Trình bày lý luận và thực tiễn hàng hóa sức lao động, giá trị thặng dư, các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư và các hình thức biểu diễn của giá trị thằng dư trong nền kinh kế thị trường | Trường đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội
Theo Các Mác: “sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộnhững năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác-Lênin(HUBT)
Trường: Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 47886956
Chủ đề 2: Trình bày lý luận và thực tiễn hàng hóa sức lao động, giá trị thặng dư, các
phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư và các hình thức biểu diễn của giá trị thằng dư
trong nền kinh kế thị trường. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................................ 1
NỘI DUNG ..................................................................................................................................................... 2 1.
Quan niệm về hàng hóa sức lao động của Chủ nghĩa Mác-Lênin ......................................................... 2 1.1.
Khái niệm sức lao động ................................................................................................................. 2 1.2.
Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa ............................................................................. 2 1.3.
Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động .................................................................................... 3 2.
Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư ................................................................................................... 4 2.1.
Khái niệm giá trị thặng dư ............................................................................................................. 4 2.2.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư ........................................................................................... 5 2.3.
Nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư ..................................................................................... 6 3.
Các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong
nền kinh tế thị trường ................................................................................................................................... 7 3.1.
Các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư .............................................................................. 7 3.2.
Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường .................................. 9
KẾT LUẬN....................................................................................................................................................12 MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây dần dần chuyển từ nền kinh tế tập
trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã gặt hái được nhiều
thành tựu như kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, uy tín Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Nền kinh tế thị trương là nền kinh tế luôn gắn liền với những phạm trù và quy luật
kinh tế nhất định. Trong đó có phạm trù giá trị thặng dư hay nói cách khác, “sự tồn tại
giá trị thặng dư là một yếu tố tất yếu khách quan ở Việt Nam, khi mà ở Việt Nam ta đang
hướng tới nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.Bên cạnh đó, hàng hóa sức lao động
cũng được chú trọng bởi nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, đất nước lOMoAR cPSD| 47886956
muốn giàu mạnh thì phải dựa vào bản thân, sức lao động sáng tạo của con người. Tuy
nhiên, chính sách của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập so với nhu cầu thực tiễn phát triển
đất nước. Như vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu về vật chất và lượng của giá trị thặng dư,
hàng hóa sức lao động sẽ giúp chúng ta có những nhận thức đúng đắn về con đường đi
lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đảng và nhà nước ta đã chọn.
Từ đó, em xin chọn đề tài “Trình bày lý luận và thực tiễn về hàng hóa sức lao động,
giá trị thặng dư, các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư và các hình thức biểu hiện
của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường” cho bài luận của mình. NỘI DUNG
1. Quan niệm về hàng hóa sức lao động của Chủ nghĩa Mác-Lênin
1.1. Khái niệm sức lao động
Theo Các Mác: “sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực lao
động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con
người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó”. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết
của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nhưng
sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực.
1.2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
Trong bất cứ xã hội nào sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất nhưng
không phải trong bất kỳ điều kiện nào sức lao động cũng trở thành hàng hóa. Thực tiễn
lịch sử đã cho thấy sức lao động của người nô lệ không phải là hàng hóa bởi vì bản thân
người nô lệ thuộc sở hữu chủ nô nên họ không có quyền bán sức lao động của mình.
Người thợ thủ công tự do tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của họ nhưng sức lao
động của họ cũng không phải là hàng hóa vì họ có tư liệu sản xuất để làm ra sản phẩm nuôi sống chính mình.
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có điều kiện nhất định.
Một là, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao
động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
Hai là, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu
sinh hoạt. Họ trở thành người vô sản theo đúng nghĩa đen, để tồn tại họ buộc phải bán
sức lao động của mình để sống. lOMoAR cPSD| 47886956
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động trở thành hàng
hóa. Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản
. Tuy nhiên để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ phải
phát triển đến một mức độ nhất định.
Trong các hình thái xã hội trước chủ nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm của lao động mới
là hàng hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định nào đó,
các hình thái sản xuất xã hội cũ bị phá vỡ thì mới xuất hiện những điều kiện để cho sức
lao động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động đã làm cho
sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo hiệu sự ra đời của một thời
đại mới trong lịch sử xã hội – thời đại của chủ nghĩa tư bản.
1.3. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính:
giá trị và giá trị sử dụng.
