Ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 đến kinh tế hộ gia đình tại TP. Hồ Chí Minh | Tiểu luận môn xã hội học Trường đại học sư phạm kĩ thuật TP. Hồ Chí Minh
Đạị dịch COVID -19 đã và đang có tác động rất lớn đến nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng, với số ca nhiễm và tử vong ngày càng tăng cao cùng với đó là các biến chủng ngày càng nguy hiểm của Covid-19. Riêng ở Việt Nam đã phải trải qua 3 làn sóng dịch và hiện tại là làn song thứ tư. Covid-19 không chỉ đem lại những tổn..Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
B퐃⌀ GI䄃ĀO D唃⌀C VO ĐO T䄃⌀O
TRƯNG Đ䄃⌀I H伃⌀C SƯ PH䄃⌀M K THU숃⌀T TP.HCM Đ TI
NH HƯNG CA Đ䄃⌀I D䤃⌀CH COVID-19 Đ쨃ĀN KINH T쨃Ā H퐃⌀
GIA ĐNH T䄃⌀I TP. HỒ CHÍ MINH
GVHD: GVC.TS NGUYỄN TH䤃⌀ NHƯ THÚY
Mã học phần: INSO321005-08 Nh漃Ām 2:
Phan Th椃⌀ Ngọc Trân - 19159070
Trần Hng Ngân - 19159034
Hong Đnh Thc - 19129003
Ph愃⌀m Hu Th Ā - 19129051
Nguyn Thnh Li - 20110674
Ph愃⌀m Anh Tu Ān - 19129061
TP. H Chí Minh - 11/2021
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VI쨃ĀT TIỂU LU숃⌀N
H伃⌀C KỲ 1 NĂM H伃⌀C 2021-2022
Mã học phần: INSO321005-08
Nhóm: 2 (Lớp thứ 5 – Tiết 4-5) Tên đề tài:
Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến kinh tế hộ gia đình tại TP. Hồ Chí Minh TỈ LỆ % STT
H伃⌀ V TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN HOÀN THÀNH 1 Phan Thị Ngọc Trân 19159070 100% 2 Trần Hồng Ngân 19159034 100% 3 Hoàng Đình Thức 19129003 100% 4 Phạm Hữu Thế 19129051 100% 5 Nguyễn Thành Lợi 20110674 100% 6 Phạm Anh Tuấn 19129061 100% Ghi chú:
Tỷ lệ %: Mức độ phần trăm hoàn t hành của từng sinh viên tham gia.
Trưởng nhóm: Phan Thị Ngọc Trân.
Nhận xét của giáo viên
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
….………………………………………………………………………………...
……………………………………………………………………………………
Tp. Hồ Chí Minh - Tháng 11 năm 2021 1
M唃⌀C L唃⌀C
PHẦN 1. M ĐẦU ................................................................................................... 3
1.1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài .................................................................. 4
1.3. Phương pháp nghiên cu ............................................................................. 4
PHẦN 2. N퐃⌀I DUNG ............................................................................................... 5
2.1. THỰC TR䄃⌀NG NN KINH T쨃Ā- XÃ H퐃⌀I VIỆT NAM TRƯỚC Đ䄃⌀I
D䤃⌀CH COVID-19.................................................................................................. 5
2.1.1. Xã hội ...................................................................................................... 5
2.1.2. Hộ gia đnh, dân cư ................................................................................ 9
2.2. THỰC TR䄃⌀NG NN KINH T쨃Ā VIỆT NAM TRONG Đ䄃⌀I D䤃⌀CH
COVID-19 ...........................................................................................................13
2.2.1. Nền Kinh t Ā Trong nước......................................................................13
2.2.2. Nền kinh t Ā Hộ gia đnh .......................................................................16
2.3. GII PHÁP V KINH T쨃Ā CHO H퐃⌀ GIA TRONG MÙA D䤃⌀CH
COVID-19 ...........................................................................................................21
2.3.1. Nh nước – chính phủ ..........................................................................21
2.3.2. Xã hội ....................................................................................................23
2.3.3. Cá nhân và hộ gia đnh ........................................................................24
2.3.4. Tổng k Āt ................................................................................................27
PHẦN 3: K쨃ĀT LU숃⌀N ............................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHO .....................................................................................29 2
