



















Preview text:
 
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HỒ CHÍ MINH     
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN 
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM 
Mã học phần: IVNC320905_07   
VĂN HÓA ẨM THỰC DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ   
Nhóm sinh viên thực hiện  :
1. Võ Trần Thanh Lam – 21159081 
2. Nguyễn Thị Ánh Nguyệt – 21159094 
3. Nguyễn Thị Ngọc Phượng – 21159103 
4. Nguyễn Hoàng Quang – 20149360 
5. Thái Ngọc Bảo Trân – 21159054 
6. Nguyễn Hoàng Thanh Trúc – 21159116 
Giáo viên hướng dẫn: TS.GVC Đỗ Thùy Trang       
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 5 năm 2022     
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN:             
 .........................................................................................................   
 .........................................................................................................   
 .........................................................................................................   
 .........................................................................................................   
 .........................................................................................................   
 .........................................................................................................   
 .........................................................................................................   
 .........................................................................................................   
 .........................................................................................................   
 .........................................................................................................   
 .........................................................................................................     
ĐIỂM (BẰNG SỐ): …………………. 
ĐIỂM (BẰNG CHỮ): ………………. 
CHỮ KÍ GV: …………………………       
MỤC LỤC   
A. MỞ ĐẦU 
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................... 1 
2. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu ............................................................................. 1 
3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 2 
4. Kết cấu tiểu luận ......................................................................................................... 2  B. NỘI DUNG 
1. Chương 1. Khái quát chung..................................................................................... 3 
1.1 Các đặc trưng và chức năng của văn hóa .............................................................. 3 
1.2 Quan niệm của người Việt Nam về ẩm thực ......................................................... 4 
1.3 Khái quát về vùng văn hóa Trung Bộ và tiểu Nam Trung Bộ .............................. 5 
2. Chương 2. Văn hóa ẩm thực Duyên hải miền Trung ............................................ 7 
2.1 Món mặn ............................................................................................................... 7 
2.1.1 Gỏi cá Nam Ô ................................................................................................. 7 
2.1.2 Mì Quảng ........................................................................................................ 9 
2.1.3 Chả cá Sa Huỳnh .......................................................................................... 12 
2.1.4 Chả lụi Lagi .................................................................................................. 13 
2.2 Món bánh ............................................................................................................ 14 
2.2.1 Bánh căn Phan Rang .................................................................................... 14 
2.2.2 Bánh đập ....................................................................................................... 17 
2.2.3 Bánh ít lá gai................................................................................................. 19 
2.3 Thức uống ........................................................................................................... 21 
2.3.1 Rượu Bàu Đá ................................................................................................ 21 
2.3.2 Rượu Hồng Đào ............................................................................................ 23 
2.4 Tổng thể nền ẩm thực .......................................................................................... 24 
3. Chương 3. Giữ gìn và phát huy nền văn hóa ẩm thực ........................................ 25 
3.1 Thực trạng ngày nay ............................................................................................ 25 
3.2 Giải pháp ............................................................................................................. 26 
C. KẾT LUẬN ............................................................................................................. 28 
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 29     
A. MỞ ĐẦU 
1. Lí do chọn đề tài 
"Văn hoá" là một khái niệm mang nhiều định nghĩa, nếu để đánh giá con người 
thì văn hoá dùng để chỉ học thức (trình độ văn hoá) hay lối sống con người (nếp sống 
văn hoá), nếu để đánh giá một khu vực một quốc gia thì văn hoá dùng để chỉ trình độ 
phát triển của từng giai đoạn lịch điển hình như văn hoá Đông Sơn... Nếu đưa "văn hoá" 
vào lăng kính tổng quan thì nó bao hàm tất cả từ những sản phẩm hiện đại tinh vi cho 
đến lối sống, phong tục, tín ngưỡng... Vì vậy có thể định nghĩa khái quát văn hoá có 
nghĩa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra và tích luỹ thông 
qua các hoạt động sống. 
Ẩm thực là một bình diện không thể không bàn đến khi nhắc đến văn hoá của một 
đất nước, một vùng miền. Việc ăn uống khi xưa được xem là việc làm để duy trì sự 
sống, "có thực mới vực được đạo". Xã hội về sau càng phát triển, khi này "ăn no" thôi 
là chưa đủ, cần phải "ăn ngon". Từng cộng đồng người ở từng khu vực khác nhau chịu 
ảnh hưởng của điều kiện sống, lối sinh hoạt khác nhau nên vì thế ở cùng một đất nước 
nhưng lối văn hoá ẩm thực lại không hề trùng lặp giữa các vùng địa lý. Cái ngon ở vùng 
này không quy định cái ngon ở vùng khác, từ đây mà văn hoá ẩm thực trở thành một 
chủ đề thu hút sự khám phá cho đến ngàn năm sau. 
Văn hoá ẩm thực Việt Nam vô cùng đa dạng và phong phú, từ vùng cao nguyên 
cho đến đồng bằng, từ những món ăn dân dã cho đến những món ăn cung đình chế biến 
đầy kì công. Trong vô vàn những nét đẹp ẩm thực Việt Nam ấy, chúng em lựa chọn chủ 
đề "Văn hoá thực Duyên hải Nam Trung Bộ" như một đoá hoa mang hương sắc riêng 
trong một vườn hoa thơm ngát. Duyên hải Nam Trung Bộ vốn là nơi sinh ra và lớn lên 
của ba trong sáu thành viên nhóm chúng em, vì vậy ẩm thực Duyên hải Nam Trung Bộ 
ít nhiều đã góp phần tạo nên tuổi thơ và sự trưởng thành của chúng em ngày hôm nay. 
2. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu 
Với đề tài này, nhóm chúng em sẽ làm rõ đặc trưng và nét đặc sắc trong văn hoá 
ẩm thực miền Duyên hải Nam Trung Bộ thông qua một số món ăn, thức uống tiêu biểu  1     
của khu vực này. Đồng thời nhận thức hiện trạng thực tế ngày nay của nền ẩm thực này, 
từ đó với cái nhìn tổng quát, khách quan có thể đưa ra những giải pháp phù hợp để duy 
trì và phát triển văn hoá ẩm thực nơi đây. 
Hiệu quả mà chúng em mong muốn đạt được qua bài tiểu luận này đó là thể hiện 
được cả vẻ đẹp diện mạo lẫn vẻ đẹp tiềm tàng của nền văn hoá ẩm thực Duyên hải Nam 
Trung Bộ, hơn thế nữa là một phần nào đó có thể đem ẩm thực nơi đây đến gần hơn với 
khẩu vị khắp nơi trên mọi miền đất nước. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
Đầu tiên, tham khảo tài liệu về nội dung nghiên cứu, sau đó chọn lọc và tổng hợp 
thông tin, từ đó vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống nhằm phân tích và đánh giá, 
nhận xét vấn đề. Từ những nội dung đã nắm bắt được, rút ra kết luận phù hợp mang tính  khách quan. 
4. Kết cấu tiểu luận 
Tiểu luận bao gồm 3 phần:  Phần A: Mở đầu  Phần B: Nội dung 
- Chương 1: Khái quát chung 
- Chương 2: Văn hoá ẩm thực Duyên hải Nam Trung Bộ 
- Chương 3: Giữ gìn và phát huy nền văn hoá ẩm thực  Phần C: Kết luận      2      B. NỘI DUNG 
1. Chương 1. Khái quát chung 
1.1 Các đặc trưng và chức năng của văn hóa 
Văn hóa gồm có bốn đặc trưng cơ bản, trong mỗi đặc trung sẽ thể hiện các chức  năng của văn hóa. 
Đặc trưng thứ nhất, là tính hệ thống. Đặc trưng này cần có để phân biệt hệ thống 
với tập hợp của nó, phát hiện những mối liên hệ gắn bó giữa các sự việc, hiện tượng 
trong một nền văn hóa, đồng thời phát hiện những đặc trưng, quy luật hình thành và 
phát triển của nó. Tính hệ thống là cơ sở cho công việc thực hiện chức năng tổ chức xã 
hội. Bởi vì văn hóa vốn là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thường 
xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết 
để ứng phó với môi trường của mình. Hơn hết, văn hóa là nền tảng của xã hội – có lẽ vì 
vậy mà người Việt Nam gọi tên khái niệm của văn hóa là “nền văn hóa”. 
Đặc trưng thứ hai, là tính giá trị. Đặc trưng này là thước đo mức độ nhân bản 
của con người và xã hội. Tính chất của văn hóa được mặc định là “trở thành đẹp, thành 
có giá trị”, vì vậy tính giá trị cần có nhằm mục đích phân định giữa giá trị với phi giá 
trị, nó là thước đo mức độ nhân bản của con người và xã hội. Tùy theo mục đích, có thể 
chia các giá trị văn hóa thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần; tùy theo ý nghĩa có thể 
chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẫm mĩ; tùy theo thời gian có thể 
phân biệt thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Về mặt k
 hông gian, cùng một hiện 
tượng có thể sinh ra giá trị nhiều hay ít phụ thuộc vào phương diện được xem xét. Muốn 
kết luận một hiện tượng sự việc có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải nhìn nhận 
về mối tương quan giữa các mức độ giá trị và phi giá trị của nó. Về mặt thời gian, cùng 
một hiện tượng sẽ sinh ra giá trị hay không tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa cùa từng 
giai đoạn lịch sử. Bên cạnh chức năng là thước đo mức độ nhân bản, chức năng điều 
chỉnh xã hội được thực hiện nhờ thường xuyên xem xét các giá trị văn hóa. Chức năng 
này giúp cho xã hội duy trì trạng thái cân bằng động, tức là không ngừng tự hoàn thiện 
và thích ứng với những thay đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực. Động 
lực cho sự phát triển của xã hội cũng từ đó được tạo ra.  3     
Đặc trưng thứ ba, là tính nhân sinh. Đặc trưng này định nghĩa văn hóa như là 
một hiện tượng xã hội do con người sáng tạo với các giá trị tự nhiên. Văn hóa ở đây là 
cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có 
thể mang tính vật chất (ví dụ như luyện quặng, đẽo gỗ…) hoặc tinh thần (ví dụ như 
truyền thuyết về cảnh quan thiên nhiên). Tính nhân sinh khiến chức năng giao tiếp được 
thực hiện, từ đây văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người. Nếu như 
nói ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa sẽ là nội dung của giao tiếp. 
