Vật chất và các hình thức tồn tại của nó - Triết học Mac - Lenin | Trường Đại học Phenika

Vật chất và các hình thức tồn tại của nó - Triết học Mac - Lenin | Trường Đại học Phenika được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

I. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó.
1. Định nghĩa phạm trù vật chất
1.1 Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất: Chủ nghĩa duy vật
trước Mác có rất nhiều định nghĩa về vật chất, trong đó nổi lên các định nghĩa điển
hình sau đây:
* Thời kì cổ đại: đồng nhất vật chất với một dạng vật cụ thể:
- Talet cho rằng vật chất là nước. - Anaximen cho rằng vật chất là không khí. -
Đêmôcrit cho rằng vật chất là nguyên tử. => Quan niệm vật chất thời kì cổ đại
mang tính trực quan, cảm tình. Nó chỉ có tác dụng chống lại quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm và tôn giáo.
* Thời kí cận đại thế kỷ XVII – XVIII: đồng nhất vật chất với thuộc tính của vật
chất.
VD: Niutơn cho rằng khối lượng là vật chất.
=> Quan điểm vật chất thời kì cận đại mang tính siêu hình, máy móc.
1.2 Định nghĩa vật chất của Lênin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Đây là định nghĩa khoa học nhất , hoàn chỉnh nhất về vật chất của V.I.Lênin
trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Định nghĩa
trên đã đề cập đến các nội dung chủ yếu sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ
thuộc vào ý thức bất kể sự tôn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận
thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp
tác động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, ý thức, tư duy chỉ là sự phản ánh của vật chất lên con người, tức
con người có khả năng nhận thức được vật chất, thực tại khách quan.. 2. Các hình
thức tồn tại của vật chất:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận
động và vận động của vật chất diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, vận
động, không gian và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất
2.1. Vận động:
Theo quan điểm siêu hình, vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể
trong không gian, thời gian, nguồn gốc của sự vận động là ở bên ngoài sự vật
hiện tượng.
Còn theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi nói
chung. Xét về bản chất, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuốc tính
cố hữu của vật chất, vận động không do ai sáng tạo ra và cũng không mất đi mà nó
tồn tại vĩnh viễn. Nguồn gốc vận động là do bản thân sự vật hiện tượng quy định.
Các hình thức cơ bản của vận động bao gồm: vận động cơ học, vật lý, hóa học,
sinh học và xã hội.
2.2 Không gian và thời gian
Vật chất luôn vận động và phát triển, sự vận động ấy không ở đâu
khác. “Ngoài không gian và thời gian”. Không gian và thời gian là một thuộc tính
khách quan của vật chất, gắn liền với sự vận động của vật chất. Mọi sự vật tồn tại
khách quan đều có vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài ngắn, ngang dọc, cao thấp
của nó, tất cả những thuộc tính đó được gọi là không gian.
Mọi sự vật đều ở trong trạng thái không ngừng biến đổi, mà mọi sự biến đổi diễn
ra đều có quá trình, có độ dài của sự diễn biến, nhanh, chậm kế tiếp nhau, tất cả
những thuộc tính đó được gọi là thời gian. Như vậy, không gian và thời gian là
thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật chất. Không gian là hình thức tồn
tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết cấu, còn thời gian là hình
thức tồn tại của vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá
trình. Không gian và thời gian là hai thuộc tính khác nhau nhưng không thể tách
rời nhau của vật chất vận động. Vì vậy, không gian và thời gian có những tính chất
sau đây:
- Tính khách quan: không gian và thời gian là một thuộc tính của vật chất,
tồn tại gắn liền với vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không
gian và thời gian cùng tồn tại khách quan.
- Tính vĩnh cữu của thời gian và tính vô tận của không gian, những
thành tựu của vật lý học hiện đại về lĩnh vực vi mô cũng như vũ trụ học ngày càng
xác nhận những tính chất này.
- Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian,
tính ba chiều của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một
chiều của thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai.
II. Nguồn gốc và bản chất của ý thức:
Vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một vấn đề hết sức phức
tạp của triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm trong lịch sử.
Dựa trên những thành tựu của triết học duy vật, của khoa học và thực tiễn xã
hội, triết học Mác – Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên đây.
1. Quan điểm của triết học Mac – Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý thức:
1.1. Nguồn gốc của ý thức:
1.1.a. Nguồn gốc tự nhiên:
Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của
ý thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng nguồn
gốc và bản chất của ý thức.
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần
kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của
vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật
chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con
người diễn ra trên sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Ý thức phụ
thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý
thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy, không thể tách rời ý thức ra
khỏi hoạt động của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ óc người.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới
bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, thuộc tính này
được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với
nhau, phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ
thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của
sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật – vật tác động và vật nhận tác động. Đồng
thời quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin. Nói cách khác, vật nhận tác
động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều hết sức quan trọng
để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở
giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người.
Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con
người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản
ánh – phát triển thành.
Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất,
nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh. Ý thức và
sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. bộ óc người là cơ quan phản
ánh song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của
thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức
không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
1.1.b. Nguồn gốc xã hội:
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan
trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ điều kiện quyết định cho sự ra đời cùng
với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã
hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc và xã hội, và ngay từ
đầu đã mang tính chất xã hội.
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu
nhận thụ động. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực,
bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động
của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ
óc người. ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác động thuần túy, tự
nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người, mà chủ yếu là do hoạt động của
con người cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế giới đó. Quá trình hình
thành ý thức là kết quả hoạt động, chủ động của con người. như vậy, không phải
bỗng nhiên thế giới khách quan tác động vào bộ óc người để con người có ý thức
mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế
giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới, con người chỉ có ý thức do
có tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám
phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức
của mình về thế giới.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà ý thức. Không
có hệ thống tín hiệu này – tức ngôn ngữ , thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện
được. Ngôn ngữ, theo C. Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực
tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động , là thực tiển xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ
xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
1.2 Bản chất của ý thức.
Ý thức là cái phản ảnh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi
chủ quan, là thực tại chủ quan, không có tính vật chất. Ý thức là hình ảnh phi cảm
tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính. Nếu coi ý thức cũng là một
hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức , làm mất ý nghĩa của sự
đối lập giữa vật chất và ý thức, từ đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc của sự
vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng
tạo. Ý thức phản ảnh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải
tạo thế giới.
Do đó, ý thức con người là sự phản ảnh có tính năng động, sáng tạo. Ý thức
là sự phản ảnh sáng tạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiển xã hội, vì vậy ý thức
“Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người, và được
cải biến đi ở trong đó” (C. Mác và Ph. Ăngghen : Toàn tập, NXB. CTQG,
HN, 1993, Trang 35). Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây
là sự phản ảnh đặc biệt – phản ảnh trong quá trình con người, cải tạo thế giới. Quá
trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây:
- Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi
này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
- Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất đây là quá trình “Sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, theo nghĩa mã hóa
các đối tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật chất.
- Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình
hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiển biến cái quan niệm thành cái
thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài
hiện thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương
tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của
mình. Điều đó càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo
của ý thức là sáng tạo của sự phản ảnh, theo qui luật và trong khuôn khổ của sự
phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý
thức không đối lập , loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với
phản ánh, trên cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của
ý thức.
Ý thức trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực
tiển xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ
óc.
III. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Theo duy tâm thì ý thức quyết định vật chất
Theo duy vật thì vật chất quyết định ý thức
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học nên trong nhận
thức của chúng ta phải là vật chất quyết định ý thức.
Cái nhìn khách quan, tức là nhìn từ nhiều khía cạnh của cùng một sự vật hiện
tượng. Thường thì con người rất chủ quan !
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết
định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý
thức đối với vật chất.
- Vật chất (xét đến cùng) là cái có trước, nó sinh ra và quyết định đối với ý
thức. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý
thức (não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh hình thành ý
thức, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não). Trong quá
trình phản ánh thế giới khách quan, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất đó vào
con người.
Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của
ý thức. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất, đó là một thuộc tính
phản ánh phát triển thành, ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính
phản ánh của vật chất.
Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề nguồn gốc xã
hội, ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con nguời nhờ lao động,
ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Do
vậy, vật chất quyết định sự phát triển của ý thức, quyết định tính phong phú, đa
dạng, nhiều vẻ của ý thức.
- Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng sau khi ra đời ý thức có tính
độc lập tương đối nên nó có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Nói tới vai trò của ý thức tức là nói đến vai trò
của con người vì ý thức là ý thức của con người, bản thân của ý thức tự nó không
làm thay đổi gì hiện thực.Mác nói :“..lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi
lực lượng vật chất..” Ý thức tác động trở lại vật chất theo hai hướng: Ý thức, tư
tưởng có thể quyết định làm sao con người hoạt động đúng và thành công
khi nó phản ánh đúng và sâu sắc thế giới khách quan, nó sẽ thúc đẩy thế giới vật
chất phát triển nhanh vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương
hướng và biện pháp chính xác.
Ngược lại ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại
khi con người phản ánh sai thế giới khách quan, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của
thế giới vật chất.
VD: Aristôt đưa ra thuyết “địa tâm” coi trái đất là trung tâm của vũ trụ đã làm
kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất. Vì vậy con người phải phát huy vai trò
sáng tạo của thế giới khách quan. Tuy nhiên cơ sở để phát huy tính năng động chủ
quan của ý thức là việc thừa nhận tính khách quan của vật chất, thừa nhận quy luật
tự nhiên của xã hội. Nếu như thế giới vật chất với những thuộc tính, quy luật của
nó tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ
cho hoạt động của mình.
- Biểu hiện của mới quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại xã hội. ngoài
ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ
khác như cụ thể và khách thể, lý luận và tực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan.
