Văn mẫu Phân tích nhân vật Vũ Nương | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Tài liệu tham khảo Khoa học tự nhiên và công nghệ | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

Văn mẫu Phân tích nhân vật Vũ Nương
Phân tích Vũ Nương mẫu 1
Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Tuyết giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm sống giữa
thế kỉ XVI lúc mà chế độ phong kiến nhà Lê đang bắt đầu suy yếu. Nguyễn Dữ chỉ làm
quan có một năm rồi về sống ẩn dật viết sách và sáng tác văn học. Chuyện người con
gái Nam Xương được rút ra trong tập Truyền kì mạn lục, là một câu chuyện được nhà
văn sáng tạo trở thành một tác phẩm văn học đích thực. Qua câu chuyện ta thấy nổi lên
là nhân vật Vũ Nương với số phận và phẩm chất cao đẹp.
Số phận của Vũ Nương là một tấn bi kịch đầy thương tâm. Vũ Nương được giới thiệu
là người phụ nữ phong kiến mang vẻ đẹp truyền thống “công – dung – ngôn – hạnh”.
Bằng sự đồng cảm sâu sắc và tấm lòng trân trọng nâng niu, Nguyễn Dữ đã dành hết
tâm huyết của mình để ca ngợi Vũ Nương.
Nhưng thật oái oăm, Vũ Nương được kết tinh bao nhiêu thứ đẹp thì để rồi trở nên trắng
tay trong cuộc đời. Trong hoàn cảnh loạn lạc chiến tranh phong kiến, Trương Sinh phải
đầu quân đi lính, nàng vất vả một mình nuôi con nhỏ chăm sóc mẹ chồng già yếu ốm
đau. Cái bóng trên tường mà nàng vô tình dỗ con chính là nguyên cớ của sự sụp đổ.
Ngày sum họp cũng là ngày nàng vĩnh viễn rời xa tổ ấm. Đau đớn hơn nữa kẻ đẩy
nàng vào chỗ chết không ai khác chính là chồng và con mình. Chỉ vì lời nói ngây thơ
của con trẻ “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư” mà Trương Sinh nghi vợ mình không
thuỷ chồng. Tâm lý ghen tuông khiến Trương Sinh đến mù quáng, sự ích kỷ của kẻ vô
học khiến Trương Sinh băm bổ phỉ bám và độc quyền không cho vợ thanh minh. Quả
thực sự ghen tuông dẫn tới đa nghi đó của người đàn ông khiến cho người vợ dù có
tinh khôn đến mấy thì cũng khó lòng mà lường hết được. Lẽ ra cuộc sống hạnh phúc là
tin tưởng là cảm thông nhưng một kẻ tầm thường như Trương Sinh thì chỉ cần một cái
cớ rất nhỏ ấy cũng có thể tưởng tượng ra sự việc vô cùng nghiêm trọng. Cứ thế mà
dẫn tới tan nát cửa nhà. Tuy nhiên xét về khách quan, trong hoàn cảnh Trương Sinh trở
về sau ba năm mẹ đã mất, chỗ dựa tinh thần lớn nhất là vợ và con. Chàng cứ suy diễn
để rồi tưởng tượng có người thứ ba xen vào trong gia đình mình. Chàng không còn tỉnh
táo để suy xét lời con nói ngay cả sự van xin của vợ cũng chẳng thèm lọt tai. Nàng
không tự minh oan cho mình được nữa đành gieo mình xuống sông tự tử.
Nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo đẳng mãi nếu như không có một đêm tình cờ “Cha
Đản lại đến kia kìa” Người cha thứ hai vô tình ấy chính là nguyên nhân sâu xa gây ra
cái chết oan uổng của Vũ Nương. Thế là chỉ một trò đùa trong thương nhớ dẫn tới cái
chết oan khiên của người vợ dung hạnh. Nàng chết sự lẻ loi cô đơn và nỗi ân hận sẽ là
hình phạt dày vò Trương Sinh suốt quãng đời còn lại. Cái chết của Vũ Nương cũng là
đại diện cho số phận chung của người phụ nữ phong kiến. Một con người đẹp nết đẹp
người, thuỷ chung son sắt thì bị nghi oan là thất tiết. Một con người hết lòng xây dựng
cho hạnh phúc gia đình đến cuối cùng phải bất hạnh lìa xa cuộc đời. Tác phẩm tố cáo
đanh thép cái xã hội nam quyền độc đoán, cảnh chiến tranh phong kiến dẫn tới sự chia
lìa. Người đọc cũng được cảnh tỉnh về sự nhẹ dạ vô ý dẫn tới những hậu quả thương
tâm.
Dưới chế độ phong kiến người phụ nữ bị coi rẻ, mất hết quyền tự chủ nhưng bằng tấm
lòng nhân đạo cao cả Nguyễn Dữ đã dành những trang viết hết sức xúc động để ca
ngợi phẩm chất của Vũ Nương. Mặc dù cuộc hôn nhân với Trương Sinh là hoàn toàn
gượng ép nhưng nàng luôn sống yên phận hết lòng, vun đắp cho hạnh phúc nhà
chồng. Biết chồng đa nghi và hay ghen lúc nào nàng cũng sống “khuôn phép” để vợ
chồng khỏi “thất hoà”. Nàng thuỷ chung son sắt đợi chờ chồng trong những năm tháng
chồng phải đi trận mạc: “Mỗi khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn góc
bể chân trời không thể nào ngăn được”. Khi bị chồng nghi oan nàng cố gắng dãi bày và
níu kéo khi hôn nhân có nguy cơ đổ vỡ.
Chuyện mẹ chồng nàng dâu trong xã hội phong kiến thường là chuyện đố kị nhất trong
gia đình. Nhưng với Vũ Nương nàng là người con dâu hiếu thảo: “Chăm sóc mẹ chồng
như cha mẹ đẻ mình”, chạy chữa thuốc thang khi mẹ chồng ốm khiến cho mẹ chồng
phải nể trọng. Trước khi chết bà cụ còn cầu nguyện “xanh kia quyết chẳng phụ con
cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Khi mẹ chồng mất một mình nàng lo ma chay rất chu
đáo, được mọi người kính nể. Vũ Nương còn là người mẹ tận tụy đảm đang hết lòng
yêu thương con. Một mình một bóng nuôi con Vũ Nương vừa là người mẹ dịu hiền vừa
làm thay bổn phận người cha để làm chỗ dựa tinh thần cho con trẻ.
Về với thuỷ cung, một thế giới lung linh huyền ảo, Vũ Nương được hồi sinh đúng như
lời nguyện trước khi chết. Nàng vẫn mong muốn trở về với quê hương gia đình. Nhưng
ước mơ vẫn chỉ là ước mơ. Tác giả thêu dệt bức tranh dưới thuỷ cung nhằm hoàn thiện
nhân cách Vũ Nương: con người ấy ngay cả khi chết vẫn muốn được trở về với q
hương.
Bằng tài năng sáng tạo và tấm lòng nhân đạo cao cả. Nguyễn Dữ đã xây dựng thành
công nhân vật Vũ Nương điển hình cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ là
những con người có phẩm chất truyền thống tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều nỗi oan trái
cay nghiệt cái xã hội mà ta nói đến là:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)
Phân tích Vũ Nương mẫu 2
Những cuộc chiến tranh vô nghĩa giữa các phe phái phong kiến ở thế kỉ 16 đã đẩy bao
số phận, bao con người, bao gia đình vào hoàn cảnh éo le, đau thương, tan nát. Thấu
hiểu tận lòng nỗi khổ ấy, Nguyễn Dữ đã viết về họ, đặc biệt là người phụ nữ với tấm
lòng yêu thương và sự cảm thông sâu sắc. Đọc Chuyện người con gái Nam Xương
trích trong Truyền kì mạn lục ta bắt gặp những gửi gắm đầy nhân văn của tác giả và
hình ảnh thân phận bị chà đạp của người phụ nữ thời phong kiến.
Như chúng ta đã biết Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã làm xúc
động bao thế hệ bạn đọc bởi những phẩm chất cao quý nhưng cuộc đời lại đầy oan trái
của người con gái. Vũ Nương chính là nhân vật trung tâm của câu chuyện, nàng nổi
bật với những nét phẩm chất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam đảm đang, tháo vát,
chung thuỷ và khát khao hạnh phúc gia đình. Những cái xã hội nam quyền khắt khe đã
đẩy cuộc đời nàng đến cảnh trái ngang, oan uất đầy bất hạnh.
Mặc dù sống trong xã hội phong kiến nhưng Vũ Nương luôn biết hi sinh cái của riêng
mình để đạt được cái lớn lao hơn đó chính là một gia đình êm ấm, hoà thuận. Sau khi
tiễn chồng đi bằng những lời mặn nồng, tha thiết, Vũ Nương ở nhà sinh con và nuôi
con một mình. Nàng cũng hết mình chăm sóc và phụng dưỡng mẹ chồng, thuốc thang
lễ bái và chôn cất mẹ chồng chu đáo khi mẹ chồng qua đời như đứa con đẻ không so
bì, phân tính thiệt hơn.
Trong mối quan hệ gia đình Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói có chừng mực,
cho dù năm tháng xa cách, nàng vẫn luôn giữ mình, giá sạch tiết trong. Bởi thế, khi bị
Chương Sinh nghi ngờ Vũ Nương phụ bạc mình, Vũ Nương chỉ biết một mực kêu oan,
cuối cùng nàng đã đến bến Hoàng Giang tự vẫn. Nhưng trước đó, Chương Sinh đâu
biết “người đàn ông” mà cậu bé Đản nói thật ra chính là cái bóng của chính Vũ Nương.
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng tình huống đầy éo le, kịch tính, tạo sự hồi hộp
cho độc giả. Liệu Vũ Nương có được cứu thoát khỏi cuộc sống đau khổ như hiện tại
hay không? Liệu nàng có giải oan được cho mình hay không?