Đặc trưng thứ tư, là tính lịch sử. Đặc trưng này định nghĩa văn hóa như là sản 
phẩm của một quá trình tích lũy qua nhiều thế hệ, trong đó “văn minh” là sản phẩm cuối 
cùng cho thấy trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa bề 
dày song song với chiều sâu, quy định văn hóa phải luôn tự điều chỉnh, tiến hành phân 
loại và phân bố lại các giá trị. Để duy trì tính lịch sử cần có truyền thống văn hóa, đó là 
những giá trị tương đối ổn định, cụ thể là những kinh nghiêm tập thể, chúng được tích 
lũy và tái tạo trong cộng đồng người thông qua không gian và thời gian, sau đó đúc kết 
thành những khuôn mẫu xã hội và cố định dưới dạng ngôn ngữ, nghi lễ, tập quán, phong 
tục, dư luận, luật pháp… Giáo dục đã duy trì sự tồn tại của truyền thống văn hóa, và nó 
cũng là một chức năng quan trọng của văn hóa. Tuy nhiên, văn hóa thực hiện chức năng 
giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã trở thành truyền thống, mà còn bằng những 
giá trị đang hình thành. Cả hai loại giá trị này cùng tạo ra một hệ thống chuẩn mực để 
con người hướng tới, thông qua đó văn hóa có vai trò quyết định trong việc hình thành 
nhân cách con người. Nối tiếp chức năng giáo dục, chức năng phát sinh giúp cho tính 
kế tục của lịch sử được đảm bảo trong văn hóa, nó là nguyên do cho sự kế thừa phẩm 
chất ở những thế hệ sau. 
1.2 Quan niệm của người Việt Nam về ẩm thực 
Văn hóa ẩm thực là một loại hình văn hóa tự nhiên được hình thành từ trong 
đời sống sinh hoạt thường ngày của con người. Đối với người Việt, ẩm thực không chỉ 
là nét văn hóa về vật chất mà còn có vai trò củng cố đời sống tinh thần, một món ăn 
không đơn thuần chỉ để no bụng hay ngon miệng mà trong đó còn hàm chứa những ý 
nghĩa sâu sắc, gắn bó với mọi mặt đời sống xã hội. Từ t ời
h xưa, ông bà ta quan niệm 
“Có thực mới vực được đạo”, xem việc ăn uống là cơ sở để tồn tại và thực hiện tất cả  4     
các hoạt động xã hội. Việc ăn uống l 
à một việc hệ trọng mà mọi con người, kể cả trời 
đất và thánh thần đều phải tôn trọng, thể hiện trong câu nói “Trời đánh còn tránh miếng 
ăn”. Điều này cũng được thể hiện qua việc cúng dâng lễ vật lên thánh thần. Những đồ 
ăn, thức uống chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong việc dâng cúng, chúng phải được 
nấu nướng hết sức cẩn thận và tươm tất, ngoài ra còn phải bày biện làm sao để thể hiện 
sự trang trọng và thái độ thành kính. 
Như một số quốc gia phương Đông, ẩm thực Việt Nam chú trọng sự hài hòa, 
cân bằng giữa âm với dương, giữa thiên nhiên với con người. Trong các khâu chế biến 
món ăn, cần tuân thủ luật âm dương chuyển hóa và bù trừ thông qua việc kết hợp các 
loại thực phẩm và gia vị với nhau để tạo nên các món chuẩn, những món ăn đạt chuẩn 
như vậy mới ngon miệng và có lợi cho sức khỏe. Bên cạnh đó, một món ăn cũng phải 
đảm bảo sự quân bình âm dương trong cơ thể người. Thức ăn đối với người Việt còn là 
phương thuốc để chữa bệnh. Trong quan niệm người xưa, mọi bệnh tật phát sinh là vì 
cơ thể bị mất cân bằng âm dương, khi này dung nạp thức ăn vào cơ thể có thể điều chỉnh 
âm dương khiến cho cơ thể lành bệnh. Ngoài ra, trong một món ăn cần tồn tại sự cân 
bằng âm dương giữa con người và môi trường bên ngoài. Chính vì lẽ ấy mà người Việt 
Nam sở hữu tập quán ăn uống theo mùa và theo vùng khí hậu. Ví dụ như trong mùa hè 
nóng bức, người ta thường dùng những loại thức ăn có tính hàn để giải nhiệt, có vị chua 
để dễ chua và dễ tiêu hóa. Còn vào mùa đông rét buốt, người ta thường dùng những 
món ăn khô, nhiều dầu mỡ như các món kho, món xào, món rán… 
1.3 Khái quát về vùng văn hóa Trung Bộ và tiểu Nam Trung Bộ 
Trước khi có sự xuất hiện của người Việt, vùng trung bộ nước ta hiện nay từng 
thuộc các tiểu quốc của vương quốc Chăm Pa với nền văn hóa Chăm Pa rực rỡ một thời. 
