Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam | Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Bách Khoa Hà Nội

Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam | Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tính tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh là người trung thành với học thuyết Mác - Lênin, trong đó
luận của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp sản, đồng thời vận dụng sáng
tạo phát triển luận đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trên thế giới, nói
chung, sự ra đời của một đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
hội khoa học với phong trào công nhân. Còn đối với Việt Nam, Hồ Chí
Minh cho rằng: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam kết quả của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Như vậy, so với học thuyết Mác - Lênin thì Hồ Chí Minh đưa thêm vào yếu tố
thứ ba nữa, đó phong trào yêu nước.
Quan điểm của Hồ Chí Minh trên đây hoàn toàn phù hợp với hội thuộc
địa phong kiến như Việt Nam, khi mọi giai cấp, tầng lớp, trừ sản mại bản
đại địa chủ, còn đều mâu thuẫn dân tộc. Đó giữa toàn thểmâu thuẫn cơ bản
nhân dân Việt Nam với các thế lực đế quốc tay sai. Trong thực tế, những phong
trào đấu tranh của công nhân đã kết hợp được rất nhuần nhuyễn với phong trào yêu
nước. Một số người Việt Nam yêu nước lúc đầu đi theo xu hướng dân chủ sản,
nhưng qua thực tế được sự tác động của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã dần dần tiến
theo xu hướng cộng sản, rõ nhất là từ năm 1925 trở đi. Hàng loạt tổ chức yêu nước
ra đời, trong đó nổi rõ nhất là tổ chức Hội Việt Nam Cách mệnh Thanh niên do Hồ
Chí Minh lập ra. Đấu tranh giai cấp quyện chặt với đấu tranh dân tộc. Thật khó
tách bạch mục tiêu bản giữa các phong trào đó, tuy lực lượng, phương thức,
khẩu
hiệu đấu tranh khác nhau, nhưng mục tiêu chung là: Giành độc lập, tự do cho
dân
tộc
Trong tác phẩm năm 1927), Hồ Chí Minh khẳng định:Đường cách mệnh (
Cách mạng trước hết phải “đảng cách mệnh, để trong thì vận động tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức sản giai cấp mọi nơi.
Đảng vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái vững thuyền
mới chạy”.
Đầu thế kỷ XX, trước thách đố lịch sử đặt ra là giải phóng dân tộc gắn liền
với giải phóng giai cấp, giải phóng hội, giải phóng con người, nhiều lực
lượng, tổ chức theo các ý thức hệ khác nhau đã đứng lên cứu nước, giải phóng
dân tộc nhưng cuối cùng đều thất bại. Thất bại đó đặt ra nhu cầu tất yếu phải
một chính đảng đủ năng lực hoạch định đường lối phương pháp cách
mạng đúng đắn, sáng tạo, có khả năng uy tín tập hợp lực lượng dân tộc
đoàn kết quốc tế, thì mới gánh vác được trọng trách lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 đã đáp ứng trúng nhu cầu lịch sử,
khắc phục được những sai lầm, thiếu sót của các phong trào yêu nước trước đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên đài chính trị, nắm lấy sứ mệnh lãnh đạo dân
tộc, lôi cuốn không ít nhà yêu nước tiến bộ từ bỏ lập trường giai cấp của mình và
tự nguyện chuyển sang lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu đứng vào hàng
ngũ của Đảng sau khi được giáo dục, giác ngộ tưởng cách mạng của Đảng. Các
lực lượng chính trị khác hoặc thối chí, hoặc thoái hóa, thậm chí đi ngược lại lợi ích
quốc gia - dân tộc, thỏa hiệp đầu hàng thực dân đế quốc, không những mất dần
uy tín chính trị, mà còn bị nhân dân xa lánh; chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực
lượng chính trị duy nhất đủ năng lực phẩm chất để lãnh đạo, được nhân dân
tuyệt đối tin tưởngđi theo làm cách mạng tự giải phóng. Từ khi ra đời đến nay,
năng lực lãnh đạo và uy tín của Đảng đã được khẳng định trong suốt tiến trình cách
mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vai trò lãnh đạo nhân dân
đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu lịch sử của cách mạng. Thực tiễn đã
khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Khẳng định đảng cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền quan điểm
nhất quán của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
suốt cả quá trình cách mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cả
trong cách mạng hội chủ nghĩa. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam một tất yếu, vai trò lãnh đạo của Đảng cũng một tất yếu điều đó xuất
phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam. Thực tế quá trình cách mạng Việt
Nam vận dụng phát triển tưởng Hồ Chí Minh đã nói lên rằng, sự bảo đảm,
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt tiến trình phát
triển của đất nước theo mục tiêu chủ nghĩa hội một nguyên tắc vận hành của
xã hội Việt Nam từ khi có Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nướcxã hội với vai trò, vị trí
một đảng duy nhất cầm quyền, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp
luật, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về
quyết định của mình. Bản chất của đảng cầm quyền là đảng lãnh đạo chính quyền
nhờ đó bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân làm chủ nhà
nước, làm chủ xã hội. Vấn đề cốt yếu đối với một đảng cộng sản cầm quyền là cầm
quyền một cách khoa học, dân chủ tuân theo pháp luật trên sở giữ vững sự
trong sạch, vững mạnh.
Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước nhưng không đồng nhất quyền lực của