Chúng ta biết khi Vũ Nương tự vẫn thì đã được Linh Phi cứu và hứa sẽ giúp cho nàng
giải oan. Để giúp cho Vũ Nương giải oan, tác giả Nguyễn Dữ đã xây dựng nên một thế
giới huyền ảo, một cây cầu nối hai bờ hư thực để nhân vật Phan Lang gặp lại và trò
chuyện với Vũ Nương nơi chốn thuỷ cung. Vì còn lòng yêu thương Chương Sinh nên
nàng đã nhờ Phan Lang nói cho Chương Sinh biết nếu muốn gặp lại nàng thì hãy lập
đàn giải oan bên sông và kêu Phan Lang đưa kỉ vật của nàng cho Chương Sinh. Khi trở
về nhân gian, Phan Lang đã làm đúng theo những gì Vũ Nương đã nói. Chương Sinh
vốn đa nghi nên đã không tin nhưng khi thấy kỉ vật là cây châm của Vũ Nương thì
Chương Sinh đã làm theo lời Phan Lang nói. Chương Sinh lập đàn giải oan bên bờ
sông thì ngay lập tức Vũ Nương hiện lên trên bờ sông ngồi trên chiếc kiệu hoa và theo
sau có hơn 50 chiếc xe cơ tán, võng lọng và rực rỡ lúc ẩn lúc hiện. Vũ Nương chỉ nói
một câu duy nhất: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ.
Đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở về trần gian được nữa”. Biết bao ý tình nhà văn
Nguyễn Dữ đã gửi gắm và sự trở về chốc lát của Vũ Nương. Đó là sự trở về để khẳng
định sự chung thuỷ, tình yêu thương, là món quà dành cho người biết hối lỗi như
Chương Sinh. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, chốc lát vì con người đã ra đi mãi mãi không thể
trở về, cũng như hạnh phúc một khi đã để tuột mất thật khó có thể lấy lại. Chương Sinh
vì ghen tuông mù quáng nên đã đánh mất người vợ của mình.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy cuộc đời của Vũ Nương chẳng khác nào cánh
bèo trôi nổi giữa dòng đời. Nàng đã bị đẩy vào tình huống dù giải thích thế nào chàng
cũng không tin, nàng chỉ còn biết than khóc với trời xanh, sông rộng: “kẻ bạc này duyên
phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông
có linh, xin ngài hãy chứng giám”.
Nói tóm lại, sự ra đi của Vũ Nương đáng thương biết bao để lại trong lòng người đọc
bao niềm cảm thương, ngậm ngùi. Nhưng có lẽ đây là cách tốt nhất của tác giả để giải
thoát cho số phận đau thương để cho Vũ Nương sống dưới thuỷ cung mới có thể tìm
được hạnh phúc chính đáng và chốn nương thân che chở cho mình. Ngòi bút của
Nguyễn Dữ đã mạnh dạn nêu ra và phê phán xã hội và nêu lên những nét đẹp từ phẩm
chất cho người đương thời và mãi mãi về sau khâm phục, nâng niu và trân trọng.
Phân tích nhân vật Vũ Nương ngắn gọn mẫu 3
Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc sống ở thời kì chế độ phong kiến bắt đầu bước
vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên
miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công,
thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục
gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểuChuyện người con gái Nam Xương
nhân vật Vũ Nương.
Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Nương một người con gái thuỳ
mị, nết na lại códung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc lộ trong những
hoàn cảnh khác nhau. Trong cuộc sống gia đình, Nương người vợ hiền thục.
Nàng lấy chồng Trương Sinh, vốn một người ít học, lại tính đa nghi, phòng
ngừa quá mức. Vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng, giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn
được trong ấm, ngoài êm. Thế rồi đất nước xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải đi
lính, nàng lại càng bộc lộ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn dò trong
cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin ngày về mang theo hai
chữ bình yên.
Khi xa chồng, Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng
sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc biệt khi người
mẹ mất, nàng lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình. Qua lời trăng trối của
mẹ trước lúc lâm nguy khẳng định công lao, nhân cách của Nương đối với gia
đình: “Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn,
xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ”.
Thực tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ
một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết.
Chỉ lời nói tình ngây thơ của con trẻ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi,
đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục n nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ.
Những lời bênh vực của con hàng xóm cùng những lời phân trần giãi bày hết sức
thê thảm không cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục nhã, Nương đã quyết liệt tìm
đến cái chết để bảo toàn danh dự của mình. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc
cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.
Qua việc xây dựng bi kịch của Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương
cảm cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ, phản ánh bi kịch chung về số phận
người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Truyện đã in sâu đậm vào trái tim người đọc,
khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào.
Phân tích nhân vật Vũ Nương mẫu 4
Nhắc tới Nguyễn Dữ chúng ta lại nhớ tới “Truyền kì mạn lục”. Đây tập truyện viết
theo thể loại truyền kì, được đánh giá “thiên cổ tùy bút”, “áng n hay của bậc đại
gia”, đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của văn xuôi tự sự chữ Hán trong nền văn
học trung đại Việt Nam thế kỉ XVI. Trong tập truyện văn bản “Chuyện người con
gái Nam Xương”, một trong các truyện độc đáo, tiêu biểu viết về số phận bất hạnh
của người phụ nữ đương thời. Qua câu chuyện, nhà văn nói lên một cách sâu sắc
những bi kịch cùng vẻ đẹp những khát vọng chân chính về hạnh phúc gia đình của
họ. Điều này đã được Nguyễn Dữ gửi gắm qua việc xây dựng hình tượng nhân vật
Nương.
“Chuyện người con gái Nam Xương” nguồn gốc từ chuyện kể dân gian: Vợ chàng
Trương, là thiên thứ 16 trong tổng số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”. Nhân vật chính
trong tác phẩm Nương, một người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh, đẹp người, đẹp
nết nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết. Do không có hội để minh oan, giãi bày, Vũ
Nương đành phải nhảy sông tự vẫn để chứng minh sự trong sạch của mình. Kết thúc
truyện là hình ảnh Vũ Nương hiện về thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời
tạ từ rồi biến mất. Đó bi kịch của rất nhiều những người phụ nữ bất hạnh khi
hạnh phúc gia đình chính là chỗ dựa vững chắc cho họ, giờ đây đã tan thành mây khói,
mất đi chỗ dựa cuộc sống, họ lâm vào bi kịchi chết là con đường giải thoát duy
nhất để họ kết thúc bi kịch của chính mình. thế, truyện không đơn thuần dừng lại
sự phản ánh hiện thực còn tốo hiện thực, đóng lên niềm khao khát hạnh phúc
của người phụ nữ trong một xã hội công bằng, văn minh.
Trước hết, Vũ Nương là một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của
người phụ nữ thời phong kiến: “tính đã thùy mị nết na, lại thêm dung tốt đẹp”.
Trương Sinh cảm mến cái dung hạnh ấy nên đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về
làm vợ. Sau đó, nhà văn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp đức hạnh của nàng, bằng việc đặt
Nương vào rất nhiều hoàn cảnh, tình huống các mối quan hệ xung quanh như
với chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản.
Đầu tiên Nương trong mối quan hệ với người chồng Trương Sinh. Nàng hiện
lên là một người vợ nhất mực thủy chung, yêu thương chồng tha thiết. Trong cuộc sống
vợ chồng bình thường, khi mới lấy nhau, nàng hiểu tính chồngthói đa nghi, thường
đề phòng vợ quá mức nên Nương đã xử khéo léo, đúng mực, nhường nhịn
giữ đúng khuôn phép, không bao giờ để xảy ra nỗi bất hòa trong gia đình. Vì thế, chúng
ta có thể thấy, nàng người phụ nữ hiểu chồng, biết mìnhrất đức hạnh. Khi người
chồng chuẩn bị đi lính, Nương rót chén rượu đầy dặn Trương Sinh bằng
những lời nói đầy nghĩa tình, thắm thiết. Nàng không mong vinh hiển, chỉ cần chồng
mang về hai chữ “bình yên”. Ở nhà, Vũ Nương nhớ thương chồng da diết. Mỗi lần thấy
“bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” nàng lại cảm thấy “thổn thức tâm tình”, nhớ
thương chồng nơi biên ải xa xôi. Tiết hạnh của nàng còn được khẳng định khi nàng bị
chồng nghi oan: “cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. son điểm phấn từng đã nguôi
lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót…”. Khi Trương Sinh đi lính trở về, một mực
khăng khăng cho rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân trần để cho chồng hiểu,
nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê khẳng định một lòng nhất
mực thủy chung, son sắt với chồng. Thậm chí, nàng còn cầu xin chồng “đừng nghi oan
cho thiếp”. nghĩa Nương đang ra sức giữ gìn, hàn gắn hạnh phúc gia đình
đang nguy tan vỡ. Điều đó cho thấy nàng thực sự rất trân trọng hạnh phúc gia
đình mà mình đang có và càng làm nổi bật lên niềm khát khát hướng tới hạnh phúc gia
đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương.
Tiếp đến, Nương trong mối quan hệ với mẹ chồng vàĐản. Nàng hiện lên là một
người con hiếu thảo, một người mẹ rất mực tâm lí, yêu thương con cái. Chồng đi lính,
nhà, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò một người mẹ, lại
vừa đóng vai trò một người cha. Nàng sợ con mình thiếu thốn tình cảm của người
cha nên đêm đêm thường mượn bóng mình, chỉ vào tường bảo cha Đản. Nàng
thay chồng làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người con hiền, dâu thảo: chăm
sóc, thuốc thang, lễ bái, hết lòng khuyên lơn mẹ chồng. Đến khi mẹ chồng mất, nàng tổ
chức ma chay tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình vậy. Vì thế, mẹ chồng đã
viện cả trời xanh để chứng minh cho lòng hiếu thảo của con dâu: “Xanh kia quyết
chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Điều đó đã cho thấy nhân cách
công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng này.
Như vậy, một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất mực thủy
chung và hết lòng vun vén, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng lẽ ra phải được
hưởng hạnh phúc trọn vẹn, tìm được một người chồng tâm lí, cảm thông sẻ chia
những nỗi lo toan cho vợ, nhưng thật éo le và nghịch lí thay nàng lại phải chịu một cuộc
sống gia đình bất hạnh phải chết trong đau đớn, xót xa, đầy nước mắt. Đó khi
Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về, Đản không chịu nhận cha, nghe lời nói của
con “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi,
mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”, Trương Sinh nhất nhất cho
rằng “vợ hư”. Mặc Nương đã tìm cách để giải thích lại thêm họ hàng, làng xóm
bênh vực biện bạch cho nàng nhưng mối nghi ngờ vợ của Trương Sinh ngày càng
sâu, không gỡ ra được. Cuối cùng “cái thú vui nghi gia nghi thất” đã không còn ”
bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau
chờ chồng đến hóa đá cũng không còn thể được nữa “đâu còn thể lại lên núi
Vọng Phu kia nữa”. Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước Hoàng Giang lạnh lẽo. Đó
hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, nhân phẩm trong một nỗi đau tuyệt vọng
cùng cực, đau đớn.
