-
Thông tin
-
Quiz
Tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam môn tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam môn tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:













Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................1
NỘI DUNG.....................................................................................................................2
I. Cơ sở lý luận............................................................................................................2
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội..........................................................................2
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.........................................................................................3
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.................................................................................................................................3
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.........................................................................4
II. Sự vận dụng............................................................................................................6
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam...............................................6
2. Thực trạng vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
việc7phát triển cơ cấu thành phần kinh tế và xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay..................................................................................................................7
3. Hạn chế...............................................................................................................8
4. Đề xuất giải pháp................................................................................................9
KẾT LUẬN...................................................................................................................11
TÀI LIÊU THAM KHẢO............................................................................................12 LỜI MỞ ĐẦU
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã kéo dài gần 70 năm, trong
đó toàn dân đã cùng nhau trải qua giai đoạn phát triển kinh tế xã hội và chuyển mình
sang một hình thái kinh tế xã hội mới tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Việc đi lên chủ
nghĩa xã hội là tất yếu theo quy luật tiến hóa của lịch sử. Tuy nhiên, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở một nước kinh tế kém phát triển như Việt Nam là quá trình phấn đấu
đầy “khó khăn” và “gian khổ”, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tuy vậy, Đảng Cộng sản
Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã kiên định theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
trong suốt những năm qua. Để thực hiện được mục tiêu đó, cần thiết phải xây dựng
một cơ cấu kinh tế hợp lý, giúp đảm bảo sự cân đối trong phát triển kinh tế và đáp ứng
được nhu cầu của thị trường.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cơ cấu thành phần kinh tế cần phải
được thiết lập sao cho các ngành kinh tế đều phát triển giúp đảm bảo sự cân đối trong
phát triển kinh tế và giảm thiểu sự phụ thuộc vào một số ngành kinh tế. Đồng thời, cơ
cấu thành phần kinh tế phải được thiết lập dựa trên tình hình cụ thể của đất nước và
phải đi theo hướng phát triển các ngành kinh tế mới như công nghệ thông tin, năng
lượng tái tạo, và du lịch. Việc phát triển các ngành kinh tế mới này giúp tăng cường
khả năng sản xuất và đáp ứng nhu cầu của thị trường, đồng thời giúp Việt Nam đào tạo
được nhân lực chất lượng cao để phát triển kinh tế.
Tóm lại, việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một yếu tố quan trọng để đạt
được mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Việc thiết lập cơ cấu thành phần
kinh tế đồng đều, đi kèm với việc phát triển các ngành kinh tế mới và tăng cường phát
triển các ngành kinh tế ưu tiên, giúp đảm bảo sự cân đối và đồng bộ trong phát triển
kinh tế của đất nước. Nhận thức được điều này, em đã chọn phân tích đề tài “ Anh, chị
hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam? Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều
thành phần trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay?”. 1 NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt
để, toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội. Nó diễn ra từ khi giai
cấp vô sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng xã hội mới và kết thúc khi
xây dựng thành công những cơ sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: lịch sử xã hội đã trải qua 5 hình thái kinh tế -
xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa. So với các hình thái kinh tế - xã hội đã xuất hiện trong lịch sử, hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa có sự khác biệt về chất, trong đó không có giai
cấp đối kháng, con người từng bước trở thành người tự do,… Bởi vậy, theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải
qua thời kỳ quá độ chính trị. C. Mác khẳng định:” Giữa xã hội tư bản nghĩa và xã hội
cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia.
Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy
không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
V.I.Lênin trong điều kiện nước Nga xô viết cũng khẳng định:”Về lý luận, không thể
nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định”.
