Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Bách Khoa Hà Nội

Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
****************
TIỂU LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI:
Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành
Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Giảng viên hướng dẫn: NGUYỄN QUANG TRƯỜNG
Nhóm sinh viên thực hiện:
Họ và Tên: MSSV: Mã lớp bài tập:
1. Nguyễn Tiến Quân
2. Đỗ Đức Mạnh
3. Trần Công Danh
4. Trần Quang Huy
20181706
20181641
20170678
20184489
116935
116935
116936
116936
Hà nội, 12 tháng 5 năm 2020
1
Mục lục
Mở đầu
Trang
1. 4
Lý do chọn đề tài
2. 4
Tổng quan đề tài (lịch sử nghiên cứu):
3. Mục đích nghiên cứu đề tài 4
4. 4
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
5. 5
Phương pháp nghiên cứu đề tài
6. Đóng góp đề tài 5
7. 5
Kết cấu của đề tài
Nội dung :
6
Chương 1: Quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của Hồ
Chí Minh
6
1.1.
Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Đông đối với Hồ
Chí Minh
6
1.1.1.
Nho giáo, gia đình và thời niên thiếu của Hồ Chí Minh
6
1.1.2.
Chủ nghĩa Tôn Trung Sơn
7
1.2.
Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Tây đối với Hồ
Chí Minh
8
1.2.1.
Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
trở thành người cộng sản (1911 - 1920)
8
1.2.2
Thời kỳ tưởng Hồ Chí Minh hình thành về bản (1920-
1930)
10
Chương 2: Vai trò của Văn hóa phương Đông thể hiện trong
tưởng Hồ Chí Minh
11
2.1
Nho giáo
11
2.2 13
Phật giáo
2.3
Chủ nghĩa Tam dân – Tôn Trung Sơn
14
Chương 3: Vai trò của Văn hóa phương Tây thể hiện trong
tưởng Hồ Chí Minh
16
3.1. 16
Thiên chúa giáo
3.2.
Triết học Khai sáng Pháp (Voltaire, Rousso, Montesquieu)
17
2
3.3. 18
Các cuộc cách mạng tại Pháp, Mỹ và các bản tuyên ngôn
3.3.1.
Tuyên ngôn độc lập của cách mạng Mỹ (1776)
18
3.3.2.
Tuyên ngôn nhân quyền của Cách mạng Pháp (1791)
18
3.3.3.
Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản của Đức – 1848
19
Chương 4: Sự kết hợp văn hóa phương Đông và phương Tây trong
Tư tưởng Hồ Chí Minh.
19
4.1.
Sự kết hợp văn hóa Đông-Tây trong việc tiếp nhận tưởng
Tự do-Bình đẳng- Bác ái của Hồ Chí Minh
20
4.2.
Sự kết hợp văn hóa Đông-Tây trong việc tiếp nhận Chủ nghĩa
Mác-Lênin của Hồ Chí Minh
21
Kết luận chung
24
Danh mục tài liệu tham khảo
25
Phụ lục
26
3
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh (1890-1979) nhà lãnh tụ đại của Việt Nam, được thế giới công
nhận nhà văn hóa kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc. Những giá trị
tưởng Hồ Chí Minh để lại cho hậu thế cùng quý giá, được Đảng Cộng sản
Việt Nam coi kim chỉ nam trong mọi công tác Đảng, mọi đường lối chính sách
lãnh đạo đất nước. Người cũng tấm gương sáng ngời về đạo đức, phong cách
sống và làm việc cho các thế hệ nhân dân Việt Nam.
Một điều không thể phủ nhận rằng vốn kiến thức uyên bác, tấm lòng nhân hậu
tinh thần cách mạngđại của Chủ tịch Hồ Chí Minh một phần được là nhờ sự
ham học hỏi, quyết tâm vượt gian khó tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại tự cổ chí
kim, từ Đông sang Tây. Việc nghiên cứu quá trình tác động của tinh hoa văn hóa
nhân loại vai trò của trong sự hình thành tưởng Hồ Chí Minh cho người
học thêm hiểu biết một góc nhìn phân tích đặc biệt đối với các vấn đề
trong bộ môn này. Đây chính do nhóm tiểu luận chọn đề tài Vai trò của
tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh”.
2.Tổng quan đề tài (lịch sử nghiên cứu):
Đề tài nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một mảng nghiên cứu vô cùng
rộng lớn giá trị với thực tiễn hội cách mạng Việt Nam trong suốt tiến
trình lịch sử hàng thế kỉ của dân tộc. Với quy của một bài tiểu luận, nhóm tác
giả tập trung phân tích các khía cạnh tác động của tinh hoa văn hóa nhân loại
vai trò của trong sự hình thành tưởng Hồ Chí Minh. vậy, đây vẫn một
đề tài đòi hỏi nguồn liệu đa dạng duy phân tích chọn lọc. Tiểu luận
tham khảo nhiều bài báo đầu sách khác nhau với hi vọng thể đưa ra lập luận
chính xác, cụ thể nhất trong khả năng của nhóm tác giả.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện nhằm đưa ra một góc nhìn về sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh trên sở của các yếu tố tinh hoa văn hóa nhân loại, bao gồm văn hóa
phương Đông và phương Tây nói chung.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tiểu luận về đề tài Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành
tưởng Hồ Chí Minh” tập trung nghiên cứu các giai đoạn tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời sự nghiệp Cách mạng của
Người, cùng với các dẫn chứng về tác phẩm, tuyên ngôn, hành động của Hồ Chí
Minh. Từ đó nhóm tác giả phân tích vai trò của chúng đối với tưởng Hồ Chí
Minh.
4
Đồng thời, tiểu luận còn đề cập tới bối cảnh thời đại, các đặc trưng văn hóa trên thế
giới để làm ảnh hưởng đó lên các vấn đề cụ thể của tưởng Hồ Chí Minh
trong cuốn “Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh” (NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật
Bộ Giáo dục & Đào tạo). Đề tài không đi sâu vào nghiên cứu các khía cạnh đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đầu tiên, đề tài chỉ ra quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong suốt cuộc
đời sự nghiệp Cách mạng của Hồ Chí Minh. Cùng với đó chỉ ra các yếu tố
nào thuộc về văn hóa phương Đông, yếu tố nào thuộc về phương Tây bằng hàng
loạt các dẫn chứng cụ thể về tác phẩm, tuyên ngôn, hành động của Hồ Chí Minh.
Trênsở đó, đề tài phân tích từng mục nhỏ, từng yếu tố tác động để liên hệ, làm
vai trò của chúng đối với việc hình thành các vấn đề chính trong tưởng của
Người - chính các chương mục trong cuốn “Giáo trình tưởng Hồ Chí Minh”
(NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật – Bộ Giáo dục & Đào tạo)
6. Đóng góp đề tài
Với những nghiên cứu hết sức bản của mình, nhóm tác giả tiểu luận hi vọng
được đóng góp một phần nhỏ so với các trước tác hết sức đồ sộ về tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Đồng thời, đề tài này cũng đưa ra một phương pháp tiếp cận mới tới những vấn đề
của tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua việc đưa vào góc độ hình thành các vấn đề đó
trên cơ sở phân tích vai trò của các yếu tố văn hóa nhân loại.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm Chương Mở đầu, 4 chương nội dung, Kết luận đi kèm với Danh
mục tài liệu tham khảo và Phụ lục Phân công tiểu luận.
5
Nội dung :
Chương 1: Quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của Hồ Chí Minh
1.1. Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Đông đối với Hồ Chí Minh
Trước hết, một điều hiển nhiên mà tất cả chúng ta đều biết, cả thế giới đều thấy rõ,
đó là: Hồ Chí Minh là người Việt Nam, là vị lãnh tụ của Cách mạng giải phóng dân
tộc Việt Nam, một tưởng lớn của văn hóa phương Đông. Những ảnh hưởng của
văn hóa phương Đông lên tư tưởng Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, xuyên suốt
cực nét. Trong phạm vi của bài tiểu luận, xin được chỉ đưa ra những phân
tích, dẫn chứng văn hóa phương Đông (và cả phương Tây) tác động đến các
vấn đề trong nội dung Tư tưởng của Hồ Chí Minh, chứ không tập trung các chủ đề
về đạo đức, phong cách của Người.
1.1.1. Nho giáo, gia đình và thời niên thiếu của Hồ Chí Minh
Sinh ra trong gia đình nhà Nho Nguyễn Sinh Sắc, Hồ Chí Minh đã được học những
lễ giáo, phép tắc của Nho giáo từ nhỏ. Ngay cả quê hương Nghệ An của Người
cũng mảnh đất sản sinh ra nhiều bậc hiền tài, trạng nguyên của các triều đại
phong kiến Việt Nam. Do đó, Hồ Chí Minh một quá trình tiếp thu Nho giáo rất
căn bản hệ thống: Từ tiếp thu di sản Nho học từ người cha, đến học tập các
thầy đồ nổi tiếng một thời như Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Nhân,
…; từ việc học tập qua trao đổi với các nhà nho thế hệ cha chú như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, đến quá trình tự học lâu dài, bền bỉ… Được biết thời niên thiếu,
cậu bé Sinh Cung và anh trai Sinh Khiêm luôn là những học trò ưu tú trong lớp dạy
chữ Nôm của các ông đồ nổi tiếng quanh vùng.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh dung nạp tưởng Nho giáo trong bối cảnh hết sức đặc
biệt, khi mà bản thân hệ thống tư tưởng Nho giáo bất lực trước việc cung cấp công
cụ để nhận thức và luận giải hiện thực xã hội Việt Nam. Khi mà hệ thống triều đình
phong kiến dựa trên giáo Khổng tử đã trở nên suy thoái, bạc nhược bất lực
trước sự xâm lược của thực dân phương Tây, xâm nhập của văn hóa phương Tây.
Các phong trào chính trị - hội chịu ảnh hưởng của Nho giáo không thể giải
quyết những vấn đề thực tiễn lịch sử của dân tộc đặt ra; hệ thống giáo dục
khoa cử Nho học thì bị giải tán. Hồ Chí Minh chứng kiến hàng loạt các cuộc nổi
dậy đấu tranh lãnh đạo bởi các nhà Nho yêu nước, trong đó không ít người có quan
hệ thân thiết với cha mình, đều đón nhận thất bại bị thực dân phương Tây đàn
áp trong bể máu. Ngay cả thân phụ của Người, cụ Nguyễn Sinh Sắc cũng bị giáng
chức quan tri huyện một mặtqua lại với những người trong cuộc khởi nghĩa.
Hồ Chí Minh nhận ra luận Nho giáo dạy con người ta nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
nhưng cũng thấy rằng chỉ dựa vào đó thì không tìm ra được tự do cho giang sơn tổ
quốc, hay đơn giản miếng cơm manh áo cho người dân Việt Nam lúc bấy giờ.
6
Nói chung, hệ tưởng Nho giáo đã hình thành những giá trị nhân văn truyền
thống tốt đẹp, nhưng không phải sở luận để Hồ Chí Minh xây dựng lên tư
tưởng của Người.
1.1.2. Chủ nghĩa Tôn Trung Sơn
Tôn Trung Sơn (1866-1925), nhà dân chủ cách mạng Trung Hoa và tư tưởng của ông
đã nhiều tác động tới Hồ Chí Minh. Mặc cuộcch mạng Tân Hợi do Tôn
Trung Sơn nh đạo nổ ra vào cuối năm 1911, phải đến đầu những năm 20 mới
một ít tờ báo xuất bản Trung Quốc lọt đến Paris theo chân những người du học
sinh sống đây... lẽ nhờ đó Nguyễn Ái Quốc biết được những đang
diễn ra trên đất Trung Quốc đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, đặc biệt hoạt động
của Chính phủ cách mạng Quảng Châu những tưởng cách mạng của Tôn
Trung Sơn. Điều đó nghĩa Hồ Chí Minh biết đến cách mạng của Tôn Trung
Sơn sau khi đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Dấu vết sớm nhất về những
tưởng đẹp đẽ của Tôn Trung Sơn trong di sản của Hồ Chí Minh có lẽ bài viết
đầu năm 1921 khi Người còn hoạt độngParis. Trong bài viết đó chứa đựng thiện
cảm to lớn của Người đối với cuộc cách mạng dân tộc do Tôn Trung Sơn lãnh đạo
đặc biệt trong đó chứa đựng sự dự báo về khả năng phát triển của cuộc cách
mạng này.
Hồ Chí Minh dần đi sâu vào tìm hiểu cuộc cách mạng đang diễn ra tại Trung Quốc
khi đó. Những nét tương đồng trong văn hóa và bối cảnh lịch sử giữa Việt Nam
nước láng giềng phía bắc đã khiến Người nhận thấy nhiều giá trị trong Chủ nghĩa
Tam Dân đối với cuộc cách mạng giải phóng Việt Nam. Vốn một nhà hoạt
động cách mạng đề cao thực tiễn, Hồ Chí Minh không ngần ngại đã đến tận Quảng
Châu để có điều kiện tìm hiểu sâu hơn về Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn.
Ngày 11/11/1924, Người đến Quảng Châu sau khi Chủ nghĩa tam dân của Tôn
Trung Sơn đã chuyển sang với nội dung dân tộc, dânChủ nghĩa tam dân mới
quyền, dân sinh đã được mở rộng theo chiều hướng lợi cho cách mạng sản,
nên Người rất quan tâm tìm hiểu tưởng cách mạng của Tôn Trung Sơn. Ba
nguyên tắc: “dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” được Nguyễn
Ái Quốc sáng tạo, bổ sung để phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nguyễn
Ái Quốc và những người yêu nước đang hoạt độngQuảng Châu đã tổ chức huấn
luyện được hàng trăm cán bộ cách mạng chuẩn bị tiến tới thành lập một chính
đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Tuy nhiên cuộc đảo chính ở Thượng Hải và
Quảng Châu (1927) của Tưởng Giới Thạch khiến Nguyễn Ái Quốc bị lọt vào tầm
ngắm của bọn phản cách mạng, nên Người phải bí mật trở lại đất nước Liên Xô.
Giai đoạn 1927-1945, Hồ Chí Minh tiếp tục tìm hiểu và vận dụng sáng tạo tinh hoa
Chủ nghĩa Tam dân mới vào thực tiễn giải phóng dân tộc Việt Nam. Sau năm
1945, khi nước Việt Nam đã thực hiện thành công cách mạng tháng Tám trong
7
quá trình bảo vệ cách mạng, Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng
ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc”. Ngày 12/10/1945, Hồ Chí Minh
sắc lệnh về việc lấy Quốc hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì sau đó không
lâu chúng ta thấy dưới Quốc hiệu ấy lại xuất hiện ba cặp tiêu ngữ Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc. ba chủ nghĩa Hẳn tiêu ngữ đó nguồn gốc từ của Tôn Trung Sơn,
được người tiếp thu và vận dụng sáng tạo ở Việt Nam.
Nhưng cũng cần lưu ý rằng, Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Tam Dân để làm
sở vững chắc tiến lên CNXH, chứ không như Tôn Trung Sơn thực hiện Chủ nghĩa
tam dân để thiết lập hội tính chất bản. Mặc dù nhận thấy “Chủ nghĩa Tôn
Dật Tiên thích hợp nhất với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam” nhưng trước sau,
Người đều khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin.
Bên cạnh Nho giáo Chủ nghĩa Tam dân, Phật giáo cũng một yếu tố văn hóa
phương Đông góp phần hình thành nên những giá trị tốt đẹp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, quá trình mà Phật giáo (và các tôn giáo Đông-Tây khác) tác động
lên Hồ Chí Minh có phần không mạch lạc, liên tục nên nhóm tác giả xin phép được
trình bày cụ thể trong chương 2 và chương 3 của tiểu luận.
1.2. Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Tây đối với Hồ Chí Minh
1.2.1. Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành
người cộng sản (1911 - 1920)
Năm 1911, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đặt chân lên con tàu Đô đốc
Latouche-Tréville, khởi đầu chặng đường gần 30 năm bôn ba hải ngoại, kiếm tìm
độc lập, tự do cho Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên, ít ai nghĩ rằng quá trình tiếp cận
văn hóa phương Tây của Hồ Chí Minh đã bắt đầu một thời điểm sớm hơn rất
nhiều.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ anh Nguyễn Tất Thành là một trong những nhà Nho
sớm nhận ra lợi ích thiết thực sự hợp thời của việc học tiếng Pháp chữ quốc
ngữ. Ông đã mạnh dạn cho cả hai anh em Tất Đạt, Tất Thành xuống thị Vinh
thời đó để học trường tiểu học. Đó cũng lần đầu, Tất Thành tiếp xúc với mấy
chữ Tự do, Bình đẳng, Bác ái treo trên tường lớp. Về sau, Bác Hồ có nhắc lại về kỉ
niệm ấy: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do,
bình đẳng, bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp,
muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Sự thay đổi của xã hội một
tỉnh lỵ như Vinh trong cuộc khai thác thuộc địa cũng để lại nhiều ấn tượng với
Nguyễn Tất Thành về một phần văn hóa Pháp được mang đến xứ thuộc địa.