Vậy đâunguyên nhân dẫn tới cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Đó trước hết là do
chi tiết cái bóng những lời nói ngây thơ của Đản. Nhưng nguyên nhân sâu xa
đằng sau đó từ người chồng đa nghi, thô bạo. Ngay từ đầu truyện, nhà văn đã giới
thiệu Trương Sinh con nhà hào phú nhưng không học”, lại tính đa nghi, đối
với vợ thì hay phòng ngừa quá mức, thiếu cả lòng tin tình thương với người tayp
kề với mình. Đó chính là mầm mống của bi kịch để rồi trong hoàn cảnh đi lính ba
năm xa nhà, xa vợ, thới ghen tuông, ích kỉ của bản thân chàng nổi lên giết chết
người vợ của mình. Đồng thời, chế độ phong kiến khắc, nam quyền độc đoán đã
dung túng cho thói gia trưởng của người đàn ông, cho phép người đàn ông thể đối
xử tệ bạc với người phụ nữ của mình. người phụ nữ không quyền được lên
tiếng, không quyền tự bảo vệ ngay cả khi “họ hàng, làng xóm bênh vực biện
bạch cho”…Tất cả đã đẩy Nương người phụ nữ đương thời vào con đường bi
kịch, phá tan đi những hạnh phúc gia đình của người phụ nữ, dồn đẩy họ vào con
đường cùng không lối thoát.
Cuối truyện, Nương hiện về thấp thoáng trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng,
cờ kiệu rực rỡ đầy sông, nàng nói lời đa tạ Linh Phi tạ từ Trương Sinh rồi biến mất.
Đây những chi tiết, hình ảnh thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ. Kết thúc truyện
như thế, không chỉ giúp hoàn thiện thêm nét đẹp tính cách của nhân vật mà còn chứng
tỏ Vũ Nương vô tội. Ở thế giới bên kia, nàng được đối xử xứng đáng với phẩm giá của
mình. thế, Nguyễn Dữ đã đáp ứng được ước của con người về sự bất tử, sự
chiến thắng của cái thiện, cái đẹp, thể hiện nỗi khát khao hạnh phúc trong một cuộc
sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt người phụ
nữ đương thời.
Bằng nghệ thuật kể truyện độc đáo, xen lẫn giữa hiện thực ảo, giữa tình tiết đời
thường với sự sáng tạo của nhà văn, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công hình tượng
nhân vật Nương người đại diện cho bi kịch bất hạnh của người phụ nữ. Thông
qua số phận cuộc đời đầy nước mắt của nàng, nhà văn đã mạnh dạn lên án, tố cáo một
xã hội bạo tàn, phi nhân, tồn tại với rất nhiều những bất công ngang trái, dồn đẩy người
phụ nữ vào đường cùng không lối thoát. Đồng thời qua câu chuyện, nhà văn đã lên
tiếng đòi lại sự công bằng, hạnh phúc cho những người phụ nữ đương thời, khẳng
định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp vốn có của họ. Qua đó, chúng ta thấy được tấm
lòng nhân đạo sâu sắc giàu tình yêu thương con người của nhà văn Nguyễn Dữ. Mặc
dù, truyện đã cách xa chúng ta hàng thế kỉ nhưng những thông điệp, ý nghĩa, giá trị của
truyện và hình tượng Vũ Nương mãi mãi còn vang vọng đến ngày hôm nay và mãi mãi
mai sau.
Phân tích nhân vật Vũ Nương mẫu 5
Chuyện người con gái Nam Xương một trong những tác phẩm hay đặc sắc nhất
của tác giả Nguyễn Dữ. Tác phẩm được lấy cốt từ truyện cổ dân gian “Vợ chàng
Trương” kết hợp với những sáng tạo của tác giả tạo nên một áng văn tuyệt bút. Trong
truyện nổi bật lên là vẻ đẹp và số phận bất hạnh của nhân vật chính – Vũ Nương.
Vũ Nương là người hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống “tính đã
thùy mị nết na lại được tư dung tốt đẹp” nhưng số phận của nàng lại hết sức bất hạnh,
bị đẩy đến bước đường cùng phải tìm đến cái chết.
Trước hết về vẻ đẹp của nàng, Nương người vợ hiền thục, thủy chung, trong
trắng, một lòng một dạ với chồng. Khi mới về nhà chồng, biết chồng mình tính hay
ghen nên Nương luôn giữ gìn khuôn phép, bảo vệ hạnh phúc gia đình để gia đình
luôn yên ấm. Chiến tranh xảy ra, chồng nằm trong danh sách đi lính, ngày tiễn Trương
Sinh, nàng chỉ tha thiết mong mang hai chữ “bình yên” trở về. Nàng không ham giàu
sang, danh vọng chỉ mong một cuộc sống yên ổn, êm đềm bên gia đình nhỏ.
Giây phút ngậm ngùi tiễn chồng ra trận càng cho thấy rõ hơn tình yêu thương, tấm lòng
Vũ Nương dành cho Trương Sinh. Bởi vậy trong những năm tháng xa chồng, nàng luôn
nhớ Trương Sinh tha thiết, thậm chí nàng còn trỏ bóng mình trên tường vừa để dỗ con
vừa để vơi bớt nỗi nhớ chồng. Ngay cả khi bị Trương Sinh nghi oan thất tiết thì tình
yêu, sự thủy chung của vẫn được thể hiện qua những lời phân trần hết sức tha thiết,
mong tìm cách hàn gắn lại hạnh phúc gia đình. Nhưng mọi cố gắng của nàng đều đã
không được đền đáp,phải tìm đến cái chết để chứng minh tấm lòng của mình nàng
vẫn không hề oán hận, thủy cung nàng vẫn mong ngóng ngày về để đoàn tụ với gia
đình.
Nàng cònmột người con dâu hết sức hiếu thảo. Chồng đi lính nàng ở nhà chăm mẹ
chồng, bà vì thương nhớ con bệnh ngày một nặng, nàng thuốc thang cầu khấn trời phật
mong cho mẹ nhanh khỏi bệnh, nàng hết lòng chăm sóc. Tấm lòng ấy được thể hiện
nhất qua lời cuối cùng bà nói trước khi mất: “sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc
đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như
con đã chẳng phụ mẹ”. Lời nói ấy chính lời ghi nhận nhân cách công lao to lớn
của Nương với mẹ chồng. Khi mẹ chồng chết nàng thương xót làm ma chay chu
đáo như với cha mẹ đẻ của mình. Với đứa con nhỏ, nàng là người hết mực yêu thương
con. Nàng chăm sóc bé Đản chu đáo, hiểu được những thiếu thốn của con, nàng đã chỉ
bóng mình trên vách để con luôn được sống trong tình yêu thương của cha.
Không chỉ vậy, nàng còn người phụ nữ trọng nhân phẩm, tình nghĩa lòng bao
dung, vị tha. Bi kịch lớn nhất của đời nàng là bị chồng nghi ngờ và không làm cách nào
để minh oan được. Thất vọng, đau đớn nàng phải tìm đến cái chết để bảo vệ nhân
phẩm của mình. Khi Trương Sinh lập đàn giải oan, Vũ Nương chỉ trở về nói lời đa tạ rồi
từ biệt. Nàng không hề trách móc, oán hận Trương Sinh, điều đó đã giúp chồng vơi bớt
nỗi lòng, nỗi ân hận. Người phụ nữ nào cũng mong muốn được hưởng cuộc sống hạnh
phúc từ hơi ấm gia đình, Vũ Nương cũng không phải trường hợp ngoại lệ, nhưng nàng
không trở về bởi đã giữ lời hứa với Linh Phi “thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề
sống chết cũng không bỏ”. Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam,
mang trong mình vẻ đẹp phẩm chất rất đáng trân trọng, ngợi ca.
Mặc dù vậy, số phận của nàng lại hết sức bất hạnh. Mầm mống bi kịch của Nương
bắt nguồn từ cuộc hôn nhân không bình đẳng. Chồng là kẻ độc đoán, hay ghen. Hưởng
gia thất chưa lâu, chiến tranh xảy ra, nàng Trương Sinh phải li tán, sống đơn,
mòn mỏi chờ chồng. Ngày gặp chồng lạigiây phút oan nghiệt, bi kịch. Không những
không được minh oan nàng còn bị đối xử thô bạo, phu, tàn nhẫn. Nàng bị đẩy
đến bước đường cùng phải tự tử thực ra bị bức tử. sống bất tử dưới thủy
cung nàng vẫn không hạnh phúc, luôn nhớ chồng con. Cho được minh oan, nàng
vẫn không trở về, hạnh phúc tan vỡ không thể lành, bi kịch vẫn bi kịch. rất nhiều
nguyên nhân khác nhau dẫn đến cái chết của Vũ Nương. Đầu tiên phải kể đến Trương
Sinh người chồng phu, hay ghen, trước lời cầu xin của vợ, hắn đã không cho
Nương hội giải thích chỉ đánh đập, rồi đuổi nàng đi. Do chiến tranh phong kiến phi
nghĩa, nếu không có chiến tranh, gia đình Vũ Nương không phải chịu cảnh li tán thì đâu
đến nỗiNương phải chịu nỗi oan khuất lạ lùng như vậy. Nguyên nhân sâu xa do
hội phong kiến nam quyền độc đoán, gia trưởng đã đẩy Nương vào con đường
tuyệt vọng, phải nhảy sông tự vẫn. Bi kịch, cái chết củaNương là số phận tiêu biểu
của nhiều phụ nữ khác trong xã hội đó. là lời tố cáo mạnh mẽ và đanh thép chế độ
phong kiến đương thời. Qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật được khắc họa tâm lý, tính cách thông qua đối
thoại, lời tự bạch đặt nhân vật vào những hoàn cảnh khác nhau. Đặc sắc trong việc sử
dụng yếu tố kì ảo đã làm hoàn chỉnh, tô đậm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: Nặng tình
nghĩa, coi trọng nhân phẩm, vị tha mặc thế giới khác vẫn quan tâm đến chồng
con, vẫn luôn muốn khôi phục danh dự.
