-
Thông tin
-
Quiz
Vai trò của triết học trong đời sống cá nhân - Triết học Mác Lenin | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Vai trò của triết học trong đời sống cá nhân - Triết học Mác Lenin | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
Họ và tên: Lê Thị Thùy Ninh Mã sinh viên: 11217461 Bài kiểm tra
Đề bài: Vai trò của triết học trong đời sống cá nhân. Bài làm.
Hàng vạn năm nay, triết học luôn luôn là một phần không thể thiếu đối với sự phát
triển của nhân loại, nếu không có triết học, có lẽ chúng ta sẽ không đạt được ngày hôm
nay. Nhắc đến triết học tức là nhắc đến sự trừu tượng, quả thật triết học là một lĩnh vực
mông lung và mơ hồ, nhưng dù vậy, nó cũng có những vai trò hết sức thực tế và hữu ích
đối với đời sống cá nhân và xã hội. Vậy trước hết ta cần phải hiểu triết học là gì, nguồn
gốc của triết học bắt đầu từ đâu?
- Cách đây hàng tỷ năm về trước vũ trụ hình thành, trải qua thời gian hàng triệu
năm các sinh vật sống hình thành và phát triển thành những loài thực vật và động vật.
Trong thế giới động vật đó duy nhất chỉ có một loài có khả năng tư duy sáng tạo đó chính
là lý loài người. Từ khi con người tiến hoá từ các loài vượn cổ, loài người đã dần tách
mình ra khỏi thế giới loài vật và không còn quá lệ thuộc vào thế giới tự nhiên. Từ đó loài
người biết dùng những công cụ thô sơ để săn bắt, bàn tay con người cũng thuận tiện hơn
cho việc cầm nắm và hái lượm. Từ đó loài người không ngừng phát triển khả năng tư duy
của mình, tức là con người đã biết nhận thức về thế giới xung quanh và thế giới của chính
con người. Khi các nhận thức đó đủ chiều sâu và bao quát nó sẽ được tổng hợp lại thành
một tri thức chung nhất gọi là Triết học. Do đó triết học là dạng tri thức lý luận xuất hiện
sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại.
Đặc thù của triết học là sử dụng các công cụ lý tính, các tiêu chuẩn logic và những
kinh nghiệm khám phá thực tại của con người để diễn tả thế giới và khái quát thế giới
quan bằng lý luận. Việc tìm hiểu về triết học có liên quan chặt chẽ đến chân lý, sự tồn tại,
kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức và ngôn ngữ của các khía cạnh khác nhau trong cuộc
sống. Triết học có những đặc điểm rất riêng biệt với những bộ môn khoa học khác. Và
theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lenin về triết học: “Triết học là hệ thống quan
điểm lí luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về
những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy”.
- Về nguồn gốc, triết học bắt nguồn từ nhận thức và xã hội.
Đối với nguồn gốc nhận thức, nó là một nhu cầu tự nhiên khách quan của con
người. Khi mới đầu manh nha nhận thức về thế giới, con người thường có những suy
nghĩ, niềm tin về một thế giới quan thần thoại với những vị thần như Tô tem giáo, Saman
giáo. Qua thời gian con người nhận ra rằng các quan niệm đó là phi logic, rời rạc cũng
chính vì thế mà tư duy huyền thoại và tôn giáo nguyên thủy bị suy giảm và bị thay thế
bởi triết học. Vào thời cổ đại khi tri thức còn sơ khai và khoa học độc lập chưa hình thành
thì triết học đóng vai trò là dạng nhận thức lý luận tổng hợp, giải quyết tất cả các vấn đề
lý luận chung của tự nhiên, xã hội, tư duy. Điều này nói lên sự chưa chín muồi của các
khoa học chuyên ngành, mặt khác lại nói lên nguồn gốc nhận thức của triết học. Các tri
thức của triết học vô cùng giá trị cho các môn khoa học khác =>Như vậy nguồn gốc nhận
thức của triết học là sự hình thành, phát triển của tư duy trừu tượng, của năng lực khái
quát trong nhận thức của con người.