1.3.1.Giá trị hàng hóa sức lao động Giá trị hàng hóa sức lao động cũng do thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nhưng sức
lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Muốn tái sản xuất ra năng lực đó,
người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định về ăn, mặc, ở, học
nghề,... Ngoài ra, người lao động còn phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và con
cái anh ta nữ. Chỉ có như vậy thì sức lao động mới được sản xuất và tái sản xuất một cách liên tục.
Vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy
thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy; hay
nói cách khác, giá trị hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư
liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân và gia đình anh ta.
Là hàng hóa đặc biêt, giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường
ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài những
nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có nhu cầu tinh thần, văn hóa... Những nhu
cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước trong từng thời kỳ, đồng thời nó
còn phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó.
Tuy giá trị hàng hóa sức lao động bao hàm yếu tố tinh thần và lịch sử, nhưng đối với
một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu sinh hoạt
cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định, do đó có thể xác định được
lượng giá trọ hàng hóa sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành: lOMoAR cPSD| 47886956
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản
xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.
Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người công nhân.
Để biết được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định, cần
nghiên cứu hai loại nhân tố tác động đối lập nhau đến sự biến đổi của giá trị sức lao
động. Một mặt, sự tăng nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hóa và dịch vụ, về học tập
và nâng cao trình độ lành nghề đã làm tăng giá trị sức lao động; mặt khác, sự tăng năng
suất lao động xã hội sẽ làm giảm giá trị sức lao động.
1.3.2. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động
Hàng hóa sức lao động không chỉ có giá trị, mà còn có giá trị sử dụng như bất kỳ
hàng hóa thông thường nào. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện
ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân.
Tuy nhiên, quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác với quá
trình tiêu dùng hàng hóa thông thường ở chỗ: hàng hóa thông thường sau quá trình tiêu
dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời
gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản xuất ra một
hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình sáng tạo ra giá trị mới. Mục đích của nhà tư bản
là muốn giá trị mới được sáng tạo ra phải lớn hơn giá trị sức lao động và thực tế việc nhà
tue bản tiêu dùng sức lao động (thông qua hoạt động lao động của người công nhân) đã
hàm chứa khả năng này. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ
chiếm đoạt. Nhu vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó
là nguồn gốc sinh ra giá trị tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân
nó. Đó là chìa khóa để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản (T – H – T’).
Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động trở thành điều
kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.
2. Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư
2.1. Khái niệm giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là mức độ trội ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và
bị nhà tư bản chiếm không, là nguồn gốc hình thành nên thu nhập của các nhà tư bản và
các giai cấp bóc lột trong tư bản chủ nghĩa. Qua giá trị thặng dư, bản chất của tư bản chủ lOMoAR cPSD| 47886956
nghĩa là bóc lột sức người lao động làm thuê để tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn cho
mình. Việc họ bóc lột công nhân càng nhiều thì giá trị thặng dư được thu được càng cao. Ví dụ minh hoạ:
Giả định sản xuất 10 kg sợi cần 10 kg bông, giá 10 kg bông là 10 đô. Để biến số bông
đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc là 2 đô; giá
trị sức lao động trong một ngày của người công nhân là 3 đô; trong một giờ lao động
người công nhân đã tạo ra một giá trị là 0.5 đô; cuối cùng, ta giả định rằng trong quá
trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
Như vậy, nếu như quá trình lao động kéo dài đến cái điểm mà ở đó bù đắp được giá
trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động cần thiết thì chưa có sản xuất giá
trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.
Như vậy, toàn bộ chi phí của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức lao động là
27 đô la. Trong 12h lao động, công nhân tạo ra một sản phẩm mới có giá trị bằng 30 đô
la, giá trị dôi ra là 3 đô la. Trong đó, phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động là giá trị thặng dư.
2.2. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư
Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá
trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng sư cho nhà tư bản. C.Mác viết: “ Với tư
cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản
xuất là quá trình sản xuất hàng hóa; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động
với quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình tư bản chủ nghĩa, là
hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hóa”.
Quá trình sản xuất trong doanh nghiệp tư bản đồng thời là quá trình nhà tư bản tiêu
dùng sức lao động và tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua, nên nó có các đặc điểm:
- Một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản, giống như những
yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng cho có hiệu quả nhất.
- Hai là, sản phẩm được làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không thuộc về công nhân.