Với nghệ thuật xây dựng truyện độc đáo, hấp dẫn tác phẩm đã vẽ nên chân dung đẹp
đẽ đức hạnh toàn tài của người phụ nữ phong kiến xưa đại diện tiêu biểu nàng
Nương. Nhưng những người phụ nấy phải chịu nỗi oan khuất lạ thường, bị tước
đoạt hạnh phúc. Qua đó, tác phẩm đề cao vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ, đồng
thời cảm thương cho số phận bất hạnh của họ. Và lên án, tố cáo xã hội nam quyền phi
nghĩa đẩy con người đến bước đường cùng.
Phân tích nhân vật Vũ Nương mẫu 6
Trong văn học dân gian văn học viết của nước ta, người phụ nữ bình dân đã nêu
cao những giá trị cao đẹp về đạo đức, phẩm chất. Nhưng sống trong xã hội phong kiến
đầy rẫy những bất công, oan trái, họ phải chịu nhiều đau khổ và bất hạnh. Đọc “Chuyện
người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương Thị Thiết phải chịu nỗi oan
khuất và để giải nỗi oan, nàng đã tìm đến cái chết thật thương tâm.
Nguyễn Dữ giới thiệu với ta nhân vật Nương - một phụ nữ đẹp người, đẹp nết.
Nàng códung đẹp, tính tình lại hiền dịu, nết na. Khi làm vợ Trương Sinh, một người
chồng có tính đa nghi, nàng vẫn giữ gìn khuôn phép để không xảy ra cảnh bất hoà.
Hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, chiến tranh xảy ra, chồng phải ra
trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm trạng đau khổ. Lời nói với chồng trong giờ
phút chia tay thật chân tình, cảm động làm cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. “Nàng
chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu xin chồng trở về bình yên vô sự”.
Nguyện vọng của nàng thật giản dị mà sâu sắc.
Mấy năm chồng đi xa, nhà một tay nàng lo toan mọi công việc gia đình, nuôi con từ
trứng nước đến khi lớn khôn. Nàng còn người con dâu hiếu thảo rất mực, khi mẹ
chồng đau ốm nàng “hết sức thuốc thang lễ bái thần phật lấy lời ngọt ngào khôn
khéo khuyên lơn”. Khi cụ qua đời, nàng hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ chu
toàn. Sự ăn ở đối xử hết lòng với mẹ chồng chẳng khác nào đối với cha mẹ mình vậy.
Tóm lại, Nương một phụ nữ vẹn toàn, thể hiện được những phẩm chất đạo đức
cao quý của người vợ, người mẹ, người con. Con người như vậy đáng ra phải được
hưởng hạnh phúc đầm ấm của gia đình.
Chiến tranh chấm dứt, chồng trở về, niềm vui chưa trọn vẹn thì bi kịch xảy ra. Trương
Sinh - một kẻ vô học, thô lỗ, đa nghi, hay ghen đã nghe lời đứa con ngây thơ, không dò
hỏi ngọn ngành, nghi ngờ vợ mình không chung thủy. Nàng đau khổ, khóc lóc bày tỏ
nỗi oan với chồng nhưng Trương Sinh một mực vẫn buộc tội vợ, thậm chí còn mắng
nhiếc, đánh, đuổi nàng đi. Họ hàng, làng xóm đều biện minh cho nàng nhưng cũng
không thay đổi được thái độ của Trường Sinh. Không còn cách nào để minh oan được
nữa, nàng chọn cái chết để giãi bày tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Thật tội
nghiệp cho Nương, ba năm trời cách biệt vẫn giữ gìn một tiết, ấy khi chồng trở
về lại bị nghi oan, một con người phẩm hạnh như thế, lại mang tiếng nhuốc nhơ. Bi kịch
bị dồn nén đến cao độ, trong cảnh ngộ đó, Vũ Nương chỉ có một con đường tìm đến cái
chết. Thương Vũ Nương, người đời càng trách giận Trương Sinh phũ phàng:
Khá trách chàng Trương Sinh khéo phũ phàng
("Lại bài Viếng Vũ Thị”của Lê Thánh Tông)
ngay cả khi chết rồi, dưới thủy cung, nàng vẫn ôm mối hận bị chồng ruồng rẫy,
nàng nghĩ: “Thà già chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy
người ta nữa”. Nhưng lúc nàng lại băn khoăn: “Không thể gửi hình ẩn bóng đây
được mãi, để mang tiếng xấu xa”. Nàng mong muốn thiết tha trở về quê hương đoàn tụ
với chồng và để giải được nỗi oan. Nhưng âm dương cách biệt nàng “chẳng thể trở về
nhân gian được nữa”.
Trong xã hội phong kiến, những người phụ nữ đức hạnh, hiền thục như Vũ Nương đều
chịu chung số phận bi đát. Câu chuyện về cái chết thương tâm của Nương càng
làm cho ta thông cảm với những nỗi đau của người phụ nữ trong hội cũ. Tác phẩm
còn tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều lứa
đôi, gia đình.
Trong một hội quyền sống con người được tôn trọng như hội ta ngày nay,
những người ph nữ nhan sắc, phẩm hạnh như nàng Thị Thiết chắc chắn sẽ
sống cuộc đời hạnh phúc
Từ một câu chuyện lưu truyền trong dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tác nên một tác
phẩm đặc sắc. Mặc ít nhiều yếu tố hoang đường nhưng “Chuyện người con gái
Nam Xương” đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không phai mờ.
Phân tích nhân vật Vũ Nương mẫu 7
Truyện Người con gái Nam Xương là câu chuyện về số phận oan nghiệt của một người
phụ nữ nhan sắc, đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ một lời nói ngây thơ
của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẩy đến bước đường cùng, phải kết liễu cuộc
đời mình để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Đó số phận, hình ảnh của Nương một
nhân vật chịu nhiều oan nghiệt.
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thểđây là
Nương, ông đã đặt nhân vật vào tình huống khác nhau để thể hiện rõ được phẩm chất
của người phụ nữ thương chồng, yêu con, hiếu thảo với cha mẹ chồng đồng thời cũng
hết mực thủy chung son sắt.
Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng đã giữ gìn khuôn phép, không khi nào vợ
chồng phải để đến thất hòa mặc Trương Sinh người chồng tính hay ghen tuông
đối với vợ thì phòng ngừa quá mức.
Thật một cảnh làm cho mọi người phải xúc động, khi Nương tiễn chồng đi lính.
Thông thường thì khi chồng đi lính nhiều người mong chồng được công danh
mang về để vinh hiển trở về, còn đối với Nương thi lại không trông mong vinh hiển
mà chỉ cầu chồng được bình yên trở về; nàng còn cảm thông với những vất vả, gian lao
chồng mình sẽ phải chịu đựng; nàng nói đến nỗi nhớ nhung khắc khoải của mình,
bằng những lời rất ân cần; đằm thắm tình cảm.
Khi xa chồng. Nương lại một người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn
nhớ cứ dài theo năm tháng “bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi” tác giả đã dùng
hình ảnh ước lệ tượng trưng, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của
thời gian. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo, người mẹ hiền, một mình vừa nuôi con
nhỏ, vừa tận tụy chăm sóc mẹ chồng đau ốm, nàng lo thuốc thang, cầu khấn phật trời,
và lúc nào cũng ân cần, dịu dàng, lấy lời ngon ý ngọt khéo léo khuyên mẹ gắng dưỡng
sức để chờ Trương Sinh quay trở về, vì thế cho nên trước khi mẹ chồng nhắm mắt bà
đã nói với Vũ Nương rằng Vũ Nương là người con dâu tốt khi Trương Sinh về sẽ không
phụ lòng tốt của nàng. Rồi nàng cũng hết sức thương xót mẹ và lo ma chay tế lễ như lo
cho cha mẹ ruột của mình.
Tưởng rằng khi Trương sinh về thì nương được sống ngập tràn trong niềm vui
hạnh phúc nàng cũng chia sẻ bớt gánh nặng cuộc sống cho chồng ai ngờ nàng bị
một nỗi oan không tài nào thanh minh nổi, mặc nàng đã hết lời phân trần tấm lòng
son sắt thủy chung của mình cho chồng hiểu như: Nàng nói đến thân phận mình nghèo
được nương nhờ nơi giàu có.., tình nghĩa vợ chồng bao năm khẳng định tấm lòng
thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Như vậy đã chứng tỏ nàng đã hết
sức cứu vãn, mong hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
Sau nữa nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu sao bị đối xử bất công,
không quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi họ hàng, anh em đến nói giúp. Hạnh
phúc gia đình niềm khát khao của cả cuộc đời nàng đã tan vỡ như bong bong. Tất cả
những nỗi đau khổ chờ chồng trước đây không còn có thể làm lại được nữa.
Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào cứu vãn được,
Nương đành phải mượn dòng nước quê hương để giải nỗi oan cho mình. Những lời
than trước khi vĩnh viễn cuộc đời đầy đau khổ của mình nhưng cũng đầy luyến tiếc,
như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất tiết sạch giá trong của
nàng. đoạn truyện này, tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính, Nương bị đẩy đến
bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng
không thành. Hành động tự trầm mình của nàng một hành động quyết liệt cuối cùng
để bảo toàn danh dự, nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng sự chỉ đạo của trí.
Đây không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận.
nương đúng một người phụ nữ xinh đẹp nết na thùy mị, hiền thục, lại đảm đang
tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một lòng một dạ chung thủy với chồng,
hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được
hạnh phúc trọn vẹn, vậy lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. vậy nguyên
nhân nào dẫn tới kết quả đáng buồn ấy.
phải chăng cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh Nương không bình đẳng
chính sự cách bức về thân phận nghèo khó của Nương đã cộng thêm cái thế cho
Trương Sinh bên cạnh cái thế của một người chồng, người đàn ông gia trưởng trong
chế độ phong kiến. Hay đó những lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chứa đầy những d
kiện nghi ngờ làm cho Trương Sinh một người chồng hay tính đa nghi ghen tuông,
hồ đồ độc đoán kia trở thành kẻ thô bạo, phu kẻ bức tử vợ mình trong sự
quáng, kẻ giết người lại hoàn toàn vô can trong vụ án.