Chính vì vậy mà văn hóa Trung Bộ chịu ảnh hưởng nhiều nét của nền văn hóa Chăm 
Pa đến tận hôm nay. Trong ba vùng văn hóa của Việt Nam, Trung Bộ sở hữu đặc tính 
rõ nét là một vùng đệm mang tính trung gian. Điều này hình thành từ sự tác động của 
các yếu tố tự nhiên như sông, núi, biển, đầm phá… vào trong các thành tố văn hoá vùng, 
từ diện mạo bên ngoài đến các phương diện khác. Chúng ta có thể nhận thấy thông qua 
các loại hình văn hóa, phong tục tập quán nói chung và cuộc sống ở các làng, xã đồng 
bằng ven biển nói riêng. Do vị trí trí địa lý mà khí hậu quanh năm trong vùng không  5     
thuận lợi, hàng năm thường xuất hiện nhiều thiên tai như bão, lũ, hay hạn hán và tính 
chất văn hoá vùng miền cũng chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện tự nhiên khắc 
nghiệt này. Tuy văn hóa Trung Bộ có những đặc điểm riêng biệt với các vùng khác, 
nhưng xuất phát điểm là từ hệ thống địa lý liền một dải, kèm theo là mối quan hệ tương 
hỗ giữa các vùng miền trong lịch sử phát triển nên vùng văn hóa Trung Bộ vừa mang 
đặc trưng riêng nhưng lại ừ
v a tương đồng với các nền văn hoá chính thể. 
Duyên hải Nam Trung Bộ là một tiểu vùng văn hóa Trung Bộ, vị trí cụ thể thuộc 
Đồng bằng Duyên hải miền Trung. Nơi đây là vùng đất nổi tiếng với bề dày lịch sử – 
văn hóa, trải dài từ t ờ
h i kì nguyên sơ với văn hóa Sa Huỳnh, sau đó là văn hóa Chăm 
Pa, rồi đến văn hóa Việt Nam sau này. Văn hóa Chăm Pa cổ là nét văn hóa tiêu biểu 
làm nên tính độc đáo của vùng đất này, nơi đây cũng chính là cái nôi hình thành và phát 
triển của nhiều nền văn hóa lâu đời. Cũng giống như vùng Trung Bộ rộng lớn, nền văn 
hóa nơi đây cũng chịu sự ảnh hưởng phần nào từ các yếu tố tự nhiên, thể hiện qua các 
tập tục xã hội, loại hình văn hóa nói chung và đời sống sinh hoạt trong các làng, xã đồng 
bằng ven biển nói riêng. Duyên hải Nam Trung Bộ nổi tiếng với các làng nghề truyền 
thống như làng dệt, làng gốm… Văn hóa truyền thống của vùng đất này còn mang màu 
sắc sôi nổi, rực rỡ của các lễ hội truyền thống đặc sắc như lễ hội Cầu Ngư (Khánh Hòa), 
lễ hội Katê (Ninh Thuận – Bình Thuận)… Khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ cùng với 
các vùng văn hóa khác đem đến cho văn hóa Việt Nam những mảng màu đa sắc, xinh 
đẹp và đầy lôi cuốn. 
Miền Trung vốn sở hữu khí hậu đặc biệt hơn những vùng địa lý khác bởi quanh 
năm mùa nóng thì hạn hán và nắng đổ lửa, nhưng qua mùa mưa thì bão lũ kéo đến mang 
theo cái lạnh giá trét. Thiên nhiên ít dung hòa nên vì thế con người nơi đây sở hữu lối 
văn hóa ẩm thực rất khác biệt. Khẩu vị của người miền Trung ưa đậm đà, nên các món 
ăn của họ mang nhiều vị mặn, nồng độ mạnh và quan niệm về chế biến bữa ăn thường 
ngày của họ là "chặt to kho mặn". Những thứ gia vị như tiêu, ớt ,tỏi, mắm, gừng luôn 
góp mặt trong các bữa ăn vào những ngày thời tiết trở lạnh. Cụ thể hơn với vùng Đồng 
bằng Duyên hải miền Trung, nổi bật do có vị trí giáp biển nên ẩm thực nơi đây lại mang 
đậm nét văn hóa duyên hải. Nguồn nguyên liệu thực phẩm của cư dân duyên hải chủ 
yếu là cá và thủy hải sản, đây là những thực phẩm thiên về tính hàn. Vì thế khi chế biến  6     
món ăn, họ thường nấu kèm các gia vị có tính nhiệt mang đậm mùi vị cay nồng, các gia 
vị đó được dùng không chỉ để trung hòa với nguyên liệu mà còn có tác dụng khử mùi 
tanh của cá và thủy hải sản. Sự góp mặt của các loại gia vị nồng đậm trong các món ăn 
của người dân vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đã góp phần tạo nên đặc trưng văn hóa  ẩm thực nơi đây.   
2. Chương 2. Văn hóa ẩm thực Duyên hải miền Trung  2.1 Món mặn 
2.1.1 Gỏi cá Nam Ô   
Gỏi cá Nam Ô là một món ăn đặc sản của Đà Nẵng, nó được đặt tên từ chính 
nơi mà nó được sinh ra, đó là làng Nam Ô thuộc phường Hoà Hiệp, quận Liên Chiểu, 
thành phố Đà Nẵng. Đây là một làng chài nhỏ, người dân nơi đây sinh sống chủ yếu 
dựa vào nghề đánh bắt cá. Gỏi cá Nam Ô là món ăn góp mặt từ những bữa cơm thân 
mật cho đến những đám tiệc hội ngộ, bất cứ người dân Nam Ô nào cũng đều biết cách 
chế biến và tạo ra cùng một hương vị hấp dẫn như có bí quyết gia truyền. Món ăn dân  7     
dã này trở thành đặc sản được người Nam Ô sử dụng trong nhiều dịp ăn uống khác  nhau. 
