



















Preview text:
TỔNG HỢP MỘT SỐ BÀI VĂN HAY
ĐẠT GIẢI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA
Tạ Thị Bảo Chân - THPT Đào Duy Từ - Thái Nguyên
Bài đoạt giải Nhất năm 2015 – 18/20 điểm Đề bài:
Nghị luận ý kiến: “Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn
nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc”. Bằng tri thức và trải
nghiệm văn học của mình, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên. Bài làm
Văn học nói bằng hình tượng, hình tượng nghệ thuật là khối pha lê lấp
lánh làm nên giá trị tác phẩm văn học. Nếu cái thần của âm nhạc là giai điệu,
của hội họa là đường nét và màu sắc thì cái thần của văn chương chính là ở
hình tượng nhân vật. Song những tác phẩm văn học chỉ xây dựng nên những
hình tượng về con người thì đó chưa hẳn là một tác phẩm vô giá.
Bởi trong sáng tạo nghệ thuật, điều quan trọng, đặc sắc nhất nhiều khi
không phải ở hình tượng con người mà ở hình tượng nhân vật. Chính vì vậy,
có ý kiến cho rằng: “Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà
văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc”.
“Nhà thơ tư duy bằng hình tượng” (Biêlinxki). Văn học ở bất kì thời
đại nào muốn phản ánh hiện thực đời sống đều phải thông qua các hình
tượng nhân vật điển hình. Nhà thơ tư duy bằng hình tượng, nhà văn cũng
tư duy bằng hình tượng. Thế giới thêm sắc màu, cuộc sống thêm âm điệu
bởi những hình tượng nhân vật điển hình độc đáo.
“Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó
chính là con người” (Nguyễn Minh Châu). Văn học phản ánh cuộc sống và
trung tâm là con người thông qua hình tượng nhân vật. Chính những hình
tượng nghệ thuật độc đáo, có sức phổ quát, mang những ý nghĩa sâu sắc về
nhân sinh đã góp phần làm nên nét riêng cho tác phẩm văn học. Người nghệ
sĩ thường sáng tạo nên những tượng đài bất hủ về con người bằng cách xây dựng chí
Nghệ thuật đồng nghĩa với sáng tạo. Nghệ sĩ là kẻ làm công việc “khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao). Viết
văn là một quá trình khai phá những vỉa quặng của cuộc đời nhưng mỗi thứ
kim loại quý hiếm nhà văn tìm thấy lại lấp lánh một sắc màu riêng biệt. Có
phải đó là sắc màu của những hình tượng nhân vật điển hình được nhà văn
nhặt nhạnh ở cuộc đời, nhào nặn trong tư tưởng và đưa vào tác phẩm dưới
lớp áp chủ quan độc đáo? Ngay từ khi ra đời; văn học đã nhận thức đời sống
và thể hiện tư tưởng tình cảm bằng các hình tượng nhân vật nghệ thuật. Từ
tiếng gọi chú tiểu lẳng lơ nhưng đầy khao khát yêu đương của Thị Màu trên
chiếu chèo ngày xưa đến đoạn trường mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều
trong thơ Nguyễn Du, hình tượng nhân vật điển hình đã thành sợi chỉ đỏ
xuyên suốt các tác phẩm văn học, bắc nhịp cầu giữa hiện thực xã hội và tư
tưởng nhân văn. Như lời nhận định đã bàn tới, “hình tượng nhân vật được
sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người
đọc” bởi nhà văn xây dựng hình tượng nhân vật để khái quát hiện thực, để
cắt nghĩa đời sống và thể hiện tư tưởng của chính mình. Vì vậy, hiện thực
trong tác phẩm máng đậm dấu ấn chủ quan của người nghệ sĩ. Nhà văn là
chủ thể sáng tạo, là kẻ chi phối mọi tư tưởng thẩm mĩ, góc nhìn, phạm vi của
hiện thực nên dù được bắt nguồn từ cuộc sống; dù được nuôi dưỡng bằng
bầu sữa của bà mẹ cuộc đời thì tác phẩm văn chương; qua các hình tượng
nhân vật, phản ánh hiện thực “được sinh ra từ tâm trí của nhà văn. Tác phẩm
văn chương không bao giờ là bản sao của hiện thực mà hiện thực được soi
chiếu vào tác phẩm bằng lăng kính chủ quan của người viết, có thể tốt, có
thể xấu, có thể đáng vui và cũng có thể đáng buồn. Hiện thực cuộc sống được
khoác lên tấm áo nhiều màu như vậy chính là bởi hình tượng nhân vật được
nhà văn đưa vào tác phẩm. Hình tượng nhân vật là đứa con của hiện thực
cuộc sống nhưng lại được nuôi dưỡng bằng tình cảm, tư tưởng của nhà văn.
Nó cũng là cuộc đời riêng; nhưng đồng thời cũng là cái loa phát ngôn của
người nghệ sĩ. Trong bản thân hình tượng bao giờ cũng có sự thống nhất
sinh động giữa các mặt cá biệt và khái quát, lí trí và cảm xúc, chủ quan và
khách quan. Hình tượng càng độc đáo, được nâng lên mức điển hình thì hiện
thực càng được phản ánh ở những góc cạnh sâu xa nhất, hướng tới một giá
trị thẩm mĩ riêng – “chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc” Điều đó
làm nên “ánh sáng riêng mãnh liệt” cho hình tượng nhân vật. Đến với hình
tượng nhân vật là đến với một thế giới hiện thực riêng biệt được xây dựng
ngay trên nền thế giới hiện thực đương thời. Hình tượng nhân vật tỏa sáng
của lí tưởng thẩm mĩ lên trên hiện thực bề bộn, để cho người đọc có một cái
nhìn mới mẻ; chân thực và sâu sắc hơn về cuộc đời. Lời nhận định đã khẳng
định tầm quan trọng và giá trị biểu hiện của hình tượng nhân vật trong tác
phẩm. Đó cũng là cơ sở để đánh giá tư tưởng nhà văn và giá trị của toàn bộ tác phẩm.
“Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ
thực sự sống bằng tâm của người đọc”. Nhà văn lấy tư liệu từ hiện thực để
xây dựng nên hình tượng điển hình và đặt vào đó tư tưởng thẩm mĩ của
mình. Tôi nhớ câu chuyện thần thoại xa xưa, thần Trụ Trời lấy đất sét nặn ra
con người và thổi hơi thở của mình vào những hình tượng vô tri để cho con
người sự sống. Nhà văn phải chăng cũng là người thổi linh hồn mình vào
trong hình tượng nhân vật để dù mang những phẩm chất đặc trưng, phổ
quát của thế giới hiện thực, nó vẫn có một sức sống riêng, một cuộc đời cá
biệt trong “tâm trí của người đọc”. Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật
trung tâm trong các tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực là những kẻ đại diện
cho bọn thống trị như Nghị Hách, Nghị Quế, Bá Kiến… hay nhũng nạn nhận
của xã hội cũ như anh Pha, chị Dậu, lão Hạc, Mị… Hiệu quả cao nhất mà
những điển hình đó đạt được là bóc trần sự mục nát của xã hội thực dân
phong kiến với một thái độ phủ nhận và phê phán mạnh mẽ. Nhưng độc
đáo hơn, lần đầu tiên người ta biết đến một cách trị người tàn ác và mưu mô
như của Bá Kiến, con đường leo lên xã hội thượng lưu nhơ bẩn và lố bịch
như của Xuân Tóc Đỏ. Những hình tượng điển hình ấy không bao giờ chỉ
đơn thuần là một bức tranh nhân sinh mà bao giờ cũng gửi đến người đọc
một thông điệp; một triết lí sâu xa.