Khi phân tích quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa C.Mác đã lấy ví dụ quá trình sản
xuất sợi; sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học đưa ra các giả định: mua và
bán đúng giá trị, tư bản cố định hao mòn hết trong một chu kỳ sản xuất, trong một giờ lOMoAR cPSD| 47886956
lao động người lao động tạo ra một lượng giá trị nhất định. Từ sự phân tích sợi C.Mác đã
rút ra một số kết luận cơ bản:
- Một là, bản chất của giá trị thặng dư là một phần của giá trị mới do người công
nhân làm ra và thuộc về nhà tư bản.
- Hai là, ngày lao động được chia thành hai phần thời gian lao động cần thiết và
thời gian lao động thặng dư. Trong đó, thời gian lao động cần thiết tại ra tiền công trả
cho người công nhân và thời gian lao động thặng dư tại ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
- Ba là, mẫu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết việc chuyển
hóa của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong lĩnh
vực đó, chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hóa đặc biệt, đó
là hàng hóa sức lao động.
Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hóa sức lao động đó trong sản xuất, tức là ngoài
lĩnh vực lưu thông để sản xuất để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền
của nhà tư bản mới chuyển thành tư bản. Bản chất của tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.
2.3. Nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư
2.3.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Vì tư
liệu sản xuất và sức lao động do nhà tư bản mua, nên trong quá trình sản xuất, người
công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tạo ra giá trị tăng thêm cho nhà tư bản khi
năng suất lao động đạt tới trình độ nhất định – chỉ cẩn một phần của ngày lao động người
công nhân làm thuê đã tạo tra giá trị bằng giá trị sức lao động của chính mình.
Bằng lao động cụ thể của mình, công nhân sử dụng các tư liệu sản xuất và chuyển
giá trị của chúng vào sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng dư.
Giá trị hàng hóa (W) được sản xuất ra gồm hai phần: giá trị những tư liệu sản xuất
đã hao phí được lao động cụ thể bảo tồn và chuyển vào sản phẩm (giá trị cũ, ký hiệu c)
và giá trị mới (v+m) do lao động trìu tượng của công nhân tạo ra (lớn hơn giá trị hàng
hóa sức lao động). Phần giá trị mới do lao động sống tạo thêm ra ngoài giá trị hàng hóa lOMoAR cPSD| 47886956
sức lao động, được nhà tư bản thu lấy mà không trả cho người lao động, được gọi là giá
trị thặng dư (m). Như vậy, lao động sống là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư.
2.3.2. Bản chất và ý nghĩa của giá trị thặng dư
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất tư
bản chủ nghĩa C. Mác đã chia Tư bản ra thành hai bộ phận dựa trên tính chất hai mặt của
lao động sản xuất ra hàng hóa là lao động cụ thể và lao động trừu tượng
Tư bản bất biến: Tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được lao động cụ
thể của công nhân bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm, tức là giá trị không thay
đổi về lượng trong quá trình sản xuất (Bao gồm máy móc, nhà xưởng, nguyên, nhiên, vật liệu)
Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản dùng để mua hàng hóa sức lao động không tái
hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng, người công nhân làm thuê đã sáng tạo ra
một giá trị mới, lớn hơn giá trị sức lao động, tức là có sự thay đổi về lượng (tồn tại dưới hình thức tiền lương)
Các nhà kinh tế học thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản xuất
đều là tư bản. Thực ra, bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ
bản của sản xuất trong bất kỳ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở
thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê.
Dựa trên các nghiên cứu của C. Mác có thể thấy việc phát hiện ra tính chất hai mặt
của lao động sản xuất hàng hóa đã thành công xác định sự khác nhau giữa tư bản bất
biến và tư bản khả biến từ đó vạch rõ chỉ có bộ phận tư bản khả biến mới tạo ra giá trị
thặng dư, còn tư bản bất biến chỉ là điều kiện cần thiết để tiến hành sản xuất. 3.
Các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư và các hình thức biểu hiện của giá
trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường
3.1. Các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
3.1.1. Phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động
vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và
thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động
thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. lOMoAR cPSD| 47886956
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa mọi điều kiện khác vẫn như cũ, thì giá trị
thặng dư tuyệt đối tăng lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư cùng tăng lên thành: m’ = x 100% = 150%
Như vậy, trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, ngày lao động
kéo dài tức là thời gian lao động thặng dư tăng lên và kéo theo tỷ suất giá trị thặng dư
cùng tăng theo. Bởi vậy mà các nhà tư ản đã tìm mọi cách kéo dài ngày lao động nhăm
mực đích sản xuất ra ở mức độ tối đa nhất.
Khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không
thay đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên.
Phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày lao động một
cách tuyệt đối gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
3.1.2. Phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao
động tất yếu; do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động
không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu 4 giờ lao động thặng dư, tỷ
suất giá trị thặng dư là 100%. Nếu giá trị sức lao động giảm khiến thời gian lao động tất
yếu rút xuống còn 2 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 6 giờ. Khi đó: m’ = x 100% = 300%
Nếu ngày lao động giảm xuống còn 6 giờ nhưng giá trị sức lao động giảm khiến thời
gian lao động tất yếu rút xuống còn 1 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 5 giờ. Khi đó: m’ = x 100% = 500%
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ
cần thiết để tái sản xuất sức lao động, do đó phải tăng năng suất lao động trong các
ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để chế tạo
ra tư liệu sinh hoạt đó.
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động diễn ra trước hết ở
một hoặc vài xí nghiệp riêng biệt, làm cho hàng hóa do các xí nghiệp ấy sản xuất ra có giá lOMoAR cPSD| 47886956
trị cá biệt thấp hơn giá rị xã hội, do đó, sẽ thu được một số giá trị thặng dư trội hơn so
với các xí nghiệp khác. Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức
cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà tư bản đã
dẫn đến kết quả làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị thặng dư tương
đối, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái
biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Sự hình thành và phát triển của nền đại công nghiệp thông qua cách mạng công
nghiệp đã mở ra những điều kiện mới cho phát triển khoa học và công nghệ, thúc đẩy
sản xuất nói chung và sản xuất giá trị thặng dư nói riêng phát triển nhanh.
3.2. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường 3.2.1. Lợi nhuận
Để làm rõ bản chất của lợi nhuận, C.Mác bắt đầu phân tích làm rõ chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị của hàng hóa, bù lại giá cả của những tư
liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá cả của sức lao động đã sử dụng để sản xuất ra hàng hóa
ấy. Đó là chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất ra hàng hóa.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thực tế, giá trị hàng hóa bán ra và chi phí đầu
tư vào sản xuất luôn có một khoảng chênh lệch, vậy nên sau khi bán hàng hóa, ngoài việc
bù đắp đủ số chi phí đã ứng ra, nhà tư bản còn thu được số chênh lệch bằng giá trị thặng
dư. Số chênh lệch này C.Mác gọi là lợi nhuận, nó là một hình thái biểu hiện bị biến tướng
của giá trị thặng dư, phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, lợi nhuận khi được đo bằng một con số cụ thể thì chỉ hiện được quy mô
của hiệu quả kinh doanh mà chưa phản ánh rõ mức độ hiệu quả của kinh doanh, do đó
cần được bổ sung bằng số đo tương đối là tỷ suất lợi nhuận.
Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa còn xuất hiện một bộ phận
doanh nghiệp chuyên môn hóa việc lưu thông hàng hóa, gọi là tư bản thương nghiệp. Lợi
nhuận thương nhiệp là một phần giá trị thặng dư được hình thành do sự chênh lệch giữa
giá bán và giá mua hàng hóa, nhưng điều đó không có nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp
bán hàng hóa cao hơn giá trị nó, mà họ mua hàng hóa thấp hơn giá trị và bán ra thị
trường với giá đúng của nó. lOMoAR cPSD| 47886956
Trong thực tiễn các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam hiện nay đã thuê lao động
để tiến hành sản xuất tạo ra lợi nhuận. Thực trạng hiện nay cho thấy năng suất lao động
của Việt Nam thấp là do ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Trong đó, nguyên nhân do
doanh nghiệp Việt đa phần có vốn mỏng, trình độ công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao
động, sản phẩm làm ra không nhiều. Để khắc phục tình trạng này, giải pháp duy nhất là
chuyên nghiệp hóa từng công đoạn sản xuất đi đôi với cải tiến công nghệ một cách phù
hợp, khả thi. Để tạo ra nhiều lợi nhuận thì doanh nghiệp sẽ tập trung vào tăng năng suất
lao động vì nó mang tính cơ bản lâu dài và bền vững hơn. Muốn vậy phải đầu tư khoa
học công nghệ mới, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao. Từ đó sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận. 3.2.2. Lợi tức
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường đã hình thành hình thái mới là tư
bản cho vay. Đây là một dạng tư bản xã hội dưới hình thái tiền tệ mà người chủ sở hữu
cho nhà tư bản khác sử dụng trong một thời gian nhất định để nhận được một số tiền lời
nào đó, gọi là lợi tức.
Lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà người đi vay (tư bản đi vay) phải
trả cho người cho vay (tư bản cho vay) vì đã sử dụng lượng tiền nhàn rỗi của người cho
vay. Đây là quan hệ kinh tế phản ánh quan hệ lợi ích giữa người đi vay với người cho vay.
Song về thực chất, lợi tức đó là một phần của giá trị thặng dư mà người đi vay đã thu
được thông qua sử dụng tiền vay đó.
Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản có đặc điểm:
- Thứ nhất, quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu.
- Thứ hai, tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt.
- Thứ ba, tư bản cho vay là hình thái tư bản phiến diện nhất, song cũng được sùng bái nhất.
Ngoài ra lợi tức cũng bao gồm các khoản lợi nhuận như mua bán cổ phiếu, tiền lãi
gửi ngân hàng hay lợi nhuận cổ phần. Nó được xem như thước đo của cho quá trình hoạt
động của một doanh nghiệp.
Tất cả các doanh nghiệp đều cần lợi tức để duy trì và phát triển. Trên thực tế nó
chưa phản ánh được hiệu quả của số vốn bỏ ra. Do đó, nó thường ưu tiên so sánh với số
vốn cho vay để xác định khả năng sinh lời. lOMoAR cPSD| 47886956 3.2.3. Địa tô
- Địa tô là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận
bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp phải trả cho địa chủ (ký hiệu là R)
VD: nhà tư bản có tiền bỏ tiền ra thuê ruộng đất, kinh doanh trên ruộng đất, tiến
hành sản xuất để tạo ra đc cái giá trị thặng dư. Sau khi có giá trị thặng dư thì sẽ trích ra
phần lợi nhuận bình quân cho mình và phần còn lại nộp cho địa chủ gọi là địa tô
- Theo C.Mác có các hình thức địa tô như sau: +) Địa tô chênh lệch:
Điện tô chênh lệch I là địa tô mà địa chủ thu được do chỗ thuê ruộng đất tốt và độ
màu mỡ cao, điều kiện tự nhiên thuận lợi.
Điện tô chênh lệch II là điện tô mà địa chủ thu được do chỗ cho thuê mảnh đất đã
được đầu tư thâm canh và làm tăng độ màu mỡ của đất
+) Địa tô tuyệt đối là địa tô mà địa chủ thu được trên mảnh đất cho thuê không kể
độ màu mỡ tự nhiên thuận lợi hay do thâm canh. Trong thực tế đời sống kinh tế, điạ tô
là một trong những căn cứ để tính toán giá cả dụng đất khi thực hiện bản quyền sử dụng
đất cho người khác. Về nguyên lý, giá cả ruộng đất được tính trên cơ sở so sánh với tỷ lệ
lãi suất ngân hàng theo công thức
Giá cả đất đai = Địa tô / Tỷ suất lợitức nhận gửi của ngân hàng
- Lý luận địa tô tư bản chủ nghĩa của C.Mác không những chỉ rõ bản chất quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa học để xây dựng các
chính sách kinh tế nhằm kết hợp hài hòa các lợi ích, khuyến khích thâm canh, sử dụng
đất đai tiết kiệm, phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa bền vững. KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận trên, ta có thể thấy được tầm quan trọng của quy luật giá trị
thặng dư và hàng hóa sức lao động đã phát huy vai trò to lớn của nó đem lại những tiến
bộ vượt bậc và thành tựu kinh tế cho chủ nghĩa tư bản. Nước ta nói riêng và các nước xã
hội chủ nghĩa nói chung cần nỗ lực không ngừng trên con đường của mình để xây dựng
xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Riêng nước ta, đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ chế độ phong
kiến bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa với xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc hậu chủ lOMoAR cPSD| 47886956
yếu là dựa vào nông nghiệp. Vậy nên, việc vận dụng một cách có hiệu quả học thuyết giá
trị thặng dư của C. Mác là một đóng góp thiết thực cơ bản nhất cho quá trìnhtiếp tục
hoàn thiện và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đồng thời, tiếp thu những thành tựu của chủ nghĩa tư bản đã đạt được khi áp dụng quy
luật kinh tế cơ bản là giá trị thặng dư để phát triển cũng như sửa chữa quan niệm sai lầm
trong quá trình phát triển kinh tế từ năm 1986 đổ về trước.