Bi kịch của Nương lời tố cáo cái hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ
giàu của đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm thương cảm của tác giả đối
với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ bất hạnh ở đây không những
không được bênh vực, che chở mà còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, chỉ vì lời nói
| 1/18

Preview text:

Văn mẫu Phân tích nhân vật Vũ Nương
Phân tích Vũ Nương mẫu 1
Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Tuyết giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm sống giữa
thế kỉ XVI lúc mà chế độ phong kiến nhà Lê đang bắt đầu suy yếu. Nguyễn Dữ chỉ làm
quan có một năm rồi về sống ẩn dật viết sách và sáng tác văn học. Chuyện người con
gái Nam Xương được rút ra trong tập Truyền kì mạn lục, là một câu chuyện được nhà
văn sáng tạo trở thành một tác phẩm văn học đích thực. Qua câu chuyện ta thấy nổi lên
là nhân vật Vũ Nương với số phận và phẩm chất cao đẹp.
Số phận của Vũ Nương là một tấn bi kịch đầy thương tâm. Vũ Nương được giới thiệu
là người phụ nữ phong kiến mang vẻ đẹp truyền thống “công – dung – ngôn – hạnh”.
Bằng sự đồng cảm sâu sắc và tấm lòng trân trọng nâng niu, Nguyễn Dữ đã dành hết
tâm huyết của mình để ca ngợi Vũ Nương.
Nhưng thật oái oăm, Vũ Nương được kết tinh bao nhiêu thứ đẹp thì để rồi trở nên trắng
tay trong cuộc đời. Trong hoàn cảnh loạn lạc chiến tranh phong kiến, Trương Sinh phải
đầu quân đi lính, nàng vất vả một mình nuôi con nhỏ chăm sóc mẹ chồng già yếu ốm
đau. Cái bóng trên tường mà nàng vô tình dỗ con chính là nguyên cớ của sự sụp đổ.
Ngày sum họp cũng là ngày nàng vĩnh viễn rời xa tổ ấm. Đau đớn hơn nữa kẻ đẩy
nàng vào chỗ chết không ai khác chính là chồng và con mình. Chỉ vì lời nói ngây thơ
của con trẻ “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư” mà Trương Sinh nghi vợ mình không
thuỷ chồng. Tâm lý ghen tuông khiến Trương Sinh đến mù quáng, sự ích kỷ của kẻ vô
học khiến Trương Sinh băm bổ phỉ bám và độc quyền không cho vợ thanh minh. Quả
thực sự ghen tuông dẫn tới đa nghi đó của người đàn ông khiến cho người vợ dù có
tinh khôn đến mấy thì cũng khó lòng mà lường hết được. Lẽ ra cuộc sống hạnh phúc là
tin tưởng là cảm thông nhưng một kẻ tầm thường như Trương Sinh thì chỉ cần một cái
cớ rất nhỏ ấy cũng có thể tưởng tượng ra sự việc vô cùng nghiêm trọng. Cứ thế mà
dẫn tới tan nát cửa nhà. Tuy nhiên xét về khách quan, trong hoàn cảnh Trương Sinh trở
về sau ba năm mẹ đã mất, chỗ dựa tinh thần lớn nhất là vợ và con. Chàng cứ suy diễn
để rồi tưởng tượng có người thứ ba xen vào trong gia đình mình. Chàng không còn tỉnh
táo để suy xét lời con nói ngay cả sự van xin của vợ cũng chẳng thèm lọt tai. Nàng
không tự minh oan cho mình được nữa đành gieo mình xuống sông tự tử.
Nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo đẳng mãi nếu như không có một đêm tình cờ “Cha
Đản lại đến kia kìa” Người cha thứ hai vô tình ấy chính là nguyên nhân sâu xa gây ra
cái chết oan uổng của Vũ Nương. Thế là chỉ một trò đùa trong thương nhớ dẫn tới cái
chết oan khiên của người vợ dung hạnh. Nàng chết sự lẻ loi cô đơn và nỗi ân hận sẽ là
hình phạt dày vò Trương Sinh suốt quãng đời còn lại. Cái chết của Vũ Nương cũng là
đại diện cho số phận chung của người phụ nữ phong kiến. Một con người đẹp nết đẹp
người, thuỷ chung son sắt thì bị nghi oan là thất tiết. Một con người hết lòng xây dựng
cho hạnh phúc gia đình đến cuối cùng phải bất hạnh lìa xa cuộc đời. Tác phẩm tố cáo
đanh thép cái xã hội nam quyền độc đoán, cảnh chiến tranh phong kiến dẫn tới sự chia
lìa. Người đọc cũng được cảnh tỉnh về sự nhẹ dạ vô ý dẫn tới những hậu quả thương tâm.
Dưới chế độ phong kiến người phụ nữ bị coi rẻ, mất hết quyền tự chủ nhưng bằng tấm
lòng nhân đạo cao cả Nguyễn Dữ đã dành những trang viết hết sức xúc động để ca
ngợi phẩm chất của Vũ Nương. Mặc dù cuộc hôn nhân với Trương Sinh là hoàn toàn
gượng ép nhưng nàng luôn sống yên phận hết lòng, vun đắp cho hạnh phúc nhà
chồng. Biết chồng đa nghi và hay ghen lúc nào nàng cũng sống “khuôn phép” để vợ
chồng khỏi “thất hoà”. Nàng thuỷ chung son sắt đợi chờ chồng trong những năm tháng
chồng phải đi trận mạc: “Mỗi khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn góc
bể chân trời không thể nào ngăn được”. Khi bị chồng nghi oan nàng cố gắng dãi bày và
níu kéo khi hôn nhân có nguy cơ đổ vỡ.
Chuyện mẹ chồng nàng dâu trong xã hội phong kiến thường là chuyện đố kị nhất trong
gia đình. Nhưng với Vũ Nương nàng là người con dâu hiếu thảo: “Chăm sóc mẹ chồng
như cha mẹ đẻ mình”, chạy chữa thuốc thang khi mẹ chồng ốm khiến cho mẹ chồng
phải nể trọng. Trước khi chết bà cụ còn cầu nguyện “xanh kia quyết chẳng phụ con
cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Khi mẹ chồng mất một mình nàng lo ma chay rất chu
đáo, được mọi người kính nể. Vũ Nương còn là người mẹ tận tụy đảm đang hết lòng
yêu thương con. Một mình một bóng nuôi con Vũ Nương vừa là người mẹ dịu hiền vừa
làm thay bổn phận người cha để làm chỗ dựa tinh thần cho con trẻ.
Về với thuỷ cung, một thế giới lung linh huyền ảo, Vũ Nương được hồi sinh đúng như
lời nguyện trước khi chết. Nàng vẫn mong muốn trở về với quê hương gia đình. Nhưng
ước mơ vẫn chỉ là ước mơ. Tác giả thêu dệt bức tranh dưới thuỷ cung nhằm hoàn thiện
nhân cách Vũ Nương: con người ấy ngay cả khi chết vẫn muốn được trở về với quê hương.
Bằng tài năng sáng tạo và tấm lòng nhân đạo cao cả. Nguyễn Dữ đã xây dựng thành
công nhân vật Vũ Nương điển hình cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ là
những con người có phẩm chất truyền thống tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều nỗi oan trái
cay nghiệt cái xã hội mà ta nói đến là:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)
Phân tích Vũ Nương mẫu 2
Những cuộc chiến tranh vô nghĩa giữa các phe phái phong kiến ở thế kỉ 16 đã đẩy bao
số phận, bao con người, bao gia đình vào hoàn cảnh éo le, đau thương, tan nát. Thấu
hiểu tận lòng nỗi khổ ấy, Nguyễn Dữ đã viết về họ, đặc biệt là người phụ nữ với tấm
lòng yêu thương và sự cảm thông sâu sắc. Đọc Chuyện người con gái Nam Xương
trích trong Truyền kì mạn lục ta bắt gặp những gửi gắm đầy nhân văn của tác giả và
hình ảnh thân phận bị chà đạp của người phụ nữ thời phong kiến.
Như chúng ta đã biết Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã làm xúc
động bao thế hệ bạn đọc bởi những phẩm chất cao quý nhưng cuộc đời lại đầy oan trái
của người con gái. Vũ Nương chính là nhân vật trung tâm của câu chuyện, nàng nổi
bật với những nét phẩm chất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam đảm đang, tháo vát,
chung thuỷ và khát khao hạnh phúc gia đình. Những cái xã hội nam quyền khắt khe đã
đẩy cuộc đời nàng đến cảnh trái ngang, oan uất đầy bất hạnh.
Mặc dù sống trong xã hội phong kiến nhưng Vũ Nương luôn biết hi sinh cái của riêng
mình để đạt được cái lớn lao hơn đó chính là một gia đình êm ấm, hoà thuận. Sau khi
tiễn chồng đi bằng những lời mặn nồng, tha thiết, Vũ Nương ở nhà sinh con và nuôi
con một mình. Nàng cũng hết mình chăm sóc và phụng dưỡng mẹ chồng, thuốc thang
lễ bái và chôn cất mẹ chồng chu đáo khi mẹ chồng qua đời như đứa con đẻ không so bì, phân tính thiệt hơn.
Trong mối quan hệ gia đình Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói có chừng mực,
cho dù năm tháng xa cách, nàng vẫn luôn giữ mình, giá sạch tiết trong. Bởi thế, khi bị
Chương Sinh nghi ngờ Vũ Nương phụ bạc mình, Vũ Nương chỉ biết một mực kêu oan,
cuối cùng nàng đã đến bến Hoàng Giang tự vẫn. Nhưng trước đó, Chương Sinh đâu
biết “người đàn ông” mà cậu bé Đản nói thật ra chính là cái bóng của chính Vũ Nương.
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng tình huống đầy éo le, kịch tính, tạo sự hồi hộp
cho độc giả. Liệu Vũ Nương có được cứu thoát khỏi cuộc sống đau khổ như hiện tại
hay không? Liệu nàng có giải oan được cho mình hay không?