8
Tiếp theo đó, việc thi đỗ vào trường Quốc học Huế năm 1907-1908 đã càng mở
rộng hơn hội tìm hiểu văn hóa phương Tây với Nguyễn Tất Thành. rằng
hằng ngày chứng kiến sự thô bạo, khinh bỉ của không ít giáo viên người Pháp đối
với học sinh, cũng như thừa hiểu mục đích của trường “Quốc học” chỉ đào tạo
những tay sai trung thành cho chính quyền thực dân, Tất Thành không phủ nhận
nước Pháp có một nền văn minh thực sự. Anh đã không vì căm ghét lũ thực dân mà
bài xích nền văn minh vào bậc nhất nhì thế giới của Cộng hòa Pháp. Anh say
tìm hiểu cuộc Cách mạng sản Pháp (1789). Anh còn bỏ công tim đọc những tác
phẩm của các nhà triết học Pháp của Phong trào khai sáng, những tác phẩm đã
khiến anh thấy toát lên tinh thần phê phán chế độ chuyên chế, lòng thiết tha yêu tự
do, khao khát bình đẳng và bác ái.
Tại sao Voltaire lại ca ngợi đất nước Nga của Pie đại đế? Tại sao Montesquieu lại
tán dương chế độ đại nghị của nước Anh? Những câu hỏi đó thôi thúc Nguyễn Tất
Thành đi sâu vào nền văn hóa, văn minh của một thế giới phương Tây vốn còn
nhiều bí ẩn đối với đa số người Việt thời này. Càng tìm hiểu, anh càng tò mò
nung nấu quyết tâm đi tới tận nơi sản sinh ra những nền văn minh đó.
Cuối cùng, sau nhiều ngày để vượt qua ranh giới Trung Kỳ - Nam Kỳ, Nguyễn Tất
Thành đã tới được Sài Gòn, rồi đặt chân lên con tàu Latouche-Tréville. Thời gian
làm công việc cực nhọc của một phụ bếp người An Nam trên con tàu Pháp cho
Nguyễn Tất Thành nhiều ấn tượng về văn hóa Tây phương. Anh nhận ra ngoài bọn
thực dân tàn ác, coi mạng người xứ thuộc địa không đáng một xu, thì “cũng
những người Pháp tốt”, “người Pháp Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp
Đông Dương”. Lần đầu tiên vào một quán phê tại Marseille, anh được người
Pháp gọi bằng “ông”.
Nguyễn Tất Thành, hay anh Ba, luôn tận dụng tất cả thời gian, sức trẻ một số
tiền ít ỏi để hội đi tới những miền đất mới, những nền văn hóa chính trị
khác nhau. Ngoài vốn tiếng Pháp, anh học thêm tiếng Anh, Đức, Ý, Nga,… để
thể hiểu được đời sống hội nhiều đất nước (thậm chí cả các nước Châu
Phi, Trung Đông,…). Đi tới đâu anh cũng tìm tòi, phân tích, đối chiếu đời sống
nhân dân và chế độ chính trị của các quốc gia. Quá trình đó đã hình thành vốn kiến
thức vừa bao quát, vừa uyên thâm về các dân tộc trên thế giới, vừa tạo nên tấm
lòng yêu thương, bác ái với nhân dân bị áp bức khắp năm châu bốn bể.
Năm 1912, sau khi tới nhiều vùng đất cũng như một thời gian dài hoạt động
Pháp, Nguyễn Tất Thành đặt chân đến nước Mỹ. Anh đã dịp tìm hiểu cuộc đấu
tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ, tiếp cận với các giá trị tiến bộ của Tuyên
ngôn độc lập năm 1776. Từ năm 1913, Người làm việc hoạt động tại Anh.
Khoảng cuối năm 1917, từ nước Anh, Người tới Pháp, sống tại Pari đến tháng 6-
1923. Thời gian này, Người có những hoạt động tích cực, sôi nổi, tham dự các cuộc
9
diễn thuyết của những nhà chính trị triết học để bổ sung thêm nhiều tri thức
mới. Cũng từ đây, Nguyễn Tất Thành đã dần đi đến một giai đoạn cao hơn trong
việc tìm hiểu văn hóa phương Tây. Tiếp cận với nhiều sách, báo, tài liệu qua
những hoạt động chính trị, hội, anh đã những hiểu biết sâu sắc về đời sống
chính trị, hội, về sự phân chia giai cấp, giàu nghèo, về những bất công trong
lòng xã hội Pháp và các nước, về bản chất bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, thực dân,
về cuộc đấu tranh của người lao động; văn hóa, triết học Pháp tinh thần tự do,
bình đẳng, bác ái; trong tinh hoa văn hóa phương Tây tưởng dân chủ, giá trị
nhân đạo, tưởng về quyền con người, quyền công dân. Anh không theo hệ
tưởng sản tiếp thu những giá trị tiến bộ, tích cực, làm giàu thêm trí tuệ của
mình. Có thể thấy rằng, Nguyễn Tất Thành đã bắt đầu vận dụng những hiểu biết về
phương Tây để tham gia vào con đường đấu tranh chính trị, hoạt động cách mạng
một cách vô cùng tích cực.
1.2.2. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930)
Với một cái tên mới, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc (1919) hăng hái tham
gia vào các tổ chức chính trị như Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế thứ ba, trở
thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Rồi tiếp tục tìm hiểu về cuộc Cách mạng
tháng Mười Nga, về bản Luận cương của Lê-nin, Người cuối cùng đã tìm thấy ánh
sáng cho con đường giải phóng dân tộc sau bao nhiêu ngày tháng gian nan tìm
kiếm. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc cả trên lĩnh vực luận thực tiễn ngày
càng tích cực, sôi nổi hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, giải
phóng các dân tộc thuộc địa; uy tín của Người ngày một nâng cao. Từ tháng 6-
1923 đến tháng 10-1924, Người hoạt động tại Liên Xô. Đây thời kỳ Nguyễn Ái
Quốc tiếp thu rất nhiều tri thức, đồng thời Người còn góp phần phát triển, làm
phong phú lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản. Có thể nói ở giai đoạn này, học thức lý luận-thực tiễn và phẩm chất cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc đã dần trở thành một hệ tư tưởng nhất quán, mạch lạc, chính
là Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ đây, tưởng Hồ Chí Minh đã bước chuyển rất rệt: từ giai đoạn hình
thành sang giai đoạn phát triển. Với sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, các tổ chức
cộng sản đầu tiên đã ra đời, sau đó thống nhất, xây dựng lực lượng vững mạnh
thực hiện thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập tự do
cho toàn dân tộc Việt Nam. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp sau đó
Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không ngừng tiếp thu, học hỏi các giá trị tốt đẹp,
tinh hoa văn hóa nhân loại trên toàn thế giới. tưởng của Người ngày một hoàn
thiện, mở rộng uyên bác, trở thành nền móng, kim chỉ nam cho sách lược của
Đảng Cộng sản Việt Nam, cho cuộc đấu tranh xây dựng nước Việt Nam Dân
10
chủ Cộng hòa. Sự hiểu biết, tinh thần học tập suốt đời của Hồ Chí Minh đối với tri
thức nhân loại đã trở thành một tấm gương sáng cho tất cả các thế hệ cán bộ, đảng
viên và nhân dân Việt Nam.
một khía cạnh khác, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu, chọn lọc Người còn
làm phong phú hơn văn hóa của người phương Tây, ít nhất là ở văn hóa đọc. Nhằm
phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã học
viết báo, viết sách trong thời hoạt động tại châu Âu. Người viết nhiều bài báo
đăng trên các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Thư tín quốc tế, Tạp chí Cộng
sản, Sự thật,... Người làm Chủ nhiệm, kiêm Chủ bút tờ báo Người cùng khổ; tham
gia sáng lập, trực tiếp chỉ đạo, đồng thời người viết chủ chốt báo Thanh niên.
Qua báo chí, Hồ Chí Minh tố cáo tội ác của đế quốc thực dân; bày tỏ nguyện vọng
của nhân dân các nước thuộc địa; đồng thời thể hiện tinh thần yêu nước, căm thù
chủ nghĩa thực dân, khát vọng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức. Hình ảnh
người chiến cộng sản Hồ Chí Minh còn xuất hiện trong văn học, âm nhạc,
nhiều cuộc đấu tranh chống áp bức, bất công trên toàn thế giới, cả phương Tây
phương Đông.
Chương 2: Vai trò của Văn hóa phương Đông thể hiện trong Tư tưởng Hồ Chí
Minh
2.1. Nho giáo
Sinh ra trong một gia đình Nho giáo, được đào tạo về Nho giáo từ rất sớm, nên ảnh
hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí Minh lẽ đương nhiên. Hồ Chí Minh cũng
sớm chịu ảnh hưởng của Nho giáo - nền học vấn đầu tiên mà Người tiếp nhận.
Nho giáo đối với Hồ Chí Minh không phải ảnh hưởng tự phát ảnh hưởng
tính tự giác. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã chủ động kế thừa từ lập trường
mácxít những giá trị truyền thống trong đó Nho giáo. Năm 1923, khi trả lời
phỏng vấn của nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtam, Hồ Chí Minh nói: “Tôi sinh ra
trong một gia đình nhà nho An Nam... Thanh niên trong những gia đình ấy thường
học Khổng giáo, đồng chí chắc biết Khổng giáo không phải tôn giáo một
thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức phép ứng xử. trên sở đó người ta
đưa ra khái niệm về “thế giới đại đồng”. Những nhà tư tưởng sáng lập ra Nho giáo,
thời đại của họ, đều xứng đáng những nhân, những nhà luận cách mạng.
Đó là điều mà Hồ Chí Minh đã nhận ra, là cơ sở cho tư tưởng về tôn giáo cũng như
cách mạng sau này của Người.
Hồ Chí Minh rất đề cao và tâm đắc ý nghĩa nhân loại phổ biến của xã hội đại đồng,
một hội của con người, do con người, con người. Nhưng Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, xã hội đại đồng của Nho giáo chỉ có , một xã hộitưởng nhưng có căn
11
cứ hiện thực trong việc giải quyết những mâu thuẫn của thời đại hiện nay. vậy,
Người khẳng định rằng, “chỉ chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ”
Tiếp thu văn hóa phương Đông, trước hết Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá
đúng đắn vai trò của Nho giáo người sáng lập ralà Khổng Tử và đã đặc biệt
khai thác những mặt tích cực của tưởng Nho giáo. Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công những phẩm chất đạo đức gắn chặt chẽ với phẩm chất trung với
nước, hiếu với dân, đòi hỏi mỗi người phải lấy bản thân mình làm đối tượng điều
chỉnh, diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong công tác, sinh hoạt. Ngày 3-9 - 1945, một
ngày sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khai sinh, Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh nhiệm vụ thứ của nhà nước là: “Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta
trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với
nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân
dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính”. Hồ Chí Minh rất chú trọng đến
bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. tưởng của Hồ
Chí Minh về đạo đức cách mạng xuất phát từ lòng thương yêu con người, đồng
bào, đồng chí, thương nhân loại lầm than dưới ách áp bức, bóc lột. Từ đó, Người
tiếp thu các giá trị nhân văn sâu sắc của đạo đức phương Đông, phương Tây.
Nhưng với phương pháp duy biện chứng lập trường duy vật triệt để, Hồ Chí
Minh đã xây dựng hệ thống quan điểm về đạo đức con người cách mạng Việt Nam
một cách độc lập, trình độluận khả năng áp dụng thực tiễn cao. Tư tưởng
đạo đức của Hồ Chí Minh thuộc hệ thống tưởng đạo đức cộng sản, sự thống
nhất nhuần nhuyễn giữa tưởng triết học, chính trị đạo đức mang giá trị khoa
học, nhân văn và thời đại.
Tuy nhiên, hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu những mặt bất cập, hạn chế của Nho
giáo. Đó trong Nho giáo những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như
tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực
nghiệm, doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực
của khuyên chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo
đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học
không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học
thuyết cổ đại, bởi nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị. Còn
Hồ Chí Minh, Người đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tich cực, phù
hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
Ngày nay, Nho giáo tuy không còn giữ địa vị của hệ tưởng thống trị nhưng
những dấu ấn ảnh hưởng của chưa phải đã hết, vẫn bám rễ ảnh hưởng
mang tính hai mặt đến hội con người Việt Nam những mức độ nhất định.
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam, việc
12
khai thác những yếu tố hợp phát huy ảnh hưởng tích cực hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của tưởng trị quốc Nho giáo việc làm ý nghĩa to lớn, nhưng phải
phương hướng đúng đắn, những giải pháp phù hợp. Về phương hướng cần phải
nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà
nước pháp quyền và những nguyên tắc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta; gắn kế thừa, lọc bỏ với đổi
mới, phát triển những giá trị của tưởng trị quốc Nho giáo trong quá trình xây
dựng nhà ước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Phật giáo
Từ thủa thiếu thời, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận ảnh hưởng sâu đậm những tưởng
cao đẹp của Phật giáo ngay trong gia đình của mình. Trước hết, ảnh hưởng đó bắt
đầu từ bà ngoại của Người - Cụ Nguyễn Thị Kép. Những người thân trong gia đình
Bác không chỉ ảnh hưởng đến việc hình thành tâm từ bi, nhân ái của Hồ Chí Minh
mà còn trực tiếp tác động đến việc hình thành tư tưởng của Người về Phật giáo.
Lòng yêu nước thương dân triết từ bi thấm nhuần từ đạo Phật của Cụ Phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc đã ảnh hưởng nhất định tới chủ tịch Hồ Chí Minh Trên
bước đường cứu nước.
Chúng ta thấy, những ảnh hưởng của Hồ Chí Minh về tư tưởng giáo lý nhà Phật rất
rõ nét. Người đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong triết
đạo Phật, nhất triết đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình
đẳng, yêu thương đồng loại, chống điều ác. Người đã nâng lên thành ngọn lửa
hun đúc cho truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc, động viên khích lệ đồng
bào theo đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước. Đó là lòng yêu thương con người,
quên mình mọi người, mình người khác…Trong giáo nhà Phật, “từ bi”
ước vọng mãnh liệt để giải thoát con người thoát khỏi đau khổ. “Bác ái” lòng
thương yêu của mọi người. “Vị tha”, sống người khác”, “kết tinh bằng từ bi, trí
tuệ, dũng mãnh, hướng dẫn chúng sinh đạt tới mục đích giác ngộ giải thoát,
chuyển cõi Ta bà này thành cõi Tịnh độ và cuộc đời cơ cực này thành nếp sống cực
lạc”. Từ triết lý, giáo của nhà Phật, Hồ Chí Minh đã tích lũy hình thành cho
mình tưởng mang giá trị triết nhân văn sâu sắc chính Người luôn luôn
hướng đến Phật pháp.
Từ rất sớm (năm 1921), Hồ Chí Minh cảnh tỉnh loài người khi tìm cách xoá bỏ
đẳng cấp, tôn giáo các thành phần giai cấp: “Thảm họa của đất nước đã xoá bỏ
sự phân biệt đẳng cấp tôn giáo. Người giàu người nghèo, quý tộc nông dân,
Hồi giáo và Phật giáo, đều hợp sức đoàn kết”. Hồ Chí Minh thành tâm gợi niềm tin
mãnh liệt: “Rồi đây, bốn bể một nhà...”. Từ những suy nghĩ đó, Hồ Chí Minh quan
niệm: “Trong bầu trời không tốt đẹp vẻ vang bằng phục vụ lợi ích cho nhân
13
dân, việc lợi cho nhân dân phải hết sức làm, việc hại cho dân phải hết
sức tránh”
Nghiên cứu tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người:
“Đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong triết lý đạo Phật,
nhất triết đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu
thương đồng loại, chống điều ác. Người đã nâng lên thành ngọn lửa hun đúc
cho truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc, động viên khích lệ đồng bào theo
đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước”, đó Lòng yêu thương con người, quên
mình mọi người, Luôn tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức của con người,
Luôn gắn mật thiết với quần chúng nhân dân, tưởng về đại đoàn kết toàn
dân.