đảng với quyền lực nhà nước. Quyền lực của đảng quyền lực chính trị, thể
hiện ở năng lực trí tuệ đề ra cương lĩnh, đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng
suốt, được thể chế hóa thành hiến pháp, pháp luật; lựa chọn, giới thiệu các
đảng viên ưu tú, uy tín để nhân dân bầu vào các quan quyền lực nhà
nước, thông qua đó, hiện thực hóa ý chí của Đảng bằng tất cả sức mạnh của
bộ máy nhà nước. Quyền lực nhà nước về hình thức là quyền lực công, nhưng
về bản chất vẫn quyền lực chính trị, bởi bất cứ lực lượng chính trị nào
muốn thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình cũng đều phải tìm cách giành lấy
chính quyền, sử dụng sức mạnh nhà nước phục vụ cho mục tiêu chính trị của
mình. Chính điều này quy định nhà nước mang chức năng thống trị chính trị
chức năng hội (công quyền), bảo đảm sự thống nhất giữa hai chức năng này là
sở cho giữ vững được bản chất cách mạng của nhà nước không ngừng phát
huy dân chủ trong hội, bảo đảm nhà nước của dân, do dân dân.của các tổ
chức đảng, của cán bộ, đảng viên quan hệ gắn máu thịt giữa đảng với nhân
dân
Địa vị cầm quyền của Đảng ta được hiến định, thể hiện nội dung cầm
quyền, trách nhiệm của Đảng trong hệ thống chính trị, trong mối quan hệ
giữa Đảng với các thiết chế chính trị, thiết chế chính trị - hội: Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân với toàn thể hội. Nội dung
cầm quyền của Đảng được thể hiện trên các lĩnh vực đời sống hội, sứ
mệnh trọng đại của Đảng đối với quốc gia - dân tộc, bảo vệ thành quả cách
mạng, phát triển kinh tế, hội, văn hóa sự tự do, phát triển của mỗi con
người.
Hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước
hội yêu cầu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa. Mặc Hiến pháp năm 1946 không quy định về sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, song vai trò của Đảng luôn thể hiện xuyên suốt
nội dung Hiến pháp và trong thực tiễn cách mạng.
Hiến pháp năm 1959 đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Lời nói
đầu: “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay
là Đảng Lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới”;
“Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi
trong Mặt trận dân tộc thống nhất, nhất định sẽ giành được những thắng lợi vẻ
vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc thực hiện thống
nhất nước nhà”.
Điều 4 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang
bằng học thuyết Mác - Lê-nin, lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo
xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ
chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.
Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 (gọi tắt Hiến pháp năm
1992) thể chế hóa đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, kế thừa Hiến pháp năm
1980 về hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy
định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng lãnh
đạo Nhà nước hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật”.
Kế thừa Hiến pháp năm 1980 Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013
tiếp tục khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
hội. Điều 4 Hiến pháp năm 2013, cùng với khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng, đã bổ sung, phát triển những nội dung quan trọng về vị trí, vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; khẳng định làm hơn, đầy đủ
hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời đội tiên phong của nhân dân lao
động của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tưởng, lực lượng lãnh đạo Nhà nước
hội”. Khoản 2, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một nội dung
mới, thể hiện hơn vai trò, trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân: “Ðảng
Cộng sản Việt Nam gắn mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu
sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết
định của mình”. Những quy định bổ sung này không chỉ tiếp tục khẳng định
bản chất cách mạng, vai trò tiên phong của Đảng, đây lần đầu tiên chế
định hóa trách nhiệm chính trị - pháp lý của Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định
của mình. Cả hai chiều quan hệ: Đảng với nhân dân nhân dân với Đảng
được xác định một cách biện chứng, bản chất giải quyết mối quan hệ giữa
lực lượng cầm quyền và cơ sở xã hội của nó.
Kết luận
Hiệu quả lãnh đạo của Đảng là bằng chứng sinh động bác bỏ mọi luận điệu
của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo, trách nhiệm
cầm quyền của Đảng; khẳng định tính tất yếu dân tộc Việt Nam, nhân dân
Việt Nam cần Đảng lãnh đạo để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích chiến lược đất nước thực hiện
khát vọng tự cường dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trong điều
kiện hiện nay, vấn đề đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hội
càng tầm quan trọng đặc biệt, cấp thiết hơn bao giờ hết gắn với yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của Đảng, làm cho hiệu
lực, hiệu quả quản của Nhà nước được tăng cường, nền dân chủ hội chủ
nghĩa được phát huy đầy đủ, nhất huy động, lôi cuốn nhân dân tham gia xây
dựng Đảng và quản lý nhà nước, thực hiện tốt hơn việc bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nhân dân, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
| 1/5