Biêlinxki từng phân biệt: “Nhà triết học nói bằng phép tam đoạn luận,
nhà văn nói bằng các hình tượng và bức tranh. Dù đều đi từ cái riêng đến
cái chung để khám phá cuộc sống con người, khám phá bản chất của thực
tại nhưng trong quá trình nghiên cứu, trong khi các nhà triết học, khoa học
gạt bỏ những chi tiết cá biệt, những yếu tố ngẫu nhiên để tìm ra cái chung;
để khẳng định yếu tố khách quan, chân lí thì trong nghệ thuật lại in đậm dấu
ấn chủ quan, cái chung được biểu hiện trong cái riêng; cái riêng để khái quát
cái chung. Hình tượng nhân vật ra đời nhằm mục đích đó. Chí Phèo, Thị Nở
từ văn chương đã bước ra cuộc đời; trở thành những cái tên như minh chứng
tiêu biểu cho tính điển hình của hình tượng nhân vật. Ta thấy trong cuộc đời
nhọc nhằn của anh Pha, chị Dậu… dáng dấp ông cha, những người cả đời
gắn bó với ruộng đồng và chịu biết bao nhiêu áp bức. Đó chính là sự “sinh
ra từ tâm trí của nhà văn”. Nhưng không bao giờ những Chí Phèo, chị Dậu
ấy là bản thân cuộc đời thực. Văn học chỉ có một Chí Phèo với bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người trong khi cuộc đời có cả ngàn thằng Chí Phèo uống
rượu say rồi chửi bới. Văn học chỉ có một Hăm-lét với niềm trăn trở, day dứt
vì lí tưởng “sống hay không sống” trong khi lịch sử có biết bao nhiêu âm
mưu “chiếm ngôi vua, đoạt quyền chúa”. Không bao giờ người ta quên được
tiếng nói khắc khoải của Chí Phèo: “Tao muốn làm người lương thiện. Ai cho
tao ỉương thiện? Làm sao xóa được những vết sẹo trên mặt này?”. Không chỉ
bởi một hiện thực khốc liệt của xã hội phong kiến dồn đuổi con người vào
bước đường cùng mà sâu sắc hơn hết người ta nhận ra trong đó một khát
vọng sống mạnh mẽ; cháy bỏng; một ước muốn lương thiện giản dị mà cao
đẹp của một tâm hồn tội lỗi. Lần đầu tiên người ta nhận ra ánh sáng của
lương tri, ánh sáng của tính người tỏa ra từ thân xác của con quỷ dữ. Đó
chính là “ánh sáng riêng” của hình tượng Chí Phèo “chỉ thực sự sống bằng
tâm trí của người đọc”.
Kinh Thư xưa có câu: “Thẩm sở mộng chi nhân, khắc kì hình tượng, dĩ
tứ phương băng cửu chi ư dân gian” (Xem xét người thấy trong mộng, khắc
lấy hình tượng của người ấy để đi tìm khắp bốn phương trong dân gian).
Hình tượng nhân vật bao giờ cũng là ‘ con người của dân gian”. Nó được
thoát thai từ hiện thực đời sống và mang những tính cách cơ bản nhất, bản
chất nhất và nổi bật nhất của đời sống xã hội. Nguyễn Du từ bao nhiêu cuộc
đời long đong, lận đận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã xây
dựng lên hình tượng Thúy Kiều với tất cả nỗi đau khổ của loài người đúc kết lại:
Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng
bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Trong cuộc đời mười lăm năm lưu lạc của Kiều có những “vết xe đổ” của
Đạm Tiên, của Tiểu Thanh, của người con gái đất Long Thành cùng biết bao
nỗi đau khổ khác của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Có thể nói,
cuộc đời Thúy Kiều là một bức tranh toàn cảnh và sinh động về nỗi đoạn
trường của người phụ nữ dưới xã hội hà khắc, nặng nề, tàn ác và thối nát
của thời đại cũ. Hiện thực trong Truỵện Kiều được tái hiện qua tâm trí của
Nguyễn Du. Người đọc như được cùng nàng Kiều trải qua biết bao thăng
trầm, tận mắt chứng kiến và thấu hiểu muôn vàn nỗi khổ đau của kiếp người.
Nhưng Kiều không chỉ là đại diện cho một lớp người, cuộc đời Kiểu không
đơn thuần chỉ là một bức tranh hiện thực rộng lớn và Nguyễn Du không chỉ
là ngòi hiện thực chủ nghĩa một chiều. Kiều được ca tụng là người phụ nữ
đẹp nhất của văn học Việt Nam bởi những nét đẹp riêng biệt, độc đáo, chỉ
tài năng Nguyễn Du mới có thể sáng tạo nên: Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Vẻ đẹp khiến cho trời đất phải ghen tức, vẻ đẹp làm thiên nhiên đảo
lộn, có lẽ trong cả nền văn học Việt Nam, người ta chỉ tìm thấy mình Kiều.
Kiều “sống trong tâm trí người đọc” không chỉ bởi nét riêng biệt “hơn
người” ấy mà còn bởi tấm lòng cao cả của Nguỵễn Du được soi rọi trong
những câu thơ đẹp nhất dùng để ca ngợi sắc đẹp người con gái tài hoa.
Cũng trong Truyện Kiều, bên cạnh nhân vật điển hình Thúy Kiều, Kim
Trọng, Từ Hải thì Mã Giám Sinh cũng là một nhân vật điển hình có “ánh
sáng riêng”. Ở hình tượng này, người đọc nhận ra một cách rõ ràng hiện
thực biểu hiện cụ thể, sinh động như có thực:
Hỏi tên rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
(…) Ghế trên ngồi tót sỗ sàng (…) Cò kè bớt một thêm hai.
“Nghệ thuật là biết tước bỏ và tập trung” (L. Tôn-xtôi). Nguyễn Du đã
“tước bỏ” những chi tiết về tên, tuổi, quê quán. Và “tập trung” với vài chữ
thật đắt, thật sâu cay – “tót, sỗ sàng, “cò kè”, tác giả đã “giết chết” nhân vật
của mình để khẳng định bản chất một kẻ vô học, một con buôn với đầy đủ
ngón nghề và sự ma lanh. Nhưng đằng sau đó, người ta còn thấy cả một
phường buôn thịt bán người tàn nhẫn của xã hội phong kiến. Nhân vật Mã
Giám Sinh vừa mang tính cá biệt vừa mang tính khái quát; là một điển hình
tiêu biểu cho những nhân vật phản diện trong Truyện Kiều. Người đọc vừa
thấy ở hắn một tính cách xảo quyệt của kẻ buôn người hạng nhất, vừa thấy
thêm một góc tối nhơ bẩn của xã hội phong kiến đương thời. Từ câu chuyện
đời Minh của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc, bằng tài năng bậc thầy,
Nguyễn Du đã xây dựng nên những hình tượng điển hình độc đáo để từ
nguyên tác Kim Vân Kiều truyện, Thiên văn tự tuyệt bút – Truyện Kiều ra
đời; dù vẫn giữ nguyên cốt truyện nhưng hiện thực đã trở thành hiện thực
của xã hội Việt Nam đương thời, nhân vật đã trở thành con người Việt Nam.
Tác phẩm mang đậm bản sắc dân tộc dù xây dựng từ cái nền của tác phẩm
nước ngoài chính bởi những hình tượng nhân vật điển hình như Kiều, Từ
Hải, Mã Giám Sinh… Như vậy, “nghệ thuật không đòi hỏi phải thừa nhận
cái tác phẩm của nó như là hiện thực” (Phơ-bách). Sự thực trong tác phẩm
nghệ thuật không phải bản thân cuộc đời thực, thậm chí có lúc thực hơn
ngoài cuộc sống vì hình tượng nhân vật không lệ thuộc máy móc vào yếu tố
cá biệt. Sự kiện trong thực tế với sự kiện trong văn học có một khoảng cách
lớn. Sợi dây mỏng manh nối giữa chúng chính là hình tượng nhân vật, là tư
tưởng của người viết.