Chúng ta biết khi Vũ Nương tự vẫn thì đã được Linh Phi cứu và hứa sẽ giúp cho nàng
giải oan. Để giúp cho Vũ Nương giải oan, tác giả Nguyễn Dữ đã xây dựng nên một thế
giới huyền ảo, một cây cầu nối hai bờ hư thực để nhân vật Phan Lang gặp lại và trò
chuyện với Vũ Nương nơi chốn thuỷ cung. Vì còn lòng yêu thương Chương Sinh nên
nàng đã nhờ Phan Lang nói cho Chương Sinh biết nếu muốn gặp lại nàng thì hãy lập
đàn giải oan bên sông và kêu Phan Lang đưa kỉ vật của nàng cho Chương Sinh. Khi trở
về nhân gian, Phan Lang đã làm đúng theo những gì Vũ Nương đã nói. Chương Sinh
vốn đa nghi nên đã không tin nhưng khi thấy kỉ vật là cây châm của Vũ Nương thì
Chương Sinh đã làm theo lời Phan Lang nói. Chương Sinh lập đàn giải oan bên bờ
sông thì ngay lập tức Vũ Nương hiện lên trên bờ sông ngồi trên chiếc kiệu hoa và theo
sau có hơn 50 chiếc xe cơ tán, võng lọng và rực rỡ lúc ẩn lúc hiện. Vũ Nương chỉ nói
một câu duy nhất: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ.
Đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở về trần gian được nữa”. Biết bao ý tình nhà văn
Nguyễn Dữ đã gửi gắm và sự trở về chốc lát của Vũ Nương. Đó là sự trở về để khẳng
định sự chung thuỷ, tình yêu thương, là món quà dành cho người biết hối lỗi như
Chương Sinh. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, chốc lát vì con người đã ra đi mãi mãi không thể
trở về, cũng như hạnh phúc một khi đã để tuột mất thật khó có thể lấy lại. Chương Sinh
vì ghen tuông mù quáng nên đã đánh mất người vợ của mình.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy cuộc đời của Vũ Nương chẳng khác nào cánh
bèo trôi nổi giữa dòng đời. Nàng đã bị đẩy vào tình huống dù giải thích thế nào chàng
cũng không tin, nàng chỉ còn biết than khóc với trời xanh, sông rộng: “kẻ bạc này duyên
phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông
có linh, xin ngài hãy chứng giám”.
Nói tóm lại, sự ra đi của Vũ Nương đáng thương biết bao để lại trong lòng người đọc
bao niềm cảm thương, ngậm ngùi. Nhưng có lẽ đây là cách tốt nhất của tác giả để giải
thoát cho số phận đau thương để cho Vũ Nương sống dưới thuỷ cung mới có thể tìm
được hạnh phúc chính đáng và chốn nương thân che chở cho mình. Ngòi bút của
Nguyễn Dữ đã mạnh dạn nêu ra và phê phán xã hội và nêu lên những nét đẹp từ phẩm
chất cho người đương thời và mãi mãi về sau khâm phục, nâng niu và trân trọng.
Phân tích nhân vật Vũ Nương ngắn gọn mẫu 3
Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc sống ở thời kì chế độ phong kiến bắt đầu bước
vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên
miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công,
thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục
gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểu là Chuyện người con gái Nam Xương và nhân vật Vũ Nương.
Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con gái thuỳ
mị, nết na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc lộ trong những
hoàn cảnh khác nhau. Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hiền thục.
Nàng lấy chồng là Trương Sinh, vốn là một người ít học, lại có tính đa nghi, phòng
ngừa quá mức. Vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng, giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn
được trong ấm, ngoài êm. Thế rồi đất nước xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải đi
lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn dò trong
cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên.
Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng
sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc biệt khi người
mẹ mất, nàng dã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình. Qua lời trăng trối của
bà mẹ trước lúc lâm nguy khẳng định công lao, nhân cách của Vũ Nương đối với gia
đình: “Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn,
xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ”.
Thực tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ
là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết.
Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi,
đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ.
Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời phân trần giãi bày hết sức
thê thảm không cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục nhã, Vũ Nương đã quyết liệt tìm
đến cái chết để bảo toàn danh dự của mình. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc
cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.
Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương
cảm cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ, phản ánh bi kịch chung về số phận
người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Truyện đã in sâu đậm vào trái tim người đọc,
khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào.
Phân tích nhân vật Vũ Nương mẫu 4
Nhắc tới Nguyễn Dữ là chúng ta lại nhớ tới “Truyền kì mạn lục”. Đây là tập truyện viết
theo thể loại truyền kì, được đánh giá là “thiên cổ tùy bút”, “áng văn hay của bậc đại
gia”, đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của văn xuôi tự sự chữ Hán trong nền văn
học trung đại Việt Nam ở thế kỉ XVI. Trong tập truyện có văn bản “Chuyện người con
gái Nam Xương”, là một trong các truyện độc đáo, tiêu biểu viết về số phận bất hạnh
của người phụ nữ đương thời. Qua câu chuyện, nhà văn nói lên một cách sâu sắc
những bi kịch cùng vẻ đẹp và những khát vọng chân chính về hạnh phúc gia đình của
họ. Điều này đã được Nguyễn Dữ gửi gắm qua việc xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương.
“Chuyện người con gái Nam Xương” có nguồn gốc từ chuyện kể dân gian: Vợ chàng
Trương, là thiên thứ 16 trong tổng số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”. Nhân vật chính
trong tác phẩm là Vũ Nương, một người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh, đẹp người, đẹp
nết nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết. Do không có cơ hội để minh oan, giãi bày, Vũ
Nương đành phải nhảy sông tự vẫn để chứng minh sự trong sạch của mình. Kết thúc
truyện là hình ảnh Vũ Nương hiện về thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời
tạ từ rồi biến mất. Đó là bi kịch của rất nhiều những người phụ nữ bất hạnh khi mà
hạnh phúc gia đình chính là chỗ dựa vững chắc cho họ, giờ đây đã tan thành mây khói,
mất đi chỗ dựa cuộc sống, họ lâm vào bi kịch và cái chết là con đường giải thoát duy
nhất để họ kết thúc bi kịch của chính mình. Vì thế, truyện không đơn thuần dừng lại ở
sự phản ánh hiện thực mà còn tố cáo hiện thực, đóng lên niềm khao khát hạnh phúc
của người phụ nữ trong một xã hội công bằng, văn minh.
Trước hết, Vũ Nương là một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của
người phụ nữ thời kì phong kiến: “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”.
Trương Sinh vì cảm mến cái dung hạnh ấy nên đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về
làm vợ. Sau đó, nhà văn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp đức hạnh của nàng, bằng việc đặt
Vũ Nương vào rất nhiều hoàn cảnh, tình huống và các mối quan hệ xung quanh như
với chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản.
Đầu tiên là Vũ Nương trong mối quan hệ với người chồng – Trương Sinh. Nàng hiện
lên là một người vợ nhất mực thủy chung, yêu thương chồng tha thiết. Trong cuộc sống
vợ chồng bình thường, khi mới lấy nhau, nàng hiểu tính chồng có thói đa nghi, thường
đề phòng vợ quá mức nên Vũ Nương đã cư xử khéo léo, đúng mực, nhường nhịn và
giữ đúng khuôn phép, không bao giờ để xảy ra nỗi bất hòa trong gia đình. Vì thế, chúng
ta có thể thấy, nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình và rất đức hạnh. Khi người
chồng chuẩn bị đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy và dặn dò Trương Sinh bằng
những lời nói đầy nghĩa tình, thắm thiết. Nàng không mong vinh hiển, chỉ cần chồng
mang về hai chữ “bình yên”. Ở nhà, Vũ Nương nhớ thương chồng da diết. Mỗi lần thấy
“bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” nàng lại cảm thấy “thổn thức tâm tình”, nhớ
thương chồng nơi biên ải xa xôi. Tiết hạnh của nàng còn được khẳng định khi nàng bị
chồng nghi oan: “cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi
lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót…”. Khi Trương Sinh đi lính trở về, một mực
khăng khăng cho rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân trần để cho chồng hiểu,
nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và khẳng định một lòng nhất
mực thủy chung, son sắt với chồng. Thậm chí, nàng còn cầu xin chồng “đừng nghi oan
cho thiếp”. Có nghĩa là Vũ Nương đang ra sức giữ gìn, hàn gắn hạnh phúc gia đình
đang có nguy cơ tan vỡ. Điều đó cho thấy nàng thực sự rất trân trọng hạnh phúc gia
đình mà mình đang có và càng làm nổi bật lên niềm khát khát hướng tới hạnh phúc gia
đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương.
Tiếp đến, Vũ Nương trong mối quan hệ với mẹ chồng và bé Đản. Nàng hiện lên là một
người con hiếu thảo, một người mẹ rất mực tâm lí, yêu thương con cái. Chồng đi lính,
ở nhà, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò là một người mẹ, lại
vừa đóng vai trò là một người cha. Nàng sợ con mình thiếu thốn tình cảm của người
cha nên đêm đêm thường mượn bóng mình, chỉ vào tường mà bảo là cha Đản. Nàng
thay chồng làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người con hiền, dâu thảo: chăm
sóc, thuốc thang, lễ bái, hết lòng khuyên lơn mẹ chồng. Đến khi mẹ chồng mất, nàng tổ
chức ma chay tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình vậy. Vì thế, bà mẹ chồng đã
viện cả trời xanh để chứng minh cho lòng hiếu thảo của cô con dâu: “Xanh kia quyết
chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Điều đó đã cho thấy nhân cách và
công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng này.
Như vậy, một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất mực thủy
chung và hết lòng vun vén, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng lẽ ra phải được
hưởng hạnh phúc trọn vẹn, tìm được một người chồng tâm lí, cảm thông và sẻ chia
những nỗi lo toan cho vợ, nhưng thật éo le và nghịch lí thay nàng lại phải chịu một cuộc
sống gia đình bất hạnh và phải chết trong đau đớn, xót xa, đầy nước mắt. Đó là khi
Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về, bé Đản không chịu nhận cha, nghe lời nói của
con “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi,
mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”, Trương Sinh nhất nhất cho
rằng “vợ hư”. Mặc dù Vũ Nương đã tìm cách để giải thích lại thêm họ hàng, làng xóm
bênh vực và biện bạch cho nàng nhưng mối nghi ngờ vợ của Trương Sinh ngày càng
sâu, không có gì gỡ ra được. Cuối cùng “cái thú vui nghi gia nghi thất” đã không còn ”
bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau
chờ chồng đến hóa đá cũng không còn có thể được nữa “đâu còn có thể lại lên núi
Vọng Phu kia nữa”. Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước Hoàng Giang lạnh lẽo. Đó là
hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, nhân phẩm trong một nỗi đau tuyệt vọng cùng cực, đau đớn.