Preview text:

Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tính tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh là người trung thành với học thuyết Mác - Lênin, trong đó có lý
luận của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, đồng thời vận dụng sáng
tạo và phát triển lý luận đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trên thế giới, nói
chung, sự ra đời của một đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
hội khoa học với phong trào công nhân. Còn đối với Việt Nam, Hồ Chí
Minh cho
rằng: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết
hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Như vậy, so với học
thuyết Mác - Lênin thì Hồ Chí Minh đưa thêm vào yếu tố
thứ ba nữa, đó là phong trào yêu nước.
Quan điểm của Hồ Chí Minh trên đây là hoàn toàn phù hợp với xã hội thuộc
địa và phong kiến như Việt Nam, khi mọi giai cấp, tầng lớp, trừ tư sản mại bản và
đại địa chủ, còn đều có mâu thuẫn dân tộc. Đó là mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể
nhân dân Việt Nam với các thế lực đế quốc và tay sai. Trong thực tế, những phong
trào đấu tranh của công nhân đã kết hợp được rất nhuần nhuyễn với phong trào yêu
nước. Một số người Việt Nam yêu nước lúc đầu đi theo xu hướng dân chủ tư sản,
nhưng qua thực tế được sự tác động của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã dần dần tiến
theo xu hướng cộng sản, rõ nhất là từ năm 1925 trở đi. Hàng loạt tổ chức yêu nước
ra đời, trong đó nổi rõ nhất là tổ chức Hội Việt Nam Cách mệnh Thanh niên do Hồ
Chí Minh lập ra. Đấu tranh giai cấp quyện chặt với đấu tranh dân tộc. Thật khó mà
tách bạch mục tiêu cơ bản giữa các phong trào đó, tuy lực lượng, phương thức, khẩu
hiệu đấu tranh có khác nhau, nhưng mục tiêu chung là: Giành độc lập, tự do cho dân tộc
Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí Minh khẳng định:
Cách mạng trước hết phải có “đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi.
Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.

Đầu thế kỷ XX, trước thách đố lịch sử đặt ra là giải phóng dân tộc gắn liền
với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, nhiều lực
lượng, tổ chức theo các ý thức hệ khác nhau đã đứng lên cứu nước, giải phóng
dân tộc nhưng cuối cùng đều thất bại. Thất bại đó đặt ra nhu cầu tất yếu phải