“Hình tượng văn học là sự tổng hợp những tư tưởng và say mê, là kết
quả của một tấm lòng đầy thiết tha” (Biêlinxki). Hình tượng nhân vật trong
tác phẩm bao giờ cũng mang dấu ấn mạnh mẽ của chủ quan nhà văn, bộc lộ
tiếng nói riêng, phong cách độc đáo của người nghệ sĩ. Mỗi hình tượng nhân
vật điển hình lại tỏa chiếu ra một ánh sáng riêng. Đó chính là ánh sáng của
tư tưởng nhà văn, của lí tưởng thẩm mĩ được soi chiếu qua hình tượng. Hình
tượng nhân vật là nơi gửi gắm trái tim sôi nổi nhiệt thành, đầỵ yêu thương
của người viết. Đằng sau ngòi bút lạnh lùng; sắc sảo xây dựng nên một hình
tượng Chí Phèo là trái tim Nam Cao nhức nhối những nhịp đập yêu thương
và căm phẫn. Ông xây dựng Chí Phèo trong bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người không chỉ để cất lên tiếng nói tố cáo xã hội mà còn là tiếng nói cảm
thông đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người. Những trang viết
của Nguyễn Du cũng thấm đầy nước mắt khi miêu tả cuộc đời khổ đau của
Thúy Kiều. Nhà thơ đã khóc cùng nhân vật, cười cùng nhân vật; nâng niu
nhân vật lên bằng ngòi bút tình thương đáy lòng bác ái. Tư tưởng của nhà
văn soi sáng trong các hình tượng nhân vật. Nó luôn hướng con người tới
những giá trị đích thực của văn chương và cuộc sống. Văn học luôn là điểm
tựa để con người vươn lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã, hướng tới chân – thiện
– mĩ cuộc đời. “Văn học là nhân học” (M. Gorki). Mọi yếu tố của văn học đều
mang giá trị nhân văn, nhân đạo hóa con người; chỉ ra cho con người sự xấu
xa để vươn tới cái cao cả của tâm hồ. Đó chính là thứ ánh sáng “được sinh
ra từ tâm trí của nhà văn” không bao giờ tắt trong mọi tác phẩm văn chương chân chính.
“Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí” bằng tài năng và tâm
huyết của nhà văn, làm nên đặc điểm phong cách từng tác giả. Nó tỏa ra thứ
ánh sáng của riêng người viết, ánh sáng của tài năng, của lương tri. Không
một hình tượng nhân vật nào giống hình tượng nhân vật nào bởi nghề văn
đòi hỏi sự sáng tạo, sự thâm nhập thực tế để xây dựng nên những hình tượng
nhân vật bất hủ. Khi người nghệ sĩ đã thâm nhập sâu sắc vào nhân vật, họ
như được sống cuộc đời của nhân vật, xúc động, yêu thương, vui buồn, đau
khổ, giận hờn… như cảnh ngộ của chính mình. Đó là những giây phút “tự
quên mình” đồng thời in dấu chủ quan của mình vào đối tượng miêu tả. Các
nghệ sĩ vĩ đại như L.Tôn-xtôi, M. Gorki, Balzac, Phlôbe… đều có sự thâm
nhập sâu sắc như vậy. Balzac kể lại, sau khi đi theo và lắng nghe những
người công nhân nói chuyện với nhau, ông nhanh chóng nhập thân vào đối
tượng sâu sắc đến mức cảm thấy như mình cùng đang mặc những quần áo
rách rưới như họ, đang đi những đôi giày rách như họ, những nhu cầu
nguyện vọng của họ đều được truyền đến tâm hồn tôi hay nói đúng hơn: với
tất cả hồn mình, tôi nhập vào tâm hồn họ. Chỉ có sự thâm nhập thực tế bằng
cả con người và trái tim thì người nghệ sĩ mới có thể sáng tạo nên những
hình tượng nhân vật bất hủ, những nhân vật vừa là con người của quần
chúng; vừa là con người của văn chương, vừa mang tính hiện thực, vừa
mang tính nghệ thuật độc đáo. Bàn về giá trị của hình tượng điển hình trong
tác phẩm, lời nhận định còn đặt ra yêu cầu của người nghệ sĩ chân chính. Đó
là những yêu cầu của văn học muôn đời.
Mỗi người nghệ sĩ khi sáng tạo mang trong mình một nhiệt huyết sáng
tạo cháy bỏng và con mắt tinh nhạy, nhìn hiện thực cuộc sống với con mắt
của người đầu tiên; đặc biệt là “sống toàn tim, toàn trí, toàn hồn – sống toàn
thân và thức nhọn giác quan” để xây dựng hình tượng nhân vật mang ý
nghĩa, ẩn chứa bao điều huyền diệu, sâu sắc về nhân sinh. Và người tiếp
nhận do đó khi thưởng thức tác phẩm cũng cần phải nâng cao trình độ thẩm
mĩ, tìm hiểu và nhận ra ý nghĩa, giá trị của những hình tượng nhân vật.
Nhà văn là kẻ đã dùng những hình tượng và từ ngữ hoàn chỉnh lạ lùng
để cô đặc lại những ý nghĩ, những cảm xúc, những giọt máu và những giọt
lệ cay đắng, nóng bóng của thế gian này. Hơn bất kì một nghề nghiệp, tôi
yêu nghề văn bởi hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của tôi và hiện
thực cuộc đời dắt tôi đến một chân trời mới, một tâm hồn mới và những điều
kỳ diệu chỉ thấy trong mơ.
Bài văn đạt giải nhất quốc gia năm 1988 (Bảng A)
Trần Thị Ngọc Hoa - Trường THPT chuyên Phan Bội Châu - Nghệ An
Trong cuốn Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ, thi sĩ Xuân Diệu đã
khẳng định: “Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất
đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái to
tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan nhạt nhẽo, anh
phải có cái cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi hỏi.
Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc tự sáng tạo ấy không trở
thành anh hùng chủ nghĩa”. (NXB Văn học, Hà Nội, 1961)
Tâm hồn con người cả một thế giới phong phú. Thơ là sản phẩm của
tâm hồn, nên nó mang lắm điều kì diệu. Sáng tác thơ là một công việc đặc
biệt. Ở mỗi bài thơ, vai trò cá nhân người thi sĩ rất lớn. làm thơ, đòi hỏi nhà
thơ phải xác định cho được cái tôi của mình. Điều này đã được nhiều nhà
thơ khẳng định. Chính Xuân Diệu trong cuốn Trò chuyện với các bạn làm
thơ trẻ đã nhấn mạnh: “Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một
thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh
để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt
nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất
đòi hỏi. Nhưng đồng thời, anh phải đấu tranh để cái việc tự sáng tạo ấy
không trở thành anh hùng chủ nghĩa”.
Trong cuộc sống, không phải ai cũng làm được thơ mặc dù trong mỗi
con người mà tạo hoá sinh ra đều có chất thi sĩ. Làm thơ đã khó, làm thơ hay
lại càng khó hơn. Ngay ở những nhà thơ lớn, không phải bài nào cũng hay.
Bởi thơ là một sáng tạo rất “đặc biệt”, rất “cá thể”.