PHẦN 1. M ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Đại dịch COVID-19 đã và đang có tác động rất lớn đến nhân loại nói chung và Việt
Nam nói riêng, với số ca nhiễm và tử vong ngày càng tăng cao cùng với đó là các biến
chủng ngày càng nguy hiểm của Covid-19. Riêng ở Việt Nam đã phải trải qua 3 làn sóng
dịch và hiện tại là làn sóng dịch lần thứ tư. Covid-19 không chỉ đem lại những tổn thất về
kinh tế mà còn tổn thất đến con người. Trong đó, đợt bùng phát dịch bệnh lần thứ tư đã tác
động nghiêm trọng đến mọi mặt trong đời sống cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp và người dân vì đã lan rộng ra hầu hết các tỉnh, thành phố lớn như
TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương,… những nơi tập trung đông dân cư, các khu công
nghiệp, khu chế xuất và các doanh nghiệp lớn có vai trò đóng góp rất nhiều cho việc phát
triển kinh tế. Sự bùng phát và lây lan vẫn chưa rõ hồi kết của đại dịch Covid-19 đã và đang
khiến cho nền kinh tế thế giới phải đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng, tuy nhiên nền
kinh tế Việt Nam đang từng bước phục hồi và phát triển với sự chỉ đạo của Chính Phủ
trong bối cảnh bình thường mới đã thành công bước đầu. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại,
những hậu quả về kinh tế để lại vẫn luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng của những hộ gia đình
tại TP.Hồ Chí Minh. Đây được xem như là nơi tập trung hầu hết các công nhân từ các tỉnh
khác và họ là những người đang chịu ảnh hưởng trực tiếp về tác động của đại dịch như việc
bị kẹt trong vùng dịch không trở về quê được và phải rơi vào tình trạng thất nghiệp, cùng
với đó là nhu cầu về sinh hoạt cũng như tiền trọ cho thấy rõ vấn đề họ đã mất cân bằng về
kinh tế và thậm chí là mất khả năng kinh tế. Nhận thấy tính cấp thiết về những ảnh hưởng
của Covid-19 đến tình hình kinh tế của người lao động và cũng như các hộ gia đình tại
vùng dịch, vì thế chúng ta sẽ đi vào phân tích và nhận định với mục đích làm rõ và đưa ra
một số giải pháp nhằm giải quyết vấn đề trên và cũng vì thế “ Ảnh hưởng của đại dịch
Covid -19 đến kinh tế hộ gia đình tại Thành phố Hồ Chí Minh“ đã được nhóm lựa chọn
làm chủ đề chính của đề tài. 3
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Đề tài “Ảnh hưởng của đại dịch Covid – 19 đến kinh tế hộ gia đình tại Thành phố Hồ
Chí Minh“ với mục tiêu đi đầu là giúp người đọc có thể nhận thức rõ hơn những ảnh hưởng
cơ bản của đại dịch Covid-19 đến nền kinh tế của Việt Nam nói chung và cụ thể ở đây
chính là đối với các hộ gia đình, người dân đang chịu ảnh hưởng trực tiếp từ đại dịch. Đề
tài sẽ tập trung vào phân tích dựa trên tình hình thực tiễn về sự tác động của đại dịch Covid
-19 đến kinh tế, xã hội hiện nay. Nêu rõ được những vấn đề còn tồn đọng với kinh tế của
các hộ gia đình, người dân trong mùa dịch cùng với các mặt còn hạn chế, xác định rõ mục
tiêu và từ đó đưa ra được các phương pháp giải quyết mang tính cấp bách cũng như lâu dài
cho hiện tại và cả tương lai đối với vấn đề nêu trên. Góp phần thúc đẩy một cách nhanh
chóng công cuộc đưa đất nước trở lại trạng thái “ bình thường mới “, hạn chế một cách tối
đa được những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 đến vấn đề kinh tế của người dân
cũng như hộ gia đình tại Việt Nam.
1.3. Phương pháp nghiên cu
Trong đề tài này, nhóm chúng em sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Dùng các phương pháp thu thập thông tin và tổng hợp
kiến thức thông qua các bài báo, mạng xã hội, Internet,…
Phương pháp quan sát thực tiễn: Tiến hành quan sát để thu thập thông tin về tình hình
cuộc sống của người dân và tình trạng kinh tế của các hộ gia đình trong đại dịch Covid-19
xung quanh bản thân. Từ đó, chúng ta sẽ có một cái nhìn tổng quát, khách quan nhất về
vấn đề và sẽ có nhiều cơ sở cho việc tiếp cận và giải quyết vấn đề.