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn tới cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Đó trước hết là do
chi tiết cái bóng và những lời nói ngây thơ của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu xa
đằng sau đó là từ người chồng đa nghi, thô bạo. Ngay từ đầu truyện, nhà văn đã giới
thiệu Trương Sinh là ” con nhà hào phú nhưng không có học”, lại có tính đa nghi, đối
với vợ thì hay phòng ngừa quá mức, thiếu cả lòng tin và tình thương với người tay ấp
má kề với mình. Đó chính là mầm mống của bi kịch để rồi trong hoàn cảnh đi lính ba
năm xa nhà, xa vợ, thới ghen tuông, ích kỉ của bản thân chàng nổi lên và giết chết
người vợ của mình. Đồng thời, chế độ phong kiến hà khắc, nam quyền độc đoán đã
dung túng cho thói gia trưởng của người đàn ông, cho phép người đàn ông có thể đối
xử tệ bạc với người phụ nữ của mình. Và người phụ nữ không có quyền được lên
tiếng, không có quyền tự bảo vệ ngay cả khi có “họ hàng, làng xóm bênh vực và biện
bạch cho”…Tất cả đã đẩy Vũ Nương – người phụ nữ đương thời vào con đường bi
kịch, phá tan đi những hạnh phúc gia đình của người phụ nữ, dồn đẩy họ vào con
đường cùng không lối thoát.
Cuối truyện, Vũ Nương hiện về thấp thoáng trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng,
cờ kiệu rực rỡ đầy sông, nàng nói lời đa tạ Linh Phi và tạ từ Trương Sinh rồi biến mất.
Đây là những chi tiết, hình ảnh thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ. Kết thúc truyện
như thế, không chỉ giúp hoàn thiện thêm nét đẹp tính cách của nhân vật mà còn chứng
tỏ Vũ Nương vô tội. Ở thế giới bên kia, nàng được đối xử xứng đáng với phẩm giá của
mình. Vì thế, Nguyễn Dữ đã đáp ứng được ước mơ của con người về sự bất tử, sự
chiến thắng của cái thiện, cái đẹp, thể hiện nỗi khát khao hạnh phúc trong một cuộc
sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ đương thời.
Bằng nghệ thuật kể truyện độc đáo, xen lẫn giữa hiện thực và kì ảo, giữa tình tiết đời
thường với sự sáng tạo của nhà văn, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công hình tượng
nhân vật Vũ Nương – người đại diện cho bi kịch bất hạnh của người phụ nữ. Thông
qua số phận cuộc đời đầy nước mắt của nàng, nhà văn đã mạnh dạn lên án, tố cáo một
xã hội bạo tàn, phi nhân, tồn tại với rất nhiều những bất công ngang trái, dồn đẩy người
phụ nữ vào đường cùng không lối thoát. Đồng thời qua câu chuyện, nhà văn đã lên
tiếng đòi lại sự công bằng, hạnh phúc cho những người phụ nữ đương thời, khẳng
định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp vốn có của họ. Qua đó, chúng ta thấy được tấm
lòng nhân đạo sâu sắc giàu tình yêu thương con người của nhà văn Nguyễn Dữ. Mặc
dù, truyện đã cách xa chúng ta hàng thế kỉ nhưng những thông điệp, ý nghĩa, giá trị của
truyện và hình tượng Vũ Nương mãi mãi còn vang vọng đến ngày hôm nay và mãi mãi mai sau.
Phân tích nhân vật Vũ Nương mẫu 5
Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những tác phẩm hay và đặc sắc nhất
của tác giả Nguyễn Dữ. Tác phẩm được lấy cốt từ truyện cổ dân gian “Vợ chàng
Trương” kết hợp với những sáng tạo của tác giả tạo nên một áng văn tuyệt bút. Trong
truyện nổi bật lên là vẻ đẹp và số phận bất hạnh của nhân vật chính – Vũ Nương.
Vũ Nương là người hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống “tính đã
thùy mị nết na lại được tư dung tốt đẹp” nhưng số phận của nàng lại hết sức bất hạnh,
bị đẩy đến bước đường cùng phải tìm đến cái chết.
Trước hết về vẻ đẹp của nàng, Vũ Nương là người vợ hiền thục, thủy chung, trong
trắng, một lòng một dạ với chồng. Khi mới về nhà chồng, biết chồng mình có tính hay
ghen nên Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép, bảo vệ hạnh phúc gia đình để gia đình
luôn yên ấm. Chiến tranh xảy ra, chồng nằm trong danh sách đi lính, ngày tiễn Trương
Sinh, nàng chỉ tha thiết mong mang hai chữ “bình yên” trở về. Nàng không ham giàu
sang, danh vọng mà chỉ mong một cuộc sống yên ổn, êm đềm bên gia đình bé nhỏ.
Giây phút ngậm ngùi tiễn chồng ra trận càng cho thấy rõ hơn tình yêu thương, tấm lòng
Vũ Nương dành cho Trương Sinh. Bởi vậy trong những năm tháng xa chồng, nàng luôn
nhớ Trương Sinh tha thiết, thậm chí nàng còn trỏ bóng mình trên tường vừa để dỗ con
vừa để vơi bớt nỗi nhớ chồng. Ngay cả khi bị Trương Sinh nghi oan thất tiết thì tình
yêu, sự thủy chung của vẫn được thể hiện qua những lời phân trần hết sức tha thiết,
mong tìm cách hàn gắn lại hạnh phúc gia đình. Nhưng mọi cố gắng của nàng đều đã
không được đền đáp, dù phải tìm đến cái chết để chứng minh tấm lòng của mình nàng
vẫn không hề oán hận, ở thủy cung nàng vẫn mong ngóng ngày về để đoàn tụ với gia đình.
Nàng còn là một người con dâu hết sức hiếu thảo. Chồng đi lính nàng ở nhà chăm mẹ
chồng, bà vì thương nhớ con bệnh ngày một nặng, nàng thuốc thang cầu khấn trời phật
mong cho mẹ nhanh khỏi bệnh, nàng hết lòng chăm sóc. Tấm lòng ấy được thể hiện rõ
nhất qua lời cuối cùng bà nói trước khi mất: “sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc
đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như
con đã chẳng phụ mẹ”. Lời nói ấy chính là lời ghi nhận nhân cách và công lao to lớn
của Vũ Nương với mẹ chồng. Khi mẹ chồng chết nàng thương xót làm ma chay chu
đáo như với cha mẹ đẻ của mình. Với đứa con nhỏ, nàng là người hết mực yêu thương
con. Nàng chăm sóc bé Đản chu đáo, hiểu được những thiếu thốn của con, nàng đã chỉ
bóng mình trên vách để con luôn được sống trong tình yêu thương của cha.
Không chỉ vậy, nàng còn là người phụ nữ trọng nhân phẩm, tình nghĩa và lòng bao
dung, vị tha. Bi kịch lớn nhất của đời nàng là bị chồng nghi ngờ và không làm cách nào
để minh oan được. Thất vọng, đau đớn nàng phải tìm đến cái chết để bảo vệ nhân
phẩm của mình. Khi Trương Sinh lập đàn giải oan, Vũ Nương chỉ trở về nói lời đa tạ rồi
từ biệt. Nàng không hề trách móc, oán hận Trương Sinh, điều đó đã giúp chồng vơi bớt
nỗi lòng, nỗi ân hận. Người phụ nữ nào cũng mong muốn được hưởng cuộc sống hạnh
phúc từ hơi ấm gia đình, Vũ Nương cũng không phải trường hợp ngoại lệ, nhưng nàng
không trở về là bởi đã giữ lời hứa với Linh Phi “thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề
sống chết cũng không bỏ”. Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam,
mang trong mình vẻ đẹp phẩm chất rất đáng trân trọng, ngợi ca.
Mặc dù vậy, số phận của nàng lại hết sức bất hạnh. Mầm mống bi kịch của Vũ Nương
bắt nguồn từ cuộc hôn nhân không bình đẳng. Chồng là kẻ độc đoán, hay ghen. Hưởng
gia thất chưa lâu, chiến tranh xảy ra, nàng và Trương Sinh phải li tán, sống cô đơn,
mòn mỏi chờ chồng. Ngày gặp chồng lại là giây phút oan nghiệt, bi kịch. Không những
không được minh oan mà nàng còn bị đối xử thô bạo, vũ phu, tàn nhẫn. Nàng bị đẩy
đến bước đường cùng phải tự tử mà thực ra là bị bức tử. Dù sống bất tử dưới thủy
cung nàng vẫn không hạnh phúc, luôn nhớ chồng con. Cho dù được minh oan, nàng
vẫn không trở về, hạnh phúc tan vỡ không thể lành, bi kịch vẫn là bi kịch. Có rất nhiều
nguyên nhân khác nhau dẫn đến cái chết của Vũ Nương. Đầu tiên phải kể đến Trương
Sinh – người chồng vũ phu, hay ghen, trước lời cầu xin của vợ, hắn đã không cho Vũ
Nương cơ hội giải thích chỉ đánh đập, rồi đuổi nàng đi. Do chiến tranh phong kiến phi
nghĩa, nếu không có chiến tranh, gia đình Vũ Nương không phải chịu cảnh li tán thì đâu
đến nỗi Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất lạ lùng như vậy. Nguyên nhân sâu xa do xã
hội phong kiến nam quyền độc đoán, gia trưởng đã đẩy Vũ Nương vào con đường
tuyệt vọng, phải nhảy sông tự vẫn. Bi kịch, cái chết của Vũ Nương là số phận tiêu biểu
của nhiều phụ nữ khác trong xã hội đó. Nó là lời tố cáo mạnh mẽ và đanh thép chế độ
phong kiến đương thời. Qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật được khắc họa tâm lý, tính cách thông qua đối
thoại, lời tự bạch đặt nhân vật vào những hoàn cảnh khác nhau. Đặc sắc trong việc sử
dụng yếu tố kì ảo đã làm hoàn chỉnh, tô đậm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: Nặng tình
nghĩa, coi trọng nhân phẩm, vị tha mặc dù ở thế giới khác vẫn quan tâm đến chồng
con, vẫn luôn muốn khôi phục danh dự.
