Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
6 trang 11 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

1.2 K 612 lượt tải Tải xuống
BÀI KIỂM TRA
Đề bài: Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể.
Phân tích việc vận dung các nguyên tắc này trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện
nay.
1. Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể.
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, phát triển va lịch sử cụ thể:Quan điểm toàn
diện, phát triển lịch sử cụ thể là những quan điểm bản thuộc về phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật. Chúng được y dựng trên sở giải theo quan điểm
duy vật biện chứng về tính khách quan, tính phổ biến tính đa dạng phong phú của các
mối liên hệ và sự phát triển của tất thảy các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy.
1.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện chính là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
của phép biện chứng duy vật, theo đó, các sự vật, hiện tượng tồn tại trong sự tác động qua
lại, chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau.
Nội dung của nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc toàn diện trong sự đối lập với chủ nghĩa chiết trung thuật nguỵ
biện, phản ánh mối liên hệ chủ yếu để rút ra những mặt, những mối liên hệ tất yếu của sự
vật, hiện tượng đó; nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu nội tại bởi chỉ như
vậy, nhận thức mới thể phản ánh được đầy đủ nhất sự tồn tại khách quan với nhiều
thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của các khách thể nhận thức.
Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ gắn với nhu cầu thực tiễn; không viển
vông, ảo tưởng bởi mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa
dạng, trong mỗi hoàn cảnh, chỉ phản ánh được mối liên hệ nào đó phù hợp với nhu cầu
của con người nên nhận thức về sự vật, hiện tượng cũng mang tính tương đối, không đầy
đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó, sẽ tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã
có, xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối không bổ sung, không phát triển. Chỉ
có như vậy mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ
quá trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ đồng bộ; không cục bộ, phiến diện;
nghĩa trong thực tiễn, phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương
tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật,
hiện tượng. Song trong từn
bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực
lượng giải quyết, tránh dàn trải.
Nguyên tắc toàn diện dự báo được khả năng vận động, phát triển; tránh trì trệ, bảo
thủ.
1.2. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển
sở luận của nguyên tắc phát triển trong nhận thức thực tiễn nguyên
về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
Theo đó, phát triển là một phạm trù dùng để khái quát quá trình vận động đi lên; là
một hình thức của vận động trong sự phát triển, sẽ nảy sinh những tính quy định mới,
cao hơn về chất, nhờ đó làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại vận động của sự
vật, hiện tượng cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn.
Nội dung của nguyên tắc
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt trong
trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng
trong trạng thái hiện tại, còn phải thấy được khuynh hướng phát triển của trong
tương lai. Cần chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn, còn động lực của sự phát
triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng đó.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển quá trình trải qua
nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau;
bởi vậy, phải phân tích cụ thể để tìm ra những hình thức hoạt động, phương pháp tác
động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức hoạt động thực tiễn
phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo
điều kiện cho cái mới phát triển; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v.
Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp, nhiều khi cái mới hợp quy luật chịu
thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển không thẳng mà quanh co, phức tạp; tránh
lạc quan bi quan thái quá trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong quá
trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ
cái cũ mà phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
1.3 Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử
Cơ sởluận của nguyên tắc lịch sử là toàn bộ nội dung phép biện chứng duy vật
và nguyên tắc chân lý là cụ thể của lý luận nhận thức duy vật biện chứng.
Bản chất của nguyên tắc
Đối với bản chất của nguyên tắc lịch sử trong nhận thức thực tiễn này nằm
chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hoá
qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động
của chính nó, đời sống của chính nó.
Nội dung của nguyên tắc
Nội dung của nguyên tắc lịch sử trong nhận thức thực tiễn được V.I.Lênin
nêu rõ là phải xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã
xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát
triển chủ yếu nào, đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay
đã trở thành như thế nào.