Những dòng tư liệu trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn và đầy đủ hơn về mối quan
hệ gắn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Phật giáo trong quá trình hoạt
động cách mạng của Người, cả trong nhận thức trong hành động; giải thích
sao Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến đã đi theo con
đườngChủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn và đã những đóng góp hết sức to lớn
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây ngày nay
đang chung lưng đấu cật cùng với toàn dân bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam
thân yêu ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như điều Chủ tịch Hồ Chí
Minh hằng mong muốn.
Tựu trung lại, vấn đề mối quan hệ giữa dân tộc tôn giáo chiếm giữ một vị trí
quan trọng trong di sản tưởng Hồ Chí Minh. luôn được Người quan tâm,
xem xét và giải quyết một cách biện chứng. Vì vậy, quán triệt và vận dụng sáng tạo
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề này một trong những sở bảo
đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Điều này càng trở nên có ý nghĩa hơn
bao giờ hết, đặc biệt trong bối cảnh thế giới hiện nay, một số quốc gia hoặc vùng
lãnh thổ đang rơi vào tình trạng bất ổn, xung đột gay gắt do không giải quyết thoả
đáng, đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo.
2.3. Chủ nghĩa Tam dân – Tôn Trung Sơn
Chủ nghĩa Tam dân (với 3 nội dung chủ yếu là dân tộc, dân quyền, dân sinh) đã thể
hiện khá hoàn chỉnh tưởng dân chủ sản của Trung Quốc thời kỳ cận đại Trên
nền tảng lý luận của chủ nghĩa Tam dân, Trung Quốc Đồng minh hội - (chính đảng
của giai cấp tư sản Trung Quốc) ra đời và lãnh đạo nhân dân Trung Quốc tiến hành
thành công cuộc cách mạng Tân Hợi. Cuộc cách mạng đã lật đổ nền thống trị gần
300 năm của vương triều Mãn Thanh, kết thúc chế độ chuyên chế phong kiến hơn
2000 năm, lập nên nước Trung Hoa dân quốc
Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn cuộc cách mạng vận động dưới sự chỉ
đạo của hệ tưởng này - cách mạng Tân Hợi - ngay lập tức những ảnh hưởng
14
trực tiếp, nhanh chóng và sâu sắc đến phong trào cách mạng Việt Nam thời kỳ cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Trong số đó, Hồ Chí Minh là người chịu ảnh hưởng đậm nét hơn cả.
Trước hết phải kể đến lòng tôn kính, sự khâm phục, trân trọng của Hồ Chí Minh
đối với Tôn Trung Sơn. Người đã những đánh giá đúng đắn về Tôn Trung Sơn,
về Quốc dân đảng cách mạng (tổ chức do Tôn Trung Sơn sáng lập) thời kỳ đầu
Quảng Châu và về chủ nghĩa Tam dân mới của ông.
Giữa tháng 11 năm 1924, khi từ Mátxcơva đến Quảng Châu (Trung Quốc), Hồ Chí
Minh điều kiện tìm hiểu tưởng của Tôn Trung Sơn một cách trực tiếp sâu
sắc. Hồ Chí Minh hoạt động Quảng Châu vào thời điểm Tôn Trung Sơn đã công
bố chủ nghĩa Tam dân mới. Do đó, Hồ Chí Minh đã hướng đến chủ nghĩa Tam dân
với niềm hứng khởi vô hạn.
Một chi tiết cần chú ý là, cũng như đối với Lênin, Hồ Chí Minh chưa may mắn
được gặp gỡ và tiếp xúc trực tiếp với Tôn Trung Sơn. Năm 1924, khi Hồ Chí Minh
từ Mátxcơva đến Quảng Châu thì cũng thời gian đó Tôn Trung Sơn rời Quảng
Châu đến Thượng Hải sau đó sang Nhật Bản. Sau ít ngày lưu lại Tôkyô,
tháng 12 năm 1924 Tôn Trung Sơn đi tiếp đến Bắc Kinh qua đời ở đó ( tháng 3
năm 1925). Trong khi Hồ Chí Minh lại Quảng Châu đến tận tháng 4 năm 1927.
Như vậy, Hồ Chí Minh chỉ nghiên cứu chủ nghĩa Tam dân chủ yếu thông qua tiếp
xúc với sách vở, tài liệu học trò của Tôn Trung Sơn. Điều này càng cho thấy rõ
hơn trí tuệ đại của Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin
tinh hoa văn hoá nhân loại (cụ thể là chủ nghĩa Tam dân).
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh không tiếp thu nguyên si, máy
móc đã vượt hẳn lên trên những nhà yêu nước Việt Nam khác. Người đã tiếp
thu một cách có chọn lọc và sáng tạo những mặt tiến bộ của chủ nghĩa Tam dân
áp dụng thành công chúng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, coi trọng vấn đề
độc lập dân tộc, nhưng tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể mà nhấn mạnh và đặt nó lên
vị trí hàng đầu. Độc lập dân tộc gắn liền với tự do hạnh phúc của nhân dân. Đó
điểm sáng tạo vĩ đại của Hồ Chí Minh.
Không chỉ “Việt Nam hoá” ba chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn thành dân
tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, Hồ Chí Minh còn kết hợp
một cách tài tình sách lược hai giai đoạn cách mạng của Lênin với chủ nghĩa Tam
dân để thảo ra bản Chính cương vắn tắt cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh
đó được trình và thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Xét về hình thức, tên nước Việt Nam và tiêu ngữ của cách mạng Việt Nam từ Cách
mạng tháng Tám đến năm 1976 mang dấu ấn của chủ nghĩa Tam dân, nhưng bên
trong lại chứa đựng nội dung của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khái niệm “Độc lập - Tự
15
do - Hạnh phúc” đã được Hồ Chí Minh rút ra từ chủ nghĩa Tam dân tưởng
“Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của cách mạng sản Pháp 1789 nâng lên một
trình độ mới, mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc tính cách mạng
triệt để của một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tưởng kim chỉ nam cho
hành động
Bên cạnh việc tiếp thu sáng tạo những nội dung của chủ nghĩa Tam dân, Hồ Chí
Minh còn chú trọng nghiên cứu các phương pháp cách mạng của Tôn Trung Sơn,
đặc biệt phương pháp vận dụng đạo đức Nho giáo để tuyên truyền giáo dục
tinh thần cách mạng cho quần chúng. Học tập Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh đã
giải tư tưởng Nho giáo “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” một cách giản dị
thiết thực.
Tôn Trung Sơn lần đầu tiên nêu lên quan điểm: trung với quân thể không cần
nữa, không trung với quân, mà trung với nước, trung với 400 triệu nhân dân Trung
Quốc. Hồ Chí Minh đã vận dụng sự suy nghĩ cách mạng đó của Tôn Trung Sơn
thành những lời nhắc nhở, giáo huấn mang tính sống còn cho cán bộ: “cán bộ
đầy tớ của nhân dân”, cán bộ phải “trung với nước, hiếu với dân”, phải “cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư”, “cán bộ phải khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”...
Trong “Lời căn dặn học viên trong lễ khai trường” của Trường bị Trần Quốc
Tuấn Sơn Tây (nay trường Đại học Trần Quốc Tuấn) ngày 26 tháng 5 năm
1946, Hồ Chí Minh đã nói: “Anh em nhiều giai cấp, tưởng khác nhau, trước
hết phải đoàn kết, đoàn kết thật thà. Phải kỷ luật cả về tinh thần lẫn vật chất.
Phải noi gương anh dũng của anh em binh sĩ hồi khởi nghĩa để làm gương cho các
lớp về sau. Các anh em cần làm được như lời Tôn Trung Sơn đã nói: “Những
người thanh niên tốt muốn làm việc to chứ không muốn làm quan lớn”. Mong rằng
anh em ở đây, bao giờ cũng phải làm theo hai khẩu hiệu mà nó là cái mục đích của
anh em: Trung với nước, hiếu với dân”.
Tìm hiểu ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn đối với cách mạng Việt Nam, đặc biệt đối
với Hồ Chí Minh, chúng ta trân trọng ghi nhận những đóng góp to lớn của Tôn
Trung Sơn về luận thực tiễn cho cách mạng Việt Nam. Chính những chủ
trương, đường lối cách mạng dân chủ trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn
đã có tác dụng thúc đẩy và mang lại cho phong trào cách mạng Việt Nam một màu
sắc mới, làm phong phú thêm những trang sử đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XX.
Chương 3: Vai trò của Văn hóa phương Tây thể hiện trong Tư tưởng Hồ Chí
Minh
3.1. Thiên chúa giáo
16
Với duy sắc bén, tinh thần đấu tranh chính nghĩa, tự do hạnh phúc con
người, Hồ Chí Minh đã nhìn ra những quan điểm tốt đẹp, hướng thiện trong Đạo
Thiên chúa, chứ không coi đó chỉ một công cụ xâm lược của thực dân Pháp.
Đứng trên lập trường duy vật phương pháp luận biện chứng, Hồ Chí Minh
chắt lọc những yếu tố hợp lý, giá trị lâu dài đối với đời sống “trần gian” thiết
thực của con người nói chung, của đạo hữu Thiên chúa giáo nói riêng trong những
tưởng bản của đạo Thiên chúa nêu trên để làm phong phú thêm tưởng của
Người trên nhiều lĩnh vực của đời sống hội, góp phần lãnh đạo cách mạng Việt
Nam tới thành công.
Mặt khác, sau khi cách mạng tháng Tám ở Việt Nam thành công, có một điều khác
biệt rất so với cách mạng Tháng 10 Nga: Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa không chủ trương phá hủy nhà thờ hay coi giáo dân là đối
tượng chống lại cách mạng. Hồ Chí Minh đã trả lời rất trong bài báo “Ai phá
đạo” được đăng trên báo Nhân dân ngày 6/7/1955: Tôi cán bộ cách mạng,
người cộng sản. Nhưng mục đích của chúng tôi lo cho dân cơm ăn, áo mặc,
được học hành, sống sung sướng trong độc lập, tự do. Các cụ lo việc tín ngưỡng
thờ Chúa, lo việc linh hồn tín đồ. Nhưng tín đồ cũng cần ăn, mặc, ở, học hành, cần
được tự do, hạnh phúc các giáo chắc chắn cũng quan tâm rất nhiều.Người
cách mạng người tôn giáo thống nhất với nhau mục đích mưu cầu hạnh phúc
đời này cho nhân dân. Chúng ta phải lo nhiệm vụ ấy. Còn đối với tín ngưỡng tôn
giáo thì đã có chính sách rõ ràng. Chúng tôi tôn trọng và đảm bảo tự do tín ngưỡng
của tất cả các tôn giáo. Như thế kẻ nào đặt ra việc công giáo không đội trời chung
với cộng sản là sai.”
ràng, góc nhìn đúng đắn về những giá trị tốt đẹp trong đạo Thiên chúa của Hồ
Chí Minh đã góp phần xây dựng nên hệ thống tư tưởng của Người về vấn đề tự do
tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc và vấn đề xây dựng nền văn hóa của đất nước xã hội
chủ nghĩa.
3.2. Triết học Khai sáng Pháp (Voltaire, Rousso, Montesquieu)
Thời Khai Sáng thời đại trải dài phần lớn trên thế kỷ 18, từ 1715 đến 1789
năm đánh dấu Cách Mạng Pháp. Ánh sáng ở đây là một ẩn dụ được dùng để chỉ tri
thức hoạt động của tinh thần. Nói cách khác chính những thành tựu về khoa
học thuật vượt bậc hội châu Âu đạt được trong khoảng thời gian này.
Ngược lại, bóng tối mông muội đây chỉ chế độ nhà nước phong kiến tàn lụi
đức tin mông muội vào thánh thần, tôn giáo.Thời Khai Sáng xảy ra ở Âu châu, đặc
biệt Đức, Pháp, Anh Tây Ban Nha, nhưng ảnh hưởng của trào lưu lan rộng
khắp nơi.
17
Riêng Pháp, thời Khai Sáng thời của tự do, thời của tiến bộ được các thiên tài
như Montesquieu, Voltaire, Diderot, Rousseau thể hiện với nhiều tác phẩm lớn
như:
Từ điển Triết học của Voltaire: phản bác thể chế chính trị đương thời của Pháp, nhà
thờ Công giáo, Kinh Thánh và thể hiện văn phong, tính cách riêng Voltaire. Qua đó
ông nhấn mạnh vai trò của tôn giáo lý tưởng giáo dục đạo đức chứ không phải
giáo điều.
Khế ước hội của Jean-Jacques Rousseau: Nói về Hiến pháp của một đất nước,
nguyên tắc lựa chọn người cầm quyền và trách nhiệm của người cầm quyền. Chính
những ý tưởng này đã châm ngòi cho cả cuộc Cách mạng Pháp và Mỹ.
Tinh thần pháp luật của Montesquieu: bao quát các chủ đề về chính trị, luật, xã hội
học, nhân loại học. Trong luận thuyết chính trị của mình, ông đã bênh vực chủ
nghĩa hợp hiến thuyết tam quyền phân lập, bãi bỏ lệ, bảo vệ quyền tự do
công dân nhà nước pháp quyền, ý tưởng rằng các thể chế luật pháp chính
trị phải phản ảnh đặc tính địa lý và xã hội của từng cộng đồng riêng biệt.
3.3. Các cuộc cách mạng tại Pháp, Mỹ và các bản tuyên ngôn
3.3.1.Tuyên ngôn độc lập của cách mạng Mỹ (1776)
Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ văn bản chính trị tuyên bố ly khai khỏi Vương
quốc Anh của 13 bang thuộc địa Bắc Mỹ. Tuyên ngôn được đọc ngày 4/7/1776, nội
dung chính của bản tuyên ngôn dựa trên tưởng John Locke, một triết gia người
Anh. Theo ông, con người ba quyền bản không thể bị tước đoạt quyền
được sống, được tự do được sở hữu. Quyền sở hữu được Tổng thống Mỹ
Thomas Jefferson đề cập tới trong bản tuyên ngôn "quyền được mưu cầu hạnh
phúc".
Bản Tuyên ngôn đã truyền cảm hứng cho nhiều bài phát biểu nổi tiếng khác như
của nhà hoạt động nhân quyền Martin Luther King Jr. Tổng thống Abraham
Lincoln cũng như bản Tuyên ngôn độc lập của một số nước như Việt Nam,
Zimbabwe…
Câu trích dẫn nổi tiếng của bản tuyên ngôn "Tất cả mọi người đều sinh ra
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy, quyền được sống, quyền tự do quyền mưu cầu hạnh
phúc".
3.3.2.Tuyên ngôn nhân quyền của Cách mạng Pháp (1791)
Bản Tuyên ngôn nhân quyền dân quyền của Pháp do hầu tước Marquis
Lafayette soạn thảo. Hầu tước Lafayette một nhà cách mạng công cho cả
18
nước Mỹ nước Pháp. Năm 1777, ông đã đưa quân sang Mỹ để giúp nhân dân
Mỹ chiến đấu giành độc lập. Sau đó ông trở lại Pháp tham gia cuộc Cách mạng
sản Pháp năm 1789 và trở thành Tư lệnh lực lượng vệ binh quốc gia. Ông chính
tác giả của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp.
Trong bản tuyên ngôn này tất cả 17 điều khoản, điều 1 điều 2 nổi tiếng
nhất được trích dẫn nhiều nhất: “Người ta sinh ra tự do bình đẳng về quyền
lợi, phải luôn luôn được tự do bình đẳng quyền lợi. Sự khác biệt hội
chỉ thể được thiết lập trên sở lợi ích chung” “Mục đích của mọi tổ chức
chính trị việc bảo toàn các nguồn lợi thiên nhiên bảo toàn các quyền con
người không thể bị tước bỏ. Các quyền đó tự do, tài sản, sự an toàn, quyền
được chống lại mọi sự áp bức”.
3.3.3. Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản của Đức – 1848
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa hội khoa
học. Những nguyênmà C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là
nền tảng tưởng kim chỉ nam cho phong trào cộng sản công nhân quốc tế.