Quán triệt và vận dụng, phát triển sáng tạo những lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới, chúng ta có thể khẳng định: Với lợi thế của thời đại,
trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, các nước lạc hậu, sau khi
giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản có thể tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng
từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa. Xã hội của
thời kỳ quá độ là xã hội có sự đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương diện kinh tế,
đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và những yếu tố mới mang tính chất xã hội
chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát
triển trên cơ sở của chính nó.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo cách
mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất – kỹ thuật và đời sống tinh thần
của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân
và nhân dân lao động giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. 2
Trên lĩnh vực kinh tế có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội như sau: Thời kỳ quá độ từ chũ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
về phương diện kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành
phần đối lập. Đề cập tới đặc trưng này, V.I.Lênin cho rằng:” Vậy thì danh từ quá độ có
nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có
những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa
xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận
điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau hiện
có ở Nga, chính là như thế nào? Mà tất cả then chốt của vấn dề lại chính là ở đó”.
Tương ứng với nước Nga, V.I.Lênin cho rằng thời kỳ quá độ tồn tại 5 thành phần kinh
tế: Kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển
cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định không thể
theo ý muốn nóng vội chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy
luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa,
tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật
chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, nhiệm vụ trọng tâm của
thời kỳ quá độ phải là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theođịnh
hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước
khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến hành với những nội
dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Đó cũng là quán triệt quan điểm lịch sử -
cụ thể trong việc xác định những nội dung, hình thức và bước đi trong tiến trình công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Kế thừa những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng không ngừng và
thời kỳ quá độ lên CNXH; xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của Việt Nam, theo Hồ Chí
Minh “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
và sống một đời hạnh phúc, là làm sao cho dân giàu nước mạnh”. Hồ Chí Minh đã
khẳng định: Thời kỳ quá độ “là thời kỳ dân chủ mới”, tiến dần lên CNXH. Ở Việt Nam
là hình thái quá độ gián tiếp với: “Đặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Đặc điểm này chi phối tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm từng bước 3
xóa bỏ triệt để các tàn tích của chế độ thực dân, phong kiến, đồng thời từng bước gây
dựng các mầm mống cho CNXH phát triển, đó là một tất yếu.
Theo đó, quá độ lên CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ
và lâu dài chứ “không thể một sớm một chiều. Bởi vì, “chúng ta phải xây dựng một xã
hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay
đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn
năm... biến nước ta từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp”. Tuy
nhiên, muốn “tiến lên chủ nghĩa xã hội” thì không phải “cứ ngồi mà chờ” là sẽ có được
chủ nghĩa xã hô •i. Nếu nhân dân ta mọi người cố gắng, phấn khởi thi đua xây dựng, thì
thời kỳ quá độ có thể rút ngắn hơn.
Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất; đồng thời, Đảng phải “lãnh
đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Trong đó, “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất
và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và
nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã
hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà
xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
Đây không chỉ là sự tiếp thu, kế thừa những giá trị trong hệ thống lý luận chủ
nghĩa Mác – Lênin về thời kì quá độ mà đó còn là sự bổ sung, phát triển trong điều
kiện lịch sử, tự nhiên phù hợp với dân tộc ta mà Bác đã làm sáng tỏ và trực tiếp vận
dụng một cách hiệu quả.
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.2.1 Phát triển kinh tế và cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Bác đã đề ra nhiệm vụ phát triển
kinh tế toàn diện. Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất và tăng năng suất
lao động là vấn đề mấu chốt, cùng với việc thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý
kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, ngành, vùng, lãnh thổ.
Bác Hồ rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Theo Người, quản lý
kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản xuất.
Trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta hiện nay còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc
hậu, Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải
tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại.
Đây là quá trình xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Giữa cải
tạo và xây dựng thì xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài, luôn gắn với việc thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. 4
2.2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Bác Hồ đã đặt ra mục
tiêu xây dựng một nền kinh tế toàn diện và bền vững. Theo Người, cơ cấu thành phần
kinh tế là một vấn đề quan trọng trong việc đạt được mục tiêu này. Từ nhận định:
“Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau:
sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tậpthể
của nhân dân lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu của nhà tư bản”, Người kết luận: “Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các
hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần
phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể”. Tuy nhiên, mục đích đó phải được thực hiện từng bước phù hợp với điều kiện cụ thể.
