy, quần áo cũ, cây… Mỗi loại này sẽ được
thu gom theo từng túi nilong riêng, sau đó buộc vào một túi chung. Loại rác này
thường được thu gom với tần suất hai lần một tuần.
Rác không đốt được bao gồm kim loại, thủy tinh, gốm sứ, pin khô các
thiết bị điện gia dụng nhỏ như máy sấy tóc… thường không phổ biến nên tần
suất thu gom mỗi tháng một lần.
Rác nguyên liệu gồm các loại chai lọ thủy tinh, lon nước, báo, tạp chí
thùng carton… được thu gom một lần mỗi tuần. Chai lọ như sữa hoặc đồ uống,
được khuyến nghị rửa sạch trước khi vứt để tránh gây mùi khó chịu cho nhân
viên tái chế.
Với rác thải cỡ lớn gồm các loại chăn đệm, đồ gia dụng như quạt, máy hút
bụi, tivi, tủ lạnh, máy in, bàn ghế, đồ chơi trẻ em cỡ lớn, khi đổ loại rác này, người
dân phải đăng trước trả phí từ 3.000 đến 10.000 yên (hơn 600.000 đến hơn 2
triệu đồng) tùy kích thước.
Việc xử phạt khi vi phạm quy định về vứt rác tại Nhật rất nghiêm khắc. Vứt
rác bừa bãi thể bị phạt 5 năm hoặc 10 triệu yên (2,2 tỷ đồng). Vứt tàn thuốc
vào rãnh mương tạm giam một đến 30 ngày, phạt tiền từ 1.000 đến một vạn yên
(200.000 đến 2,2 triệu đồng). Vứt rác từ xe hơi bị phạt từ 5 vạn yên (11 triệu đồng).
- Người Đức phân loại rác theo màu
Người dân Đức phân loại rác theo màu, gọi sáng kiến (Green Dot). Theo
đó, đựng trong thùng màu nâu các loại rác hữu thể phân hủy, như thức ăn
thừa, rau hoa quả, vỏ trứng, vỏ các loại hạt, phê chè, cây rụng, cỏ…
Rác thải thường không chứa chất độc hại, nhưng khó phân hủy, được đựng trong
thùng màu đen như tàn thuốc lá, tro, đầu mẩu thuốc lá, mẩu cao su thừa, băng gạc
vệ sinh, bỉm trẻ em, sản phẩm làm từ da đồ giả da.
Thùng rác màu vàng đựng các loại chất dẻo như túi nilông, đồ hộp/lon
rỗng, hộp đựng nước. Thùng đựng rác giấy màu xanh da trời, thể vứt các loại
báo cũ, tạp chí cũ, tờ rơi, sách cũ, bao bằng giấy, hoặc bìa cứng. Riêng thùng
thủy tinh để vứt chai, lọ thùng to tròn màu xanh cây với nhiều ngăn. Trong
đó, chai, lọ thủy tinh bỏ vào một ngăn, còn các chai, lọ nhựa khác bỏ vào ngăn
khác không vứt các loại vỏ chai thể tái sử dụng.
Ngoài ra, đối với các loại rác cồng kềnh, khó xử như đồ nội thất không
được phép vứt bừa bãi, phải gọi cho công ty môi trường đến thu gom, tân trang
bán các khu chợ đồ cũ.
Khi phân loại không đúng, rác sẽ không được thu gom. Nếu bị các công ty
môi trường phát hiện vứt rác bừa bãi, người dân thể bị phạt tiền"6.
3.2. Đẩy nhanh tiến độ các dự án đang chậm tiến độ
Khu xử lý chất thải Đồng Ké (Chương Mỹ, HN), dự án Nhà máy đốt rác
phát điện công suất xử lý 1200 tấn/ ngày-đêm, Khu xử lý chất thải rắn Xuân Sơn
(huyện Ba Vì và thị xã Sơn Tây), dự án đốt rác phát điện với công suất 1000
tấn/ngày-đêm, Nhà máy Điện rác Sóc Sơn (Sóc Sơn, HN),... các nhà máy cần phải
đẩy nhanh tiến độ và đưa vào sử dụng sớm nhất để giảm áp lực cho các nhà máy
đang hoạt động và xử lý khối lượng rác lớn hơn trước nhu cầu ngày càng cao của thủ đô Hà Nội.
Xác định việc đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các nhà máy xử lý rác thải
là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, các sở, ngành cũng quyết liệt thực hiện nhiệm vụ
thành phố giao, thường xuyên tổ chức họp nhằm giải quyết kịp thời khó khăn,
vướng mắc, phấn đấu để các dự án sớm khởi công, đi vào vận hành trong trong thời gian gần nhất.