Trải qua nhiều thử thách, hơn một thế kỷ qua, phong trào cộng sản công nhân
quốc tế đặt ra nhiều vấn đề mới, nhiều đòi hỏi, thách thức của thời đại cần giải
quyết nhưng chủ nghĩa Mác và những nội dung được đưa ra trong bản Tuyên ngôn
Đảng Cộng sản vẫn không hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền
móng tưởng, mang ý nghĩa thiết thực cho những vấn đề về Đảng xây dựng
Đảng.
Được sự uỷ nhiệm của những người Cộng sản, ngày 24/2/1848, Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản do C.Mác Ph.Ăngghen soạn thảo được công bố trên toàn thế
giới và nắm giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Sự ra đời của tác phẩm đại này đánh dấu sự hình thành bản về
luận của chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành: triết học, kinh tế chính
trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Tuyên ngôn kết thúc bằng lời kêu gọi nổi tiếng: “Vô sản toàn thế giới, đoàn kết
lại!”
Chương 4: Sự kết hợp văn hóa phương Đông phương Tây trong Tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Khi còn trong nước, Nguyễn Tất Thành đã được hấp thụ một nền quốc học
Hán học khá bản, đủ sức tạo cho Người một bản lĩnh văn hoá vững vàng để
thể không bị choáng ngợp trước nền văn minh của phương Tây.
Ra nước ngoài, Người điều kiện đi nhiều, hiểu rộng, biết nhiều ngoại ngữ, đến
được nhiều nước, làm nhiều nghề, tiếp xúc với nhiều nhân,…do đó
hội gia nhập nhiều tổ chức, vào nhiều hội, đoàntiếp xúc với nhiều nền văn hoá,
19
(Công đoàn lao động hải ngoại ở Anh, các Hội du lịch, Hội nghệ thuật và khoa học,
Câu lạc bộ Faubourg, vào Đảng hội rồi Đảng Cộng sản, kể cả vào Hội Tam
điểm,…) để học cách tổ chức, tìm hiểu các chế chính trị hội,…nhằm chắt
lọc lấy cái hay, cái tốt, cái thích hợp, phục vụ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng
dân tộc và xây dựng nước Việt Nam độc lập trong tương lai.
4.1. Sự kết hợp văn hóa Đông-Tây trong việc tiếp nhận tưởng Tự do-Bình
đẳng- Bác ái của Hồ Chí Minh
Trên hành trình đến với văn hoá nhân loại, Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn
hoá Pháp trước tiên lẽ cũng để lại những dấu ấn sâu đậm trong tưởng
và phong cách văn hoá của Người.
Đúng Hồ Chí Minh đã sớm bị hấp dẫn bởi tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái
của Đại cách mạng Pháp muốn đi sang Pháp để tìm hiểu xem nhữngẩn đằng
sau ba từ ấy. Và Người đã nhận ra rằng nền Cộng hoà Pháp chủ yếu được xây dựng
trên quan điểm giá trị về , nhất là về con người cá nhân quyền tự do, bình đẳng của
nhân theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp; còn Hồ Chí Minh xuất phát từ vị trí
người dân thuộc địa phương Đông, vốn đề cao tinh thần cộng đồng, luôn đặt quốc
gia, dân tộc lên trên nhân. Với Hồ Chí Minh, Tự do trước hết vẫn tự do của
toàn dân tộc chứ chưa phải tự do nhân; Bình đẳng cũng được Hồ Chí Minh
nâng lên thành quyền bình đẳng giữa các dân tộc; còn Bác ái một khái niệm quá
rộng, như lòng bác ái của Chúa đòi hỏi phải ”, là điều khóyêu cả kẻ thù của mình
chấp nhận đối với các dân tộc bị áp bức! Hồ Chí Minh hiểu khái niệm này theo
đúng nghĩa của , như tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”, nên Ngườitình hữu ái
thường quen gọi những người lao động, các dân tộc bị áp bức (hỡi anh em anh
em anh em anh em,ở các thuộc địa!, các dân tộc , các nước …).
Tóm lại, Hồ Chí Minh nhận thức Tự do, Bình đẳng, Bác ái qua lăng kính của ngươì
dân bị áp bức châu Á chứ không theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp, nên chỉ coi
đó những yếu tố Cái giá trị lớn nhất Hồ Chí Minh theocần chứ chưa đủ.
đuổi suốt đời là: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó tất cả
những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu”. Điều quan trọng ấy lại không có
trong bảng giá trị của nền Cộng hoà Pháp, vậy, trong thư kêu gọi những người
Pháp hãy cộng tác bình đẳng, thân thiện với Việt Nam để gây dựng hạnh phúc
chung cho cả hai dân tộc, Người đã chủ động bổ sung vào khẩu hiệu ấy một từ
nữa: “Người Việt người Pháp cùng tin tưởng vào đạo đức: Tự do, Bình Đẳng,
Bác ái, Độc lập Độc lập”. Thêm để ràng buộc họ: “Nước Pháp muốn độc lập,
không có lý gì lại muốn nước Việt Nam không độc lập?”
Như vậy, con đường Hồ Chí Minh tiếp biến các giá trị văn hoá nhân loại lựa
chọn, những nhân tố tiến bộ, hợp lý, cho phù hợp với truyềntích hợp cải biến
thống văn hoá dân tộc nhu cầu đất nước để tạo ra cách làm riêng, không vay
20
mượn nguyên xi một hình ngoại lai nào; tức tiếp thu trên sở ,phê phán
tiếp nhận gắn liền với , theo các tiêu chí: đổi mới Dân tộc, Dân chủ Nhân
văn.
4.2. Sự kết hợp văn hóa Đông-Tây trong việc tiếp nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin
của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mac-Lênin được hấp thụ một thế giới quan, nhân,
sinh quan triệt để cách mạng khoa học, một khí sắc bén để cải tạo hội
con người. Nhưng từ giác độ văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh nhận thấy chủ
nghĩa Mác-Lênin chủ yếu vẫn được hình thành trên nền tảng triết phương Tây,
mang dấu ấn đấu tranh giai cấp phương Tây. Để được hoàn thiện, Người kiến
nghị cần bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông,
bởi phương Tây chưa phải là toàn thế giới.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác đương nhiên Người đã tiếp thu học thuyết
đấu tranh giai cấp của Mác, nhưng vào hoàn cảnh cụ thểtiếp thu vận dụng
của mỗi nước hai việc khác nhau. Xuất phát từ đặc điểm của văn hoá phương
Đông và Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh đang đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ
Chí Minh vẫn chú trọng hơn đến . Hồ Chíđoàn kết, thống nhất, đồng thuận dân tộc
Minh đã không tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp như một số người, chỉ thấy đấu
tranh giai cấp mà không thấy sách lược liên minh, hợp tác giai cấp ở mỗi giai đoạn
cụ thể (tất nhiên vừa hợp tác, vừa đấu tranh); không thấy vấn đề đoàn kết giai
cấp trong đại đoàn kết dân tộc; không thấy vấn đề liên minh giai cấp trong mặt
trận dân chủ chống phát xít,…
vậy, trong đấu tranh giải phóng dân tộc, với nhận thức rằng “chủ nghĩa dân tộc
một động lực lớn của đất nước”, “người ta không thể làm gì được cho người An
Nam nếu như không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất trong đời sống xã hội
của họ”, Hồ Chí Minh rất coi trọng sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ dân tộc, đã
ra sức củng cố mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Trong kháng chiến chống
Pháp, lần Người đã phê phán những biểu hiện tả khuynh của một số người:
“Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu
tranh không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”, “trong
lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là môt điều ngu ngốc”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc Luận cương
thuộc địa, coi đã đem lại một thứ ánh sáng như , giúpLuận cương thiên khải
Người bừng sáng về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của Việt Nam. Nghĩa
Hồ Chí Minh đến với Lênin trước hết vẫn từ chủ nghĩa yêu nước, ca ngợi Lênin
người yêu nước đại nhất, sau khi đã giải phóng nước Nga, ông còn muốn
giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa. thể nói, Hồ Chí Minh người rất mực
tôn sùng Lênin, không phải ở lý luận về chuyên chính vô sản mà trước hết là ở đạo
21
đức của Người (coi khinh sự xa hoa, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị,…), nghĩa
vẫn từ góc nhìn của văn hoá phưong Đông, văn hoá Việt Nam. Còn luận về
nhà nước thì Hồ Chí Minh lại chủ trương xây dựng nhà nước dân chủ cộng hoà,
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, dân, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân
tộc.
Nêu qua một vài dẫn chứng như trên để thấy rõ: Hồ Chí Minh là người cộng sản có
duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người cũng không tiếp
thu một cách giáo điều, lựa chọn những “cái cần thiết”, phù hợp với truyền
thống văn hoá dân tộc nhu cầu thực tiễn của đất nước. Đó sự tiếp thu cải
biến, đổi mới, theo các tiêu chí đã được nêu ở trên.
Từ lý luận cách mạng vô sản của phương Tây vận dụng vào cách mạng giải phóng
thuộc địa một nước thuộc địa phương Đông, nếu rập khuôn, giáo điều thì chỉ
thất bại. Muốn thắng lợi, đòi hỏi phải biết điều chỉnh một cách sáng tạo, biết tìm ra
cách làm khác, thậm chí có điều phải làm ngược lại. Chính trên ý nghĩa đó, Hồ Chí
Minh không chỉ là người biết tiếp thu và vận dụng sáng tạo mà còn là người đã góp
phần cải biến, phát triển, làm phong phú chủ nghĩa Mác-Lênin trên một loạt luận
điểm quan trọng.
Chỉ mới hơn một năm sống Maxcơva, Nguyễn Ái Quốc đã dám đưa ra một luận
điểm nhiều nhà cách mạng thế giới phải suy nghĩ: “Mác đã xây dựng học
thuyết của mình trên một triết học nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử nào? Lịch
sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại!”.
Nguyễn Ái Quốc đã xuất phát từ truyền thống văn hoá Việt Nam để tiếp thu và vận
dụng chủ nghĩa Mác. Người người cộng sản đầu tiên nhận ra đánh giá cao
tiềm lực của cách mạng phương Đông. Trong một bài đăng trên tạp chí Cộng
sản số tháng 5-1921 của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã nêu vấn đề:
“Chế độ cộng sản thể áp dụng châu Á nói chung Đông Dương nói riêng
không?”.
Câu trả lời của Nguời với quan điểm của Quốc tế Cộng sản đầutrái ngược
những năm 20. Lúc bấy giờ, thuyết "Européo-centrisme" còn đang thống trị châu
Âu, vẫn coi châu Âu trung tâm của thế giới, xem thường phương Đông lạc hậu,
nhất các dân tộc nhược tiểu. Các đảng hội Quốc tế II chưa quan tâm đúng
mức đến vấn đề dân tộc thuộc địa. Các đảng cộng sản theo Quốc tế III thì cho
rằng: vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa chỉ thể được giải quyết khi nào
cách mạng vô sản giành được thắng lợi ở chính quốc. Cả Mác, Ăngghen, rồi Lênin
cũng chưa nghĩ đến khả năng các dân tộc thuộc địa có thể tự giải phóng mình ngay
giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.
Thế Nguyễn Ái Quốc lại đưa ra một quan điểm sotrái ngược, “phi kinh điển
với các luận điểm trên. Từ sự phân tích những điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội…
22
của châu Á (chế độ ruộng công, thuyết bình đẳng về tài sản, sự giáo dục lao
động cưỡng bức đối với người lớn, chế độ phúc lợi cho người già, tư tưởng “dân vi
quý”, sự lên án nghiêm khắc thói ăn bám,…), Nguyễn Ái Quốc đưa ra nhận định:
“chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu Á, dễ dàng hơn châu Âu”,
nghĩa theo Nguyễn Ái Quốc, cách mạng thuộc địa đi theo con đường sản
thể nổ ra ở châu Á, nếu “chúng ta có nhiệt tình tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản
thực tâm muốn giúp đỡ những người lao động lật đổ ách của những kẻ bóc lột” thì
họ sẽ trở thành một lực lượng khổng lồ “và trong khi thủ tiêu một trong những điều
kiện tồn tại của chủ nghĩa bản chủ nghĩa đế quốc” họ cũng “có thể giúp đỡ
những người anh em ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Đó quả
thậtmột luận điểm táo bạo, mới mẻ, lạ lùng nữa, trước đó chưa ai nhìn ra
chưa ai dám khẳng định mạnh mẽ như thế về khả năng thắng lợi trước của cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Tóm lại, đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã từ người yêu nước trở
thành người cộng sản, ngược lại Người cũng đã góp phần bổ sung cơ sở lịch sử của
chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông, làm cho chủ nghĩa Mác từ học
thuyết đấu tranh giải phóng giai cấp sản, đồng thời còn học thuyết đấu tranh
giải phóng các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX. Điều đó chính kết quả của
việc Hồ Chí Minh đã tiếp biến chủ nghĩa Mác-Lênin từ truyền thống văn hoá Việt
Nam, văn hoá phương Đông và từ kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
23
Kết luận chung
Trong suốt cuộc đời sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã không
ngừng tiếp thu tri thức, tinh hoa văn hóa nhân loại để hình thành nên hệ tưởng
của mình. Với xuất phát là một người yêu nước – Nguyễn Ái Quốc đã đi khắp năm
châu bốn bể để tìm thấy cho dân tộc mình con đường giải phóng, con đường của
độc lập, tự do hạnh phúc. Thực tế đã chứng minh: Hồ Chí Minh trở thành vị
lãnh tụ đại đưa Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đi đến thành công, đặt
nền móng tư tưởng cho Đảng Cộng sản Việt Nam trên con đường lãnh đạo và phát
triển đất nước. Trong những thành công đó không thể phủ nhận vai trò của những
giá trị văn hóa đa dạng của nhân loại Người tích lũy được trong quá trình học
tập suốt đời từ khắp năm châu bốn bể, từ mọi dân tộc bất kể màu da, giàu nghèo.
Càng đi sâu hơn vào tìm hiểu tưởng Hồ Chí Minh, ta khâm phục kính trọng
vị Chủ tịch vĩ đại của dân tộc, và cũng là của thế giới. Đối với Đảng Cộng sản Việt
Nam, phải coi tưởng Hồ Chí Minh kim chỉ nam, nền móng trong công tác
xây dựng Đảng đất nước. Với mỗi công dân, Hồ Chí Minh tấm gương sáng
về tưởng đạo đức ta cần học tập tôn vinh, cũng như tự hào khi nói về
Người với bạn bè quốc tế.
24
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình tưởng Hồ Chí Minh dành cho sinh viên đại học, cao đẳng
khối không chuyên ngành Mác-Lênin. NXB Chính trị Quốc gia (2017)
2. Hồ Chí Minh Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia.
3. Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam. www.dangcongsan.vn.
4. Tạp chí Cộng sản. www.taichicongsan.org.vn.
5. Kể chuyện Bác Hồ. Tập 1&2 NXB Giáo dục Việt Nam.
6. Hồ Chí Minh Tiểu sử. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
25
Phụ lục: Danh sách phân công thực hiện đề tài tiểu luận:
Chương Nội dung Phân công
Mở đầu + Kết luận + Chỉnh sửa
bản mềm
Nêu ra phương pháp, đóng
góp, kết cấu,… của đề tài.
Kết luận
Quân
Chương 1: Quá trình tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại của Hồ Chí
Minh
Nêu ra các diễn biến trong
quá trình Hồ Chí Minh tiếp
nhận tinh hoa vh nhân loại
một cách tổng quát, xuyên
suốt.
Quân
Chương 2: Vai trò của Văn hóa
phương Đông thể hiện trong Tư
tưởng Hồ Chí Minh
1.1. Nho giáo
1.2. Phật giáo
1.3. Chủ nghĩa Tam dân – Tôn Trung
Sơn
Liên hệ, chỉ rõ những gì
Nho giáo, phật giáo, cn tam
dân thể hiện trong các vấn
đề của Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Danh
Chương 3: Vai trò của Văn hóa
phương Tây thể hiện trong Tư
tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Văn hóa phương Tây nói chung
2.1.1. Thiên chúa giáo
2.1.2. Triết học Khai sáng Pháp
(Voltaire, Rousso, Montesquieu)
2.2. Các cuộc cách mạng tại Pháp,
Mỹ và các bản tuyên ngôn
Liên hệ, chỉ rõ những gì
Thiên chúa giáo, triết học
khai sáng, cách mạng Pháp-
Mỹ thể hiện trong các vấn
đề của Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Mạnh
Chương 4: Sự kết hợp văn hóa
phương Đông và phương Tây trong
Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chỉ ra sự kết hợp hài hòa
giữa 2 nền vh Đông Tây
trong TTHCM, trong các
vấn đề mà giáo trình nhắc
đến.