Như vậy, nguyên tắc lịch sử tái tạo lại sự vật, hiện tượng thông qua lăng kính
của những ngẫu nhiên, những bước quanh co, những gián đoạn theo tình tự không gian
và thời gian, theo trình tự của sự hình thành sự vật, hiện tượng; nhờ đó mà có thể phản
ánh được sự vận động đa dạng nhiều vẻ của các hình thức biểu hiện cthể của sự
vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử yêu cầu phải nhận thức được vận động tính phổ biến,
phương thức tồn tại của vật chất; nghĩa là phải nhận thức được rằng, vận động làm cho
sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định hình thức của
vận động quyết định bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử yêu cầu phải chỉ được những giai đoạn đã trải qua
trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong nhận
thức và thực tiễn, để nhận thức giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ
tất yếu đặc trưng, những chất và lượng vốn có của sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc lịch sử còn yêu cầu chỉ ra được mối liên hệ khách quan; chỉ ra được
các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy
định sự tồn tại hiện thời khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới thông
qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng
phủ định là sự kế tục sự vật, hiện tượng bị phủ định, là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng bị
phủ định trong dạng đã được cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng phủ định.
Trong hoạt động nhận thức hoạt động thực tiễn luôn quán triệt nguyên tắc
lịch sử để nhận thức sự vật, hiện tượng với đầy đủ các mối liên hệ trong sự tồn tại
khách quan vốn của nó, để nhận thức được vị trí, vai trò của từng mối liên hệ quy
định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Bên cạnh đó, gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống,
phát triển y tế, giáo dục.
Đề xuất vận dụng cho công cuộc đổi mới đất nước
Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế. Vận dụng quan điểm toàn diện
đồng bộ các yếu tố của thị lao động, thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn, thì
tường bất động sản, thị trường nhà ở, thị trường đất đai,…là yếu tố cần thiết để thúc
đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Bên cạnh đó, còn phải hoàn chỉnh đồng bộ và toàn
diện hệ thống các công cụ quản thị trường hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội VIII
của Đảng chỉ rõ: Nhà nước quản thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, chế, chính
sách các đòn bẩy kinh tế bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước. Hệ
thống các công cụ được Đảng và Nhà nước chỉ ra là: Các công cụ pháp luật là đảm bảo
môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế phát triển; công
cụ kế hoạch; các công cụ chính sách (CS tiền tệ, CS tài chính..); các công cụ khác
(thông tin, truyên truyền dự trữ của Nhà nước, sức mạnh của doanh nghiệp Nhà nước,
…). Hàng loạt các công cụ này không thể bỏ qua bất cứ công cụ nào, nếu thiếu đi một
trong những công cụ trên thì hậu quả không lường sẽ xảy ra.
Phải triệt để thực hiện dân chủ, theo đó phải triển khai thực hiện đồng bộ:
thực s tôn trọng các quyền tự do báo chí, quyền bình đẳng trước pháp luật; Triệt để
tôn trọng nguyên tắc “Quốc hội quan quyền lực cao nhất”; Đảm bảo hệ thống
tòa án độc lậpsự phân quyền cùng quan trọng; Tạo cơ chế công khai, minh bạch,
thực sự dân chủ. Nếu bồn điểm nêu trên được thực hiện, dân chúng sẽ tin tưởng ở Đảng
Cộng sản, tin tưởng ở người lãnh đạo và hy vọng về một đất nước tốt đẹp hơn.
Chú trọng xây dựng văn hóa trong đảng, nhất phong cách văn hóa lãnh đạo,
văn hóa quản lý; trong đó, trước hết cán bộ, công chức phải là những người làm gương,
đi đầu; chống những hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa. Đa dạng hóa các hình thức
hoạt động để thu hút toàn dân tham gia phong trào” Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”, chú trọng chất lượng, không chạy theo phong trào, hình thức. Tiếp tục
đầu các thiết chế văn hóa, phát huy hiệu quả sử dụng phục vụ trong cộng đồng dân
cư. Quan tâm xây dựng lối sống lành mạnh, văn hóa, lý tưởng trong thanh, thiếu
niên.