Thơ là sản phẩm của tâm hồn. Nói cho cụ thể hơn, thơ là con đẻ của
“những trạng thái tâm hồn”. Ngay điều đó so với quá trình tạo ra các sản
phẩm khác, nó đã đặc biệt lắm rồi. Mỗi tâm hồn là một vương quốc riêng,
đầy bí ẩn, tuy giữa những tâm hồn có những làn sóng giao thoa nhau. Chính
vì thế nên thơ không thể là sự “cộng tác” của những tâm hồn, cho dù là
“những tâm hồn đồng điều”. Nó là “một việc do cá nhân thi sĩ làm”. Có thể
trong một phút rung động, một trạng thái khác thường, tràn đầy cảm xúc
của thi sĩ, thế là thơ ca ra đời. Phút rung động ấy ở nhà thơ này không giống
nhà thơ khác, nếu nhà thơ để giây phút ấy qua đi, thì khó có thể tìm thấy nó
ở những thời điểm khác. Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật nói chung và
thơ ca nói riêng, cá nhân người nghệ sĩ có vai trò quyết định. Một tác phẩm
xuất sắc là kết quả sáng tạo của một thi sĩ, ra đời trong một hoàn cảnh lịch
sử nhất định, không có sự trùng lặp. Điều đó giúp chúng ta cắt nghĩa tại sao
cho đến bây giờ chế độ tốt đẹp của chúng ta vẫn chưa sản sinh ra được một
Nguyễn Du, một Truyện Kiều. Làm thơ là cả một quá trình lao động nghệ
thuật nặng nhọc và lâu bền. Nhưng theo tôi, đấy cũng chỉ là một trong những
yếu tố tạo nên “sức nặng” cho bài thơ. Điều quan trọng hơn có lẽ phải kể đến
tài năng cá nhân, đôi khi do bẩm sinh, của người nghệ sĩ. Bông hồng vàng
của Pauxtôpxki có cái lóng lánh sắc vàng cảu những vảy vàng góp nhặt bằng
bàn tay lao động, bằng sự miệt mài, bằng nghị lực phi thường, Nhưng thật
là thiếu sót, nếu chúng ta sàng sẩy. Tôi nghĩ, chính cái khác biệt, cái riêng lẻ
là phần tạo nên giá trị của Bông hồng vàng, làm cho chúng ta luôn nhớ tới Pauxtôpxki.
Sáng tác thơ là một thứ sản xuất đặc biệt và “cá thể”. Đặc biệt và cá thể
đến mức mỗi sáng tác là một sự tồn tại duy nhất. Đó là tính đơn nhất của
nghệ thuật. Đó cũng là một quy luật hết sức nghiệt ngã trong sáng tác nghệ
thuật. Không đảm bảo quy luật đó, bài thơ sẽ chẳng để lại trong trái tim
người đọc một điều gì, do đó đương nhiên nhà thơ nhanh chóng bị lãng
quên. Có nhiều bài thơ cùng viết về một đề tài, có khi trùng hợp trong một
đề tài hẹp. Thế nhưng chúng vẫn có thể hiển diện ở trong các tuyển tập,
không bị quy luật khắc nghiệt nói trên đào thải, nếu như mỗi thi sĩ có một
cách riêng, đảm bảo được tính đơn giản nhất cho tác phẩm của mình.
“Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm”-đó là một sự hiển
nhiên. Sự hiển nhiên ấy đòi hỏi người làm thơ phải để lại ở mỗi bài thơ, mỗi
tập thơ dấu ấn riêng biệt của mình.
Trong tác phẩm nghệ thuật nói chung và nhất là trong bài thơ ca nói
riêng, dấu ấn cá nhân được thể hiện trên nhiều phương tiện. Nó có thể được
người đọc nhận thấy ở cả nội dung lẫn hình thức, ở trong cách cảm, cách
nghĩ, … của nhà thơ. Theo tôi, người đọc luôn tìm ở nhà thơ những quan
điểm riêng trước cuộc sống, tìm ở nhà thơ một cách nói mới mẻ, độc đáo,…
Con người và cuộc sống từ ngàn xưa đã là đối tượng phản ánh của thơ
ca. Nhưng cuộc sống và con người trong thơ ca là cuộc sống và con người
được phản ánh qua một lăng kính rất cụ thể, rất cá biệt-đấy là tâm hồn, tư
tưởng, tình cảm, …của người nghệ sĩ. Nếu như các ngành khoa học tự nhiên
loại trừ các yếu tố cá biệt để xác lập tính quy luật có giá trị phổ quát, thì văn
học nghệ thuật, trong đó có thơ ca, lại chỉ có thể tồn tại trong cuộc đời khi có
dấu ấn của sự cá biệt. Trong mỗi một bài thơ hay, người đọc đầu tìm thấy
một tấm lòng, một nỗi niềm, một ước vọng, một khao khát riêng tư,…
Nhưng thơ không chỉ nói cái gì riêng của nhà thơ, mà phải thông qua
cái riêng ấy để nói lên những lo toan chung, sướng khổ chung của cuộc sống
và của mọi người, của mọi thế hệ. Đọc Truyện Kiều, nhiều thế hệ tìm thấy
nét rất riêng của cụ Nguyễn Tiên Điền, đồng thời cũng tiếp nhận được một
điều gì đó gần gũi, hữu ích cho mình, cho cuộc sống hôm nay. Đúng nhà thơ
“phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt” của mình “để nói cái to tát của xã hội”, “cái
tốt đẹp của chế độ”, nhà thơ phải tạo ra được những tâm trạng điển hình.
Đó là một đòi hỏi, một phẩm chất của thơ ca.
Có nhà thơ đã nói: “Thơ chỉ bật ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn
đầy”. Chất liệu cuộc sống trên đường thâm nhập vào tác phẩm đã mang theo
bao nỗi niềm của người sáng tạo. và khi bài thơ trở lại với cuộc đời, nó đã in
dấu “tâm hồn cá biệt” của nhà thơ. Thật chí lí khi một nhà thơ nước ngoài
nói đại ý: Thế giới nứt làm đôi, vết nứt xuyên qua con tim nhà thơ. Nỗi đau
ấy, khi đến với chúng ta đã “nhuốm máu” người nghệ sĩ. Chất cá tính trong
thơ làm cho tác phẩm khỏi “kho khan” và “nhạt nhẽo”, làm cho thơ nói được
điều ngàn xưa đã nói mà vẫn mới mẻ như thường. Công chúng đến với thơ
đâu phải chỉ để tìm những tri thức về con người và xã hội, mà họ còn thú vị
trước sự độc đáo của một tâm hồn, trước tài năng của đồng loại. Đọc một bài
thơ, người ta nghĩ về cuộc sống, về con người, về một tâm hồn thơ “cá biệt”.
Sự hiện diện của cá nhân người nghệ sĩ trong bài thơ mở ra cho người đọc
nhiều vấn đề có ý nghĩa, gợi lên một sự say mê, hấp dẫn. Nhà thơ đi sâu vào
tâm hồn riêng tư của mình để nói những điều nhiều người cùng suy
nghĩ, cũng quan tâm. Cho nên điều nhà thơ nói đến đối với chúng ta nhiều
khi sâu sắc đến lạ kì. Tính cá thể trong lao động thơ đã góp phần làm nên
sức mạnh đặc trưng của thơ. Con người mà nhà thơ để lại trong thơ của mình
phải là con người có cá tính. Chúng ta cần sự độc đáo của cá tính ấy, do đó
mỗi nhà thơ nên có một phong cách thơ.
Rõ ràng, sáng tác thơ là một công việc rất đặc biệt, rất khó khăn, đòi
hỏi người nghệ sĩ phải hình thành một cá tính sáng tạo. Tuy vậy-theo Xuân
Diệu-tuyệt nhiên không nên thổi phồng cái cá biệt, cái độc đáo lên một cách
quá đáng. Điều đó không hợp với thơ và không phải là phẩm chất của người
làm thơ chân chính. Hãy sáng tác thơ một cách tự nhiên, bình dị, phải đấu
tranh để cái việc tự sáng tạo ấy không trở thành “anh hùng chủ nghĩa”.
Trong khi sáng tác, nhà thơ không thể cứ chăm chăm nghĩ rằng mình phải
ghi dấu ấn của mình vào trong thơ này, tập thơ nọ. Chính trong quá trình
lao động, dồn toàn tâm, toàn ý, bằng xúc cảm tràn đầy, có thể nhà thơ sẽ tạo
ra được bản sắc riêng biệt của mình trong những giây phút cầm bút.
Tính đặc thù của thơ đòi hỏi cái “tôi” của nhà thơ phải có chỗ đứng
đặc biệt, nhất là đối với thơ trữ tình. Ở nước ta, có lẽ dòng văn học lãng mạn
là dòng văn học trong đó các nhà thơ sớm có ý thức về cái “tôi” của mình.
Câu thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám:
Ta là một, là riêng, là thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta.
Vừa có cái ngạo nghễ, cực đoan của một nhà thơ trẻ sớm được xã hội
thừa nhận, song vừa là sự khẳng định cái cá biệt, độc đáo-một yêu cầu không
thể thiếu được của quá trình sáng tạo nghệ thuật, nhất là thơ ca.