Huy
__________________________________________________________________
26
| 1/26

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ****************
TIỂU LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI:
Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành
Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Giảng viên hướng dẫn: NGUYỄN QUANG TRƯỜNG
Nhóm sinh viên thực hiện: Họ và Tên: MSSV: Mã lớp bài tập: 1. Nguyễn Tiến Quân 20181706 116935 2. Đỗ Đức Mạnh 20181641 116935 3. Trần Công Danh 20170678 116936 4. Trần Quang Huy 20184489 116936
Hà nội, 12 tháng 5 năm 2020 1 Mục lục Mở đầu Trang 1. 4
Lý do chọn đề tài 2. 4
Tổng quan đề tài (lịch sử nghiên cứu): 3.
Mục đích nghiên cứu đề tài 4 4. 4
Phạm vi nghiên cứu của đề tài 5. 5
Phương pháp nghiên cứu đề tài 6. Đóng góp đề tài 5 7. 5
Kết cấu của đề tài Nội dung : 6
Chương 1: Quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của Hồ 6 Chí Minh 1.1.
Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Đông đối với Hồ 6 Chí Minh
1.1.1. Nho giáo, gia đình và thời niên thiếu của Hồ Chí Minh 6
1.1.2. Chủ nghĩa Tôn Trung Sơn 7 1.2.
Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Tây đối với Hồ 8 Chí Minh
1.2.1. Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, 8
trở thành người cộng sản (1911 - 1920)
1.2.2 Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920- 10 1930)
Chương 2: Vai trò của Văn hóa phương Đông thể hiện trong Tư 11 tưởng Hồ Chí Minh 2.1 Nho giáo 11 2.2 13 Phật giáo 2.3
Chủ nghĩa Tam dân – Tôn Trung Sơn 14
Chương 3: Vai trò của Văn hóa phương Tây thể hiện trong Tư 16 tưởng Hồ Chí Minh 3.1. 16 Thiên chúa giáo 3.2.
Triết học Khai sáng Pháp (Voltaire, Rousso, Montesquieu) 17 2 3.3. 18
Các cuộc cách mạng tại Pháp, Mỹ và các bản tuyên ngôn
3.3.1. Tuyên ngôn độc lập của cách mạng Mỹ (1776) 18
3.3.2. Tuyên ngôn nhân quyền của Cách mạng Pháp (1791) 18
3.3.3. Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản của Đức – 1848 19
Chương 4: Sự kết hợp văn hóa phương Đông và phương Tây trong 19
Tư tưởng Hồ Chí Minh. 4.1.
Sự kết hợp văn hóa Đông-Tây trong việc tiếp nhận tư tưởng 20
Tự do-Bình đẳng- Bác ái của Hồ Chí Minh 4.2.
Sự kết hợp văn hóa Đông-Tây trong việc tiếp nhận Chủ nghĩa 21
Mác-Lênin của Hồ Chí Minh Kết luận chung 24
Danh mục tài liệu tham khảo 25 Phụ lục 26 3 Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh (1890-1979) là nhà lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam, được thế giới công
nhận là nhà văn hóa kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc. Những giá trị mà tư
tưởng Hồ Chí Minh để lại cho hậu thế là vô cùng quý giá, được Đảng Cộng sản
Việt Nam coi là kim chỉ nam trong mọi công tác Đảng, mọi đường lối chính sách
lãnh đạo đất nước. Người cũng là tấm gương sáng ngời về đạo đức, phong cách
sống và làm việc cho các thế hệ nhân dân Việt Nam.
Một điều không thể phủ nhận rằng vốn kiến thức uyên bác, tấm lòng nhân hậu và
tinh thần cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh một phần có được là nhờ sự
ham học hỏi, quyết tâm vượt gian khó tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại tự cổ chí
kim, từ Đông sang Tây. Việc nghiên cứu quá trình tác động của tinh hoa văn hóa
nhân loại và vai trò của nó trong sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh cho người
học có thêm hiểu biết và một góc nhìn phân tích đặc biệt đối với các vấn đề có
trong bộ môn này. Đây chính là lý do mà nhóm tiểu luận chọn đề tài “Vai trò của
tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh”.
2.Tổng quan đề tài (lịch sử nghiên cứu):
Đề tài nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một mảng nghiên cứu vô cùng
rộng lớn và có giá trị với thực tiễn xã hội – cách mạng Việt Nam trong suốt tiến
trình lịch sử hàng thế kỉ của dân tộc. Với quy mô của một bài tiểu luận, nhóm tác
giả tập trung phân tích các khía cạnh tác động của tinh hoa văn hóa nhân loại và
vai trò của nó trong sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Dù vậy, đây vẫn là một
đề tài đòi hỏi nguồn tư liệu đa dạng và tư duy phân tích có chọn lọc. Tiểu luận có
tham khảo nhiều bài báo và đầu sách khác nhau với hi vọng có thể đưa ra lập luận
chính xác, cụ thể nhất trong khả năng của nhóm tác giả.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện nhằm đưa ra một góc nhìn về sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh trên cơ sở của các yếu tố tinh hoa văn hóa nhân loại, bao gồm văn hóa
phương Đông và phương Tây nói chung.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tiểu luận về đề tài “Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh”
tập trung nghiên cứu các giai đoạn tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời và sự nghiệp Cách mạng của
Người, cùng với các dẫn chứng về tác phẩm, tuyên ngôn, hành động của Hồ Chí
Minh. Từ đó nhóm tác giả phân tích vai trò của chúng đối với tư tưởng Hồ Chí Minh. 4
Đồng thời, tiểu luận còn đề cập tới bối cảnh thời đại, các đặc trưng văn hóa trên thế
giới để làm rõ ảnh hưởng đó lên các vấn đề cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh có
trong cuốn “Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh” (NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật
– Bộ Giáo dục & Đào tạo). Đề tài không đi sâu vào nghiên cứu các khía cạnh đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đầu tiên, đề tài chỉ ra quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong suốt cuộc
đời và sự nghiệp Cách mạng của Hồ Chí Minh. Cùng với đó là chỉ ra các yếu tố
nào thuộc về văn hóa phương Đông, yếu tố nào thuộc về phương Tây bằng hàng
loạt các dẫn chứng cụ thể về tác phẩm, tuyên ngôn, hành động của Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở đó, đề tài phân tích từng mục nhỏ, từng yếu tố tác động để liên hệ, làm
rõ vai trò của chúng đối với việc hình thành các vấn đề chính trong tư tưởng của
Người - chính là các chương mục trong cuốn “Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh”
(NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật – Bộ Giáo dục & Đào tạo) 6. Đóng góp đề tài
Với những nghiên cứu hết sức cơ bản của mình, nhóm tác giả tiểu luận hi vọng
được đóng góp một phần nhỏ so với các trước tác hết sức đồ sộ về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồng thời, đề tài này cũng đưa ra một phương pháp tiếp cận mới tới những vấn đề
của tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua việc đưa vào góc độ hình thành các vấn đề đó
trên cơ sở phân tích vai trò của các yếu tố văn hóa nhân loại.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm Chương Mở đầu, 4 chương nội dung, Kết luận đi kèm với Danh
mục tài liệu tham khảo và Phụ lục Phân công tiểu luận. 5 Nội dung :
Chương 1: Quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của Hồ Chí Minh
1.1. Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Đông đối với Hồ Chí Minh
Trước hết, một điều hiển nhiên mà tất cả chúng ta đều biết, cả thế giới đều thấy rõ,
đó là: Hồ Chí Minh là người Việt Nam, là vị lãnh tụ của Cách mạng giải phóng dân
tộc Việt Nam, một tư tưởng lớn của văn hóa phương Đông. Những ảnh hưởng của
văn hóa phương Đông lên tư tưởng Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, xuyên suốt và
cực kì rõ nét. Trong phạm vi của bài tiểu luận, xin được chỉ đưa ra những phân
tích, dẫn chứng mà văn hóa phương Đông (và cả phương Tây) tác động đến các
vấn đề trong nội dung Tư tưởng của Hồ Chí Minh, chứ không tập trung các chủ đề
về đạo đức, phong cách của Người.
1.1.1. Nho giáo, gia đình và thời niên thiếu của Hồ Chí Minh
Sinh ra trong gia đình nhà Nho Nguyễn Sinh Sắc, Hồ Chí Minh đã được học những
lễ giáo, phép tắc của Nho giáo từ nhỏ. Ngay cả quê hương Nghệ An của Người
cũng là mảnh đất sản sinh ra nhiều bậc hiền tài, trạng nguyên của các triều đại
phong kiến Việt Nam. Do đó, Hồ Chí Minh có một quá trình tiếp thu Nho giáo rất
căn bản và có hệ thống: Từ tiếp thu di sản Nho học từ người cha, đến học tập các
thầy đồ nổi tiếng một thời như Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Nhân,
…; từ việc học tập qua trao đổi với các nhà nho thế hệ cha chú như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, đến quá trình tự học lâu dài, bền bỉ… Được biết thời niên thiếu,
cậu bé Sinh Cung và anh trai Sinh Khiêm luôn là những học trò ưu tú trong lớp dạy
chữ Nôm của các ông đồ nổi tiếng quanh vùng.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh dung nạp tư tưởng Nho giáo trong bối cảnh hết sức đặc
biệt, khi mà bản thân hệ thống tư tưởng Nho giáo bất lực trước việc cung cấp công
cụ để nhận thức và luận giải hiện thực xã hội Việt Nam. Khi mà hệ thống triều đình
phong kiến dựa trên giáo lý Khổng tử đã trở nên suy thoái, bạc nhược và bất lực
trước sự xâm lược của thực dân phương Tây, xâm nhập của văn hóa phương Tây.
Các phong trào chính trị - xã hội chịu ảnh hưởng của Nho giáo không thể giải
quyết những vấn đề mà thực tiễn lịch sử của dân tộc đặt ra; hệ thống giáo dục và
khoa cử Nho học thì bị giải tán. Hồ Chí Minh chứng kiến hàng loạt các cuộc nổi
dậy đấu tranh lãnh đạo bởi các nhà Nho yêu nước, trong đó không ít người có quan
hệ thân thiết với cha mình, đều đón nhận thất bại và bị thực dân phương Tây đàn
áp trong bể máu. Ngay cả thân phụ của Người, cụ Nguyễn Sinh Sắc cũng bị giáng
chức quan tri huyện một mặt vì có qua lại với những người trong cuộc khởi nghĩa.
Hồ Chí Minh nhận ra lý luận Nho giáo dạy con người ta nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
nhưng cũng thấy rằng chỉ dựa vào đó thì không tìm ra được tự do cho giang sơn tổ
quốc, hay đơn giản là miếng cơm manh áo cho người dân Việt Nam lúc bấy giờ. 6
Nói chung, hệ tư tưởng Nho giáo đã hình thành những giá trị nhân văn truyền
thống tốt đẹp, nhưng không phải là cơ sở lý luận để Hồ Chí Minh xây dựng lên tư tưởng của Người.
1.1.2. Chủ nghĩa Tôn Trung Sơn
Tôn Trung Sơn (1866-1925), nhà dân chủ cách mạng Trung Hoa và tư tưởng của ông
đã có nhiều tác động tới Hồ Chí Minh. Mặc dù cuộc Cách mạng Tân Hợi do Tôn
Trung Sơn lãnh đạo nổ ra vào cuối năm 1911, phải đến đầu những năm 20 mới có
một ít tờ báo xuất bản ở Trung Quốc lọt đến Paris theo chân những người du học
và sinh sống ở đây... Có lẽ nhờ đó mà Nguyễn Ái Quốc biết được những gì đang
diễn ra trên đất Trung Quốc đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, đặc biệt là hoạt động
của Chính phủ cách mạng Quảng Châu và những tư tưởng cách mạng của Tôn
Trung Sơn. Điều đó có nghĩa là Hồ Chí Minh biết đến cách mạng của Tôn Trung
Sơn sau khi đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Dấu vết sớm nhất về những
tư tưởng đẹp đẽ của Tôn Trung Sơn trong di sản của Hồ Chí Minh có lẽ là bài viết
đầu năm 1921 khi Người còn hoạt động ở Paris. Trong bài viết đó chứa đựng thiện
cảm to lớn của Người đối với cuộc cách mạng dân tộc do Tôn Trung Sơn lãnh đạo
và đặc biệt trong đó chứa đựng sự dự báo về khả năng phát triển của cuộc cách mạng này.
Hồ Chí Minh dần đi sâu vào tìm hiểu cuộc cách mạng đang diễn ra tại Trung Quốc
khi đó. Những nét tương đồng trong văn hóa và bối cảnh lịch sử giữa Việt Nam và
nước láng giềng phía bắc đã khiến Người nhận thấy nhiều giá trị trong Chủ nghĩa
Tam Dân đối với cuộc cách mạng giải phóng ở Việt Nam. Vốn là một nhà hoạt
động cách mạng đề cao thực tiễn, Hồ Chí Minh không ngần ngại đã đến tận Quảng
Châu để có điều kiện tìm hiểu sâu hơn về Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn.
Ngày 11/11/1924, Người đến Quảng Châu sau khi Chủ nghĩa tam dân của Tôn
Trung Sơn đã chuyển sang Chủ nghĩa tam dân mới với nội dung dân tộc, dân
quyền, dân sinh đã được mở rộng theo chiều hướng có lợi cho cách mạng vô sản,
nên Người rất quan tâm tìm hiểu tư tưởng cách mạng của Tôn Trung Sơn. Ba
nguyên tắc: “dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” được Nguyễn
Ái Quốc sáng tạo, bổ sung để phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nguyễn
Ái Quốc và những người yêu nước đang hoạt động ở Quảng Châu đã tổ chức huấn
luyện được hàng trăm cán bộ cách mạng và chuẩn bị tiến tới thành lập một chính
đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Tuy nhiên cuộc đảo chính ở Thượng Hải và
Quảng Châu (1927) của Tưởng Giới Thạch khiến Nguyễn Ái Quốc bị lọt vào tầm
ngắm của bọn phản cách mạng, nên Người phải bí mật trở lại đất nước Liên Xô.
Giai đoạn 1927-1945, Hồ Chí Minh tiếp tục tìm hiểu và vận dụng sáng tạo tinh hoa
Chủ nghĩa Tam dân mới vào thực tiễn giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Sau năm
1945, khi nước Việt Nam đã thực hiện thành công cách mạng tháng Tám và trong 7
quá trình bảo vệ cách mạng, Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng
ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc”
. Ngày 12/10/1945, Hồ Chí Minh
ký sắc lệnh về việc lấy Quốc hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì sau đó không
lâu chúng ta thấy dưới Quốc hiệu ấy lại xuất hiện ba cặp tiêu ngữ Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc.
Hẳn là tiêu ngữ đó có nguồn gốc từ ba
chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn,
được người tiếp thu và vận dụng sáng tạo ở Việt Nam.
Nhưng cũng cần lưu ý rằng, Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Tam Dân để làm cơ
sở vững chắc tiến lên CNXH, chứ không như Tôn Trung Sơn thực hiện Chủ nghĩa
tam dân để thiết lập xã hội có tính chất tư bản. Mặc dù nhận thấy “Chủ nghĩa Tôn
Dật Tiên là thích hợp nhất với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam” nhưng trước sau,
Người đều khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin.
Bên cạnh Nho giáo và Chủ nghĩa Tam dân, Phật giáo cũng là một yếu tố văn hóa
phương Đông góp phần hình thành nên những giá trị tốt đẹp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, quá trình mà Phật giáo (và các tôn giáo Đông-Tây khác) tác động
lên Hồ Chí Minh có phần không mạch lạc, liên tục nên nhóm tác giả xin phép được
trình bày cụ thể trong chương 2 và chương 3 của tiểu luận.