Về nguồn gốc xã hội, triết học xuất hiện khi có sự phân công lao động, phân chia
giai cấp và bản thân nó đã mang tính đảng (nhiệm vụ của nó là luận chứng và bảo vệ lợi
ích của một giai cấp xác định). Chế độ chiếm hữu nô lệ hình thành và phương thức sản
xuất dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất phát triển. Sự tách rời lao động trí óc với
lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong
các xã hội trước đây đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần.
Trong lịch sử, giai cấp thống trị và nhiều lực lượng xã hội đã từng ủng hộ, sử dụng chủ
nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan điểm chính trị - xã hội của mình.
Vai trò của triết học bao gồm vai trò của thế giới quan và vai trò của phương pháp
luận và nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng xã hội.
Vai trò của thế giới quan.
Thế giới quan là khái niện triết học chỉ hệ thống các tri thức quan điểm, tình cảm,
niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người (bao gồm cá nhân, xã
hội và cả nhân loại) trong thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá
trị trong định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Từ đó thế giới quan có những vai trò như sau:
- Thứ nhất, nhờ vào việc xác định đúng những mối liên hệ chung của thế giới và vị
trí của con người trong thế giới nên thế giới quan giúp con người xác định mục tiêu,
phương hướng hoạt động của bản thân. Hoặc có thể nói, thế giới quan giúp cho con người
có thể định hướng cuộc sống của bản thân bằng việc xác định những mục tiêu, phương
hướng hoạt động của bản thân.
Ví dụ: Trong cuộc sống thường ngày, nhận thức được thế giới quan duy vật, cá nhân
em đã thiết lập cho mình những mục tiêu và kế hoạch để đạt được những mục tiêu đó một
cách hiệu quả. Từ đó, em định hình cho mình một lối sống tích cực và lành mạnh hơn.
Trong mối quan hệ xã hội, thế giới quan duy vật giúp em hiểu hơn về các mối quan hệ
trong cuộc sống (ví dụ: quan hệ giữa ông bà - con cháu, bố mẹ - con cái, bạn bè...), luôn
luôn có mối liên hệ, tác động lẫn nhau. Bởi vậy, mỗi chúng ta cần biết sống quan tâm đến
người khác, sống có đạo đức, có ý thức. Khi chúng ta đối xử tốt với nhau, tình yêu
thương sẽ được lan tỏa, tác động lên các cá thể và cùng tạo nên một xã hội văn minh, tốt đẹp và nhân ái hơn.
Thế giới quan có thể coi là kim chỉ nam giúp con người nhận thức đúng hoặc
không đúng về sự vật. Nếu được hướng dẫn bởi thế giới quan mang tính khoa học, con
người có thể xác định đúng mối quan hệ giữa con người và đối tượng, trên cơ sở đó nhận
thức đúng quy luật vận động của đối tượng, từ đó có thể xác định đúng phương hướng,
mục tiêu và cách thức hoạt động của con người. Ngược lại, nếu được hướng dẫn bởi một
thế giới quan không mang tính khoa học, con người không thể xác định đúng mối quan
hệ giữa con người và đối tượng, không nhận thức đúng quy luật của đối tượng, con người
sẽ không xác định đúng mục tiêu, phương hướng và cách thức hoạt động, từ đó hoạt động
không đạt kết quả như mong muốn.
Ví dụ như nếu dựa trên thế giới quan tôn giáo, b ,
ản thân em thừa nhận có lực
lượng siêu nhiên mà con người hoàn toàn phải phục tùng, sùng bái và tuân theo, bản thân
em không có vai trò gì đối với đời sống xã hội, điều đó sẽ làm cho em không tích cực
hoạt động, không phát huy tính chủ động sáng tạo của mình.
=>Thế giới quan đóng vai trò như là một “lăng kính”, qua đó con người có thể
xem xét, nhìn nhận thế giới và chỉ đạo hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới.