2. Phân tích việc vận dụng các nguyên tắc toàn diện, phát triển, lịch sử cụ
thể trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay:
2.1. Vận dụng nguyên tắc toàn diện:
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chủ thể phải biết nhận thức trọng tâm, trọng điểm,
từ đó xem xét cái toàn bộ, trên sở thấu hiểu quy luật vận động phát triển của sự
vật, hiện tượng. Quan điểm toàn diện đối lập đòi hỏi phải loại bỏ mọi suy nghĩ
hành động phiến diện, chiết trung ngụy biện. Đây những “căn bệnh” thường gặp
khá nhiều trong nhận thức thực tiễn, đều dẫn con người đến sự hồ, trừu tượng,
hỗn tạp, khiến cho chủ thể khó phân biệt được cái bản chất với cái không bản chất, cái
không chủ yếu với cái chủ yếu… dẫn đến những sai lầm trong nhận thức sự vật, hiện
tượng nói chung và trong công tác cán bộ nói riêng.
Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh về quan điểm này, đề cập
trực diện ràng về việc đánh giá cán bộ phải dựa trên quan điểm toàn diện, tức
yêu cầu phải xem xét đầy đủ các mối quan hệ của người đó, thì mới thể đánh giá
đúng coi đây điều kiện cần thiết để bổ nhiệm đúng cán bộ. Theo Người, khi xem
xét các mối liên hệ của cán bộ, cần làm rõ bản chất của người cán bộ qua ba mối quan
hệ bản: Quan hệ với chính mình; quan hệ với nhân dân; quan hệ với Đảng, Nhà
nước thông qua cơ quan, đơn vị.
Đồng thời, cán bộ được cất nhắc phải hội đủ : Trung thànhbốn tiêu chuẩn cơ bản
và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh; liên lạc mật thiết với quần chúng, hiểu
biết quần chúng; luôn chú ý đến lợi ích nhân dân; luôn giữ đúng kỷ luật. Bác cũng lưu
ý, nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét
kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ và trước khi cất nhắc cần phải xem xét người được
cất nhắc một cách toàn diện, trên tất cả các mặt. Người căn dặn: “Chẳng những xem xét
công tác của họ, còn phải xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem xét cách
viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết
của họ hay không. Chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ
đối với người khác thế nào. Ta nhận họ tốt, còn phải xét số nhiều đồng chí có nhận họ
tốt hay không”(8), không nên chỉ xem công việc của họ trong một lúc, “mà phải xem
xét công việc của họ từ trước đến nay”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, nhận xét cán bộ
không thể chỉ căn cứ vào những biểu hiện bên ngoài, phải đi sâu tìm hiểu bản chất
của họ; không thể chỉ dựa vào một việc làm, phải tìm hiểu tất cả các công việc
họ thực hiện; không thể chỉ xem xét cán bộ trong một thời điểm, phải thấy lịch
sử của họ. cái nhìn toàn diện như vậy mới thể đánh giá cán bộ một cách đúng
đắn, khách quan từ đó, mới thể cất nhắc, bổ nhiệm, đề bạt đúng cán bộ, đáp ứng
tốt yêu cầu, nhiệm vụ.
Quan điểm toàn diện luôn đi đôi, gắn liền với quan điểm lịch sử - cụ thể. Theo
tưởng Hồ Chí Minh, việc xem xét cán bộ tiêu chí chung, tiêu chí cho từng
ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Hơn nữa, việc xem xét cán bộ cần đặt trong từng giai đoạn
lịch sử cụ thể gắn với nhiệm vụ của từng giai đoạn xây dựngphát triển đất nước,
vậy, khi xem xét, đánh giá cán bộ, “quyết không nên chấp nhất” phải cái nhìn
toàn diện. Chỉ có như vậy, chủ thể đánh giá mới có thể đánh giá đúng, thực chất về cán
bộ từ đó, mới bổ nhiệm được trúng cán bộ, không bỏ sót người tài, đức bản
thân người cán bộ đó mới thể phát huy được tốt nhất năng lực, sở trường của mình,
mà không bị “thui chột” tài năng.