Phần II, Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi
mới:
1. Ý nghĩa phương pháp luận:
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải xuất
phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và tuân theo quy luật khách quan. Vì ý
thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải chú ý
giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người.
Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ
khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất, nhưng lý luận
một
khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”. Chống
quan điểm duy ý chí: V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn
chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm
xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu
lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh
duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và
sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã
gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ
nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chí có
nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong
nhận thức. Song vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
2.Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới:
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ
quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định mục tiêu, bước
đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh
tế… Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá những
khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển
kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao trong xây dựng cơ bản
và phát triền sản xuất.
Trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã không
có được một đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa
học dẫn đường. Sai lầm chủ quan duy ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách
quan của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Trước tình hình nền kinh tế miền Bắc còn bị phá hoại, nền kinh tế miền Nam bị
đảo lộn và suy sụp, lạm phát trầm trọng, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những
chỉ tiêu kế hoạch năm 1976 - 1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả năng của
nền kinh tế, như: năm 1975, phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá
biển,1 triệu hecta khai hoang,1triệu 200 hecta rừng mới trồng..,10 triệu tấn than
sạch, 2 triệu tấn xi măng.. Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng
50-60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp, tổng sản phẩm xã hội
tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%. Đại hội
Đảng lần thứ V, cũng chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực sự trì
trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương, chính sách và
toàn diện về đổi mới, nhất là về kinh tế.
Tại Đại hội Đảng VI, Đảng đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã phân
tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội, đề ra
các định hướng và xác định chủ trương đổi mới đặc biệt là đổi mới về kinh tế, thực
hiện mục tiêu ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu.. Vì vậy, từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh
nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đại hội Đảng
lần thứ VII chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết như vấn đề lạm phát, thiếu việc
làm, trong điều hành quản lý còn nhiều sơ hở, lúng túng.. Đặc biệt Đại hội cũng
xác định: “Về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải tập trung sức đổi
mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống và làm việc, các
nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của củ nghĩa xã hội, coi đó
là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị”. Đại hội đã
rút ra bài học quan trọng là “ Mọi đường lối,chủ trương của Đảng phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan”.
Đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại
hóa, Đảng ta chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững”, nâng cao trình độ dân trí, trình độ tri thức và
tay nghề cho người lao động. Muốn vậy “phải khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý
chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà khỏi
nghèo nàn, lạc hậu” - tức phát huy tính năng động của ý thức. Đẩy mạnh đấu tranh
trên lĩnh vực tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp tục làm sang
tỏ con đường đi lên CNXH ở nước ta. Nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục lí
luận chính trị để tạo nên sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong Nhân dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ giáo dục và đào tạo,Giáo trình triết học Mác – Lênin.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB CTQG, HN.
[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 1995, Tập 23 tr. 21.
[4]. Đảng cộng sản Việt Nam , Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
NXB
CTQG, HN.
[5]. Công cụ tìm kiếm: Google
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1.1 Định nghĩa vật chất và ý thức
1.1.1 Vật chất:
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan
niệm khác nhau về nó .Nhưng theo Lênin định nghĩa :"vật chất là
một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại
cho con người trong cảm giác ,được cảm giác của chúng ta chép
lại,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ".
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất không thể theo
cách thông thường vì khái niệm vật chất là khái niệm rộng
nhất.Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối lập vật chất với ý thức
,hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác ,vật chất tồn tại độc lập với cảm giác ,ý thức, còn
cảm giác ,ý thức phụ thuộc vào vật chất ,phản ánh khách quan.
Khi định nghĩa vật chất là phạm trù triết học ,Lênin một mặt
muốn chỉ rõ vật chất là khái niệm rộng nhất ,muốn phân biệt tư
cách là phạm tù triết học ,là kết quả của sự khái quát và trừu
tượng với những dạng vật chất cụ thể ,với những" hạt nhân cảm
tính".Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có
những đặc tính cụ thể có thể cảm thụ được .Định nghĩa vật chất
như vậy khắc phục được những quan niệm siêu hình của chủ
nghĩa duy vật đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ thể
của nó.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có ,không thể tiêu diệt
được ,nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác ,ý thức
con người, vật chất là một thực tại khách quan.Khác với quan
niệm ý niệm tuyệt đối của chủ nghĩa duy tâm khách
quan ,"thượng đế"của tôn giáo …Vật chất không phải là lực lượng
siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó ,trái lại phạm trù vật chất là
kết quả của sự khái quát sự vật ,hiện tượng cụ thể ,và do đó các
các đối tượng vật chất có thật ,hiện thực đó có khả năng tác động
vào giác quan để gây ra cảm giác ,và nhờ đó mà ta có thể biết
được ,hiểu được và nắm bắt sự vật này .Định nghĩa của Lênin đã
khẳng định được câu trả lời về hai mặt của vấn đề cơ bản của triết
học .
Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác chép lại ,chụp
lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.Khẳng định
như vậy một mặt muốn nhấn mạnh tính thứ nhất của vật chất ,vai
trò quyết định của nó với vật chất ,và mặt khác khẳng định khả
năng nhận thức thế giới khách quan của con người .Nó không chỉ
phân biệt chủ nghĩa duy tâm với chủ nghĩa duy vật, với thuyết
không thể biết mà còn phân biệt chủ nghĩ duy vật với nhị nguyên
luận.
Như vậy ,chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là
hoàn toàn triệt để,nó giúp chúng ta xác định được nhân tố vật
chất trong đời sống xã hội ,có ý nghĩa trực tiếp định hướng cho
nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp ngày càng đi sâu vào vào các
dạng các dạng cụ thể của vật chất trong giới vi mô .Nó giúp
chúng ta có thái độ khách quan trong suy nghĩ và hành động.
1.1.2 Ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì: “ý thức là sự
phản ánh một cách năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào
trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan”.
Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào
bộ não con người thì tự nhiên trở thành ý thức. Mặt khác, ý thức là
sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới, do nhu cầu cải tạo giới
tính tự nhiên của con người quyết định và được thực hiện thông
qua hoạt động lao động. Do đó, ý thức … là cái vật chất được đem
chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong
đó”.
Tính sáng tạo của ý thức được biểu hiện rất phong phú. Trên
cơ sở những gì đã có, ý thức có thể tạo ra những hiểu biết mới về
sự vật, có thể hình dung ra những gì không có trong thực tế. Ý
thức có thể dự đoán, đoán trước được tương lai, có thể tạo ra
những ảo tưởng, hoang đường, những lý thuyết khoa học và lý
thuyết rất trừu tượng và có tính khái quát cao.
Tuy nhiên, tính sáng tạo ra ý thức là sự sáng tạo ra sự phản
ánh, vì ý thức bao giờ cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.
Ý thức là sản phẩm lịch sử của quá trình phát triển xã hội
nên mang bản chất xã hội.
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện
chứng. Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất có
trước còn ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức quyết
định ý thức,ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
1.2.1 Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: “Vật chất là
cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý
thức, quyết định ý thức”, bởi vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là
sự phản ánh của thế giới vật chất, là hình ảnh mang tính chủ quan
của thế giới vật chất. Vì vậy, nội dung của ý thức do vật chất
quyết định. Nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà hình
thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội
của ý thức là bản thân thế giới khách quan hoặc các dạng tồn tại
của vật chất đều khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ví dụ: Ở Việt Nam, nhận thức của học sinh tiểu học, cấp hai,
cấp ba về công nghệ thông tin còn rất yếu. Nguyên nhân là do
thiếu máy móc cũng như thiếu đội ngũ giảng viên. Nhưng nếu đáp
ứng được vấn đề hạ tầng thì trình độ tin học của học sinh tiểu học,
cấp hai, cấp ba của sẽ tốt hơn rất nhiều. Điều này đã khẳng định
điều kiện vật chất như vậy thì ý thức cũng như vậy.
1.2.2 Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, “ý thức có thể tác động trở
lại đối với vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con
người”. Bởi vì ý thức chính là ý thức của con người nên nói đến vai
trò của ý thức chính là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý
thức không trực tiếp làm thay đổi bất cứ điều gì trong hiện thực
khách quan.
Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, vì vậy
vai trò của ý thức không phải là trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi
thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người những hiểu biết về
hiện thực khách quan, trên cơ sở đó con người xác định mục tiêu,
đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp,
các biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của
mình.
Sự trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
+ Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất
phát triển.
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát
triển của vật chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch
các quy luật vận động khách quan của vật chất.
Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý
thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực
tế của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại …
Ví dụ: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở
nhiệt độ hơn 10000C, người ta tạo ra các nhà máy gang thép để
sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ
công cổ xưa.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác-
Lê nin, ta rút ra được nguyên tắc phương pháp luận:
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức
và hoat động thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn trọng và hành động
theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động ngược trở lại với vật chất
nên cần phải phát huy tính năng động chủ quan, nghĩa là phát
huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức
đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp,
các biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của
mình.
Sự trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
+ Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất
phát triển.
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát
triển của vật chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch
các quy luật vận động khách quan của vật chất.
Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý
thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực
tế của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại …
Ví dụ: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở
nhiệt độ hơn 10000C, người ta tạo ra các nhà máy gang thép để
sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ
công cổ xưa.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác-
Lê nin, ta rút ra được nguyên tắc phương pháp luận:
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức
và hoat động thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn trọng và hành động
theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động ngược trở lại với vật chất
nên cần phải phát huy tính năng động chủ quan, nghĩa là phát
huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, cần luôn nỗ lực loại bỏ bệnh chủ quan, duy ý chí
trong cuộc sống. Đó là việc tránh xa thói quen chỉ căn cứ vào nhu
cầu, ước muốn, niềm tin của mình để hành động mà không nghiên
cứu, đánh giá đầy đủ tình hình các đối tượng vật chất.