- Thứ hai, thông qua các tri thức chung về thế giới và bản thân con người, cùng
với niềm tin và tình cảm được củng cố trong thế giới quan, nó có thể chi phối hoạt động
nhận thức và thực tiễn của con người ở mức độ khá sâu sắc.
Ví dụ, nếu hiểu đúng ý nghĩa cuộc sống, bản thân em sẽ có ý chí và quyết tâm tích
cực hoạt động vì sự tiến bộ của xã hội và của bản thân. Ngược lại, nếu em hiểu không
đúng ý nghĩa cuộc sống sẽ làm giảm ý chí, cản trở tính chủ động, tích cực trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn của bản thân, thậm chí còn dẫn bản thân mình đến các hoạt
động phá hoại, thiếu trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội. Điều đó sẽ cản trở sự tiến
bộ xã hội khi mà trong thời đại ngày nay.
Vai trò của phương pháp luận
Trong hoạt động của con người (cả ý thức lẫn thực tiễn) con người sử dụng rất nhiều
phương pháp, quá trình lựa chọn sử dụng phương pháp có thể đúng hoặc sai. Nếu đúng,
nó dẫn ta đến thành công, nếu sai nó dẫn đến thất bại. Vậy nên từ đó đã xuất hiện nhu cầu
phải nhận thức khoa học về phương pháp, phương pháp luận đã ra đời như thế. Phương
pháp luận là hệ thống các nguyên lý, quan điểm làm cơ sở cho việc xây dựng, lựa chọn,
tìm tòi và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn nhằm đạt được mục
đích để định sẵn. Ta có thể hiểu rằng phương pháp luận có chức năng định hướng, gợi mở
cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, còn phương pháp là cách thức, thao tác hoạt động
cụ thể mà chủ thể phải tuân thủ và thực hiện nhằm đạt được mục đích.
Đối với nhận thức và thực tiễn của con người, phương pháp luận rất quan trọng
khi làm cơ sở, đóng vai trò định hướng cho việc xây dựng, lựa chọn, tìm tòi và vận dụng
các phương pháp nhằm tác động lên đối tượng để đạt được mục đích. Ta thấy rằng khi đã
có mục đích thì phương pháp thực hiện phải như thế nào để đạt được mục đích của mình
một cách hiệu quả nhất. Để đạt được mục đích thì phương pháp rất quan trọng và phương
pháp đó phải thật đúng đắn và giống như Bêcơn đã ví phương pháp như ngọn đuốc soi
đường cho người đi trong đêm tối; Hêghen ví phương pháp là linh hồn của đối tượng; các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đặc biệt coi trọng vai trò của phương pháp, nhất
là trong hoạt động cách mạng (vì nó là cơ sở khoa học để chống lại các tư tưởng tư sản đi
ngược lại với những phát triển, phát minh khoa học và vì vậy trở thành tư tưởng của giai
cấp công nhân lao động, là kim chỉ nam cho các hoạt động đấu tranh của các Đảng cộng
sản, là cơ sở khoa học để chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm).
Ví dụ: phương pháp luận duy vật biện chứng đem lại đó là góp phần hình thành và
nâng cao năng lực tư duy phản biện cho bản thân em, giúp em có thể nhận diện thông tin
bằng cách xây dựng các hệ thống lí luận, khái niệm một cách logic, nhất là thúc đẩy khả
năng đặt câu hỏi, tìm kiếm vấn đề xoay quanh những nội dung kiến thức đã được học so
sánh với thực tiễn cũng như việc vận dụng kiến thức xã hội vào bài học.
Tuy nhiên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn ta không nên xem thường phương
pháp luận bởi nếu xem thường nó, ta sẽ rơi vào trạng thái mò mẫm, không thể sáng tạo,
rất dễ mất phương hướng còn nếu ta coi trọng phương pháp luận nó sẽ giúp mỗi người
tránh được tình trạng sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.