có một chính đảng đủ năng lực hoạch định đường lối và phương pháp cách
mạng đúng đắn, sáng tạo, có khả năng và uy tín tập hợp lực lượng dân tộc và
đoàn kết quốc tế, thì mới gánh vác được trọng trách lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 đã đáp ứng trúng nhu cầu lịch sử,
khắc phục được những sai lầm, thiếu sót của các phong trào yêu nước trước đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị, nắm lấy sứ mệnh lãnh đạo dân
tộc, lôi cuốn không ít nhà yêu nước tiến bộ từ bỏ lập trường giai cấp của mình và
tự nguyện chuyển sang lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu đứng vào hàng
ngũ của Đảng sau khi được giáo dục, giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng. Các
lực lượng chính trị khác hoặc thối chí, hoặc thoái hóa, thậm chí đi ngược lại lợi ích
quốc gia - dân tộc, thỏa hiệp và đầu hàng thực dân đế quốc, không những mất dần
uy tín chính trị, mà còn bị nhân dân xa lánh; chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực
lượng chính trị duy nhất đủ năng lực và phẩm chất để lãnh đạo, được nhân dân
tuyệt đối tin tưởng và đi theo làm cách mạng tự giải phóng. Từ khi ra đời đến nay,
năng lực lãnh đạo và uy tín của Đảng đã được khẳng định trong suốt tiến trình cách
mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo nhân dân
đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu lịch sử của cách mạng. Thực tiễn đã
khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Khẳng định đảng cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền là quan điểm
nhất quán của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
suốt cả quá trình cách mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cả
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam là một tất yếu, vai trò lãnh đạo của Đảng cũng là một tất yếu – điều đó xuất
phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam.
Thực tế quá trình cách mạng Việt
Nam vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đã nói lên rằng, sự bảo đảm,
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt tiến trình phát
triển của đất nước theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội là một nguyên tắc vận hành của
xã hội Việt Nam từ khi có Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội với vai trò, vị trí là
một đảng duy nhất cầm quyền, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp
luật, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về
quyết định của mình.
Bản chất của đảng cầm quyền là đảng lãnh đạo chính quyền
và nhờ đó bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân làm chủ nhà
nước, làm chủ xã hội. Vấn đề cốt yếu đối với một đảng cộng sản cầm quyền là cầm
quyền một cách khoa học, dân chủ và tuân theo pháp luật trên cơ sở giữ vững sự trong sạch, vững mạnh.
Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước nhưng không đồng nhất quyền lực của
đảng với quyền lực nhà nước. Quyền lực của đảng là quyền lực chính trị, thể
hiện ở năng lực trí tuệ đề ra cương lĩnh, đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng
suốt, được thể chế hóa thành hiến pháp, pháp luật; lựa chọn, giới thiệu các
đảng viên ưu tú, có uy tín để nhân dân bầu vào các cơ quan quyền lực nhà
nước, thông qua đó, hiện thực hóa ý chí của Đảng bằng tất cả sức mạnh của
bộ máy nhà nước. Quyền lực nhà nước về hình thức là quyền lực công, nhưng
về bản chất vẫn là quyền lực chính trị, bởi bất cứ lực lượng chính trị nào
muốn thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình cũng đều phải tìm cách giành lấy
chính quyền, sử dụng sức mạnh nhà nước phục vụ cho mục tiêu chính trị của
mình.
Chính điều này quy định nhà nước mang chức năng thống trị chính trị và
chức năng xã hội (công quyền), bảo đảm sự thống nhất giữa hai chức năng này là
cơ sở cho giữ vững được bản chất cách mạng của nhà nước và không ngừng phát
huy dân chủ trong xã hội, bảo đảm nhà nước của dân, do dân và vì dân.của các tổ
chức đảng, của cán bộ, đảng viên và quan hệ gắn bó máu thịt giữa đảng với nhân dân
Địa vị cầm quyền của Đảng ta được hiến định, thể hiện ở nội dung cầm
quyền, trách nhiệm của Đảng trong hệ thống chính trị, trong mối quan hệ
giữa Đảng với các thiết chế chính trị, thiết chế chính trị - xã hội: Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và với toàn thể xã hội. Nội dung
cầm quyền của Đảng được thể hiện trên các lĩnh vực đời sống xã hội, ở sứ
mệnh trọng đại của Đảng đối với quốc gia - dân tộc, bảo vệ thành quả cách
mạng, phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa vì sự tự do, phát triển của mỗi con người.

Hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước
và xã hội là yêu cầu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Mặc dù Hiến pháp năm 1946 không quy định về sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, song vai trò của Đảng luôn thể hiện xuyên suốt
nội dung Hiến pháp và trong thực tiễn cách mạng.

Hiến pháp năm 1959 đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Lời nói
đầu
: “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay
là Đảng Lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới”;
“Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi
trong Mặt trận dân tộc thống nhất, nhất định sẽ giành được những thắng lợi vẻ
vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà”.
Điều 4 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang
bằng học thuyết Mác - Lê-nin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo
xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ
chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.
Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 (gọi tắt là Hiến pháp năm
1992) thể chế hóa đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, kế thừa Hiến pháp năm
1980 về hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy
định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Kế thừa Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013
tiếp tục khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội. Điều 4 Hiến pháp năm 2013, cùng với khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng, đã bổ sung, phát triển những nội dung quan trọng về vị trí, vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; khẳng định và làm rõ hơn, đầy đủ
hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội”. Khoản 2, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một nội dung
mới, thể hiện rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân: “Ðảng
Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu
sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết
định của mình”. Những quy định bổ sung này không chỉ tiếp tục khẳng định
bản chất cách mạng, vai trò tiên phong của Đảng, mà đây là lần đầu tiên chế
định hóa trách nhiệm chính trị - pháp lý của Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định

của mình. Cả hai chiều quan hệ: Đảng với nhân dân và nhân dân với Đảng
được xác định một cách biện chứng, bản chất là giải quyết mối quan hệ giữa
lực lượng cầm quyền và cơ sở xã hội của nó.
Kết luận
Hiệu quả lãnh đạo của Đảng là bằng chứng sinh động bác bỏ mọi luận điệu
của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo, trách nhiệm
cầm quyền của Đảng; khẳng định tính tất yếu là dân tộc Việt Nam, nhân dân
Việt Nam cần có Đảng lãnh đạo để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích chiến lược đất nước và thực hiện
khát vọng tự cường dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong điều
kiện hiện nay, vấn đề đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
càng có tầm quan trọng đặc biệt, cấp thiết hơn bao giờ hết gắn với yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng là
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của Đảng, làm cho hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được tăng cường, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa được phát huy đầy đủ, nhất là huy động, lôi cuốn nhân dân tham gia xây
dựng Đảng và quản lý nhà nước, thực hiện tốt hơn việc bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nhân dân, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.