Theo quan điểm của Bác Hồ, cơ cấu thành phần kinh tế cần phải được thiết lập
sao cho các ngành kinh tế đều phát triển, không có ngành nào bị lệ thuộc vào ngành
khác. Việc này sẽ giúp đảm bảo sự cân đối trong phát triển kinh tế và giảm thiểu sự
phụ thuộc vào một số ngành kinh tế.
Bác Hồ cũng nhấn mạnh rằng, cơ cấu thành phần kinh tế phải được thiết lập
dựa trên tình hình cụ thể của đất nước và phải đi theo hướng phát triển các ngành kinh
tế mới như công nghệ thông tin, năng lượng tái tạo, và du lịch.
Ngoài ra, theo Bác Hồ, cơ cấu thành phần kinh tế cần được phân bổ hợp lý giữa
các ngành kinh tế để đảm bảo sự cân đối trong phát triển kinh tế. Việc này cũng giúp
tăng cường khả năng sản xuất và đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Bên cạnh đó, Bác Hồ cũng coi trọng việc phát triển các ngành kinh tế ưu tiên
như ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến, và khai thác tài nguyên. Những ngành
này được coi là cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác và giúp đảm bảo sự đồng bộ trong phát triển kinh tế.
Khi nước ta hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiền tư bản (Trung Quốc,
Việt Nam) phải “kinh qua chế độ dân chủ mới”. Trong chế độ dân chủ mới có 5 loại kinh tế khác nhau:
A - Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân)
B - Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội)
C - Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã,
tức là nửa chủ nghĩa xã hội) D - Tư bản của tư nhân
E - Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Người quan điểm nền kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội
chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản vì loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển
nhanh hơn; Nhà nước cần quan tâm đến sự phát triển của các thành phần kinh tế ở các
mức độ phù hợp. Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở 5
Miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do
1945-1954 ở những điểm thống nhất và có những điểm thay đổi sau:
- Điểm thống nhất: Trong nền kinh quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đặc điểm kinh
tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam là sự tồn tại
khách quan của các thành phần kinh tế. Và tồn tại các thành phần kinh tế phổ biến:
Kinh tế quốc doanh; Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; Tư bản của tư
nhân. Thành phần kinh tế quá độ: Các hợp tác xã; Tư bản của Nhà nước. - Điểm thay đổi:
+ Một là, khác với thời kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới không còn thành phần
kinh tế phong kiến. Cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở hữu phong kiến về
ruộng đất. Người nông dân đã trở thành người cày có rộng, chủ sở hữu ruộng đất.
Điều này một lần nữa khẳng định lại nhận định của Hồ Chí Minh: “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Muốn đi tới chủ
nghĩa cộng sản thì dân tộc phải độc lập và dân cày phải có ruộng.
+ Hai là, các thành phần kinh tế thay đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh tế. Ví dụ,
kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, phát
triển thành phần kinh tế quốc doanh tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc
đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Như vậy, vị trí, vai trò của thành phần kinh tế quốc
doanh đã có bước phát triển mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội đã trở thành
thành phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa xã hội và có vai trò “lãnh đạo”
trong nền kinh tế và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế.
Tóm lại, quan điểm của Bác Hồ về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thiết lập cơ cấu thành phần kinh tế sao cho các
ngành kinh tế đều phát triển và không có ngành nào bị lệ thuộc vào ngành khác. Việc
này đảm bảo sự cân đối trong phát triển kinh tế và giảm thiểu sự phụ thuộc vào một số
ngành kinh tế. Đồng thời, cơ cấu thành phần kinh tế cần được phân bổ hợp lý và tăng
cường phát triển các ngành kinh tế ưu tiên như ngành nông nghiệp, công nghiệp chế
biến, và khai thác tài nguyên để đảm bảo sự đồng bộ trong phát triển kinh tế. II. Sự vận dụng
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong tính tất yếu, nước ta xác định nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó
trong khoảng thời gian chưa thống nhất đất nước, thời kỳ quá độ được diễn ra trước
tiên ở Miền Bắc. Thời kỳ này bắt đầu từ năm 1954 sau khi miền Bắc được giải phóng.