Cần có ưu đãi về thuế, đất đai, hỗ trợ giá mua điện từ các dự án phát điện sử
dụng chất thải; xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân sống gần khu xử lý
rác thải để khuyến khích người dân ủng hộ việc xây dựng nhà máy xử lý chất thải
và đồng thuận giao đất. Thành phố cũng cần làm rõ các tiêu chí về năng lực, công
nghệ, kinh nghiệm, tài chính, thời gian hoàn thành dự án khi lựa chọn nhà đầu tư.
3.3. Tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
Chuyển giao công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Thủ đô trong dự báo,
phòng ngừa, kiểm soát, xử lý, giảm thiểu ô nhiễm, khắc phục hậu quả và sự cố môi
trường. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc tìm hiểu và ứng dụng công nghệ, giải pháp 6 Theo thiennhien.net.
tiên tiến, hiện đại vào việc quản lý, rà soát, xây dựng quy định quản lý rác thải; quy
trình thu gom, phân loại rác tại nguồn; việc vận chuyển, xử lý; thúc đẩy tái chế rác,
các sáng tạo trong việc xử lý rác thải.Nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công
nghệ xử lý chất thải rắn hiện đại, thân thiện với môi trường, theo hướng giảm thiểu
lượng chất thải rắn chôn lấp, tăng cường tỷ lệ tái chế, tái sử dụng và thu hồi năng lượng từ chất thải.
Rà soát đề xuất các chính sách ưu đãi hỗ trợ đồng thời, sớm triển khai cơ chế
huy động vốn đầu tư, thủ tục đầu tư rút gọn, các chính sách ưu đãi đặc thù, giải
pháp công nghệ phù hợp; quản lý, vận hành với sự tham gia của doanh nghiệp,
cộng đồng, tổ chức nước ngoài nhằm thúc đẩy việc áp dụng khoa học và kỹ thuật
trong công tác thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải và đẩy mạnh xã hội hóa nhằm
thu hút, tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư.
Singapore đầu tư công nghệ đốt rác phát điện:
"Để tiết kiệm diện tích đất giảm lượng rác phải chôn lấp, Singapore triển
khai nhiều biện pháp như đầu vào công nghệ đốt rác phát điện; tăng cường
phân loại rác tại nguồn; phạt nặng đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường; đẩy
mạnh tái chế rác thải; tuyên truyền cho người dân về bảo vệ môi trường…
Từ năm 1979, quốc đảo này xây dựng Nhà máy đốt rác phát điện đầu tiên
tại Ulu Pandan. Sau đó, Singapore tiếp tục xây dựng thêm 4 nhà máy đốt rác khác
Senoko, Tuas, Tuas South Keppel Seghers Tuas (KST).
Theo thống của quan Môi trường quốc gia Singapore (NEA), mỗi
ngày, nước này thải ra khoảng 21.023 tấn rác các loại. Trong đó, 58% lượng rác
được đưa đến các nhà máy tái chế, 41% đem đến những nhà máy đốt rác phát
điện, 2% không đốt được, mang đến bãi chôn lấp Semakau để xử lý.
Việc đốt rác phát điện giúp Singapore giảm đến 90% lượng chất thải rắn
phải chôn lấp, đáp ứng gần 3% nhu cầu điện năng của đất nước, nhất trong bối
cảnh diện tích đất ngày càng hạn hẹp. Tuy nhiên, vẫn còn tồn số chất thải
không đốt được như bùn thải, chất thải nhà máy đóng tàu, chất thải xây dựng…
tro xỉ của các nhà máy đốt cần phải chôn lấp.
Trước tình hình đó, Chính phủ Singapore quyết định xây dựng bãi chôn lấp
rác ngoài khơi, trên 2 hòn đảo gần nhau Pulau Semakau Pulau Seking.
Số rác chôn lấp tại đảo Semakau tro rác rác không đốt cháy được. Sau
khi đổ tro vào những ô trống được chuẩn bị sẵn, người ta còn lấp đất lên. Mục
đích dụ các loài côn trùng chim chóc đến làm màu mỡ cho đất. Ý tưởng này
thành công ngoài mong đợi khi Semakau hiện điểm quan sát chim nổi tiếng bậc
nhất của Singapore.
Từ năm 2001, Chính phủ Singapore triển khai chương trình xử rác thải
nhằm tăng tỷ lệ tái chế thông qua phân loại rác tại nguồn từ các hộ gia đình, các
chợ, sở kinh doanh"7.