Với nghệ thuật xây dựng truyện độc đáo, hấp dẫn tác phẩm đã vẽ nên chân dung đẹp
đẽ đức hạnh toàn tài của người phụ nữ phong kiến xưa mà đại diện tiêu biểu là nàng
Vũ Nương. Nhưng những người phụ nữ ấy phải chịu nỗi oan khuất lạ thường, bị tước
đoạt hạnh phúc. Qua đó, tác phẩm đề cao vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ, đồng
thời cảm thương cho số phận bất hạnh của họ. Và lên án, tố cáo xã hội nam quyền phi
nghĩa đẩy con người đến bước đường cùng.
Phân tích nhân vật Vũ Nương mẫu 6
Trong văn học dân gian và văn học viết của nước ta, người phụ nữ bình dân đã nêu
cao những giá trị cao đẹp về đạo đức, phẩm chất. Nhưng sống trong xã hội phong kiến
đầy rẫy những bất công, oan trái, họ phải chịu nhiều đau khổ và bất hạnh. Đọc “Chuyện
người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương Vũ Thị Thiết phải chịu nỗi oan
khuất và để giải nỗi oan, nàng đã tìm đến cái chết thật thương tâm.
Nguyễn Dữ giới thiệu với ta nhân vật Vũ Nương - một phụ nữ đẹp người, đẹp nết.
Nàng có tư dung đẹp, tính tình lại hiền dịu, nết na. Khi làm vợ Trương Sinh, một người
chồng có tính đa nghi, nàng vẫn giữ gìn khuôn phép để không xảy ra cảnh bất hoà.
Hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, chiến tranh xảy ra, chồng phải ra
trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm trạng đau khổ. Lời nói với chồng trong giờ
phút chia tay thật chân tình, cảm động làm cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. “Nàng
chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu xin chồng trở về bình yên vô sự”.
Nguyện vọng của nàng thật giản dị mà sâu sắc.
Mấy năm chồng đi xa, ở nhà một tay nàng lo toan mọi công việc gia đình, nuôi con từ
trứng nước đến khi lớn khôn. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo rất mực, khi mẹ
chồng đau ốm nàng “hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn
khéo khuyên lơn”. Khi bà cụ qua đời, nàng hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ chu
toàn. Sự ăn ở đối xử hết lòng với mẹ chồng chẳng khác nào đối với cha mẹ mình vậy.
Tóm lại, Vũ Nương là một phụ nữ vẹn toàn, thể hiện được những phẩm chất đạo đức
cao quý của người vợ, người mẹ, người con. Con người như vậy đáng ra phải được
hưởng hạnh phúc đầm ấm của gia đình.
Chiến tranh chấm dứt, chồng trở về, niềm vui chưa trọn vẹn thì bi kịch xảy ra. Trương
Sinh - một kẻ vô học, thô lỗ, đa nghi, hay ghen đã nghe lời đứa con ngây thơ, không dò
hỏi ngọn ngành, nghi ngờ vợ mình không chung thủy. Nàng đau khổ, khóc lóc bày tỏ
nỗi oan với chồng nhưng Trương Sinh một mực vẫn buộc tội vợ, thậm chí còn mắng
nhiếc, đánh, đuổi nàng đi. Họ hàng, làng xóm đều biện minh cho nàng nhưng cũng
không thay đổi được thái độ của Trường Sinh. Không còn cách nào để minh oan được
nữa, nàng chọn cái chết để giãi bày tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Thật tội
nghiệp cho Vũ Nương, ba năm trời cách biệt vẫn giữ gìn một tiết, ấy mà khi chồng trở
về lại bị nghi oan, một con người phẩm hạnh như thế, lại mang tiếng nhuốc nhơ. Bi kịch
bị dồn nén đến cao độ, trong cảnh ngộ đó, Vũ Nương chỉ có một con đường tìm đến cái
chết. Thương Vũ Nương, người đời càng trách giận Trương Sinh phũ phàng:
Khá trách chàng Trương Sinh khéo phũ phàng
("Lại bài Viếng Vũ Thị”của Lê Thánh Tông)
Và ngay cả khi chết rồi, ở dưới thủy cung, nàng vẫn ôm mối hận bị chồng ruồng rẫy,
nàng nghĩ: “Thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy
người ta nữa”. Nhưng có lúc nàng lại băn khoăn: “Không thể gửi hình ẩn bóng ở đây
được mãi, để mang tiếng xấu xa”. Nàng mong muốn thiết tha trở về quê hương đoàn tụ
với chồng và để giải được nỗi oan. Nhưng âm dương cách biệt nàng “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”.
Trong xã hội phong kiến, những người phụ nữ đức hạnh, hiền thục như Vũ Nương đều
chịu chung số phận bi đát. Câu chuyện về cái chết thương tâm của Vũ Nương càng
làm cho ta thông cảm với những nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tác phẩm
còn là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều lứa đôi, gia đình.
Trong một xã hội mà quyền sống con người được tôn trọng như xã hội ta ngày nay,
những người phụ nữ có nhan sắc, phẩm hạnh như nàng Vũ Thị Thiết chắc chắn sẽ
sống cuộc đời hạnh phúc
Từ một câu chuyện lưu truyền trong dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tác nên một tác
phẩm đặc sắc. Mặc dù có ít nhiều yếu tố hoang đường nhưng “Chuyện người con gái
Nam Xương” đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không phai mờ.
Phân tích nhân vật Vũ Nương mẫu 7
Truyện Người con gái Nam Xương là câu chuyện về số phận oan nghiệt của một người
phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ
của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẩy đến bước đường cùng, phải kết liễu cuộc
đời mình để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Đó là số phận, hình ảnh của Vũ Nương một
nhân vật chịu nhiều oan nghiệt.
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Vũ
Nương, ông đã đặt nhân vật vào tình huống khác nhau để thể hiện rõ được phẩm chất
của người phụ nữ thương chồng, yêu con, hiếu thảo với cha mẹ chồng đồng thời cũng
hết mực thủy chung son sắt.
Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng đã giữ gìn khuôn phép, không khi nào vợ
chồng phải để đến thất hòa mặc dù Trương Sinh là người chồng tính hay ghen tuông
đối với vợ thì phòng ngừa quá mức.
Thật là một cảnh làm cho mọi người phải xúc động, khi Vũ Nương tiễn chồng đi lính.
Thông thường thì khi chồng đi lính nhiều người mong chồng có được công danh gì
mang về để vinh hiển trở về, còn đối với Vũ Nương thi lại không trông mong vinh hiển
mà chỉ cầu chồng được bình yên trở về; nàng còn cảm thông với những vất vả, gian lao
mà chồng mình sẽ phải chịu đựng; nàng nói đến nỗi nhớ nhung khắc khoải của mình,
bằng những lời rất ân cần; đằm thắm tình cảm.
Khi xa chồng. Vũ Nương lại là một người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn
nhớ cứ dài theo năm tháng “bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi” tác giả đã dùng
hình ảnh ước lệ tượng trưng, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của
thời gian. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo, người mẹ hiền, một mình vừa nuôi con
nhỏ, vừa tận tụy chăm sóc mẹ chồng đau ốm, nàng lo thuốc thang, cầu khấn phật trời,
và lúc nào cũng ân cần, dịu dàng, lấy lời ngon ý ngọt khéo léo khuyên mẹ gắng dưỡng
sức để chờ Trương Sinh quay trở về, vì thế cho nên trước khi mẹ chồng nhắm mắt bà
đã nói với Vũ Nương rằng Vũ Nương là người con dâu tốt khi Trương Sinh về sẽ không
phụ lòng tốt của nàng. Rồi nàng cũng hết sức thương xót mẹ và lo ma chay tế lễ như lo
cho cha mẹ ruột của mình.
Tưởng rằng khi Trương sinh về thì Vũ nương được sống ngập tràn trong niềm vui và
hạnh phúc và nàng cũng chia sẻ bớt gánh nặng cuộc sống cho chồng ai ngờ nàng bị
một nỗi oan không tài nào thanh minh nổi, mặc dù nàng đã hết lời phân trần tấm lòng
son sắt thủy chung của mình cho chồng hiểu như: Nàng nói đến thân phận mình nghèo
được nương nhờ nơi giàu có.., tình nghĩa vợ chồng bao năm và khẳng định tấm lòng
thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Như vậy đã chứng tỏ nàng đã hết
sức cứu vãn, mong hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
Sau nữa nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công,
không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi có họ hàng, anh em đến nói giúp. Hạnh
phúc gia đình niềm khát khao của cả cuộc đời nàng đã tan vỡ như bong bong. Tất cả
những nỗi đau khổ chờ chồng trước đây không còn có thể làm lại được nữa.
Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào cứu vãn được, Vũ
Nương đành phải mượn dòng nước quê hương để giải nỗi oan cho mình. Những lời
than trước khi vĩnh viễn cuộc đời đầy đau khổ của mình nhưng cũng đầy luyến tiếc,
như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của
nàng. Ở đoạn truyện này, tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính, Vũ Nương bị đẩy đến
bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng
không thành. Hành động tự trầm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng
để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí.
Đây không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận.
Vũ nương đúng là một người phụ nữ xinh đẹp nết na thùy mị, hiền thục, lại đảm đang
tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một lòng một dạ chung thủy với chồng,
hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được
hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. vậy nguyên
nhân nào dẫn tới kết quả đáng buồn ấy.
Có phải chăng vì cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương không bình đẳng
chính sự cách bức về thân phận nghèo khó của Vũ Nương đã cộng thêm cái thế cho
Trương Sinh bên cạnh cái thế của một người chồng, người đàn ông gia trưởng trong
chế độ phong kiến. Hay đó là những lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chứa đầy những dữ
kiện nghi ngờ làm cho Trương Sinh một người chồng hay có tính đa nghi ghen tuông,
hồ đồ và độc đoán kia trở thành kẻ thô bạo, vũ phu là kẻ bức tử vợ mình trong sự mù
quáng, kẻ giết người lại hoàn toàn vô can trong vụ án.
Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo cái xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ
giàu và của đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm thương cảm của tác giả đối
với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ bất hạnh ở đây không những
không được bênh vực, che chở mà còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, chỉ vì lời nói