Phương pháp tổng hợp, logic: Được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ
thể từ những kết quả bằng phân tích, đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp kết hợp chúng
lại với nhau để có được sự nhận thức vấn đề nghiên cứu một cách rõ ràng và hợp lý. 4
PHẦN 2. N퐃⌀I DUNG
2.1. THỰC TR䄃⌀NG NN KINH T쨃Ā- XÃ H퐃⌀I VIỆT NAM TRƯỚC Đ䄃⌀I D䤃⌀CH COVID-19
2.1.1. Xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội nước ta nói chung và TP. HCM nói riêng trước khi đại dịch
covid-19 (đầu năm 2020) xâm lấn tức là năm 2019:
(Theo nguồn ảnh, Thanh Trà, Tăng trưởng GDP trong 10 năm qua của Việt Nam,
https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/tang-truong-gdp-trong-10-nam-qua-cua-viet-nam-318959.html, ngày truy cập 26-09-2021).
Cả nước: Mức tăng trưởng GDP của Việt Nam qua các năm, đa số là tăng. Tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt gần 517 tỷ USD, tăng 7,6% so năm 2018; lần đầu
vượt ngưỡng 500 tỷ USD và là kết quả lịch sử, với giá trị xuất siêu đạt mức kỷ lục mới đạt
9,94 tỷ USD. ( Theo Tạp chí Tài Chính Online ( Thanh trà, 2020, Tăng trưởng GDP trong 5
10 năm qua của Việt Nam)[1] . Khoảng 38 tỉ USD vốn ngoại đổ vào nền kinh tế, số lượng
doanh nghiệp tăng, số thành lập mới năm nay đạt mức kỉ lục 138,1 nghìn doanh nghiệp,
vốn đăng kí bình quân một doanh nghiệp đạt 12,5 tỉ đồng.
- Thành phố Hồ Chí Minh: Là đô thị phát triển nhất Việt Nam, là trung tâm chính trị,
kinh tế quan trọng của cả nước.
+ Nền kinh tế tiếp tục tăng ổn định. Năm 2019 tăng trưởng kinh tế của thành
phố(GRDP) ước đạt 8.32%, cao hơn so với năm 2018 là 8.3%. Tỷ trọng quy mô kinh tế
thành phố (5,55 triệu tỷ đồng) so với quy mô kinh tế cả nước là 23,97%, cao hơn năm 2017
và năm 2016 (23,4%), cao nhất từ trước đến nay. Tổng vốn đầu t
ư toàn xã hội chiếm 35%
GRDP, bằng năm 2018, vượt chỉ tiêu bình quân trên nhiệm kỳ 2016-2020 là 30% GRDP.
Đây là một tín hiệu tốt [2]. + Về lĩn
h vực dịch vụ thì thành phố đang triể khai kế hoạch phát triển thương mại
điện tử, hỗ trọ, khuyến khích người dân địa bàn đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử,
góp phần thúc đẩy luu thông hàng hóa, điển hình là các trang thương mại điện tử Tiki,
Shopee, Lazada, ...Dẫn đến chỉ số thương mại điện tử của HCM dẫn đầu cả nước với chỉ
số 86,8 cao hơn cả nước 2 lần 40, 3 điểm.
+ Kim ngạch xuất - nhập khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp 2019
ước đạt 42,1 tỉ USD tăng 10,7% so với cùng kì (tăng 7%), nhập khẩu ước đạt 51,4 tỉ USD
tăng 9,2% so với cùng kỳ (tăng 8,8%) [3].
+ Thị trường chứng khoán 9 tháng năm 2019 có nhiều đóng góp trong việc huy động
vốn cho nền kinh tế với tổng mức huy động vốn đạt 203,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với
[1] Tất Đạt, Tăng trưởng GDP vượt 7% và những con số đáng chú ý của kinh tế Việt Nam năm 2019,
https://vietnammoi.vn/gdp-vuot-7-va-nhung-con-so-dang-chu-y-cua-kinh-te-viet-nam-nam-2019-
2019122718172625.htm , ngày truy cập 18-11-2021. [2] [3]
Anh Tuấn, 2019, Tăng trưởng kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019
https://www.vietnamplus.vn/tang-truong-kinh-te-cua-thanh-pho-ho-chi-minh-nam-2019-uoc-dat-
832/610299.vnp ,ngày truy cập 05-10-2021. 6
cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội đạt mức tăng khá 10,3% so với cùng kỳ năm 2018.