3.4. Tăng cường nguồn nhân lực, hoàn thiện các chế về chính sách
khuyến khích răn đe để kiểm soát lượng rác thải sinh hoạt
Đào tào, tập huấn, đảm bảo quyền lợi cho công nhân trực tiếp thu gom, vận
chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt tại các địa phương. Lãnh đạo chính quyền, các
ngành, tổ chức chính trị - xã hội quan tâm kịp thời biểu dương, khen thưởng các
tập thể, cá nhân tham gia thực hiện tốt mô hình và lan tỏa điển hình trong cộng
đồng về hoạt động bảo vệ môi trường, chung tay góp sức để làm sạch thủ đô hay
tuyên truyền giảm thiểu, cách xử lý và nâng cao ý thức người dân về tác hại của rác thải sinh hoạt...
Hiện nay, các chế tài, quy định có các mức xử phạt vẫn còn thấp, ví dụ, hành
vi xả rác bừa bãi mức xử phạt hành chính chỉ từ 50.000 đến 100.000 đồng, thậm
chí quy định này còn được áp dụng rất hời hợt, thiếu hiệu quả. Do đó cần phải có
chế tài xử lý mạnh tay, tăng tính răn đe, để các cá nhân, tập thể, doanh nghiệp có ý
thức khi thải rác sinh hoạt ra môi trường.
Ngoài ra, nguồn nhân lực để xử lý rác thải ở HN đang thiếu nhiêm trọng cả
về số lượng và trình độ, cần thêm nguồn nhân lực có trình độ và cả số lượng để
nâng cao hiệu quả xử lý rác ở thủ đô, tránh để tình trạng ùn ứ rác trong khu vực nội
đô, gây mất mỹ quan đô thị và vô số hệ lụy kèm theo. 7 Theo thiennhien.net
Phần 3. KẾT LUẬN
Trên cơ sở tài liệu thu thập được và khảo sát thực tiễn, các giải pháp đã đề
xuất, tác giả kết luận một số nội dung sau:
1. Công tác quản lý rác thải đã được chính quyền các cấp của Thành phố Hà
Nội đặc biệt quan tâm xử lý, nhằm mang lại môi trường xanh, sạch, đẹp và cho
người dân Thành phố; cơ cấu tổ chức hệ thống quản lý rác thải đã được hoàn thiện
đầy đủ; các đơn vị sự nghiệp công ích trong thu gom và xử lý rác thải đã và đang
thực hiện nhiệm vụ thu gom và xử lý rác thải trên toàn địa bàn thành phố, tuy
nhiên vấn đề rác thải nói chung, rác thải sinh hoạt nói riêng vẫn tồn tại một số vấn
đề cần giải quyết, như: dịch vụ công ích trong thu gom và xử lý rác thải còn nhiều
hạn chế; tình trạng vứt rác bừa bãi vẫn còn xảy ra khá phổ biến; hệ thống nước thải
chưa được xử lý triệt để dẫn đến làm ô nhiễm khá nghiêm trọng các ao hồ, sông
rạch trên địa bàn thành phố (sông Kim Ngưu, sông Tô Lịch; hồ Trúc Bạch, Giảng
Võ…); đường phố, công viên nhiều nơi rác thải còn vứt bừa bãi…
2. Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài,
nhằm giải quyết dứt điểm, tận gốc trong thu gom và xử lý rác thải, quan tâm xây
dựng hoàn thiện các bãi rác, nhà máy xử lý rác, nâng cáo chất lượng hoạt động của
đơn vị sự nghiệp công ích đối với vấn đề rác thải, nhằm giảm thiểu tối đa ảnh
hưởng của rác thải tới đời sống người dân trên địa bàn Thành phố, xây dựng thành
phố thủ đô luôn xanh, sạch, đẹp và an toàn theo hướng bền vững.
3. Cần huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc trong công tác quản lý, hoàn
thiện hệ thống chính sách về vấn đề rác thải; khuyến khích cạnh tranh trong thu
gom và xử lý rác thải; tuyên truyền vận động người dân nêu cao ý thức trách nhiệm
trong quản lý rác thải sinh hoạt, thay đổi hành vi đặc biệt là vấn đề vứt rác bừa bãi
và phân loại rác thải sinh hoạt.
Trên đây là kết quả nghiên cứu và đề xuất của tác giả với chủ đề: "Thực
trạng giải pháp nhằm tăng cường quản rác thải sinh hoạt Thành phố Nội".
Trân trọng kính đề nghị Thầy Cô góp ý! Trân trọng!