Món ăn được chế biến từ những lứa cá trích tươi sống do người dân tự đánh bắt 
nên vì vậy món gỏi cá được ăn tại nơi đây sẽ mang hương vị tươi ngon, đặc biệt là ngọt 
vị hơn. Gỏi cá trích được chế biến theo hai dạng là gỏi khô và gỏi ướt tùy theo nhu cầu 
và khẩu vị. Gỏi khô phù hợp với người mới bắt đầu ăn, vẫn chưa quen với mùi vị của 
cá sống. Gỏi ướt ngược lại dành cho những người sành ăn, đã quen và ưa thích vị tươi 
ngon của cá sống. Cả hai dạng ướt và khô đều được làm từ cá trích tươi, chỉ có sự khác 
biệt ở công đoạn chế biến cuối cùng.   
Gỏi cá Nam Ô tuy được chế biến không quá công phu, nhưng người chế biến 
phải nắm rõ những chi tiết nhỏ nhất trong quá trình thực hiện, đặc biệt là công thức tẩm 
ướp cá và làm nước chấm. Sự thành công của món gỏi phụ thuộc rất nhiều vào cách pha 
nước chấm. Nước chấm gỏi cá đạt chuẩn phải mang hương thơm của các loại lá cây hòa 
quyện với vị cay tê tê đầu lưỡi của ớt. Để thưởng thức món ăn một cách trọn vẹn, nên 
ăn kèm gỏi cùng với bánh tráng và các loại rau như dưa leo, lá đinh lăng, tía tô, xoài  xanh nạo sợi... 
Trong việc chế biến món gỏi cá Nam Ô, khâu chuẩn bị và sơ chế rất quan trọng 
vì quyết định mùi vị tươi ngon mà không tanh của cá. Cá trích tươi đầu tiên sẽ ướp sơ 
cùng muối và giấm rồi rửa sạch để đánh bay mùi tanh. Các bộ phận của cá bao gồm 
đầu, vảy, ruột, xương đều được loại bỏ và chỉ giữ lại phần thịt được cắt thành miếng dài  8     
vừa ăn. Tiếp đến là công đoạn ướp cá, hỗn hợp gia vị ướp bao gồm gừng, ớt, tỏi băm 
nhỏ hoà cùng nước cốt chanh ướp với cá trong khoảng mười phút rồi vớt ra và để cá 
ráo. Đến với công đoạn trộn gỏi, khi này có thể chế biến theo hai cách là gỏi khô hoặc 
gỏi ướt. Đối với gỏi khô, cá sau khi đã tẩm ướp sẽ trộn cùng lạc, mè và bánh tráng đã 
giã mịn sao cho các nguyên liệu ấy bám quanh miếng cá. Đối với gỏi ướt, trộn cá cùng 
với hỗn hợp nước mắm pha với tỏi, gừng, nước cốt chanh và khi thưởng thức món ăn 
sẽ rắc lên trên ít mè lạc để tăng thêm hương vị cũng như trông đẹp mắt. Trong món ăn 
này, nước chấm cá cũng chiếm một phần quan trọng trong việc quyết định hương vị 
đậm đà của món ăn, nó được chế biến từ cà chua tươi xay nhuyễn nấu sệt rồi hoà cùng 
nước mắm đặc sản Nam Ô. Món ăn hoàn toàn là cá tươi sống kết hợp cùng với các loại 
gia vị nồng đậm sẽ mang đến một trải nghiệm mới lạ kích thích vị giác. 
Món ăn có thể được thưởng 
thức với nhiều cách khác nhau, một 
trong những cách ăn được ưa 
chuộng đó là cuốn cá và các loại rau 
cùng với bánh tráng sau đó chấm 
cuộn gỏi ấy vào nước chấm và 
thưởng thức. Chúng ta sẽ cảm nhận 
được sự kết hợp tuyệt vời giữa sự 
ngọt mềm của thịt cá và sự thơm mát của các loại rau, chấm phá bởi sự cay the của ớt 
tạo ra một hương vị khó phai. Bên cạnh đó, một cách thưởng thức gỏi cá cuốn hút không 
kém đó là cho cá và rau lên một miếng bánh tráng nướng giòn tan, rưới một ít nước 
chấm lên và thưởng thức. Dù với cách ăn nào thực khách cũng có thể cảm nhận được 
vị tươi ngon của cá trích và lối pha trộn gia vị độc đáo của miền Nam Trung Bộ. 
Gỏi cá Nam Ô đã trở thành một món ăn đặc sắc góp phần tô nên nét đẹp văn 
hóa ẩm thực tại miền Trung khiến bao thực khách có cơ hội được trải nghiệm đều say 
mê hương vị tuy giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng lôi cuốn ngay từ lần đầu tiên.   
2.1.2 Mì Quản  g 9       
Mì Quảng cho chúng ta biết về nguồn gốc ra đời của nó ngay từ tên gọi, nó ra 
đời và phổ biến tại tỉnh Quảng Nam cho đến ngày hôm nay. Bên cạnh nguồn gốc ra đời 
như bất cứ ai cũng biết, tên gọi “mì Quảng” còn là do sự giao thoa văn hóa ẩm thực vào 
thời chúa Nguyễn, những thương nhân người Tàu đến vùng đất Hội An và mang theo 
lối ẩm thực của họ du nhập vào vùng đất này, nói cách khác mì Quảng có nguồn gốc 
sâu xa là một món ăn của người Tàu. 