Thứ tư, khi xem xét các hiện tượng xã hội, cần phải tính đến
cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh thần, cả điều kiện khách
quan lẫn nhân tố chủ quan.
| 1/14

Preview text:

I. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó.
1. Định nghĩa phạm trù vật chất
1.1 Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất: Chủ nghĩa duy vật
trước Mác có rất nhiều định nghĩa về vật chất, trong đó nổi lên các định nghĩa điển hình sau đây:
* Thời kì cổ đại: đồng nhất vật chất với một dạng vật cụ thể:
- Talet cho rằng vật chất là nước. - Anaximen cho rằng vật chất là không khí. -
Đêmôcrit cho rằng vật chất là nguyên tử. => Quan niệm vật chất thời kì cổ đại
mang tính trực quan, cảm tình. Nó chỉ có tác dụng chống lại quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm và tôn giáo.
* Thời kí cận đại thế kỷ XVII – XVIII: đồng nhất vật chất với thuộc tính của vật chất.
VD: Niutơn cho rằng khối lượng là vật chất.
=> Quan điểm vật chất thời kì cận đại mang tính siêu hình, máy móc.
1.2 Định nghĩa vật chất của Lênin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Đây là định nghĩa khoa học nhất , hoàn chỉnh nhất về vật chất của V.I.Lênin
trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Định nghĩa
trên đã đề cập đến các nội dung chủ yếu sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ
thuộc vào ý thức bất kể sự tôn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp
tác động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, ý thức, tư duy chỉ là sự phản ánh của vật chất lên con người, tức
con người có khả năng nhận thức được vật chất, thực tại khách quan.. 2. Các hình
thức tồn tại của vật chất:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận
động và vận động của vật chất diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, vận
động, không gian và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất 2.1. Vận động:
Theo quan điểm siêu hình, vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể
trong không gian, thời gian, nguồn gốc của sự vận động là ở bên ngoài sự vật hiện tượng.
Còn theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi nói
chung. Xét về bản chất, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuốc tính
cố hữu của vật chất, vận động không do ai sáng tạo ra và cũng không mất đi mà nó
tồn tại vĩnh viễn. Nguồn gốc vận động là do bản thân sự vật hiện tượng quy định.
Các hình thức cơ bản của vận động bao gồm: vận động cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội.
2.2 Không gian và thời gian
Vật chất luôn vận động và phát triển, sự vận động ấy không ở đâu
khác. “Ngoài không gian và thời gian”. Không gian và thời gian là một thuộc tính
khách quan của vật chất, gắn liền với sự vận động của vật chất. Mọi sự vật tồn tại
khách quan đều có vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài ngắn, ngang dọc, cao thấp
của nó, tất cả những thuộc tính đó được gọi là không gian.
Mọi sự vật đều ở trong trạng thái không ngừng biến đổi, mà mọi sự biến đổi diễn
ra đều có quá trình, có độ dài của sự diễn biến, nhanh, chậm kế tiếp nhau, tất cả
những thuộc tính đó được gọi là thời gian. Như vậy, không gian và thời gian là
thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật chất. Không gian là hình thức tồn
tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết cấu, còn thời gian là hình
thức tồn tại của vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá
trình. Không gian và thời gian là hai thuộc tính khác nhau nhưng không thể tách
rời nhau của vật chất vận động. Vì vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau đây:
- Tính khách quan: không gian và thời gian là một thuộc tính của vật chất,
tồn tại gắn liền với vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không
gian và thời gian cùng tồn tại khách quan.
- Tính vĩnh cữu của thời gian và tính vô tận của không gian, những
thành tựu của vật lý học hiện đại về lĩnh vực vi mô cũng như vũ trụ học ngày càng
xác nhận những tính chất này.
- Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian,
tính ba chiều của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một
chiều của thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai.
II. Nguồn gốc và bản chất của ý thức:
Vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một vấn đề hết sức phức
tạp của triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm trong lịch sử.
Dựa trên những thành tựu của triết học duy vật, của khoa học và thực tiễn xã
hội, triết học Mác – Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên đây.
1. Quan điểm của triết học Mac – Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý thức:
1.1. Nguồn gốc của ý thức:
1.1.a. Nguồn gốc tự nhiên:
Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của
ý thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng nguồn
gốc và bản chất của ý thức.
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần
kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của
vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật
chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con
người diễn ra trên sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Ý thức phụ
thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý
thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy, không thể tách rời ý thức ra
khỏi hoạt động của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới
bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, thuộc tính này
được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với
nhau, phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ
thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của
sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật – vật tác động và vật nhận tác động. Đồng
thời quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin. Nói cách khác, vật nhận tác
động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều hết sức quan trọng
để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở
giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người.
Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con
người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản
ánh – phát triển thành.
Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất,
nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh. Ý thức và
sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. bộ óc người là cơ quan phản
ánh song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của
thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
1.1.b. Nguồn gốc xã hội:
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan
trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ điều kiện quyết định cho sự ra đời cùng
với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã
hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc và xã hội, và ngay từ
đầu đã mang tính chất xã hội.
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu
nhận thụ động. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực,
bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động
của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ
óc người. ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác động thuần túy, tự
nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người, mà chủ yếu là do hoạt động của
con người cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế giới đó. Quá trình hình
thành ý thức là kết quả hoạt động, chủ động của con người. như vậy, không phải
bỗng nhiên thế giới khách quan tác động vào bộ óc người để con người có ý thức
mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế
giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới, con người chỉ có ý thức do
có tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám
phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức
của mình về thế giới.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà ý thức. Không
có hệ thống tín hiệu này – tức ngôn ngữ , thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện
được. Ngôn ngữ, theo C. Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực
tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động , là thực tiển xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ
xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
1.2 Bản chất của ý thức.
Ý thức là cái phản ảnh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi
chủ quan, là thực tại chủ quan, không có tính vật chất. Ý thức là hình ảnh phi cảm
tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính. Nếu coi ý thức cũng là một
hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức , làm mất ý nghĩa của sự
đối lập giữa vật chất và ý thức, từ đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc của sự
vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng
tạo. Ý thức phản ảnh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải tạo thế giới.
Do đó, ý thức con người là sự phản ảnh có tính năng động, sáng tạo. Ý thức
là sự phản ảnh sáng tạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiển xã hội, vì vậy ý thức
“Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người, và được
cải biến đi ở trong đó” (C. Mác và Ph. Ăngghen : Toàn tập, NXB. CTQG,
HN, 1993, Trang 35). Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây
là sự phản ảnh đặc biệt – phản ảnh trong quá trình con người, cải tạo thế giới. Quá
trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây:
- Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi
này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
- Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất đây là quá trình “Sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, theo nghĩa mã hóa
các đối tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật chất.
- Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình
hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiển biến cái quan niệm thành cái
thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài
hiện thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương
tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của
mình. Điều đó càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo
của ý thức là sáng tạo của sự phản ảnh, theo qui luật và trong khuôn khổ của sự
phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý
thức không đối lập , loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với
phản ánh, trên cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức.
Ý thức trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực
tiển xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.
III. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Theo duy tâm thì ý thức quyết định vật chất
Theo duy vật thì vật chất quyết định ý thức
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học nên trong nhận
thức của chúng ta phải là vật chất quyết định ý thức.
Cái nhìn khách quan, tức là nhìn từ nhiều khía cạnh của cùng một sự vật hiện
tượng. Thường thì con người rất chủ quan !
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết
định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý
thức đối với vật chất.
- Vật chất (xét đến cùng) là cái có trước, nó sinh ra và quyết định đối với ý
thức. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý
thức (não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh hình thành ý
thức, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não). Trong quá
trình phản ánh thế giới khách quan, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất đó vào con người.
Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của
ý thức. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất, đó là một thuộc tính
phản ánh phát triển thành, ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính
phản ánh của vật chất.
Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề nguồn gốc xã
hội, ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con nguời nhờ lao động,
ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Do
vậy, vật chất quyết định sự phát triển của ý thức, quyết định tính phong phú, đa
dạng, nhiều vẻ của ý thức.
- Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng sau khi ra đời ý thức có tính
độc lập tương đối nên nó có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Nói tới vai trò của ý thức tức là nói đến vai trò
của con người vì ý thức là ý thức của con người, bản thân của ý thức tự nó không
làm thay đổi gì hiện thực.Mác nói :“..lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi
lực lượng vật chất..” Ý thức tác động trở lại vật chất theo hai hướng: Ý thức, tư
tưởng có thể quyết định làm sao con người hoạt động đúng và thành công
khi nó phản ánh đúng và sâu sắc thế giới khách quan, nó sẽ thúc đẩy thế giới vật
chất phát triển nhanh vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương
hướng và biện pháp chính xác.
Ngược lại ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại
khi con người phản ánh sai thế giới khách quan, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất.
VD: Aristôt đưa ra thuyết “địa tâm” coi trái đất là trung tâm của vũ trụ đã làm
kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất. Vì vậy con người phải phát huy vai trò
sáng tạo của thế giới khách quan. Tuy nhiên cơ sở để phát huy tính năng động chủ
quan của ý thức là việc thừa nhận tính khách quan của vật chất, thừa nhận quy luật
tự nhiên của xã hội. Nếu như thế giới vật chất với những thuộc tính, quy luật của
nó tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ
cho hoạt động của mình.
- Biểu hiện của mới quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại xã hội. ngoài
ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ
khác như cụ thể và khách thể, lý luận và tực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
Phần II, Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới:
1. Ý nghĩa phương pháp luận:
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải xuất
phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và tuân theo quy luật khách quan. Vì ý
thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải chú ý
giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người.
Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ
khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất, nhưng lý luận một
khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”. Chống
quan điểm duy ý chí: V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn
chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm
xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu
lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và
sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã
gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ
nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chí có
nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong
nhận thức. Song vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
2.Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới:
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ
quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định mục tiêu, bước
đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh
tế… Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá những
khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển
kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao trong xây dựng cơ bản
và phát triền sản xuất.
Trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã không
có được một đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa
học dẫn đường. Sai lầm chủ quan duy ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách
quan của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Trước tình hình nền kinh tế miền Bắc còn bị phá hoại, nền kinh tế miền Nam bị
đảo lộn và suy sụp, lạm phát trầm trọng, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những
chỉ tiêu kế hoạch năm 1976 - 1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả năng của
nền kinh tế, như: năm 1975, phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá
biển,1 triệu hecta khai hoang,1triệu 200 hecta rừng mới trồng..,10 triệu tấn than
sạch, 2 triệu tấn xi măng.. Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng
50-60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp, tổng sản phẩm xã hội
tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%. Đại hội
Đảng lần thứ V, cũng chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực sự trì
trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương, chính sách và
toàn diện về đổi mới, nhất là về kinh tế.
Tại Đại hội Đảng VI, Đảng đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã phân
tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội, đề ra
các định hướng và xác định chủ trương đổi mới đặc biệt là đổi mới về kinh tế, thực
hiện mục tiêu ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu.. Vì vậy, từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh
nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đại hội Đảng
lần thứ VII chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết như vấn đề lạm phát, thiếu việc
làm, trong điều hành quản lý còn nhiều sơ hở, lúng túng.. Đặc biệt Đại hội cũng
xác định: “Về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải tập trung sức đổi
mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống và làm việc, các
nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của củ nghĩa xã hội, coi đó
là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị”. Đại hội đã
rút ra bài học quan trọng là “ Mọi đường lối,chủ trương của Đảng phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan”.
Đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại
hóa, Đảng ta chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững”, nâng cao trình độ dân trí, trình độ tri thức và
tay nghề cho người lao động. Muốn vậy “phải khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý
chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà khỏi
nghèo nàn, lạc hậu” - tức phát huy tính năng động của ý thức. Đẩy mạnh đấu tranh
trên lĩnh vực tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp tục làm sang
tỏ con đường đi lên CNXH ở nước ta. Nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục lí
luận chính trị để tạo nên sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong Nhân dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ giáo dục và đào tạo,Giáo trình triết học Mác – Lênin.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, HN.
[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 1995, Tập 23 tr. 21.
[4]. Đảng cộng sản Việt Nam , Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, HN.
[5]. Công cụ tìm kiếm: Google
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1.1 Định nghĩa vật chất và ý thức 1.1.1 Vật chất:
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan
niệm khác nhau về nó .Nhưng theo Lênin định nghĩa :"vật chất là
một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại
cho con người trong cảm giác ,được cảm giác của chúng ta chép
lại,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ".
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất không thể theo
cách thông thường vì khái niệm vật chất là khái niệm rộng
nhất.Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối lập vật chất với ý thức
,hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác ,vật chất tồn tại độc lập với cảm giác ,ý thức, còn
cảm giác ,ý thức phụ thuộc vào vật chất ,phản ánh khách quan.
Khi định nghĩa vật chất là phạm trù triết học ,Lênin một mặt
muốn chỉ rõ vật chất là khái niệm rộng nhất ,muốn phân biệt tư
cách là phạm tù triết học ,là kết quả của sự khái quát và trừu
tượng với những dạng vật chất cụ thể ,với những" hạt nhân cảm
tính".Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có
những đặc tính cụ thể có thể cảm thụ được .Định nghĩa vật chất
như vậy khắc phục được những quan niệm siêu hình của chủ
nghĩa duy vật đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ thể của nó.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có ,không thể tiêu diệt
được ,nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác ,ý thức
con người, vật chất là một thực tại khách quan.Khác với quan
niệm ý niệm tuyệt đối của chủ nghĩa duy tâm khách
quan ,"thượng đế"của tôn giáo …Vật chất không phải là lực lượng
siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó ,trái lại phạm trù vật chất là
kết quả của sự khái quát sự vật ,hiện tượng cụ thể ,và do đó các
các đối tượng vật chất có thật ,hiện thực đó có khả năng tác động
vào giác quan để gây ra cảm giác ,và nhờ đó mà ta có thể biết
được ,hiểu được và nắm bắt sự vật này .Định nghĩa của Lênin đã
khẳng định được câu trả lời về hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học .
Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác chép lại ,chụp
lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.Khẳng định
như vậy một mặt muốn nhấn mạnh tính thứ nhất của vật chất ,vai
trò quyết định của nó với vật chất ,và mặt khác khẳng định khả
năng nhận thức thế giới khách quan của con người .Nó không chỉ
phân biệt chủ nghĩa duy tâm với chủ nghĩa duy vật, với thuyết
không thể biết mà còn phân biệt chủ nghĩ duy vật với nhị nguyên luận.
Như vậy ,chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là
hoàn toàn triệt để,nó giúp chúng ta xác định được nhân tố vật
chất trong đời sống xã hội ,có ý nghĩa trực tiếp định hướng cho
nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp ngày càng đi sâu vào vào các
dạng các dạng cụ thể của vật chất trong giới vi mô .Nó giúp
chúng ta có thái độ khách quan trong suy nghĩ và hành động. 1.1.2 Ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì: “ý thức là sự
phản ánh một cách năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào
trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào
bộ não con người thì tự nhiên trở thành ý thức. Mặt khác, ý thức là
sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới, do nhu cầu cải tạo giới
tính tự nhiên của con người quyết định và được thực hiện thông
qua hoạt động lao động. Do đó, ý thức … là cái vật chất được đem
chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”.
Tính sáng tạo của ý thức được biểu hiện rất phong phú. Trên
cơ sở những gì đã có, ý thức có thể tạo ra những hiểu biết mới về
sự vật, có thể hình dung ra những gì không có trong thực tế. Ý
thức có thể dự đoán, đoán trước được tương lai, có thể tạo ra
những ảo tưởng, hoang đường, những lý thuyết khoa học và lý
thuyết rất trừu tượng và có tính khái quát cao.
Tuy nhiên, tính sáng tạo ra ý thức là sự sáng tạo ra sự phản
ánh, vì ý thức bao giờ cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.
Ý thức là sản phẩm lịch sử của quá trình phát triển xã hội
nên mang bản chất xã hội.
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện
chứng. Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất có
trước còn ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức quyết
định ý thức,ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
1.2.1 Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: “Vật chất là
cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý
thức, quyết định ý thức”, bởi vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là
sự phản ánh của thế giới vật chất, là hình ảnh mang tính chủ quan
của thế giới vật chất. Vì vậy, nội dung của ý thức do vật chất
quyết định. Nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà hình
thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội
của ý thức là bản thân thế giới khách quan hoặc các dạng tồn tại
của vật chất đều khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ví dụ: Ở Việt Nam, nhận thức của học sinh tiểu học, cấp hai,
cấp ba về công nghệ thông tin còn rất yếu. Nguyên nhân là do
thiếu máy móc cũng như thiếu đội ngũ giảng viên. Nhưng nếu đáp
ứng được vấn đề hạ tầng thì trình độ tin học của học sinh tiểu học,
cấp hai, cấp ba của sẽ tốt hơn rất nhiều. Điều này đã khẳng định
điều kiện vật chất như vậy thì ý thức cũng như vậy.
1.2.2 Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, “ý thức có thể tác động trở
lại đối với vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con
người”. Bởi vì ý thức chính là ý thức của con người nên nói đến vai
trò của ý thức chính là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý
thức không trực tiếp làm thay đổi bất cứ điều gì trong hiện thực khách quan.
Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, vì vậy
vai trò của ý thức không phải là trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi
thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người những hiểu biết về
hiện thực khách quan, trên cơ sở đó con người xác định mục tiêu,
đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp,
các biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của mình.
Sự trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
+ Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát
triển của vật chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch
các quy luật vận động khách quan của vật chất.
Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý
thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực
tế của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại …
Ví dụ: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở
nhiệt độ hơn 10000C, người ta tạo ra các nhà máy gang thép để
sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ công cổ xưa.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác-
Lê nin, ta rút ra được nguyên tắc phương pháp luận:
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức
và hoat động thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn trọng và hành động
theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động ngược trở lại với vật chất
nên cần phải phát huy tính năng động chủ quan, nghĩa là phát
huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức
đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp,
các biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của mình.
Sự trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
+ Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát
triển của vật chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch
các quy luật vận động khách quan của vật chất.
Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý
thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực
tế của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại …
Ví dụ: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở
nhiệt độ hơn 10000C, người ta tạo ra các nhà máy gang thép để
sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ công cổ xưa.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác-
Lê nin, ta rút ra được nguyên tắc phương pháp luận:
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức
và hoat động thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn trọng và hành động
theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động ngược trở lại với vật chất
nên cần phải phát huy tính năng động chủ quan, nghĩa là phát
huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, cần luôn nỗ lực loại bỏ bệnh chủ quan, duy ý chí
trong cuộc sống. Đó là việc tránh xa thói quen chỉ căn cứ vào nhu
cầu, ước muốn, niềm tin của mình để hành động mà không nghiên
cứu, đánh giá đầy đủ tình hình các đối tượng vật chất.
Thứ tư, khi xem xét các hiện tượng xã hội, cần phải tính đến
cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh thần, cả điều kiện khách
quan lẫn nhân tố chủ quan.