Nhà thơ phải có cá tính, có sự độc đáo. Những phẩm chất đó khắc
chạm thơ anh vào tâm trí người đọc, khẳng định sự tồn tại của tác phẩm
nghệ thuật. Thơ yêu cầu có cá tính, cá tính này có giá trị thẩm mĩ, để thông
qua tâm hồn nhà thơ nói lên những điều mọi người cùng trăn trở, lo toan.
Lời tâm sự của Xuân Diệu thật đúng đắn cả về mặt lí luận cũng như trên
thực tế sáng tác. Lời tâm sự ấy rút ra từ chính cuộc đời làm thơ, sống hết
mình vì thơ của Xuân Diệu và nhớ đến những vần thơ bỏng cháy yêu đương
rất Xuân Diệu: Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!Hãy đập vào tim anh,
thiên tài là ở đó. Khi ấy những bài thơ của riêng anh sẽ ra đời. Đó cũng chính
là bài thơ của mọi người, bài thơ mới nhất.
BÀI VĂN ĐẠT GIẢI NHẤT HSG QUỐC GIA 1997
Bài của bạn Lý Thu Thủy Vân/Trường THPT Chuyên Lê Qụý Đôn – Vũng Tàu Đề bài:
Trong tập tiểu luận “Trang giấy trước đèn” (NXB Khoa học xã hội, trang
165), nhà văn Nguyễn Minh Châu có viết: “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước
hết là để làm công việc như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt
lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường (…) để bênh vực cho
những con người không còn có ai để bênh vực”.
Bằng việc phân tích một hoặc một số tác phẩm trước Cách mạng tháng
Tám, anh (chị) hãy chứng minh nhận định trên.
(Đề thi chọn HSG Văn toàn quốc năm học 1997 – 1998, Bảng B, Đề 1) Bài làm
Viết văn giống như công việc của một người thợ đấu. Người viết văn
tựa như một tướng cầm quân. Đó là một quá trình “cắt xé tư tưởng và vật
lộn với dòng tư tưởng”, đầy đau đớn và trăn trở. Cái đẹp được cô, được đúc
từ những giọt đau giọt xót, để rồi cái đẹp lại “cứu rỗi thế giới” – một đầu là
nỗi đau, một đầu là hạnh phúc. Đó là nhiệm vụ cũng là ý nghĩa cao cả của
một nhà văn chân chính. “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công
việc như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác và số
phận đen đủi dồn đến chân tường (…) để bênh vực cho những con người
không có ai để bênh vực ” (Nguyễn Minh Châu).
Một tác phẩm văn chương chân chính trước hết phải là sự thực ở đời,
thậm chí hiện thực trong sáng tác văn chương còn cao hơn, thật hơn sự thật
ngoài đời. Bởi hình tượng nghệ thuật phải là hình tượng điển hình, khái quát,
khách quan của những cá thể, nhân vật của cuộc sống. Con người đọc những
trang văn mà cũng như bắt gặp chính mình ở trong đó. Nhiệm vụ của người
nghệ sĩ không phải là sao chép tự nhiên mà phải là biểu hiện sự tự nhiên.
Thực tế cuộc sống phải là một cái gì đó lớn lao bén nhọn “phải được nén
chặt, gọn mà nặng” (Nguyễn Quang Sáng), nhà văn phải có khả năng nắm
bắt bản chất cuộc sống ở độ sâu tế vi nhất. Qua các tác phẩm văn chương,
người đọc không chỉ nắm bắt được vấn đề xã hội, mà còn nhận ra tư tưởng,
quan điểm, lập trường sáng tác của nhà văn. Còn gì đẹp hơn khi nhà văn
viết về cuộc sống để ngợi ca con người? Văn chương thật lớn lao và đầy ý
nghĩa khi đi sâu và khám phá từng cảm giác và suy nghĩ, thiên về chiều sâu
của nội tâm. Để ta yêu quý và trân trọng những con người bình dị nhất. Để
ta phải giật mình sửng sốt khi nhận ra vẻ đẹp lấp lánh ẩn chứa bên trong
những hình hài tưởng như gàn dở, xấu xí. Đó là lúc nhà văn lý giải cuộc sống
theo cách riêng của mình và được mọi người chấp nhận. Mỗi trang văn có
sức khuấy động lòng người, khơi gợi những tình cảm thẩm mĩ tốt đẹp trong
lòng ta. Viết về cái ác không phải để học tập mà giúp con người nhận ra bản
chất, căm ghét, tránh xa, để hướng tới cái đẹp, cái cao cả. Nhà văn viết về cái
ác không phải để con người xa lánh mà là thương xót, đồng cảm. Văn chương
lúc đó gợi dậy khát khao cứu rỗi linh hồn, cảm hóa con người trong lòng độc
giả. Đó chính là lúc độc giả trở thành người đồng sáng tác. Những dằn vặt,
trăn trở, thậm chí là cả máu và nước mắt cho những thân phận xót xa, đầy
đau khổ. Văn chương không đơn thuần là văn chương mà phải là những
trang đời chứa đựng những triết lý nhân sinh cao cả. Nhà văn lúc đó trở
thành nhà nhân đạo chủ nghĩa, luôn xót thương đồng cảm, thậm chí hướng
tới khát khao, mơ cho con người một cuộc sống đẹp đẽ hơn, công bình hơn,
bác ái hơn, Để những thân phận bi kịch nhất cũng được ấm lòng bởi tình
thương sâu sắc. Để những con người “cùng đường tuyệt lộ” nhất cũng khao
khát ước ao một giấc mơ hạnh phúc. Văn chương chân chính không chỉ chứa
đẩy tình thương mà phải gợi lòng tin, bản lĩnh sống cho con người. Nó không
chỉ đưa con người hướng tới cái đẹp mà còn tiếp thêm sức mạnh để con
người hướng tới và hoàn thiện cái đẹp. Quan niệm của Nguyễn Minh Châu
về nhiệm vụ của người nghệ sĩ đã đặt ra quan điểm về chức năng văn học
một cách sâu sắc, đúng đắn với mọi thời đại và có xu hướng “vị nhân sinh” cao cả.
Trong trào lưu văn học hiện thực 1930 – 1945 không hiểu sao, mỗi lần
đọc Chí Phèo của Nam Cao, người đọc lại không thể không trăn trở, day dứt
về vấn đề con người và ý nghĩa xã hội trong tác phẩm. Mỗi trang văn cứ trở
đi trở lại, càng đọc càng thấm, càng ngẫm càng sâu. Đã bao năm trôi qua, đã
bao đời phân tích, đánh giá bình luận về tác phẩm. Nhưng chí Phèo không
bao giờ trở thành vấn đề “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” mà lại như viên ngọc
càng mài càng sáng, có sức vang động đến muôn đời. Tại sao lại thế? Có phải
vì ý nghĩa hiện thực sâu sắc trong tác phẩm? Hay do ngòi bút lạnh lùng,
khách quan, tỉnh táo cùng bút pháp tài hoa, uyên bác của Nam Cao? Có lẽ,
cái lớn lao sâu sắc nhất, cái tác động đến trực quan cũng như tư duy thẩm
mỹ mạnh mẽ chính là cái “tĩnh” trong tác phẩm. Ở đó, Nam Cao đã dùng
phép biện chứng tâm hồn để mà cảm, để mà hiểu. Nhà văn đã dùng chính
tấm lòng trong sáng, ngây thơ, đáng quý mà cũng đầy xúc cảm của người
nghệ sĩ để trò chuyện với tấm lòng luôn rỉ máu và nước mắt của thân phận
bi kịch. Chỉ tấm lòng mới trò chuyện được với tấm lòng. Chỉ có cái tình sâu
sắc và cái tâm cao cả mới có thể nối liền trái tim người nghệ sĩ với tâm hồn muôn người, muôn đời.