(Theo nguồn ảnh từ https://hanoimoi.com.vn/infographic/Kinh-te/954139/toan-canh-buc-tranh-kinh-te-viet- nam-nam-2019b)
Về tình hình lao động:
- Tình hình lao động cả nước: việc làm năm 2019 của cả nước có sự chuyển biến
tích cực, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm giảm, số người có việc làm tăng, thu nhập của
người lao động làm công hưởng lương có xu hướng tăng. Chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng tích cực, lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm nhanh,
lao động trong khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số lao động của nền kinh tế. 7
Nguồn các thông số: Theo Trang tin điện tử TPHCM (Long Hồ, 2019, TPHCM: bình quân giải quyết việc làm
hàng năm cho 300.943 lượt lao động,https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/tphcm-binh-quan-giai-quyet-viec-lam-hang-nam-
cho-300-943-luot-lao-dong-1491858553, ngày truy cập 08-10-2021.) -
Tình hình lao động TP. HCM:
+ Qua các năm từ 2012-2019, TP. HCM đã giải quyết việc làm cho 2.260.950 lượt
lao động, số việc làm mới là 960.055 chỗ; bình quân giải quyết việc làm hàng năm cho
300.943 lượt lao động, số chỗ việc làm mới là 127.386 chỗ. Tỷ lệ thất nghiệp đến năm 2018 là 3,76% [4]. + C
ơ cấu lao động đang chuyển dần sang dịch vụ, giảm dần công nghiệp - xây dựng
và nông - lâm - ngư nghiệp. Năm 2019, tỷ trọng cơ cấu lao động dịch vụ là 64,89% (năm
2018 là 64, 37%), công nghiệp - xây dựng là 33,08% (năm năm 2018 là 33,52%), nông -
lâm - ngư nghiệp là 2,03% (năm năm 2018 là 2,11%)
Nhận xét: Trước khi đại dịch đến, thì tình hình kinh tế xã hội nước ta phát triển ổn định,
đạt được những kết quả tích cực thậm chí năm 2019 là năm tăng trưởng kinh tế cao nhất
[4] Long Hồ, TPHCM: Bình quân giải quyết việc làm hàng năm cho 300.943 lượt lao động,
https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/tphcm-binh-quan-giai-quyet-viec-lam-hang-nam-cho-300-943-luot-lao-
dong-1491858553, ngày truy cập 08-10-2021. 8
trong 9 năm trở lại, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng nhờ sự chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước cũng như sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và nhân cả nước mà đã bình yên
vượt qua được khó khăn. Ngành du lịch phát triển mạnh, thu hút nhiều đầu tư nước ngoài.
Nói riêng TP. HCM thì vẫn giữ vị thế và phong độ của thành thị phát triển, trung tâm kinh
tế của cả nước với nhiều chỉ số dẫn đầu, có chỉ số thậm chí hơn xa cả nước như thương mại
điện tử. Hoàn thành các chỉ tiêu trong năm cũ đề ra một cách xuất sắc thậm chí vượt qua
chỉ tiêu đề ra. Thị trường lao động có những sự chuyển biến tích cực, tỷ lệ thất nghiệp tiếp
tục giảm, tỷ lệ có việc làm tăng. Lao động dần chuyển sang ngành dịch vụ chứng tỏ nguồn
lao động có kỹ thuật chuyên môn cao đang dần nhiều hơn, phù hợp với định hướng phát
triển cảu thành phố, đáp ứng đủ nhu cầu nhân lực và nhu cầu sản xuất trong tương lai khi
thời đại ngày càng tiến bộ, các ngành dich vụ dần trở thành nhân vật chính của nền kinh
tế. Ngoài ra còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thep kịp các nước tiến bộ trên thế giới.