Sợi mì Quảng được chế biến từ bột gạo xay mịn, màu vàng bắt mắt của nó là 
do bột hòa cùng trứng và nước chắt từ hạt quả dành dành. Khối bột sau đó sẽ được cán 
mỏng và cắt thành những sợi bản dẹt vừa ăn. Khi bày biện ra bát dùng, đầu tiên người 
ta sẽ xếp một lớp các loại rau sống với hương vị nồng nàn đó là xà lách, rau cải non, 
húng quế, giá đỗ trụng chín hoặc để sống, ngò rí, rau răm, hành hoa thái nhỏ và hoa 
chuối xắt mỏng. Sau đó, cho phần mì lên lớp rau ấy. Bên trên phần mì sẽ là phần 
“topping” vô cùng đặc sắc bao gồm tôm, thịt heo, thịt gà hoặc thịt ếch, cá lóc. Cuối 
cùng là chan một ít nước dùng hầm từ xương heo vào bát. Để tăng thêm hương vị cho 
món ăn, người ta dùng kèm mì với bánh tráng mè và lạc rang. Không giống như phở 
hay các bánh dùng trong các món nước khác, nước dùng của mì Quảng có độ đặc và 
sệt, ngon ngọt từ các loại nguyên liệu và đặc biệt là chỉ chan xăm xắp mặt bánh. 
Giống như mỗi con người sẽ sở hữu một tính cách riêng biệt thì mỗi vùng miền 
cũng mang nét đặc trưng bởi những món ăn chỉ có riêng tại vùng miền đó. Mỗi món ăn  10     
sẽ mang đến hương vị trọn vẹn khi ta thưởng thức theo cách riêng của nó. Cách ăn đúng 
của món mì này rất đơn giản, chỉ cần bỏ rau sống và bánh tráng đã bẻ nhỏ vào bát mì, 
trộn đều lên và thưởng thức. Khi ăn, chúng ta sẽ cảm nhận được sự mềm mại của từng 
sợi mì và cảm giác giòn tan của bánh tráng. Hai thứ này đối lập nhau nhưng chúng kết 
hợp với nhau cho người ăn một cảm giác lạ miệng và không bị ngấy. Một điều cần lưu 
ý khi chế biến món mì Quảng cũng như thưởng thức chúng là không nên để nước dùng 
chan vào bát không nên quá nóng, điều này sẽ làm cho bánh tráng nhanh mềm và không 
còn giòn. Mặt khác, nước dùng trong bát cũng không được nguội vì nó sẽ khiến cho 
món ăn mất đi vị ngon của mì và các nguyên liệu ăn kèm. 
Mì Quảng đã chứng minh được sức hấp dẫn của nó vượt qua thời gian, nó không 
còn là một món ăn đơn thuần để phục vụ nhu cầu ăn uống cho người dân Quảng Nam 
mà ngày nay mì Quảng đã hóa nên vẻ đẹp độc đáo của nền văn hóa ẩm thực Nam Trung 
Bộ nói riêng và ẩm thực Việt nói chung. Hiện nay, mì Quảng là cái tên được xếp vào 
danh sách 12 món ăn của Việt Nam được công nhận giá trị ẩm thực Châu Á.      11     
2.1.3 Chả cá Sa Huỳnh   
Sa Huỳnh là một vùng biển xinh đẹp thuộc tỉnh Quảng Ngãi, nơi đây sở hữu 
lượng hải sản dồi dào được và được ngư dân tận dụng chế biến thành đa dạng món ngon 
phục vụ trong bữa ăn. Món chả cá Sa Huỳnh là một trong những món ăn rất được lòng 
khách du lịch khi ghé đến vùng đất Quảng Ngãi và chọn nó làm quà mang về cho gia 
đình bởi mùi vị thơm ngon, dễ ăn và có thể kết ợ h p trong nhiều món ăn. 
Chả cá được chế biến từ những lứa cá tươi vừa được đánh bắt về, trong đó cá 
thu, cá nhồng, cá chuồn, cá đục… là những loại cá được ứng dụng nhiều để làm chả vì 
chúng ít xương và thịt ngọt đậm đà. Cá tươi sẽ được lóc xương rồi đem phần thịt xay 
nhuyễn cùng với một số gia vị như bột ngọt, muối, hành, tỏi, tiêu và lòng trắng trứng 
gà, dầu ăn để tạo độ dai cho món chả. Sau đó là khâu tạo hình cho từng miếng chả, 
thường sẽ tạo thành hình tròn có kích thước bằng một chiếc đĩa, khi dùng cắt thành từng 
miếng nhỏ vừa ăn. Chả cá có thể rán hoặc hấp đều cho ra hương vị đậm đà, beo béo của 
cá. Chả cá Sa Huỳnh kết hợp trong đa dạng các món ăn, từ dùng ăn với cơm, làm nhân 
bánh mì đến làm topping cho món bún nước lèo. Ngoài ra, một cách thưởng thức món 
chả cá rất được ưa chuộng đó là cuốn chả cùng rau thơm, khế chua, chuối chát với bánh 
tráng và chấm cùng với nước mắm tỏi ớt cay cay, chua chua của Sa Huỳnh. Hương vị 
thươm ngọt và beo béo từ chả hòa cùng với vị chua của khế, vị chát của chuối, vị thanh 
mát của rau thơm tạo ra một cảm nhận hài hòa cho vị giác.  12         
2.1.4 Chả lụi Lagi    
Chả lụi là một món ăn độc đáo bắt nguồn từ thị xã Lagi thuộc tỉnh Bình Thuận. 