2.2. Vận dụng nguyên tắc phát triển:
Phát triển sự thay đổi cả lượng chất từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ
chưa hoàn thiện đến từng bước hoàn thiện. Phải phát triển toàn diện cả kinh tế, chính
trị, văn hóa, hội, gắn với môi trường tự nhiên. tưởng chiến lược trong giai đoạn
tới là phát triển nhanh và bền vững, bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các
nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt;
phát triển văn hóa nền tảng tinh thần của hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh
trọng yếu, thường xuyên.
Phát triển nhưng phải trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng. Trung thành cần được hiểu, về
mục đích bất di bất dịch dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những vấn đề thuộc về nguyên tắc như Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản - phục vụ, nhân dân làm chủphải vững chắc, nhưng sách lược thì
phải linh hoạt. Phát triển theo tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
2.3. Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể:
Bước vào thiên niên kỷ mới,con người ngày càng tiến lên trong công cuộc trinh
phục thế giới. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật trong mọi mặt
của đời sống hội đã làm thay đổi dần bộ mặt thế giới. Trong sự chuyển biến mạnh
mẽ đó Việt Nam chúng ta cũng không ngừng biến đổi vận động. Tính đến nay nước ta
đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn một thập kỷ, bên cạnh những thành tựu đã
đạt được. Những vấn đề của nền kinh tế luôn đạt ra những thách thức cho các nhà kinh
tế. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát
triển, những tàn dư của nền kinh tế tập trung qun lieu bao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều
góp phần kìm hãm nền kinh tế. Chính vì thế việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn
cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước. Phù hợp với khu vực, thế
giới và thời đại là hết sức cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích nền kinh tế
trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động phát triển không ngừng của nó. Do
vậy phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm rút ra từ hai nguyên bản
của phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Leenin vào quá trình đổi mới kinh tế
Việt Nam.
Quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam sẽ
giúp cho kinh tế nước ta có được hướng đi đúng đắn về thực tiễn nghiên cứu quan điểm
lịch sử cụ thể sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta tránh được những mặt xấu, những sai lầm
từ nền kinh tế các nước khác trên hết vận dụng những kinh nghiệm của vào
quá trình xây dựn nền kinh tế nước nhà.
| 1/6

Preview text:

BÀI KIỂM TRA
Đề bài: Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể.
Phân tích việc vận dung các nguyên tắc này trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

1. Trình bày cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể.
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, phát triển va lịch sử cụ thể:Quan điểm toàn
diện, phát triển và lịch sử cụ thể là những quan điểm cơ bản thuộc về phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật. Chúng được xây dựng trên cơ sở lý giải theo quan điểm
duy vật biện chứng về tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú của các
mối liên hệ và sự phát triển của tất thảy các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. 1.1.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện chính là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
của phép biện chứng duy vật, theo đó, các sự vật, hiện tượng tồn tại trong sự tác động qua
lại, chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau.
Nội dung của nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc toàn diện trong sự đối lập với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ
biện, phản ánh mối liên hệ chủ yếu để rút ra những mặt, những mối liên hệ tất yếu của sự
vật, hiện tượng đó; nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại bởi chỉ có như
vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ nhất sự tồn tại khách quan với nhiều
thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của các khách thể nhận thức.
Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ gắn với nhu cầu thực tiễn; không viển
vông, ảo tưởng bởi mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa
dạng, trong mỗi hoàn cảnh, chỉ phản ánh được mối liên hệ nào đó phù hợp với nhu cầu
của con người nên nhận thức về sự vật, hiện tượng cũng mang tính tương đối, không đầy
đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó, sẽ tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã
có, xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối mà không bổ sung, không phát triển. Chỉ
có như vậy mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ
quá trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ đồng bộ; không cục bộ, phiến diện;
nghĩa là trong thực tiễn, phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương
tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật,
hiện tượng. Song trong từn
bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực
lượng giải quyết, tránh dàn trải.