1.2. Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Tây đối với Hồ Chí Minh
1.2.1. Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành
người cộng sản (1911 - 1920)
Năm 1911, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đặt chân lên con tàu Đô đốc
Latouche-Tréville, khởi đầu chặng đường gần 30 năm bôn ba hải ngoại, kiếm tìm
độc lập, tự do cho Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên, ít ai nghĩ rằng quá trình tiếp cận
văn hóa phương Tây của Hồ Chí Minh đã bắt đầu ở một thời điểm sớm hơn rất nhiều.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ anh Nguyễn Tất Thành là một trong những nhà Nho
sớm nhận ra lợi ích thiết thực và sự hợp thời của việc học tiếng Pháp và chữ quốc
ngữ. Ông đã mạnh dạn cho cả hai anh em Tất Đạt, Tất Thành xuống thị xã Vinh
thời đó để học trường tiểu học. Đó cũng là lần đầu, Tất Thành tiếp xúc với mấy
chữ Tự do, Bình đẳng, Bác ái treo trên tường lớp. Về sau, Bác Hồ có nhắc lại về kỉ
niệm ấy: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do,
bình đẳng, bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp,
muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Sự thay đổi của xã hội ở một
tỉnh lỵ như Vinh trong cuộc khai thác thuộc địa cũng để lại nhiều ấn tượng với
Nguyễn Tất Thành về một phần văn hóa Pháp được mang đến xứ thuộc địa. 8
Tiếp theo đó, việc thi đỗ vào trường Quốc học Huế năm 1907-1908 đã càng mở
rộng hơn cơ hội tìm hiểu văn hóa phương Tây với Nguyễn Tất Thành. Dù rằng
hằng ngày chứng kiến sự thô bạo, khinh bỉ của không ít giáo viên người Pháp đối
với học sinh, cũng như thừa hiểu mục đích của trường “Quốc học” chỉ là đào tạo
những tay sai trung thành cho chính quyền thực dân, Tất Thành không phủ nhận
nước Pháp có một nền văn minh thực sự. Anh đã không vì căm ghét lũ thực dân mà
bài xích nền văn minh vào bậc nhất nhì thế giới của Cộng hòa Pháp. Anh say mê
tìm hiểu cuộc Cách mạng tư sản Pháp (1789). Anh còn bỏ công tim đọc những tác
phẩm của các nhà triết học Pháp của Phong trào khai sáng, những tác phẩm đã
khiến anh thấy toát lên tinh thần phê phán chế độ chuyên chế, lòng thiết tha yêu tự
do, khao khát bình đẳng và bác ái.
Tại sao Voltaire lại ca ngợi đất nước Nga của Pie đại đế? Tại sao Montesquieu lại
tán dương chế độ đại nghị của nước Anh? Những câu hỏi đó thôi thúc Nguyễn Tất
Thành đi sâu vào nền văn hóa, văn minh của một thế giới phương Tây vốn còn
nhiều bí ẩn đối với đa số người Việt thời kì này. Càng tìm hiểu, anh càng tò mò và
nung nấu quyết tâm đi tới tận nơi sản sinh ra những nền văn minh đó.
Cuối cùng, sau nhiều ngày để vượt qua ranh giới Trung Kỳ - Nam Kỳ, Nguyễn Tất
Thành đã tới được Sài Gòn, rồi đặt chân lên con tàu Latouche-Tréville. Thời gian
làm công việc cực nhọc của một phụ bếp người An Nam trên con tàu Pháp cho
Nguyễn Tất Thành nhiều ấn tượng về văn hóa Tây phương. Anh nhận ra ngoài bọn
thực dân tàn ác, coi mạng người xứ thuộc địa không đáng một xu, thì “cũng có
những người Pháp tốt”, và “người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở
Đông Dương”. Lần đầu tiên vào một quán cà phê tại Marseille, anh được người Pháp gọi bằng “ông”.
Nguyễn Tất Thành, hay anh Ba, luôn tận dụng tất cả thời gian, sức trẻ và một số
tiền ít ỏi để có cơ hội đi tới những miền đất mới, những nền văn hóa và chính trị
khác nhau. Ngoài vốn tiếng Pháp, anh học thêm tiếng Anh, Đức, Ý, Nga,… để có
thể hiểu được đời sống và xã hội ở nhiều đất nước (thậm chí là cả các nước Châu
Phi, Trung Đông,…). Đi tới đâu anh cũng tìm tòi, phân tích, đối chiếu đời sống
nhân dân và chế độ chính trị của các quốc gia. Quá trình đó đã hình thành vốn kiến
thức vừa bao quát, vừa uyên thâm về các dân tộc trên thế giới, vừa tạo nên tấm
lòng yêu thương, bác ái với nhân dân bị áp bức khắp năm châu bốn bể.
Năm 1912, sau khi tới nhiều vùng đất cũng như có một thời gian dài hoạt động ở
Pháp, Nguyễn Tất Thành đặt chân đến nước Mỹ. Anh đã có dịp tìm hiểu cuộc đấu
tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ, tiếp cận với các giá trị tiến bộ của Tuyên
ngôn độc lập năm 1776. Từ năm 1913, Người làm việc và hoạt động tại Anh.
Khoảng cuối năm 1917, từ nước Anh, Người tới Pháp, sống tại Pari đến tháng 6-
1923. Thời gian này, Người có những hoạt động tích cực, sôi nổi, tham dự các cuộc 9
diễn thuyết của những nhà chính trị và triết học để bổ sung thêm nhiều tri thức
mới. Cũng từ đây, Nguyễn Tất Thành đã dần đi đến một giai đoạn cao hơn trong
việc tìm hiểu văn hóa phương Tây. Tiếp cận với nhiều sách, báo, tài liệu và qua
những hoạt động chính trị, xã hội, anh đã có những hiểu biết sâu sắc về đời sống
chính trị, xã hội, về sự phân chia giai cấp, giàu nghèo, về những bất công trong
lòng xã hội Pháp và các nước, về bản chất bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, thực dân,
về cuộc đấu tranh của người lao động; văn hóa, triết học Pháp có tinh thần tự do,
bình đẳng, bác ái; trong tinh hoa văn hóa phương Tây có tư tưởng dân chủ, giá trị
nhân đạo, có tư tưởng về quyền con người, quyền công dân. Anh không theo hệ tư
tưởng tư sản mà tiếp thu những giá trị tiến bộ, tích cực, làm giàu thêm trí tuệ của
mình. Có thể thấy rằng, Nguyễn Tất Thành đã bắt đầu vận dụng những hiểu biết về
phương Tây để tham gia vào con đường đấu tranh chính trị, hoạt động cách mạng
một cách vô cùng tích cực.
1.2.2. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930)
Với một cái tên mới, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc (1919) hăng hái tham
gia vào các tổ chức chính trị như Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế thứ ba, và trở
thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Rồi tiếp tục tìm hiểu về cuộc Cách mạng
tháng Mười Nga, về bản Luận cương của Lê-nin, Người cuối cùng đã tìm thấy ánh
sáng cho con đường giải phóng dân tộc sau bao nhiêu ngày tháng gian nan tìm
kiếm. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc cả trên lĩnh vực lý luận và thực tiễn ngày
càng tích cực, sôi nổi và hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, giải
phóng các dân tộc thuộc địa; uy tín của Người ngày một nâng cao. Từ tháng 6-
1923 đến tháng 10-1924, Người hoạt động tại Liên Xô. Đây là thời kỳ Nguyễn Ái
Quốc tiếp thu rất nhiều tri thức, đồng thời Người còn góp phần phát triển, làm
phong phú lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản. Có thể nói ở giai đoạn này, học thức lý luận-thực tiễn và phẩm chất cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc đã dần trở thành một hệ tư tưởng nhất quán, mạch lạc, chính
là Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ đây, Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có bước chuyển rất rõ rệt: từ giai đoạn hình
thành sang giai đoạn phát triển. Với sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, các tổ chức
cộng sản đầu tiên đã ra đời, sau đó là thống nhất, xây dựng lực lượng vững mạnh
và thực hiện thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc – giành độc lập tự do
cho toàn dân tộc Việt Nam. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp và sau đó là
Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không ngừng tiếp thu, học hỏi các giá trị tốt đẹp,
tinh hoa văn hóa nhân loại trên toàn thế giới. Tư tưởng của Người ngày một hoàn
thiện, mở rộng mà uyên bác, trở thành nền móng, kim chỉ nam cho sách lược của
Đảng Cộng sản Việt Nam, cho cuộc đấu tranh và xây dựng nước Việt Nam Dân 10
chủ Cộng hòa. Sự hiểu biết, tinh thần học tập suốt đời của Hồ Chí Minh đối với tri
thức nhân loại đã trở thành một tấm gương sáng cho tất cả các thế hệ cán bộ, đảng
viên và nhân dân Việt Nam.
Ở một khía cạnh khác, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu, chọn lọc mà Người còn
làm phong phú hơn văn hóa của người phương Tây, ít nhất là ở văn hóa đọc. Nhằm
phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã học
viết báo, viết sách trong thời kì hoạt động tại châu Âu. Người viết nhiều bài báo
đăng trên các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Thư tín quốc tế, Tạp chí Cộng
sản, Sự thật,... Người làm Chủ nhiệm, kiêm Chủ bút tờ báo Người cùng khổ; tham
gia sáng lập, trực tiếp chỉ đạo, đồng thời là người viết chủ chốt báo Thanh niên.
Qua báo chí, Hồ Chí Minh tố cáo tội ác của đế quốc thực dân; bày tỏ nguyện vọng
của nhân dân các nước thuộc địa; đồng thời thể hiện tinh thần yêu nước, căm thù
chủ nghĩa thực dân, khát vọng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức. Hình ảnh
người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh còn xuất hiện trong văn học, âm nhạc, và
nhiều cuộc đấu tranh chống áp bức, bất công trên toàn thế giới, cả phương Tây và phương Đông.
Chương 2: Vai trò của Văn hóa phương Đông thể hiện trong Tư tưởng Hồ Chí Minh 2.1. Nho giáo
Sinh ra trong một gia đình Nho giáo, được đào tạo về Nho giáo từ rất sớm, nên ảnh
hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí Minh là lẽ đương nhiên. Hồ Chí Minh cũng
sớm chịu ảnh hưởng của Nho giáo - nền học vấn đầu tiên mà Người tiếp nhận.
Nho giáo đối với Hồ Chí Minh không phải là ảnh hưởng tự phát mà là ảnh hưởng
có tính tự giác. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã chủ động kế thừa từ lập trường
mácxít những giá trị truyền thống trong đó có Nho giáo. Năm 1923, khi trả lời
phỏng vấn của nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtam, Hồ Chí Minh nói: “Tôi sinh ra
trong một gia đình nhà nho An Nam... Thanh niên trong những gia đình ấy thường
học Khổng giáo, đồng chí chắc biết Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là một
thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử. Và trên cơ sở đó người ta
đưa ra khái niệm về “thế giới đại đồng”. Những nhà tư tưởng sáng lập ra Nho giáo,
ở thời đại của họ, đều xứng đáng là những vĩ nhân, những nhà lý luận cách mạng.
Đó là điều mà Hồ Chí Minh đã nhận ra, là cơ sở cho tư tưởng về tôn giáo cũng như
cách mạng sau này của Người.
Hồ Chí Minh rất đề cao và tâm đắc ý nghĩa nhân loại phổ biến của xã hội đại đồng,
một xã hội của con người, do con người, vì con người. Nhưng Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, xã hội đại đồng của Nho giáo chỉ có , một xã hội lí tưởng nhưng có căn 11
cứ hiện thực trong việc giải quyết những mâu thuẫn của thời đại hiện nay. Vì vậy,
Người khẳng định rằng, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”
Tiếp thu văn hóa phương Đông, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá
đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt
khai thác những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo. Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư là những phẩm chất đạo đức gắn bó chặt chẽ với phẩm chất trung với
nước, hiếu với dân, đòi hỏi mỗi người phải lấy bản thân mình làm đối tượng điều
chỉnh, diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong công tác, sinh hoạt. Ngày 3-9 - 1945, một
ngày sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khai sinh, Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh nhiệm vụ thứ tư của nhà nước là: “Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta
trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với
nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân
dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính”. Hồ Chí Minh rất chú trọng đến
bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Tư tưởng của Hồ
Chí Minh về đạo đức cách mạng xuất phát từ lòng thương yêu con người, đồng
bào, đồng chí, thương nhân loại lầm than dưới ách áp bức, bóc lột. Từ đó, Người
tiếp thu các giá trị nhân văn sâu sắc của đạo đức phương Đông, phương Tây.
Nhưng với phương pháp tư duy biện chứng và lập trường duy vật triệt để, Hồ Chí
Minh đã xây dựng hệ thống quan điểm về đạo đức con người cách mạng Việt Nam
một cách độc lập, trình độ lý luận và khả năng áp dụng và thực tiễn cao. Tư tưởng
đạo đức của Hồ Chí Minh thuộc hệ thống tư tưởng đạo đức cộng sản, là sự thống
nhất nhuần nhuyễn giữa tư tưởng triết học, chính trị và đạo đức mang giá trị khoa
học, nhân văn và thời đại.
Tuy nhiên, hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho
giáo. Đó là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư
tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực
nghiệm, doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực
của nó và khuyên chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo là
nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học
không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học
thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị. Còn
Hồ Chí Minh, Người đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tich cực, phù
hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
Ngày nay, Nho giáo tuy không còn giữ địa vị của hệ tư tưởng thống trị nhưng
những dấu ấn và ảnh hưởng của nó chưa phải đã hết, nó vẫn bám rễ và ảnh hưởng
mang tính hai mặt đến xã hội và con người Việt Nam ở những mức độ nhất định.
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc 12
khai thác những yếu tố hợp lý phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo là việc làm có ý nghĩa to lớn, nhưng phải
có phương hướng đúng đắn, những giải pháp phù hợp. Về phương hướng cần phải
nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà
nước pháp quyền và những nguyên tắc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta; gắn kế thừa, lọc bỏ với đổi
mới, phát triển những giá trị của tư tưởng trị quốc Nho giáo trong quá trình xây
dựng nhà ước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Phật giáo
Từ thủa thiếu thời, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận ảnh hưởng sâu đậm những tư tưởng
cao đẹp của Phật giáo ngay trong gia đình của mình. Trước hết, ảnh hưởng đó bắt
đầu từ bà ngoại của Người - Cụ Nguyễn Thị Kép. Những người thân trong gia đình
Bác không chỉ ảnh hưởng đến việc hình thành tâm từ bi, nhân ái của Hồ Chí Minh
mà còn trực tiếp tác động đến việc hình thành tư tưởng của Người về Phật giáo.
Lòng yêu nước thương dân và triết lí từ bi thấm nhuần từ đạo Phật của Cụ Phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc đã có ảnh hưởng nhất định tới chủ tịch Hồ Chí Minh Trên
bước đường cứu nước.
Chúng ta thấy, những ảnh hưởng của Hồ Chí Minh về tư tưởng giáo lý nhà Phật rất
rõ nét. Người đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong triết
lý đạo Phật, nhất là triết lý đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình
đẳng, yêu thương đồng loại, chống điều ác. Người đã nâng nó lên thành ngọn lửa
hun đúc cho truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc, động viên khích lệ đồng
bào theo đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước. Đó là lòng yêu thương con người,
quên mình vì mọi người, mình vì người khác…Trong giáo lý nhà Phật, “từ bi” là
ước vọng mãnh liệt để giải thoát con người thoát khỏi đau khổ. “Bác ái” là lòng
thương yêu của mọi người. “Vị tha”, sống vì người khác”, “kết tinh bằng từ bi, trí
tuệ, dũng mãnh, hướng dẫn chúng sinh đạt tới mục đích giác ngộ và giải thoát,
chuyển cõi Ta bà này thành cõi Tịnh độ và cuộc đời cơ cực này thành nếp sống cực
lạc”. Từ triết lý, giáo lý của nhà Phật, Hồ Chí Minh đã tích lũy và hình thành cho
mình tư tưởng mang giá trị triết lý nhân văn sâu sắc và chính Người luôn luôn hướng đến Phật pháp.
Từ rất sớm (năm 1921), Hồ Chí Minh cảnh tỉnh loài người khi tìm cách xoá bỏ
đẳng cấp, tôn giáo và các thành phần giai cấp: “Thảm họa của đất nước đã xoá bỏ
sự phân biệt đẳng cấp và tôn giáo. Người giàu người nghèo, quý tộc và nông dân,
Hồi giáo và Phật giáo, đều hợp sức đoàn kết”. Hồ Chí Minh thành tâm gợi niềm tin
mãnh liệt: “Rồi đây, bốn bể một nhà...”. Từ những suy nghĩ đó, Hồ Chí Minh quan
niệm: “Trong bầu trời không có gì tốt đẹp vẻ vang bằng phục vụ lợi ích cho nhân 13
dân, việc gì có lợi cho nhân dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”
Nghiên cứu tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người:
“Đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong triết lý đạo Phật,
nhất là triết lý đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu
thương đồng loại, chống điều ác. Người đã nâng nó lên thành ngọn lửa hun đúc
cho truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc, động viên khích lệ đồng bào theo
đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước”, đó là Lòng yêu thương con người, quên
mình vì mọi người, Luôn tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức của con người,
Luôn gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, Tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân.