Ngay đầu tác phẩm, người ta lý giải được tại sao Chí Phèo lại bắt đầu
từ tiếng chửi. “Hắn vừa đi vừa chửi… Bắt đầu chửi trời… Rồi hắn chửi đời…
Tức mình hắn chửi cả làng Vũ Đại… Hắn nghiến răng mà chửi cái đứa nào
đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng chí Phèo”. Cuộc đời bi kịch thế là dần dần mở
ra. Người đọc không chỉ thấy bản chất lưu manh của tên Chí, mà có cảm giác
băn khoăn, trăn trở, thậm chí xót xa cho hắn. Cuộc đời con người phải đắm
chìm vào tìm ra căn nguyên bi kịch, căn nguyên nỗi đau con người. Đó là
hình ảnh con người không tự ý thức được bi kịch của mình, không nhận ra
mình là công cụ mà còn đồng tình trước sự tăm tối của chính thân phận. Cái
nhìn hiện thực của nhà văn mang giá trị tố cáo và nhân đạo sâu sắc. Ngòi
bút Nam Cao tựa lưỡi dao của nhà phẫu thuật hiện thực lách sâu vào căn
bệnh nô lệ mù quáng. Nam Cao thương xót, đồng cảm cho con người chính
là lúc nhà văn nhận ra nỗi đau đớn nhất của họ. Nhà văn muốn “nâng giấc,
thức tỉnh con người” trước hết phải thấu hiểu sâu sắc bi kịch và hướng con
người tới những tình cảm thẩm mĩ tốt đẹp. Chí Phèo muốn thức tỉnh trước
hết phải hiểu được nỗi đau của mình. Nam Cao đã xây dựng được tiền đề
để đưa Chí Phèo đến sự thức tỉnh, giúp người đọc tự hiểu sâu hơn. Nhiệm
vụ của nhà văn với con người là thức tỉnh. Nam Cao thức tỉnh Chí Phèo hay
là thức tỉnh chút lương tri còn ngủ quên đâu đấy trong lòng người. Giá trị
nhân văn cao cả và ngòi bút chiến đấu thể hiện một cách mạnh mẽ. Điều đó
được chứng tỏ khi lần thứ ba, Chí đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Tiếng
kêu đòi lương thiện của Chí Phèo vang lên trong không gian nhà Bá Kiến
chứ không phải bất cứ mệt nơi nào khác. Đó chẳng phải là dụng ý của Nam
Cao sao? Đâu phải là vô tình, ngẫu nhiên? Nam Cao phát hiện ra bản chất
sâu xa về căn nguyên nỗi đau con người, nên muốn nhân vật của mình tìm
đến, đối diện với nó, để thức tỉnh, để đòi lương thiện. Nếu xét theo về quan
niệm chức năng văn học và nhiệm vụ người nghệ sĩ của Nguyễn Minh châu,
thì có thể coi sự nâng giấc của Nam Cao với “người cùng tuyệt lộ bị cái ác và
số phận đen đủi dồn đến chân tường” là sự “nâng giấc” cao quý và thiêng
liêng nhất. Bởi có ai có bi kịch như Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo còn vượt
qua bi kịch của thể xác, về miếng ăn, về cái đói mà Nam Cao vẫn thường
trăn trở. Có còn con người nào cùng đường như Chí Phèo? Bị cả xã hội ruồng
rẫy, bị cả những người cưu mang bỏ rơi?
Có lẽ trong văn học trước đó và sau này, sẽ mãi mãi chỉ có một Chí
Phèo bị tha hóa đến tận cùng, biến chất đến đau đớn. Nhưng cao quý ở chỗ,
Nam Cao đã để cho con người – con quỷ ấy – thức tỉnh, thức tỉnh một cách
thực sự. Sự thức tỉnh của một con quỷ mới là sự thức tỉnh đáng quý nhất.
Nam Cao đã làm được điều ấy. Vậy sao nhiều lúc còn trách nhà văn khô
cứng, lạnh lùng? Chỉ có cái tâm thì nhà văn mới thức tỉnh, hướng thiện con
quỷ ấy. Thế nên mới có ý kiến cho rằng: “Chí Phèo thức tỉnh không phải nhờ
Thị Nở mà do chính Nam Cao, chính cái tình của một người nghệ sĩ đã nâng
giấc cho nhân vật của mình đến con đường đẹp đẽ một cách thuyết phục
nhất”. Trong khám phá của Nam Cao, không có sự song hành giữa hai bên
thiện – ác. Còn Bá Kiến, Chí Phèo mãi chỉ là bi kịch, còn Bá Kiến thì không
ai trong làng Vũ Đại như Binh Chức, Năm Thọ, Chí Phèo được lương thiện.
Tác phẩm Nam Cao thức tỉnh con người, chừng nào cái ác còn tồn tại thì cái
thiện bị lấn át. Con đường đến nhà Bá Kiến không đơn giản là con đường
đấu tranh giữa cái thiện – cái ác mà là con đường đang đến dần sự ý thức
con người của Chí. Bước chân đến nhà Bá Kiến, vì thế, không ngẫu nhiên,
không còn là cảm tính mà là lí tính, tự giác chứ không phải là tự phát. Đó là
bước chân của ý thức đang dần được giác ngộ mâu thuẫn giữa nông dân và
địa chủ phong kiến. Có thể Chí Phèo chết là sự trả giá tất yếu nhưng xét đến
cùng, đó mới thực sự là thức tỉnh số phận con người trong tinh thần mạnh
mẽ quyết liệt. “Tao muốn làm người lương thiện”. Hai tiếng “lương thiện”
mới cao quý làm sao, nhưng cũng có thể rất bình dị, giản đơn. Nhưng sao
với Chí Phèo lại quá xa xôi, thậm chí là siêu tưởng. Anh Chí ấy đã từ tác
phẩm bước ra sống ngật ngưỡng giữa cuộc đời. Bởi tuy chết, nhưng cái
lương thiện tưởng như còn sót lại của Chí thì lại có sức sống đến ngàn đời.
Câu hỏi của Chí như một tiếng kêu trăn trở muôn đời nhức nhối. “Yêu cho
roi cho vọt”, để Chí chết cũng là khẳng định tình thương, sự đồng tình, bênh
vực của Nam Cao đối với những con người đầy bi kịch. Cuộc đời đã và sẽ
có rất nhiều số phận giống Chí, tác phẩm của Nam Cao thôi thúc con người
vươn tới cái đẹp, giúp con người vươn tới cái đẹp và hành động vì nó. Tài
năng sáng tạo cùng với bản tính thơ văn chân chính – tính thẩm mĩ đã biến
Chí Phèo thành một sinh mệnh đặc biệt, tồn tại vô hạn vô cùng trong một vẻ
đẹp luôn luôn tươi mới. Nam Cao còn khẳng định và nâng cao mơ ước của
người dân, đứng bên cạnh bênh vực và cứu vớt họ bằng một tình thương cao quý.