Nguyên tắc toàn diện dự báo được khả năng vận động, phát triển; tránh trì trệ, bảo thủ. 1.2.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn là nguyên lý
về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
Theo đó, phát triển là một phạm trù dùng để khái quát quá trình vận động đi lên; là
một hình thức của vận động và trong sự phát triển, sẽ nảy sinh những tính quy định mới,
cao hơn về chất, nhờ đó làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự
vật, hiện tượng cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Nội dung của nguyên tắc
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó trong
trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng
trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong
tương lai. Cần chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn, còn động lực của sự phát
triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng đó.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua
nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau;
bởi vậy, phải phân tích cụ thể để tìm ra những hình thức hoạt động, phương pháp tác
động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo
điều kiện cho cái mới phát triển; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v.
Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp, nhiều khi cái mới hợp quy luật chịu
thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển không thẳng mà quanh co, phức tạp; tránh
lạc quan và bi quan thái quá trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong quá
trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ
cái cũ mà phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
1.3 Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử
Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử là toàn bộ nội dung phép biện chứng duy vật
và nguyên tắc chân lý là cụ thể của lý luận nhận thức duy vật biện chứng.
Bản chất của nguyên tắc
Đối với bản chất của nguyên tắc lịch sử trong nhận thức và thực tiễn này nằm ở
chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hoá
qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động
của chính nó, đời sống của chính nó. Nội dung của nguyên tắc
Nội dung của nguyên tắc lịch sử trong nhận thức và thực tiễn được V.I.Lênin
nêu rõ là phải xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã
xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát
triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó
đã trở thành như thế nào.
Như vậy, nguyên tắc lịch sử tái tạo lại sự vật, hiện tượng thông qua lăng kính
của những ngẫu nhiên, những bước quanh co, những gián đoạn theo tình tự không gian
và thời gian, theo trình tự của sự hình thành sự vật, hiện tượng; nhờ đó mà có thể phản
ánh được sự vận động đa dạng và nhiều vẻ của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự
vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là
phương thức tồn tại của vật chất; nghĩa là phải nhận thức được rằng, vận động làm cho
sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của
vận động quyết định bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử yêu cầu phải chỉ rõ được những giai đoạn mà nó đã trải qua
trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong nhận
thức và thực tiễn, để nhận thức và giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ
tất yếu đặc trưng, những chất và lượng vốn có của sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc lịch sử còn yêu cầu chỉ ra được mối liên hệ khách quan; chỉ ra được
các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy
định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới thông
qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng
phủ định là sự kế tục sự vật, hiện tượng bị phủ định, là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng bị
phủ định trong dạng đã được cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng phủ định.
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn luôn quán triệt nguyên tắc
lịch sử để nhận thức sự vật, hiện tượng với đầy đủ các mối liên hệ trong sự tồn tại
khách quan vốn có của nó, để nhận thức được vị trí, vai trò của từng mối liên hệ quy
định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Bên cạnh đó, gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống,
phát triển y tế, giáo dục.
Đề xuất vận dụng cho công cuộc đổi mới đất nước
Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế. Vận dụng quan điểm toàn diện
đồng bộ các yếu tố của thị lao động, thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn, thì
tường bất động sản, thị trường nhà ở, thị trường đất đai,…là yếu tố cần thiết để thúc
đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Bên cạnh đó, còn phải hoàn chỉnh đồng bộ và toàn
diện hệ thống các công cụ quản lý thị trường xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội VIII
của Đảng chỉ rõ: Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính
sách các đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước. Hệ
thống các công cụ được Đảng và Nhà nước chỉ ra là: Các công cụ pháp luật là đảm bảo
môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế phát triển; công
cụ kế hoạch; các công cụ chính sách (CS tiền tệ, CS tài chính..); các công cụ khác
(thông tin, truyên truyền dự trữ của Nhà nước, sức mạnh của doanh nghiệp Nhà nước,
…). Hàng loạt các công cụ này không thể bỏ qua bất cứ công cụ nào, nếu thiếu đi một
trong những công cụ trên thì hậu quả không lường sẽ xảy ra.