Sở dĩ có tên gọi là “chả lụi” vì những miếng chả trước khi đem nướng than sẽ được xiên 
bằng những que tre nhỏ vót nhọn, “lụi” tức là hành động xiên chả vào que. Người đầu 
tiên sáng tạo và chế biến ra món ăn đặc sản này là một người dân sống ở thị xã Lagi 
cách đây khoảng hai mươi năm về trước. 
Nguyên liệu chính làm ra chả lụi đó là tôm, thịt lợn và bánh tráng. Đầu tiên, thịt 
ba rọi và tôm tươi được xay nhuyễn đem ướp cùng với tỏi, hành tím và các loại gia vị 
là đường, bột ngọt, muối, tiêu sao cho hài hòa mặn ngọt. Công đoạn xay có thể lặp lại 
nhiều lần để tạo ra hỗn hợp nhân mềm mịn và ngấm đều gia vị. Tiếp theo là công đoạn 
cuốn bánh tráng, bánh tráng được cắt thành miếng nhỏ mềm dẻo và không quá mỏng,  13     
sau đó đặt phần nhân đã xay nhuyễn ở giữa tấm bánh tráng rồi gói lại thành hình vuông 
vức. Dùng que xiên chả và nướng chúng trên bếp than đến khi chả xém cạnh, khi này 
chả vừa chín bên trong vừa giòn bên ngoài. Nước chấm của món chả lụi này được pha 
từ nước mắm ngọt kết hợp với nước cốt me, cà chua nhuyễn và có thể cho thêm ớt và 
lạc rang để tăng thêm hương vị.   
Chả lụi Lagi thể hiện trọn vẹn vị ngon khi kết hợp cùng rau thơm, xà lách, dưa 
leo và xoài xanh, tất cả cuốn lại bằng một tấm bánh tráng dẻo mềm, sau đó chấm ngập 
trong chén nước chấm riêng. Cắn bên ngoài là phần bánh tráng giòn rụm, lớp nhân tôm 
thịt nóng hổi bên trong như tan ra. Chúng ta có thể trải nghiệm hai hương vị khác biệt 
khi chấm hoặc không chấm chả lụi với nước chấm. Món ăn này tuy không cầu kì và 
cách chế biến không quá công phu nhưng hương vị nó mang lại khiến cho người thưởng 
thức khó lòng quên được bởi sự kết hợp hài hòa của các nguyên liệu và cách ăn không 
bao giờ gây ngấy. Xuất phát từ thị trấn Lagi, món chả lụi nhanh chóng lan rộng đến 
nhiều nơi vượt ra khỏi địa giới Trung Bộ, ngày nay trở thành một món ăn khá được ưa 
chuộng trong giới ẩm thực đường phố. Tùy theo khẩu vị của từng khu vực mà cách nêm 
nếm sẽ thay đổi nhưng vẫn giữ nguyên hương vị tôm thịt hài hòa và lớp vỏ bánh tráng  giòn tan.    2.2 Món bánh 
2.2.1 Bánh căn Phan Rang  14       
Không giống như một số món ăn dân dã khác, sự xuất hiện lần đầu tiên của 
bánh căn như thế nào thì không được nhắc tới. Món bánh này chỉ được biết đó là một 
món ăn phổ biến của các dân tộc người Chăm đến từ vùng đất Panduranga, sinh sống 
tại tỉnh Ninh Thuận khi xưa. Cho đến ngày nay, nó đã trở thành một món ăn gắn bó sâu 
đậm cùng với người dân và hóa thành nét đẹp ẩm thực của thành phố Phan Rang. Theo 
thời gian, bánh căn đã được chuyển hóa thành hương vị thuần Việt do sự mày mò và 
sáng tạo của người dân biến món ăn thêm phần đặc sắc, cụ thể là tạo ra đa dạng các loại 
nhân khác nhau của bánh hay làm ra nhiều loại nước chấm khác nhau phục vụ từng  khẩu vị. 