Sau đó, các tính chất trong đấu tranh giải phóng và chi viện cho miền Nam được thực
hiện. Đến năm 1975, đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất hai miền Nam Bắc. Khi
đó, sự thống nhất trong vai trò lãnh đạo của Đảng đặt ra mục tiêu phát triển đất nước.
Trước tiên là khôi phục kinh tế, xã hội và đi lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy đến năm
1975, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Diễn ra với các chính sách cần thiết
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đặt dưới nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta thấy được những lợi ích
trong đổi mới kinh tế. Bên cạnh các phát triển mọi mặt và nhu cầu hợp tác toàn cầu.
Do đó tính dân chủ cần được phản ánh hiệu quả thông qua quá độ lên chủ nghĩa xã 6
hội. Bất cứ sự chuyển dịch tính chất xã hội nào cần được tiến hành hết sức khéo léo.
Thông qua lộ trình cùng với các tác động và điều chỉnh hợp lý. Đặt dưới tính chất phối
hợp của mọi thành phần kinh tế.
Với một đất nước với tính chất thuộc địa như nước ta bấy giờ, các tính dân chủ
không được phản ánh. Khi đó, người dân không đảm bảo với quyền lợi đáng ra được
hưởng. Bên cạnh các lỗ lực xây dựng kinh tế cá nhân hay kinh tế đất nước. Chủ nghĩa
xã hội sẽ mang đến các đảm bảo thông qua hệ thống pháp luật được ban hành trên phạm vi cả nước.
Đối với nước ta, thời kỳ đó phản ánh một nước nông nghiệp lạc hậu. Đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, các khó khăn rất lớn. Trong đó, với lý
tưởng trong ứng dụng công nghệ, kỹ thuật và khoa học hiện đại. Cùng với sự thúc đẩy
đảm bảo cho chất lượng cuộc sống từng người. Với tinh thần đó, sự chuyển dịch hay
tác động diễn ra chậm mà chắc. Bên cạnh các lợi thế và năng lực thời đó còn kém. Bởi
vậy mà Việt Nam đã trải qua một thời kỳ quá độ tương đối dài.
2. Thực trạng vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
phát triển cơ cấu thành phần kinh tế và xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay
Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã khẳng định; “Tư tưởng
Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản
tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Trong đó, theo tư tưởng của Người về chủ
nghĩa xã hội và xây dựng và phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Chính
phủ cùng nhau giải phóng mọi năng lực sản xuất, đánh dấu mốc mang ý nghĩa chiến
lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về “nhiệm vụ quan trọng nhất” ở thời kỳ quá
độ “là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội” vào thực tế
đất nước thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định: Trong đổi mới, Đảng lãnh đạo xây dựng
và phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này, Đại
hội VI vào tháng 12 năm 1986 xác định tư tưởng chỉ đạo cốt lõi là giải phóng mọi
năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu
quả sự giúp đỡ của quốc tế để phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và
củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đến Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI)
Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách nhất quán có ý
nghĩa chiến lược lâu dài và các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Xuyên suốt 8 kỳ Đại hội của Đảng từ khi đổi mới (Đại hội VI đến Đại hội XIII)
và cả trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020” và “Cương lĩnh xây
dựng đất nước tròn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” thông qua năm 1991 và bổ
sung phát triển năm 2011, đều đã khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng trong đổi
mới, chính là “Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này lại được cụ thể hóa, hoàn chỉnh ở mỗi thời kỳ hoạt
động của Đảng, nhất là cụ thể hóa về nội dung chính sách xây dựng và phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Đến Đại hội IX (năm 2001) thì khái niệm kinh tế hàng hóa 7
nhiều thành phần được khẳng định như sau: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra năm 2006 đã xác định
các thành phần kinh tế của nước ta thời điểm đó, bám sát vào tư tưởng Hồ Chí Minh là
có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhìn chung, các thành phần kinh tế có tổ chức hoạt động đúng pháp luật, đóng vai trò
hợp thành nên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng nhau phát
triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Tiếp tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng ta diễn ra vào năm 2011 lại một lần nữa nhấn mạnh mục tiêu phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với “nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối”. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tổ chức năm 2016 trên cơ sở tổng kết quá trình
30 năm đổi mới, Đảng khái quát lại những lý luận của mình: “Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật”. Và cho tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng mới diễn ra gần đây đã một lần nữa giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về tầm quan
trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới, nhấn mạnh về việc cải tiến để
phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta trong giai đoạn tiếp
theo, làm rõ hơn vai trò, định hướng phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Nhà nước,
thị trường và xã hội trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và đề ra nhiều nhiệm vụ mới, nội dung mới để tiếp tục hoàn thiện toàn diện,
đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước trong những năm tới. 3. Hạn chế
Trong quá trình xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý, Việt Nam cần phải
đối mặt với một số thách thức và khó khăn.
Một trong những thách thức đó là sự thiếu hụt về nhân lực chất lượng cao trong
các ngành kinh tế mới như công nghệ thông tin và năng lượng tái tạo. Việc đào tạo và
giáo dục nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo sự
phát triển bền vững của kinh tế. Việc đầu tư vào giáo dục và đào tạo nhân lực chất
lượng cao là một trong những cách để giải quyết vấn đề này.
Một thách thức khác là sự thiếu hụt vốn đầu tư và công nghệ trong các ngành
kinh tế mới. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát triển công nghệ là một trong
những cách để giải quyết vấn đề này. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp trong nước để phát triển và đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước. 8
Chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta còn thấp; chủ yếu dựa vào các nhân
tố tăng trưởng theo chiều rộng, với những ngành/sản phẩm truyền thống, công nghệ
thấp, tiêu hao vật tư cao, chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá nhiều vào
đầu tư và bảo hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của Nhà nước. Công nghiệp phụ trợ và
các dịch vụ khác chưa phát triển dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm còn thấp.
Hầu hết các ngành công nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng lượng và nguyên liệu cao
hơn so với các nước trong khu vực.
Việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế cũng đặt ra một thách thức khác cho Việt Nam.
Việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do và hội nhập kinh tế quốc tế có thể
mang lại nhiều cơ hội và lợi ích cho Việt Nam, tuy nhiên cũng đồng nghĩa với việc
phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các đối tác kinh tế khác. Việc nâng cao năng
lực cạnh tranh và đưa ra các sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao là một trong
những cách để giải quyết vấn đề này.
Ngoài ra, yếu tố chính trị và pháp lý cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng
đến quá trình xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Việc đảm bảo môi trường
kinh doanh lành mạnh và đầu tư vào pháp lý là một trong những cách để đảm bảo sự
ổn định và phát triển bền vững của kinh tế.
Tóm lại, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một quá trình đòi hỏi sự kiên trì và
nỗ lực của cả chính phủ và nhân dân Việt Nam. Việc đối mặt với các thách thức và khó
khăn trong quá trình xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý là điều tất yếu. Tuy
nhiên, với sự quyết tâm và nỗ lực của mọi người, Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu xây
dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển kinh tế bền vữn 4. Đề xuất giải pháp
Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, Việt Nam cần thực hiện các chính sách
thích hợp để phát triển các ngành kinh tế mới như công nghệ thông tin, năng lượng tái
tạo, và du lịch. Điều này giúp đa dạng nền kinh tế và giảm thiểu sự phụ thuộc vào một
số ngành kinh tế. Việc tăng cường hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và
vừa cũng là cần thiết để tăng cường sự đóng góp của họ vào nền kinh tế.