Những dòng tư liệu trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn và đầy đủ hơn về mối quan
hệ gắn bó sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Phật giáo trong quá trình hoạt
động cách mạng của Người, cả trong nhận thức và trong hành động; nó giải thích
rõ vì sao Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến đã đi theo con
đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn và đã có những đóng góp hết sức to lớn
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây và ngày nay
đang chung lưng đấu cật cùng với toàn dân bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam
thân yêu ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.
Tựu trung lại, vấn đề mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo chiếm giữ một vị trí
quan trọng trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó luôn được Người quan tâm,
xem xét và giải quyết một cách biện chứng. Vì vậy, quán triệt và vận dụng sáng tạo
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề này là một trong những cơ sở bảo
đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Điều này càng trở nên có ý nghĩa hơn
bao giờ hết, đặc biệt trong bối cảnh thế giới hiện nay, một số quốc gia hoặc vùng
lãnh thổ đang rơi vào tình trạng bất ổn, xung đột gay gắt do không giải quyết thoả
đáng, đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo.
2.3. Chủ nghĩa Tam dân – Tôn Trung Sơn
Chủ nghĩa Tam dân (với 3 nội dung chủ yếu là dân tộc, dân quyền, dân sinh) đã thể
hiện khá hoàn chỉnh tư tưởng dân chủ tư sản của Trung Quốc thời kỳ cận đại Trên
nền tảng lý luận của chủ nghĩa Tam dân, Trung Quốc Đồng minh hội - (chính đảng
của giai cấp tư sản Trung Quốc) ra đời và lãnh đạo nhân dân Trung Quốc tiến hành
thành công cuộc cách mạng Tân Hợi. Cuộc cách mạng đã lật đổ nền thống trị gần
300 năm của vương triều Mãn Thanh, kết thúc chế độ chuyên chế phong kiến hơn
2000 năm, lập nên nước Trung Hoa dân quốc
Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và cuộc cách mạng vận động dưới sự chỉ
đạo của hệ tư tưởng này - cách mạng Tân Hợi - ngay lập tức có những ảnh hưởng 14
trực tiếp, nhanh chóng và sâu sắc đến phong trào cách mạng Việt Nam thời kỳ cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Trong số đó, Hồ Chí Minh là người chịu ảnh hưởng đậm nét hơn cả.
Trước hết phải kể đến lòng tôn kính, sự khâm phục, trân trọng của Hồ Chí Minh
đối với Tôn Trung Sơn. Người đã có những đánh giá đúng đắn về Tôn Trung Sơn,
về Quốc dân đảng cách mạng (tổ chức do Tôn Trung Sơn sáng lập) thời kỳ đầu ở
Quảng Châu và về chủ nghĩa Tam dân mới của ông.
Giữa tháng 11 năm 1924, khi từ Mátxcơva đến Quảng Châu (Trung Quốc), Hồ Chí
Minh có điều kiện tìm hiểu tư tưởng của Tôn Trung Sơn một cách trực tiếp và sâu
sắc. Hồ Chí Minh hoạt động ở Quảng Châu vào thời điểm Tôn Trung Sơn đã công
bố chủ nghĩa Tam dân mới. Do đó, Hồ Chí Minh đã hướng đến chủ nghĩa Tam dân
với niềm hứng khởi vô hạn.
Một chi tiết cần chú ý là, cũng như đối với Lênin, Hồ Chí Minh chưa có may mắn
được gặp gỡ và tiếp xúc trực tiếp với Tôn Trung Sơn. Năm 1924, khi Hồ Chí Minh
từ Mátxcơva đến Quảng Châu thì cũng thời gian đó Tôn Trung Sơn rời Quảng
Châu đến Thượng Hải và sau đó là sang Nhật Bản. Sau ít ngày lưu lại Tôkyô,
tháng 12 năm 1924 Tôn Trung Sơn đi tiếp đến Bắc Kinh và qua đời ở đó ( tháng 3
năm 1925). Trong khi Hồ Chí Minh ở lại Quảng Châu đến tận tháng 4 năm 1927.
Như vậy, Hồ Chí Minh chỉ nghiên cứu chủ nghĩa Tam dân chủ yếu thông qua tiếp
xúc với sách vở, tài liệu và học trò của Tôn Trung Sơn. Điều này càng cho thấy rõ
hơn trí tuệ vĩ đại của Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và
tinh hoa văn hoá nhân loại (cụ thể là chủ nghĩa Tam dân).
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh không tiếp thu nguyên si, máy
móc mà đã vượt hẳn lên trên những nhà yêu nước Việt Nam khác. Người đã tiếp
thu một cách có chọn lọc và sáng tạo những mặt tiến bộ của chủ nghĩa Tam dân và
áp dụng thành công chúng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, coi trọng vấn đề
độc lập dân tộc, nhưng tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể mà nhấn mạnh và đặt nó lên
vị trí hàng đầu. Độc lập dân tộc gắn liền với tự do hạnh phúc của nhân dân. Đó là
điểm sáng tạo vĩ đại của Hồ Chí Minh.
Không chỉ “Việt Nam hoá” ba chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn thành dân
tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, mà Hồ Chí Minh còn kết hợp
một cách tài tình sách lược hai giai đoạn cách mạng của Lênin với chủ nghĩa Tam
dân để thảo ra bản Chính cương vắn tắt cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh
đó được trình và thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Xét về hình thức, tên nước Việt Nam và tiêu ngữ của cách mạng Việt Nam từ Cách
mạng tháng Tám đến năm 1976 mang dấu ấn của chủ nghĩa Tam dân, nhưng bên
trong lại chứa đựng nội dung của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khái niệm “Độc lập - Tự 15
do - Hạnh phúc” đã được Hồ Chí Minh rút ra từ chủ nghĩa Tam dân và tư tưởng
“Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của cách mạng tư sản Pháp 1789 và nâng lên một
trình độ mới, mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính cách mạng
triệt để của một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
Bên cạnh việc tiếp thu sáng tạo những nội dung của chủ nghĩa Tam dân, Hồ Chí
Minh còn chú trọng nghiên cứu các phương pháp cách mạng của Tôn Trung Sơn,
đặc biệt là phương pháp vận dụng đạo đức Nho giáo để tuyên truyền và giáo dục
tinh thần cách mạng cho quần chúng. Học tập Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh đã lý
giải tư tưởng Nho giáo “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” một cách giản dị và thiết thực.
Tôn Trung Sơn lần đầu tiên nêu lên quan điểm: trung với quân có thể không cần
nữa, không trung với quân, mà trung với nước, trung với 400 triệu nhân dân Trung
Quốc. Hồ Chí Minh đã vận dụng sự suy nghĩ cách mạng đó của Tôn Trung Sơn
thành những lời nhắc nhở, giáo huấn mang tính sống còn cho cán bộ: “cán bộ là
đầy tớ của nhân dân”, cán bộ phải “trung với nước, hiếu với dân”, phải “cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư”, “cán bộ phải khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”...
Trong “Lời căn dặn học viên trong lễ khai trường” của Trường võ bị Trần Quốc
Tuấn ở Sơn Tây (nay là trường Đại học Trần Quốc Tuấn) ngày 26 tháng 5 năm
1946, Hồ Chí Minh đã nói: “Anh em có nhiều giai cấp, tư tưởng khác nhau, trước
hết phải đoàn kết, đoàn kết thật thà. Phải có kỷ luật cả về tinh thần lẫn vật chất.
Phải noi gương anh dũng của anh em binh sĩ hồi khởi nghĩa để làm gương cho các
lớp về sau. Các anh em cần làm được như lời Tôn Trung Sơn đã nói: “Những
người thanh niên tốt muốn làm việc to chứ không muốn làm quan lớn”. Mong rằng
anh em ở đây, bao giờ cũng phải làm theo hai khẩu hiệu mà nó là cái mục đích của
anh em: Trung với nước, hiếu với dân”.
Tìm hiểu ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn đối với cách mạng Việt Nam, đặc biệt đối
với Hồ Chí Minh, chúng ta trân trọng ghi nhận những đóng góp to lớn của Tôn
Trung Sơn về lý luận và thực tiễn cho cách mạng Việt Nam. Chính những chủ
trương, đường lối cách mạng dân chủ trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn
đã có tác dụng thúc đẩy và mang lại cho phong trào cách mạng Việt Nam một màu
sắc mới, làm phong phú thêm những trang sử đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XX.
Chương 3: Vai trò của Văn hóa phương Tây thể hiện trong Tư tưởng Hồ Chí Minh 3.1. Thiên chúa giáo 16
Với tư duy sắc bén, tinh thần đấu tranh vì chính nghĩa, tự do và hạnh phúc con
người, Hồ Chí Minh đã nhìn ra những quan điểm tốt đẹp, hướng thiện trong Đạo
Thiên chúa, chứ không coi đó chỉ là một công cụ xâm lược của thực dân Pháp.
Đứng trên lập trường duy vật và phương pháp luận biện chứng, Hồ Chí Minh dã
chắt lọc những yếu tố hợp lý, có giá trị lâu dài đối với đời sống “trần gian” thiết
thực của con người nói chung, của đạo hữu Thiên chúa giáo nói riêng trong những
tư tưởng cơ bản của đạo Thiên chúa nêu trên để làm phong phú thêm tư tưởng của
Người trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần lãnh đạo cách mạng Việt Nam tới thành công.
Mặt khác, sau khi cách mạng tháng Tám ở Việt Nam thành công, có một điều khác
biệt rất rõ so với cách mạng Tháng 10 ở Nga: Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa không chủ trương phá hủy nhà thờ hay coi giáo dân là đối
tượng chống lại cách mạng. Hồ Chí Minh đã trả lời rất rõ trong bài báo “Ai phá
đạo” được đăng trên báo Nhân dân ngày 6/7/1955: “Tôi là cán bộ cách mạng, là
người cộng sản. Nhưng mục đích của chúng tôi là lo cho dân có cơm ăn, áo mặc,
được học hành, sống sung sướng trong độc lập, tự do. Các cụ lo việc tín ngưỡng
thờ Chúa, lo việc linh hồn tín đồ. Nhưng tín đồ cũng cần ăn, mặc, ở, học hành, cần
được tự do, hạnh phúc và các giáo sĩ chắc chắn cũng quan tâm rất nhiều.Người
cách mạng và người tôn giáo thống nhất với nhau ở mục đích mưu cầu hạnh phúc
ở đời này cho nhân dân. Chúng ta phải lo nhiệm vụ ấy. Còn đối với tín ngưỡng tôn
giáo thì đã có chính sách rõ ràng. Chúng tôi tôn trọng và đảm bảo tự do tín ngưỡng
của tất cả các tôn giáo. Như thế kẻ nào đặt ra việc công giáo không đội trời chung với cộng sản là sai.”
Rõ ràng, góc nhìn đúng đắn về những giá trị tốt đẹp trong đạo Thiên chúa của Hồ
Chí Minh đã góp phần xây dựng nên hệ thống tư tưởng của Người về vấn đề tự do
tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc và vấn đề xây dựng nền văn hóa của đất nước xã hội chủ nghĩa.
3.2. Triết học Khai sáng Pháp (Voltaire, Rousso, Montesquieu)
Thời Khai Sáng là thời đại trải dài phần lớn trên thế kỷ 18, từ 1715 đến 1789 là
năm đánh dấu Cách Mạng Pháp. Ánh sáng ở đây là một ẩn dụ được dùng để chỉ tri
thức và hoạt động của tinh thần. Nói cách khác chính là những thành tựu về khoa
học kĩ thuật vượt bậc mà xã hội châu Âu đạt được trong khoảng thời gian này.
Ngược lại, bóng tối mông muội ở đây chỉ chế độ nhà nước phong kiến tàn lụi và
đức tin mông muội vào thánh thần, tôn giáo.Thời Khai Sáng xảy ra ở Âu châu, đặc
biệt ở Đức, Pháp, Anh và Tây Ban Nha, nhưng ảnh hưởng của trào lưu lan rộng khắp nơi. 17
Riêng ở Pháp, thời Khai Sáng là thời của tự do, thời của tiến bộ được các thiên tài
như Montesquieu, Voltaire, Diderot, Rousseau thể hiện với nhiều tác phẩm lớn như:
Từ điển Triết học của Voltaire: phản bác thể chế chính trị đương thời của Pháp, nhà
thờ Công giáo, Kinh Thánh và thể hiện văn phong, tính cách riêng Voltaire. Qua đó
ông nhấn mạnh vai trò của tôn giáo lý tưởng là giáo dục đạo đức chứ không phải giáo điều.
Khế ước xã hội của Jean-Jacques Rousseau: Nói về Hiến pháp của một đất nước,
nguyên tắc lựa chọn người cầm quyền và trách nhiệm của người cầm quyền. Chính
những ý tưởng này đã châm ngòi cho cả cuộc Cách mạng Pháp và Mỹ.
Tinh thần pháp luật của Montesquieu: bao quát các chủ đề về chính trị, luật, xã hội
học, nhân loại học. Trong luận thuyết chính trị của mình, ông đã bênh vực chủ
nghĩa hợp hiến và thuyết tam quyền phân lập, bãi bỏ nô lệ, bảo vệ quyền tự do
công dân và nhà nước pháp quyền, và ý tưởng rằng các thể chế luật pháp và chính
trị phải phản ảnh đặc tính địa lý và xã hội của từng cộng đồng riêng biệt.
3.3. Các cuộc cách mạng tại Pháp, Mỹ và các bản tuyên ngôn
3.3.1.Tuyên ngôn độc lập của cách mạng Mỹ (1776)
Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ là văn bản chính trị tuyên bố ly khai khỏi Vương
quốc Anh của 13 bang thuộc địa Bắc Mỹ. Tuyên ngôn được đọc ngày 4/7/1776, nội
dung chính của bản tuyên ngôn dựa trên tư tưởng John Locke, một triết gia người
Anh. Theo ông, con người có ba quyền cơ bản không thể bị tước đoạt là quyền
được sống, được tự do và được sở hữu. Quyền sở hữu được Tổng thống Mỹ
Thomas Jefferson đề cập tới trong bản tuyên ngôn là "quyền được mưu cầu hạnh phúc".
Bản Tuyên ngôn đã truyền cảm hứng cho nhiều bài phát biểu nổi tiếng khác như
của nhà hoạt động nhân quyền Martin Luther King Jr. và Tổng thống Abraham
Lincoln cũng như bản Tuyên ngôn độc lập của một số nước như Việt Nam, Zimbabwe…
Câu trích dẫn nổi tiếng của bản tuyên ngôn là "Tất cả mọi người đều sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
3.3.2.Tuyên ngôn nhân quyền của Cách mạng Pháp (1791)
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp do hầu tước Marquis
Lafayette soạn thảo. Hầu tước Lafayette là một nhà cách mạng có công cho cả 18
nước Mỹ và nước Pháp. Năm 1777, ông đã đưa quân sang Mỹ để giúp nhân dân
Mỹ chiến đấu giành độc lập. Sau đó ông trở lại Pháp tham gia cuộc Cách mạng tư
sản Pháp năm 1789 và trở thành Tư lệnh lực lượng vệ binh quốc gia. Ông chính là
tác giả của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp.
Trong bản tuyên ngôn này có tất cả 17 điều khoản, điều 1 và điều 2 là nổi tiếng
nhất và được trích dẫn nhiều nhất: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền
lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng và quyền lợi. Sự khác biệt xã hội
chỉ có thể được thiết lập trên cơ sở lợi ích chung” và “Mục đích của mọi tổ chức
chính trị là việc bảo toàn các nguồn lợi thiên nhiên và bảo toàn các quyền con
người không thể bị tước bỏ. Các quyền đó là tự do, tài sản, sự an toàn, và quyền
được chống lại mọi sự áp bức”.
3.3.3. Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản của Đức – 1848
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa
học. Những nguyên lý mà C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trải qua nhiều thử thách, hơn một thế kỷ qua, phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế đặt ra nhiều vấn đề mới, nhiều đòi hỏi, thách thức của thời đại cần giải
quyết nhưng chủ nghĩa Mác và những nội dung được đưa ra trong bản Tuyên ngôn
Đảng Cộng sản vẫn không hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền
móng tư tưởng, mang ý nghĩa thiết thực cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng.