Nguyên liệu chính của bánh căn 
đó là gạo tẻ, sau khi chúng được ngâm 
nước sẽ trộn với cơm nguội và một lượng 
nước vừa phải rồi xay nguyễn hỗn hợp 
thành bột sệt. Công đoạn này cần sự tỉ mỉ 
trong việc cân đo đong đếm của người 
chế biến, vì nếu nhiều nước th ìbánh sẽ 
bị nhão hoặc ít nước thì bánh sẽ bị khê 
khi nướng. Bánh căn Phan Rang chuẩn 
phải được đổ trong khuôn thân tròn làm 
bằng đất nung với nhiều lỗ trên mặt lò để đặt khuôn bánh. Một chiếc bánh căn ngon  15     
được quyết định chủ yếu vào phần gạo làm bột bánh, gạo dùng trong món này phải là 
gạo cũ để thành phẩm sau khi nướng được giòn mà không bị nhão, nát. Không giống 
như bánh khọt ở miền Nam, khi làm bánh căn đổ bột vào khuôn không cần thêm quá 
nhiều dầu mỡ vào, để dễ dàng lấy bánh ra khỏi khuôn thì chỉ cần tráng nhẹ một lớp dầu 
mỏng, vì vậy khi ăn bánh căn không gây ra cảm giác ngấy. Khi đổ bánh, cần đổ một 
lượng bột bánh vừa phải vào khuôn và đậy nắp lại. Trong công đoạn này, phải quạt than 
thật đều một cách liên tục để lửa không bị tắt, có như vậy thì bánh sau khi nướng mới 
đạt được kết cấu mong muốn. Bánh căn chỉ nướng được khi lò than đã đỏ rực và cảm 
nhận được hơi nóng tỏa ra từ khuôn. Bánh nếu nướng bằng bếp dầu hay bếp gas sẽ dai 
và không được giòn, thơm. Công đoạn lấy bánh ra khỏi khuôn cũng rất cần sự tỉ mỉ, 
bánh lấy ra phải nguyên vẹn khi lớp vỏ bên ngoài có màu vàng nhạt và không được để 
khét. Bánh căn sau khi nướng sẽ tạo ra thành phẩm với lớp vỏ giòn xốp, hơi dẻo và tỏa 
ra mùi hương đặc trưng. Nước chấm ăn cùng với món ăn này khá đa dạng, thường dừng 
nhất là nước mắm tỏi ớt pha loãng, mắm nêm và đặc biệt là nước cá. Bánh căn không 
tính từng cái mà tính theo cặp, hai chiếc bánh úp vào nhau và ở giữa là hành lá thái nhỏ. 
Bánh căn truyền thống của người Chăm chỉ đơn giản như thế, dần về sau người dân 
Phan Rang đã sáng tạo, kết hợp bánh căn ăn kèm với nhiều nguyên liệu khác như trứng, 
tôm, mực… đáp ứng sự nâng cao của nhu cầu ăn uống. 
Chúng ta có thể thưởng thức món bánh căn Phan Rang ở bất kì đâu trên đường 
phố khi đến với nơi đây, tuy nhiên những khu vực có nhiều người Chăm sinh sống sẽ 
là nơi phù hợp nhất để ta có thể trải nghiệm rõ nhất hương vị nguyên bản của món bánh 
hấp dẫn này. Dù mang vẻ bề ngoài tương tự như bánh khọt hay bánh xèo nhưng hương 
vị và văn hóa thưởng thức bánh căn Ninh Thuận lại mang nét đặc sắc khiến món ăn này 
ghi dấu ấn khó phai trong lòng thực khách. Cách thưởng thức bánh căn ở Ninh Thuận 
khá phong phú, trong đó phải nhắc đến dùng bánh căn với phần nước chấm đậm chất 
miền duyên hải. Nước chấm đặc sản này được kho từ cá nục, cá ngừ cùng với hành, dưa 
mang đến hương vị đậm đà cho món bánh. Khi dùng, người ta cho một ít xoài bào vào 
nước chấm để gia tăng hương vị. Theo lối thưởng thức truyền thống của người Chăm, 
khi ăn đầu tiên sẽ nghiền nát bánh, sau đó chan các loại mắm vào và ăn kèm với dưa 
leo, xoài xanh… Khi này, ta sẽ được một pha trải nghiệm thị giác và vị giác vô cùng 
đặc sắc. Màu vàng và vị giòn xốp của bánh kết hợp cùng màu sẫm và vị mặn của mắm  16     
cá, bên cạnh đó là sự góp mặt của xoài, ớt, chanh tạo ra màu sắc bắt mắt và hương vị 
hòa quyện đầy kích thích. Với những thực khách không chuộng vị nồng đậm đặc trưng 
của nước cá hay mắm nêm, hoàn toàn có thẻ dùng bánh với nước mắm tỏi ớt, ăn kèm 
cùng rau sống và giá đỗ cũng có thể cảm nhận được vị ngon đặc sắc của bánh căn Phan  Rang.   
2.2.2 Bánh đập   
Bánh đập hay còn có tên gọi khác là bánh chập, đây là một loại bánh được ưa 
chuộng và khá phổ biến ở các tỉnh ven biển Miền Trung Việt Nam từ Quảng Nam đến 
Khánh Hoà, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là ở tỉnh Quảng Ngãi. 
Để làm ra những chiếc bánh đập, phải sử dụng loại gạo tẻ thơm vì chúng có độ 
dai vừa phải và tạo cho bánh mùi vị ngọt bùi, mặt bánh trắng và láng. Gạo sau khi xay 
nhuyễn cùng với nước sẽ cho ra hỗn hợp bột hơi sệt không quá lỏng hay quá đặc, múc 
từng gáo bột tráng cách thuỷ từng lớp bột thật mỏng rồi đậy vung lại chờ đến khi bột 
chín. Người chế biến sẽ phải khéo léo lấy bánh ra khỏi khuôn bằng một chiếc thanh tre 
mỏng. Công đoạn này tưởng chừng đơn giản nhưng để cho ra một chiếc bánh đập 
nguyên vẹn đẹp mắt, người làm bánh cần có sự tỉ mỉ, khéo léo từ những chi tiết nhỏ 
nhất. Những chiếc bánh ướt vừa lấy ra khỏi khuôn sẽ được úp chồng lên một mặt bánh  17    