Đầu tác phẩm, người ta lý giải được tại sao Chí Phèo lại bắt đầu từ
tiếng chửi. “Hắn vừa đi vừa chửi… Bắt đầu chửi trời… Rồi hắn chửi đời…
Tức mình hắn chửi cả làng Vũ Đại… Hắn nghiến răng mà chửi cái đứa nào
đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng chí Phèo”. Cuộc đời bi kịch thế là dần dần mở
ra. Người đọc không chỉ thấy bản chất lưu manh của tên Chí, mà có cảm giác
băn khoăn, trăn trở, thậm chí xót xa cho hắn. Cuộc đời con người phải đắm
chìm vào tìm ra căn nguyên bi kịch, căn nguyên nỗi đau con người. Đó là
hình ảnh con người không tự ý thức được bi kịch của mình, không nhận ra
mình là công cụ mà còn đồng tình trước sự tăm tối của chính thân phận. Cái
nhìn hiện thực của nhà văn mang giá trị tố cáo và nhân đạo sâu sắc. Ngòi
bút Nam Cao tựa lưỡi dao của nhà phẫu thuật hiện thực lách sâu vào căn
bệnh nô lệ mù quáng. Nam Cao thương xót, đồng cảm cho con người chính
là lúc nhà văn nhận ra nỗi đau đớn nhất của họ. Nhà văn muốn “nâng giấc,
thức tỉnh con người” trước hết phải thấu hiểu sâu sắc bi kịch và hướng con
người tới những tình cảm thẩm mĩ tốt đẹp. Chí Phèo muốn thức tỉnh trước
hết phải hiểu được nỗi đau của mình. Nam Cao đã xây dựng được tiền đề
để đưa Chí Phèo đến sự thức tỉnh, giúp người đọc tự hiểu sâu hơn. Nhiệm
vụ của nhà văn với con người là thức tỉnh. Nam Cao thức tỉnh Chí Phèo hay
là thức tỉnh chút lương tri còn ngủ quên đâu đấy trong lòng người. Giá trị
nhân văn cao cả và ngòi bút chiến đấu thể hiện một cách mạnh mẽ. Điều đó
được chứng tỏ khi lần thứ ba, Chí đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Tiếng
kêu đòi lương thiện của Chí Phèo vang lên trong không gian nhà Bá Kiến
chứ không phải bất cứ mệt nơi nào khác. Đó chẳng phải là dụng ý của Nam
Cao sao? Đâu phải là vô tình, ngẫu nhiên? Nam Cao phát hiện ra bản chất
sâu xa về căn nguyên nỗi đau con người, nên muốn nhân vật của mình tìm
đến, đối diện với nó, để thức tỉnh, để đòi lương thiện. Nếu xét theo về quan
niệm chức năng văn học và nhiệm vụ người nghệ sĩ của Nguyễn Minh châu,
thì có thể coi sự nâng giấc của Nam Cao với “người cùng tuyệt lộ bị cái ác và
số phận đen đủi dồn đến chân tường” là sự “nâng giấc” cao quý và thiêng
liêng nhất. Bởi có ai có bi kịch như Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo còn vượt
qua bi kịch của thể xác, về miếng ăn, về cái đói mà Nam Cao vẫn thường
trăn trở. Có còn con người nào cùng đường như Chí Phèo? Bị cả xã hội ruồng
rẫy, bị cả những người cưu mang bỏ rơi? Có lẽ trong văn học trước đó và
sau này, sẽ mãi mãi chỉ có một Chí Phèo bị tha hóa đến tận cùng, biến chất
đến đau đớn. Nhưng cao quý ở chỗ, Nam Cao đã để cho con người – con
quỷ ấy – thức tỉnh, thức tỉnh một cách thực sự. Sự thức tỉnh của một con quỷ
mới là sự thức tỉnh đáng quý nhất. Nam Cao đã làm được điều ấy. Vậy sao
nhiều lúc còn trách nhà văn khô cứng, lạnh lùng? Chỉ có cái tâm thì nhà văn
mới thức tỉnh, hướng thiện con quỷ ấy. Thế nên mới có ý kiến cho rằng: “Chí
Phèo thức tỉnh không phải nhờ Thị Nở mà do chính Nam Cao, chính cái tình
của một người nghệ sĩ đã nâng giấc cho nhân vật của mình đến con đường
đẹp đẽ một cách thuyết phục nhất”. Trong khám phá của Nam Cao, không
có sự song hành giữa hai bên thiện – ác. Còn Bá Kiến, Chí Phèo mãi chỉ là bi
kịch, còn Bá Kiến thì không ai trong làng Vũ Đại như Binh Chức, Năm Thọ,
Chí Phèo được lương thiện. Tác phẩm Nam Cao thức tỉnh con người, chừng
nào cái ác còn tồn tại thì cái thiện bị lấn át. Con đường đến nhà Bá Kiến
không đơn giản là con đường đấu tranh giữa cái thiện – cái ác mà là con
đường đang đến dần sự ý thức con người của Chí. Bước chân đến nhà Bá
Kiến, vì thế, không ngẫu nhiên, không còn là cảm tính mà là lí tính, tự giác
chứ không phải là tự phát. Đó là bước chân của ý thức đang dần được giác
ngộ mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến. Có thể Chí Phèo chết
là sự trả giá tất yếu nhưng xét đến cùng, đó mới thực sự là thức tỉnh số phận
con người trong tinh thần mạnh mẽ quyết liệt. “Tao muốn làm người lương
thiện”. Hai tiếng “lương thiện” mới cao quý làm sao, nhưng cũng có thể rất
bình dị, giản đơn. Nhưng sao với Chí Phèo lại quá xa xôi, thậm chí là siêu
tưởng. Anh Chí ấy đã từ tác phẩm bước ra sống ngật ngưỡng giữa cuộc đời.
Bởi tuy chết, nhưng cái lương thiện tưởng như còn sót lại của Chí thì lại có
sức sống đến ngàn đời. Câu hỏi của Chí như một tiếng kêu trăn trở muôn
đời nhức nhối. “Yêu cho roi cho vọt”, để Chí chết cũng là khẳng định tình
thương, sự đồng tình, bênh vực của Nam Cao đối với những con người đầy
bi kịch. Cuộc đời đã và sẽ có rất nhiều số phận giống Chí, tác phẩm của Nam
Cao thôi thúc con người vươn tới cái đẹp, giúp con người vươn tới cái đẹp
và hành động vì nó. Tài năng sáng tạo cùng với bản tính thơ văn chân chính
– tính thẩm mĩ đã biến Chí Phèo thành một sinh mệnh đặc biệt, tồn tại vô
hạn vô cùng trong một vẻ đẹp luôn luôn tươi mới. Nam Cao còn khẳng định
và nâng cao mơ ước của người dân, đứng bên cạnh bênh vực và cứu vớt họ
bằng một tình thương cao quý.
Cao quý hơn, Nam Cao không chỉ thức tỉnh, bênh vực con người một cách
đơn thuần mà còn cảm hóa họ thành một con người chân chính với một tình
yêu cao đẹp nhất. Tại sao mối tình giữa một con quỷ và một kẻ “ma chê quỷ
hờn” lại được ngợi ca như một tình yêu đẹp nhất, lấp lánh nhất? Bởi tình yêu
cao quý khi nó cảm hóa con người. Câu chuyện tình yêu Chí Phèo – Thị Nở
mang vấn đề xã hội. Ý nghĩ một xã hội mang tính nhân văn chứ không phải
là biểu hiện của tự nhiên chủ nghĩa. Người ta nhìn tình yêu ấy không phải ở
rung động, cảm xúc, cũng không quan tâm đến vấn đề bản năng con người,
mà là ý nghĩa cao đẹp hướng tới con người và tính nhân văn. Nó thức tỉnh
con người. Tình yêu bắt đầu từ cảm hóa con người bằng việc đặt vào miệng
Chí những lời nó rất tự nhiên, bình thường và hoàn toàn đẹp: “Giá như cứ
thế này mãi thì thích nhỉ, hay là đằng ấy qua ở cùng một nhà với tớ cho vui”.
Làm sao để từ một con quỷ trở thành một con người rất hợp lý như thế? Tài
năng thôi không đủ, Nam Cao còn phải dùng tấm lòng, trái tim cao cả để
nâng giấc và thức tỉnh con người. Nghệ thuật đã đưa chân lý cuộc sống thành
chân lý nghệ thuật. Mục đích miêu tả nghệ thuật cao cả không bởi biểu hiện
nghệ thuật mà còn nâng cánh nghệ thuật bất hủ trong lòng người.
Cái tình của Nam Cao thực sự trở thành một thứ nghệ thuật bất hủ, cao hơn
cả “cứu rỗi thế giới”, cứu rỗi cả những gì ngoài phạm vi con người. Vì thế,
“bát cháo hành” có lẽ chi tiết đặc sắc nhất, không chỉ thể hiện tình yêu Chí
Phèo – Thị Nở mà còn là tình yêu của nhà văn với nhân vật chính của mình.