Tiếp tục tập trung bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ các nhận thức lý luận sau đó
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng phù hợp với điều kiện mới của đất nước và tình hình
thế giới. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc.
Việc xây dựng hệ thống hạ tầng kinh tế, bao gồm các tuyến đường, cầu đường,
sân bay, cảng biển, và các cơ sở hạ tầng khác để tăng cường khả năng vận chuyển và
logistics cũng là một yếu tố quan trọng. Đẩy mạnh việc nghiên cứu và phát triển khoa
học công nghệ để tăng cường sức cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị
trường quốc tế cũng là cần thiết. 9
Tinh giản các quy trình thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp và các nhà đầu tư để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Đẩy mạnh việc xây
dựng các khu công nghiệp và khu chế xuất, thu hút các doanh nghiệp đầu tư và giúp
tăng cường năng lực sản xuất của đất nước. Tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp vừa
và nhỏ để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tăng cường giáo dục và đào tạo nhân lực để đáp ứng với nhu cầu của thị trường
lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc tăng cường quan hệ hợp tác
với các nước trong khu vực và trên thế giới để tăng cường thương mại và đầu tư cũng là cần thiết.
Việc xây dựng các khu kinh tế đặc biệt để tăng cường sự phát triển kinh tế tại
các vùng kinh tế khó khăn cùng việc nghiên cứu và áp dụng các mô hình kinh tế xanh
và bền vững để giảm thiểu tác động của hoạt động kinh tế đến môi trường và tài
nguyên thiên nhiên cũng là các giải pháp hiệu quả.
Với các giải pháp như vậy, Việt Nam có thể phát triển kinh tế toàn diện và bền
vững trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. 10 KẾT LUẬN
Quan điểm của Bác về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và cơ cấu
thành phần kinh tế đã và đang được áp dụng rộng rãi trong phát triển kinh tế của Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện những nội dung đặc sắc, trên cơ sở kế thừa và
phát triển sáng tạo những giá trị của Mác – Lênin vào đặc điểm, tình hình xã hội Việt
Nam. Thực tiễn luôn vận động biến đổi và đang đặt ra nhiều vấn đề mới, những nội
dung tư tưởng về thời kì quá độ của Người vẫn giữ nguyên giá trị và sẽ luôn được tiếp
tục bổ sung, phát triển trong điều kiện mới.
Qua những tìm hiểu và phân tích trên đây, chúng ta thấy rõ thêm một cách sâu
sắc những điểm mạnh và yếu của các thành phần kinh tế để có thể tìm ra phương
hướng phù hợp phát triển cho từng thành phần kinh tế. Những thành phần này được
Đảng nhận thức sâu sắc và luôn cố gắng hoàn thiện trong thực tiễn. Trên cơ sở nhận
thức đó, Đảng đề ra đường lối chính sách phù hợp và nhất quán với từng loại hình kinh
tế, cũng như mục tiêu, phương hướng của nền kinh tế nhiều thành phần qua từng kỳ đại hội.
Như vậy, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một trong những yếu tố quan trọng
để đạt được mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Việc đảm bảo sự cân đối
và đồng bộ trong phát triển kinh tế, phát triển các ngành kinh tế mới và tăng cường
phát triển các ngành kinh tế ưu tiên, tham gia vào các hiệp định thương mại tự do và
đầu tư vào khoa học và công nghệ là những cách để đảm bảo sự phát triển kinh tế bền
vững và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, góp phần tạo nên thành công của thời
kì đổi mới, nâng cao và cải thiện đời sống nhân dân. 11 TÀI LIÊU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. C.Mác và Ph.Ăng ghen (2002): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. V.I.Lênin: Toàn tập (1980), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
5. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc 6. Tạp chí cộng sản
7. Tạp chí điện tử lý luận chính trị 12