Được sự uỷ nhiệm của những người Cộng sản, ngày 24/2/1848, Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo được công bố trên toàn thế
giới và nắm giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành cơ bản về
lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành: triết học, kinh tế chính
trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Tuyên ngôn kết thúc bằng lời kêu gọi nổi tiếng: “Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!”
Chương 4: Sự kết hợp văn hóa phương Đông và phương Tây trong Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khi còn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành đã được hấp thụ một nền quốc học và
Hán học khá cơ bản, đủ sức tạo cho Người một bản lĩnh văn hoá vững vàng để có
thể không bị choáng ngợp trước nền văn minh của phương Tây.
Ra nước ngoài, Người có điều kiện đi nhiều, hiểu rộng, biết nhiều ngoại ngữ, đến
được nhiều nước, làm nhiều nghề, tiếp xúc với nhiều vĩ nhân,…do đó có cơ
hội tiếp xúc với nhiều nền văn gia hoá,
nhập nhiều tổ chức, vào nhiều hội, đoàn 19
(Công đoàn lao động hải ngoại ở Anh, các Hội du lịch, Hội nghệ thuật và khoa học,
Câu lạc bộ Faubourg, vào Đảng Xã hội rồi Đảng Cộng sản, kể cả vào Hội Tam
điểm,…) để học cách tổ chức, tìm hiểu các cơ chế chính trị – xã hội,…nhằm chắt
lọc lấy cái hay, cái tốt, cái thích hợp, phục vụ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng
dân tộc và xây dựng nước Việt Nam độc lập trong tương lai.
4.1. Sự kết hợp văn hóa Đông-Tây trong việc tiếp nhận tư tưởng Tự do-Bình
đẳng- Bác ái của Hồ Chí Minh
Trên hành trình đến với văn hoá nhân loại, Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn
hoá Pháp
trước tiên và có lẽ nó cũng để lại những dấu ấn sâu đậm trong tư tưởng
và phong cách văn hoá của Người.
Đúng là Hồ Chí Minh đã sớm bị hấp dẫn bởi lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái
của Đại cách mạng Pháp và muốn đi sang Pháp để tìm hiểu xem những gì ẩn đằng
sau ba từ ấy. Và Người đã nhận ra rằng nền Cộng hoà Pháp chủ yếu được xây dựng
trên quan điểm giá trị về con người cá , nhất nhân
là về quyền tự do, bình đẳng của
cá nhân theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp; còn Hồ Chí Minh xuất phát từ vị trí
người dân thuộc địa phương Đông, vốn đề cao tinh thần cộng đồng, luôn đặt quốc
gia, dân tộc lên trên cá nhân. Với Hồ Chí Minh, Tự do trước hết vẫn là tự do của
toàn dân tộc
chứ chưa phải là tự do cá nhân; Bình đẳng cũng được Hồ Chí Minh
nâng lên thành quyền bình đẳng giữa các dân tộc; còn Bác ái –
một khái niệm quá
rộng, như lòng bác ái của Chúa đòi hỏi phải “yêu cả kẻ thù của mình”, là điều khó
chấp nhận đối với các dân tộc bị áp bức! Hồ Chí Minh hiểu khái niệm này theo
đúng nghĩa của nó là tình hữu ái, như tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”, nên Người
thường quen gọi những người lao động, các dân tộc bị áp bức là anh em (hỡi anh
em
ở các thuộc địa!, các dân tộc anh em, các nước anh em,…).
Tóm lại, Hồ Chí Minh nhận thức Tự do, Bình đẳng, Bác ái qua lăng kính của ngươì
dân bị áp bức châu Á chứ không theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp, nên chỉ coi
đó là những yếu tố cần chứ chưa Cái đủ.
giá trị lớn nhất mà Hồ Chí Minh theo
đuổi suốt đời là: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả
những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu”. Điều quan trọng ấy lại không có
trong bảng giá trị của nền Cộng hoà Pháp, vì vậy, trong thư kêu gọi những người
Pháp hãy cộng tác bình đẳng, thân thiện với Việt Nam để gây dựng hạnh phúc
chung cho cả hai dân tộc, Người đã chủ động bổ sung vào khẩu hiệu ấy một từ
nữa: “Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng vào đạo đức: Tự do, Bình Đẳng,
Bác ái, Độc lập
”. Thêm Độc lập để ràng buộc họ: “Nước Pháp muốn độc lập,
không có lý gì lại muốn nước Việt Nam không độc lập?”
Như vậy, con đường Hồ Chí Minh tiếp biến các giá trị văn hoá nhân loại là lựa
chọn, tích hợp những nhân tố tiến bộ, hợp lý, cải biến nó cho phù hợp với truyền
thống văn hoá dân tộc và nhu cầu đất nước để tạo ra cách làm riêng, không vay 20
mượn nguyên xi một mô hình ngoại lai nào; tức là tiếp thu trên cơ sở phê phán,
tiếp nhận gắn liền với đổi mới, theo các tiêu chí: Dân tộc, Dân chủ Nhân văn.
4.2. Sự kết hợp văn hóa Đông-Tây trong việc tiếp nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mac-Lênin ,được hấp thụ một thế giới quan, nhân
sinh quan triệt để cách mạng và khoa học, một vũ khí sắc bén để cải tạo xã hội và
con người. Nhưng từ giác độ văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh nhận thấy chủ
nghĩa Mác-Lênin chủ yếu vẫn được hình thành trên nền tảng triết lý phương Tây,
mang dấu ấn đấu tranh giai cấp ở phương Tây. Để được hoàn thiện, Người kiến
nghị cần bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông,
bởi phương Tây chưa phải là toàn thế giới.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác đương nhiên Người đã tiếp thu học thuyết
đấu tranh giai cấp của Mác, nhưng tiếp thuvận dụng vào hoàn cảnh cụ thể
của mỗi nước là hai việc khác nhau. Xuất phát từ đặc điểm của văn hoá phương
Đông và Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh đang đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ
Chí Minh vẫn chú trọng hơn đến đoàn kết, thống nhất, đồng thuận dân tộc. Hồ Chí
Minh đã không tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp như một số người, chỉ thấy đấu
tranh giai cấp mà không thấy sách lược liên minh, hợp tác giai cấp ở mỗi giai đoạn
cụ thể (tất nhiên là vừa hợp tác, vừa đấu tranh); không thấy vấn đề đoàn kết giai
cấp trong đại đoàn kết dân tộc; không thấy vấn đề liên minh giai cấp trong mặt
trận dân chủ chống phát xít,…
Vì vậy, trong đấu tranh giải phóng dân tộc, với nhận thức rằng “chủ nghĩa dân tộc
là một động lực lớn của đất nước”, “người ta không thể làm gì được cho người An
Nam nếu như không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất trong đời sống xã hội
của họ”, Hồ Chí Minh rất coi trọng sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ dân tộc, đã
ra sức củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Trong kháng chiến chống
Pháp, có lần Người đã phê phán những biểu hiện tả khuynh của một số người:
“Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu
tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”, “trong
lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là môt điều ngu ngốc”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao Luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa, coi Luận cương đã đem lại một thứ ánh sáng như là thiên khải, giúp
Người bừng sáng về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của Việt Nam. Nghĩa
là Hồ Chí Minh đến với Lênin trước hết vẫn từ chủ nghĩa yêu nước, ca ngợi Lênin
là người yêu nước vĩ đại nhất, vì sau khi đã giải phóng nước Nga, ông còn muốn
giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa. Có thể nói, Hồ Chí Minh là người rất mực
tôn sùng Lênin, không phải ở lý luận về chuyên chính vô sản mà trước hết là ở đạo 21
đức của Người (coi khinh sự xa hoa, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị,…), nghĩa
là vẫn từ góc nhìn của văn hoá phưong Đông, văn hoá Việt Nam. Còn lý luận về
nhà nước thì Hồ Chí Minh lại chủ trương xây dựng nhà nước dân chủ cộng hoà,
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Nêu qua một vài dẫn chứng như trên để thấy rõ: Hồ Chí Minh là người cộng sản có
tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người cũng không tiếp
thu một cách giáo điều, mà lựa chọn những “cái cần thiết”, phù hợp với truyền
thống văn hoá dân tộc và nhu cầu thực tiễn của đất nước. Đó là sự tiếp thu có cải
biến, đổi mới, theo các tiêu chí đã được nêu ở trên.
Từ lý luận cách mạng vô sản của phương Tây vận dụng vào cách mạng giải phóng
thuộc địa ở một nước thuộc địa phương Đông, nếu rập khuôn, giáo điều thì chỉ có
thất bại. Muốn thắng lợi, đòi hỏi phải biết điều chỉnh một cách sáng tạo, biết tìm ra
cách làm khác, thậm chí có điều phải làm ngược lại. Chính trên ý nghĩa đó, Hồ Chí
Minh không chỉ là người biết tiếp thu và vận dụng sáng tạo mà còn là người đã góp
phần cải biến, phát triển, làm phong phú chủ nghĩa Mác-Lênin trên một loạt luận điểm quan trọng.
Chỉ mới hơn một năm sống ở Maxcơva, Nguyễn Ái Quốc đã dám đưa ra một luận
điểm mà nhiều nhà cách mạng thế giới phải suy nghĩ: “Mác đã xây dựng học
thuyết của mình trên một triết học nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử nào? Lịch
sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại!”.
Nguyễn Ái Quốc đã xuất phát từ truyền thống văn hoá Việt Nam để tiếp thu và vận
dụng chủ nghĩa Mác. Người là người cộng sản đầu tiên nhận ra và đánh giá cao
tiềm lực của cách mạng phương Đông. Trong một bài đăng trên tạp chí Cộng
sản
số tháng 5-1921 của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã nêu vấn đề:
“Chế độ cộng sản có thể áp dụng ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không?”.
Câu trả lời của Nguời là trái ngược với quan điểm của Quốc tế Cộng sản đầu
những năm 20. Lúc bấy giờ, thuyết "Européo-centrisme" còn đang thống trị châu
Âu, vẫn coi châu Âu là trung tâm của thế giới, xem thường phương Đông lạc hậu,
nhất là các dân tộc nhược tiểu. Các đảng xã hội Quốc tế II chưa quan tâm đúng
mức đến vấn đề dân tộc thuộc địa. Các đảng cộng sản theo Quốc tế III thì cho
rằng: vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa chỉ có thể được giải quyết khi nào
cách mạng vô sản giành được thắng lợi ở chính quốc
. Cả Mác, Ăngghen, rồi Lênin
cũng chưa nghĩ đến khả năng các dân tộc thuộc địa có thể tự giải phóng mình ngay
giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.
Thế mà Nguyễn Ái Quốc lại đưa ra một quan điểm trái ngược, “phi kinh điển” so
với các luận điểm trên. Từ sự phân tích những điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội… 22
của châu Á (chế độ ruộng công, thuyết bình đẳng về tài sản, sự giáo dục và lao
động cưỡng bức đối với người lớn, chế độ phúc lợi cho người già, tư tưởng “dân vi
quý”, sự lên án nghiêm khắc thói ăn bám,…), Nguyễn Ái Quốc đưa ra nhận định:
“chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu”,
nghĩa là theo Nguyễn Ái Quốc, cách mạng thuộc địa đi theo con đường vô sản có
thể nổ ra ở châu Á, nếu “chúng ta có nhiệt tình tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và
thực tâm muốn giúp đỡ những người lao động lật đổ ách của những kẻ bóc lột” thì
họ sẽ trở thành một lực lượng khổng lồ “và trong khi thủ tiêu một trong những điều
kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc” họ cũng “có thể giúp đỡ
những người anh em ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Đó quả
thật là một luận điểm táo bạo, mới mẻ, lạ lùng nữa, trước đó chưa có ai nhìn ra và
chưa ai dám khẳng định mạnh mẽ như thế về khả năng thắng lợi trước của cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Tóm lại, đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã từ người yêu nước trở
thành người cộng sản, ngược lại Người cũng đã góp phần bổ sung cơ sở lịch sử của
chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông, làm cho chủ nghĩa Mác từ học
thuyết đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản, đồng thời còn là học thuyết đấu tranh
giải phóng các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX. Điều đó chính là kết quả của
việc Hồ Chí Minh đã tiếp biến chủ nghĩa Mác-Lênin từ truyền thống văn hoá Việt
Nam, văn hoá phương Đông và từ kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Việt Nam. 23 Kết luận chung
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã không
ngừng tiếp thu tri thức, tinh hoa văn hóa nhân loại để hình thành nên hệ tư tưởng
của mình. Với xuất phát là một người yêu nước – Nguyễn Ái Quốc đã đi khắp năm
châu bốn bể để tìm thấy cho dân tộc mình con đường giải phóng, con đường của
độc lập, tự do và hạnh phúc. Thực tế đã chứng minh: Hồ Chí Minh trở thành vị
lãnh tụ vĩ đại đưa Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đi đến thành công, đặt
nền móng tư tưởng cho Đảng Cộng sản Việt Nam trên con đường lãnh đạo và phát
triển đất nước. Trong những thành công đó không thể phủ nhận vai trò của những
giá trị văn hóa đa dạng của nhân loại mà Người tích lũy được trong quá trình học
tập suốt đời từ khắp năm châu bốn bể, từ mọi dân tộc bất kể màu da, giàu nghèo.
Càng đi sâu hơn vào tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, ta khâm phục và kính trọng
vị Chủ tịch vĩ đại của dân tộc, và cũng là của thế giới. Đối với Đảng Cộng sản Việt
Nam, phải coi tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam, là nền móng trong công tác
xây dựng Đảng và đất nước. Với mỗi công dân, Hồ Chí Minh là tấm gương sáng
về tư tưởng và đạo đức mà ta cần học tập và tôn vinh, cũng như tự hào khi nói về
Người với bạn bè quốc tế. 24
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh dành cho sinh viên đại học, cao đẳng
khối không chuyên ngành Mác-Lênin. NXB Chính trị Quốc gia (2017)
2. Hồ Chí Minh Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia.
3. Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam. www.dangcongsan.vn.
4. Tạp chí Cộng sản. www.taichicongsan.org.vn.
5. Kể chuyện Bác Hồ. Tập 1&2 NXB Giáo dục Việt Nam.
6. Hồ Chí Minh Tiểu sử. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
25
Phụ lục: Danh sách phân công thực hiện đề tài tiểu luận: Chương Nội dung Phân công
Mở đầu + Kết luận + Chỉnh sửa
Nêu ra phương pháp, đóng Quân bản mềm
góp, kết cấu,… của đề tài. Kết luận
Chương 1: Quá trình tiếp thu tinh
Nêu ra các diễn biến trong Quân
hoa văn hóa nhân loại của Hồ Chí
quá trình Hồ Chí Minh tiếp Minh
nhận tinh hoa vh nhân loại
một cách tổng quát, xuyên suốt.
Chương 2: Vai trò của Văn hóa
Liên hệ, chỉ rõ những gì Danh
phương Đông thể hiện trong Tư
Nho giáo, phật giáo, cn tam tưởng Hồ Chí Minh
dân thể hiện trong các vấn 1.1. Nho giáo
đề của Tư tưởng Hồ Chí 1.2. Phật giáo Minh.
1.3. Chủ nghĩa Tam dân – Tôn Trung Sơn
Chương 3: Vai trò của Văn hóa
Liên hệ, chỉ rõ những gì Mạnh
phương Tây thể hiện trong Tư
Thiên chúa giáo, triết học tưởng Hồ Chí Minh
khai sáng, cách mạng Pháp-
2.1. Văn hóa phương Tây nói chung
Mỹ thể hiện trong các vấn 2.1.1. Thiên chúa giáo
đề của Tư tưởng Hồ Chí
2.1.2. Triết học Khai sáng Pháp Minh.
(Voltaire, Rousso, Montesquieu)
2.2. Các cuộc cách mạng tại Pháp,
Mỹ và các bản tuyên ngôn
Chỉ ra sự kết hợp hài hòa Huy
Chương 4: Sự kết hợp văn hóa giữa 2 nền vh Đông Tây
phương Đông và phương Tây trong trong TTHCM, trong các
Tư tưởng Hồ Chí Minh.
vấn đề mà giáo trình nhắc đến.
__________________________________________________________________ 26