Đó là động lực để thức tỉnh. Bởi đó là biểu hiện của sự quan tâm tình yêu mà
Chí chưa bao giờ có. Để sau này, Chí cứ cảm thấy phảng phất hương cháo
hành đâu đấy, đó là hương thơm của cuộc sống, quanh quẩn nhưng rất
mỏng manh. Nhà văn tài năng khi dùng những chất liệu bình dị nhất để làm
được những điều cao quý nhất. Nó không chỉ chói sáng một tình yêu bất diệt,
một chân lí sống Nam Cao khám phá nên, mà cao cả hơn là tình thương, là
tấm lòng. Tấm lòng ấy đã cứu Chí Phèo, thức tỉnh chí Phèo có một giấc mơ
đẹp trong cuộc sống, hay ít nhất là nhớ lại giấc mơ đẹp trong quá khứ. Nam
Cao đã dùng tình thương của mình để nâng đỡ nhân vật, đã để cho con quỷ
biết mơ giấc mơ con người, để số phận bi kịch có tình yêu đẹp nhất. Để con
người cùng đường nhất cũng biết đấu tranh để sống. Nam Cao khẳng định
giá trị cao cả của tình thương. Nó có thể làm tha hóa nhưng cũng có thể cứu
rỗi, thức tỉnh những tâm hồn quỷ dữ.
Nam Cao thực sự là một nhà văn “cố tìm mà hiểu”, luôn đi sâu khám
phá, tìm tòi bản chất cuộc sống. Ông cảm thông không theo nghĩa đơn thuần
của nó, mà là bóc trần vẻ bề ngoài để khám phá bản chất bên trong. Sức sống
cho trang viết của Nam Cao không chỉ ở tình yêu mà là niềm tin mãnh liệt.
Đó là nguyên nhân sâu sắc để nhà văn có thể đứng cạnh, cảm thông và nâng
đỡ những thân phận bi kịch.
Nhà văn có những trang viết bất hủ không đơn thuần chỉ nhờ tài năng
đích thực, đầu óc phân tích tư duy nhạy bén mà còn phải là sự tổng hòa với
cái tâm cao cả. Cái tài và cái tình phải luôn hòa quyện, đan xen vào nhau để
tạo nên giá trị trường tồn cho tác phẩm. Cái tâm phải là cao cả, không đơn
thuần là những xúc cảm, mà phải có ý nghĩa lớn lao. Đó là lúc văn chương
cứu rỗi linh hồn, nâng cánh con người tới ước mơ cao đẹp. Khi đó, nghệ
thuật cải tạo cuộc sống bằng tình yêu sâu sắc, niềm tin mãnh liệt.
Người nghệ sĩ không phải là thợ lời bởi mỗi chữ đều phải chứa cái
nhụy của cuộc sống. Nhiệm vụ của con người không chỉ hiểu mà còn phải
biết rung động và phải có những tình cảm thẩm mĩ tốt đẹp. Để cái tình ấy
giúp ta cải tạo xã hội và nhân đạo hóa con người.
BÀI VIẾT CỦA HỌC SINH ĐẠT GIẢI NHẤT QUỐC GIA 2018
Nguyễn Ngọc Diệp - Trường Chuyên Lào Cai - Tỉnh Lào Cai
Đề bài: “Văn học là gì?”
Bằng những hiểu biết về văn học của bản thân anh chị hãy trả lời câu hỏi trên.
Bài làm
Say mê trong thế giới văn chương, đi tìm sự đồng điệu nơi tác giả và các
bạn đọc khác, tôi mới thấu hiểu rằng: Bất cứ ai yêu tha thiết một câu ca dao,
điệu hò, ai từng trăn trở, ngẫm suy mãi trước một bài thơ “đẹp”, ai từng nhỏ
giọt lệ, gửi nụ cười trên trang văn,…tất cả đều muốn có một lẽ đi về riêng
cho câu hỏi: “Văn học là gì?”
Đây là câu hỏi muôn đời đối với mọi tấm lòng yêu văn chương,
coi văn chương là người bạn tri kỷ. Xuất phát từ nhu cầu đi tìm khái niệm,
bản chất cốt lõi của văn học nghệ thuật, câu hỏi này ra đời và dung nạp nhiều
ý kiến, đánh giá từ các nhà cầm bút, nhà phê bình và cả người đón đọc.
Macxim Gorki từng viết: “ Văn học là nhân học”, cho rằng giá trị, chức năng
mang tính định nghĩa của nó là hướng về giáo dục, nâng đỡ con người. Hay
có ai đó từng kiếm tìm văn học như một “thế giới của sự sáng tạo”, với
Biêlinxki: “Văn học trước hết là cuộc đời…”, văn học là nghệ thuật ngôn
từ…Vô vàn những định nghĩa mà người ta chiêm nghiệm, khám phá ra trong
quá trình tiếp xúc với loại kiến trúc thượng tầng này. Nhưng, với tư cách
một độc giả có chặng đường tìm hiểu, bình luận khá lâu về văn chương, tôi
cũng có cho mình một hệ thống quan điểm thống nhất về môn nghệ thuật này để tâm đắc.
Trước hết, theo tôi văn học quả thực là ‘nhân học”. Văn chương
sẽ chẳng là gì nếu không hướng ngòi bút vào con người, viết vì con người.
Nguyễn Minh Châu cũng từng phát biểu trên “Tạp chí văn nghệ” sự đồng
tình với quan điểm này, ông viết: “Văn học và cuộc sống giống như hai vòng
tròn đồng tâm mà tâm điểm chính là con người”. Cũng giống như trong cuộc
sống, con người là đối tượng chính xoay quanh bởi các mối quan hệ, sự vật,
sự kiện, những quy luật khoa học, tâm lí, … thì đó cũng chính là đối tượng
mà mọi tình cảm, tư tưởng, nghệ thuật, giá trị của văn chương hướng tới.
Nhân học ấy nghĩa là dạy người ta cách làm người, làm cho phần người tốt
đẹp lấn áp mọi cái xấu xa, độc ác. Thiên chức của văn chương nghệ thuật
chính là hướng con người tới Chân- Thiện -Mĩ ở đời. Nhưng, quan điểm này
không chỉ có cơ sở giá trị, chức năng quan trọng của văn học mà còn thuyết
phục hơn nữa bởi đối tượng tiếp nhận của loại hình này. Con người chính là
người đón nhận và tạo ra đời sống cho tác phẩm, họ là người đọc với “sự
đọc” cao quý. Chỉ khi làm cho người ta thấy được ở trang viết một điều gì
đáng yêu, đáng ghét, đáng để suy nghĩ và đáng “học” thì khi ấy văn học mới
có thể tồn tại được. Hơn ai hết, những người thấu hiểu được quy luật mang
tính bản chất này của văn chương chính là người nghệ sĩ thực thụ với các
sáng tác để đời. Nam Cao là nhà văn hiện thực thể hiện rõ quan điểm “ nghệ
thuật vị nhân sinh” ngay trong các phê bình và tác phẩm của mình. Với
truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã làm rõ bản “chất người” của một trang
văn chân ái. Đó trước hết là sự phản ánh con người trong tính toàn vẹn từ
mọi góc nhìn, ngoại hình, tâm lí, bản chất tâm hồn, nhà văn đã dồn rất nhiều
bút lực để khắc họa hình tượng Chí Phèo- một điển hình tha hóa của người
nông dân trong xã hội cũ. Nam Cao không miêu tả gì nhiều ngoại hình của
hắn khi còn là mộ anh canh điền hiền lành mà đi ngay vào nhân hình Chí
khi đã bị lưu manh hóa: “Trông hắn đặc như một thằng săng đá, hai mắt
gườm gườm trông gớm chết” , “cái đầu trọc lốc”, trên người toàn những hình
xăm kì dị…ngoại hình này lập tức để lại ấn tượng trong người đọc về một
tên côn đồ, chuyên nghề đâm thuê chém mướn. Nam Cao còn tiếp tục khắc
họa sâu vào con người này ở góc độ tâm lý. Bằng lối kết cấu độc đáo, nhà
văn đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với tiếng chửi ngay mở đầu
truyện ngắn: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế cứ rượu xong là hắn