Phải triệt để thực hiện dân chủ, theo đó phải triển khai và thực hiện đồng bộ:
thực sự tôn trọng các quyền tự do báo chí, quyền bình đẳng trước pháp luật; Triệt để
tôn trọng nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất”; Đảm bảo có hệ thống
tòa án độc lập là sự phân quyền vô cùng quan trọng; Tạo cơ chế công khai, minh bạch,
thực sự dân chủ. Nếu bồn điểm nêu trên được thực hiện, dân chúng sẽ tin tưởng ở Đảng
Cộng sản, tin tưởng ở người lãnh đạo và hy vọng về một đất nước tốt đẹp hơn.
Chú trọng xây dựng văn hóa trong đảng, nhất là phong cách văn hóa lãnh đạo,
văn hóa quản lý; trong đó, trước hết cán bộ, công chức phải là những người làm gương,
đi đầu; chống những hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa. Đa dạng hóa các hình thức
hoạt động để thu hút toàn dân tham gia phong trào” Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”, chú trọng chất lượng, không chạy theo phong trào, hình thức. Tiếp tục
đầu tư các thiết chế văn hóa, phát huy hiệu quả sử dụng phục vụ trong cộng đồng dân
cư. Quan tâm xây dựng lối sống lành mạnh, có văn hóa, có lý tưởng trong thanh, thiếu niên.
2. Phân tích việc vận dụng các nguyên tắc toàn diện, phát triển, lịch sử cụ
thể trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay:
2.1. Vận dụng nguyên tắc toàn diện:
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chủ thể phải biết nhận thức trọng tâm, trọng điểm,
từ đó xem xét cái toàn bộ, trên cơ sở thấu hiểu quy luật vận động và phát triển của sự
vật, hiện tượng. Quan điểm toàn diện đối lập và đòi hỏi phải loại bỏ mọi suy nghĩ và
hành động phiến diện, chiết trung và ngụy biện. Đây là những “căn bệnh” thường gặp
khá nhiều trong nhận thức và thực tiễn, đều dẫn con người đến sự mơ hồ, trừu tượng,
hỗn tạp, khiến cho chủ thể khó phân biệt được cái bản chất với cái không bản chất, cái
không chủ yếu với cái chủ yếu… dẫn đến những sai lầm trong nhận thức sự vật, hiện
tượng nói chung và trong công tác cán bộ nói riêng.
Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh về quan điểm này, đề cập
trực diện và rõ ràng về việc đánh giá cán bộ phải dựa trên quan điểm toàn diện, tức là
yêu cầu phải xem xét đầy đủ các mối quan hệ của người đó, thì mới có thể đánh giá
đúng và coi đây là điều kiện cần thiết để bổ nhiệm đúng cán bộ. Theo Người, khi xem
xét các mối liên hệ của cán bộ, cần làm rõ bản chất của người cán bộ qua ba mối quan
hệ cơ bản
: Quan hệ với chính mình; quan hệ với nhân dân; quan hệ với Đảng, Nhà
nước thông qua cơ quan, đơn vị.