2.1.2. Hộ gia đnh, dân cư - Cả nước:
+ Đời sống dân cư cả nước tiếp tục được cải thiện .Ước tính thu nhập bình quân 1
người 1 tháng năm 2019 theo giá hiện hành đạt khoảng 4,2 triệu đồng, cao hơn mức 3,9
triệu đồng của năm 2018.
+ Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương là 6,7 triệu
đồng/tháng, trong đó thu nhập của lao động có trình độ trên đại học trở lên là 9,3 triệu
đồng/tháng, tăng 1,06 triệu đồng so với năm trước; lao động có trình độ sơ cấp là 7,7 triệu
đồng/tháng, tăng 1,08 triệu đồng; lao động chưa học xong tiểu học là 5 triệu đồng/tháng;
lao động chưa từng đi học là 4,2 triệu đồng/tháng [5].
[5] Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2019 – 27/12/2019,
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2019/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-
nam-2019/ ,ngày truy cập 25-10-2021. 9
(Nguồn các thông số: Tạp chí tài Chính Online - Đức Hiệp- Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2019 -
https://tapchitaichinh.vn/info-media/infographics-ket-qua-khao-sat-muc-song-dan-cu-nam-2019-
324671.html23/06/2020, ngày truy cập 24-10-2021) -
Trong năm 2019, cả nước có 68,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 34,7% so với cùng
kỳ năm trước, tương ứng với 278 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 33,8%. Thống kê,
tính đến cuối năm 2019, tỷ l
ệ hộ nghèo cả nước còn 3,75%, bình quân trong 4 năm giảm
1,53%/năm, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước từ 1-
1,5%/năm. Ước đến cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn khoảng 2,75%, tỷ lệ
hộ cận nghèo cả nước còn khoảng 4% [6].
- Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua có tác động tích cực,
góp phần nâng cao đời sống nhân dân khu vực nông thôn, đẩy mạnh phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội khu vực nông thôn. Tính đến cuối tháng 12/2019, cả nước
[6] [7] Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2019,
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2019/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-
nam-2019/ ,ngày truy cập 25-10-2021. 10
có 4.806 xã (đạt 53,92%) và 111 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, vượt
3,92% so với mục tiêu giai đoạn 2010-2020 [7]. - Thành phố Hồ Chí Minh:
Năng suất lao động năm 2019 ước đạ t299,8 triệu đồng/người, tăng 6,8%, trong khi thu
ngân sách đạt 412.474 tỉ đồng, tăng 3,3% so với ch ỉtiêu k ế hoạch nă m 2019. -
Năm 2019, Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố có mức lương cao nhất của cả
nước với trung bình vị trí có kinh nghiệm là 10 triệu VNĐ, vị trí trưởng phòng là 25 triệu
VNĐ. Trong đó các ngành Tài chính/Đầu tư, Công nghệ thông tin, Ngân hàng có mức
lương cao nhất. Cán bộ công chức viên chức TPHCM năm 2018 được tăng thu nhập tối đa
0,6 lần, năm 2019 tăng tối đa 1,2 lần, năm 2020 tăng tối đa 1,8 lần so với tiền lương theo ngạch bậc chức vụ .
(Theo nguồn ảnh từ HR Insider, Vietnamworks Online “Khảo sát người tìm việc năm 2019”,
https://www.vietnamworks.com/hrinsider/kt_chuyen_nganh/vietnamworks-phat-hanh-khao-sat-luong-nguoi-
tim-viec-nam-2019, ngày truy cập 18-11-2021.) 11
+ Trong tổng số 2,5 triệu hộ dân cư, vẫn còn 39 hộ không có nhà ở ;trung bình cứ
100.000 hộ dân cư thì có khoảng 2 hộ không có nhà ở .Tình trạn
g hộ không có nhà ở đang
dần được cải thiện trong 10 năm, từ mức 0,9 hộ/10.000 hộ vào năm 2009 đến nay còn 0,2
hộ/10.000 hộ năm 2019. Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt đến 99,8%, nhà bán kiên cố và kiên cố
(chiếm 99,3%) và diện tích nhà ở bình quân đầu người năm 2019 là 19,4m2/người.