Đồng thời, cán bộ được cất nhắc phải hội đủ bốn tiêu chuẩn cơ bản: Trung thành
và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh; liên lạc mật thiết với quần chúng, hiểu
biết quần chúng; luôn chú ý đến lợi ích nhân dân; luôn giữ đúng kỷ luật. Bác cũng lưu
ý, nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét
kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ và trước khi cất nhắc cần phải xem xét người được
cất nhắc một cách toàn diện, trên tất cả các mặt. Người căn dặn: “Chẳng những xem xét
công tác của họ, mà còn phải xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem xét cách
viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết
của họ hay không. Chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ
đối với người khác thế nào. Ta nhận họ tốt, còn phải xét số nhiều đồng chí có nhận họ
tốt hay không”(8), không nên chỉ xem công việc của họ trong một lúc, “mà phải xem
xét công việc của họ từ trước đến nay”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, nhận xét cán bộ
không thể chỉ căn cứ vào những biểu hiện bên ngoài, mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất
của họ; không thể chỉ dựa vào một việc làm, mà phải tìm hiểu tất cả các công việc mà
họ thực hiện; không thể chỉ xem xét cán bộ trong một thời điểm, mà phải thấy rõ lịch
sử của họ. Có cái nhìn toàn diện như vậy mới có thể đánh giá cán bộ một cách đúng
đắn, khách quan và từ đó, mới có thể cất nhắc, bổ nhiệm, đề bạt đúng cán bộ, đáp ứng
tốt yêu cầu, nhiệm vụ.
Quan điểm toàn diện luôn đi đôi, gắn liền với quan điểm lịch sử - cụ thể. Theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xem xét cán bộ có tiêu chí chung, có tiêu chí cho từng
ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Hơn nữa, việc xem xét cán bộ cần đặt trong từng giai đoạn
lịch sử cụ thể gắn với nhiệm vụ của từng giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước, vì
vậy, khi xem xét, đánh giá cán bộ, “quyết không nên chấp nhất” mà phải có cái nhìn
toàn diện. Chỉ có như vậy, chủ thể đánh giá mới có thể đánh giá đúng, thực chất về cán
bộ và từ đó, mới bổ nhiệm được trúng cán bộ, không bỏ sót người có tài, đức và bản
thân người cán bộ đó mới có thể phát huy được tốt nhất năng lực, sở trường của mình,
mà không bị “thui chột” tài năng.
2.2. Vận dụng nguyên tắc phát triển:
Phát triển là sự thay đổi cả lượng và chất từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ
chưa hoàn thiện đến từng bước hoàn thiện. Phải phát triển toàn diện cả kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, gắn với môi trường tự nhiên. Tư tưởng chiến lược trong giai đoạn
tới là phát triển nhanh và bền vững, bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các
nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt;
phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là
trọng yếu, thường xuyên.
Phát triển nhưng phải trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng. Trung thành cần được hiểu, về
mục đích bất di bất dịch là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những vấn đề thuộc về nguyên tắc như Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý - phục vụ, nhân dân làm chủ là phải vững chắc, nhưng sách lược thì
phải linh hoạt. Phát triển theo tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
2.3. Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể:
Bước vào thiên niên kỷ mới,con người ngày càng tiến lên trong công cuộc trinh
phục thế giới. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học – kỹ thuật và trong mọi mặt
của đời sống xã hội đã làm thay đổi dần bộ mặt thế giới. Trong sự chuyển biến mạnh
mẽ đó Việt Nam chúng ta cũng không ngừng biến đổi vận động. Tính đến nay nước ta
đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn một thập kỷ, bên cạnh những thành tựu đã
đạt được. Những vấn đề của nền kinh tế luôn đạt ra những thách thức cho các nhà kinh
tế. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát
triển, những tàn dư của nền kinh tế tập trung qun lieu bao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều
góp phần kìm hãm nền kinh tế. Chính vì thế việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn
cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước. Phù hợp với khu vực, thế
giới và thời đại là hết sức cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích nền kinh tế
trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động phát triển không ngừng của nó. Do
vậy phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm rút ra từ hai nguyên lý cơ bản
của phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Leenin vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam sẽ
giúp cho kinh tế nước ta có được hướng đi đúng đắn về thực tiễn nghiên cứu quan điểm
lịch sử cụ thể sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta tránh được những mặt xấu, những sai lầm
từ nền kinh tế các nước khác và trên hết là vận dụng những kinh nghiệm của nó vào
quá trình xây dựn nền kinh tế nước nhà.