+ Về công tác giảm nghèo, tính đến ngày 31/12/2018, thành phố còn 3.767 hộ nghèo,
chiếm tỷ lệ 0,19% tổng hộ dân thành phố và 22.882 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 1,15% tổng
hộ dân thành phố. Qua 6 năm (2012 - 2018), thành phố đã trợ giúp cho 189.550 hộ nghèo
có thu nhập vượt mức chuẩn nghèo và 142.000 hộ có thu nhập vượt mức chuẩn cận nghèo
của từng giai đoạn và thành phố không còn hộ nghèo có thu nhập trong mức chuẩn nghèo Quốc gia.[8]
Nhìn chung trước khi đại dịch tiến đến, thu nhập bình quân của nước ta vẫn đang trên đà tăng tr ở
ư ng mặc dù vẫn gặp không ít khó khăn. Mức lương giữa các ngành nghề cần
chuyên môn kỹ thuật cao và không cần chuyên môn cũng như người lao động trí óc với lao
động chân tay ngày càng cách biệt. Cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu lao động của nước ta
đang trên đà phát triển, đạt năng suất lao động cao hơn nhờ ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng
cao. Tỷ lệ hộ nghèo giảm, Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ cho hộ nghèo. Đời sống
của các tầng lớp dân cư tiếp tục ổn định, tuy nhiên vẫn có sự cách biệt giữa mức sống giữa
thành thị và nông thôn, giữa nhóm dân cư giàu và nghèo, giữa một số vùng như vùng Tây
Nguyên còn khó khăn so với các vùng khác. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố
có bình quân thu nhập dẫn đầu cả nước ở nhiều ngành nghề, ở đây thì chênh lệch mức
lương càng thể hiện rõ giữa những ngành top đầu cũng như nhu cầu nguồn nhân lực đang
rất cần. Ngoài ra thành phố cũng có nhiều chính sách hỗ trợ tăng lương cho người dân lao
động, cán bộ viên chức, giúp nhiều người tìm được việc làm và hỗ trợ nhà ở thích hợp góp
phần giảm tỷ lệ hộ nghèo, giảm tỷ lệ vô gia cư. Tóm lại tình hình kinh tế xã hội, hộ gia
[8] Long Hồ, TPHCM: Bình quân giải quyết việc làm hàng năm cho 300.943 lượt lao động,
https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/tphcm-binh-quan-giai-quyet-viec-lam-hang-nam-cho-300-943-luot-lao-dong-
1491858553, ngày truy cập 08-10-2021. 12
đình của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, Việt Nam nói chung có nhiều chuyển biến tích
cực, vẫn trên đà phát triển mặc dù còn đứng trước nhiều thách thức.
2.2. THỰC TR䄃⌀NG NN KINH T쨃Ā VIỆT NAM TRONG Đ䄃⌀I D䤃⌀CH COVID-19
2.2.1. Nền Kinh t Ā Trong nước
Trong đợt dịch thứ nhất và thứ hai trong năm 2020:
Ở góc độ xã hội, COVID-19 tác động làm tăng tỷ lệ nghèo và cận nghèo về thu nhập
và làm sụt giảm thu nhập tạm thời của hộ gia đình và người lao động. Do hội nhập kinh tế
sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19, nhưng
cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể. [9]Theo Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê
(Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý II và tháng 6 năm 2020) “Tăng trưởng GDP ước
đạt 2,9% năm 2020. Trong những tháng đầu năm 2020, dịch Covid-19 đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Khu vực dịch vụ trong
6 tháng đạt mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm 2011-2020. Trong khu vực dịch vụ,
đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị
tăng thêm của 6 tháng như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước,
là ngành đóng góp lớn nhất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế với 0,46
điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,78%, đóng góp 0,32
điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 3%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm; ngành
dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 20,7%, làm giảm 0,95 điểm phần trăm.”. Về cơ cấu nền
kinh tế 6 tháng đầu năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng
14,16%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,44%; khu vực dịch vụ chiếm 42,04%;
thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,36% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm
2019 là: 13,54%; 34,20%; 42,03%; 10,23%) . Về sử dụng GDP 6 tháng đầu năm 2020, tiêu
[9] Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý II và 6 tháng năm 2020,
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2020/06/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-6-thang-
dau-nam-2020, ngày truy cập 25-10-2021. 13
dùng cuối cùng tăng 0,69% so với cùng kỳ năm 2019; tích lũy tài sản tăng 1,93%; xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 0,31%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 2,54%.
Trong đợt dịch thứ ba và thứ 4 trong năm 2021:
Theo Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê (Báo Cáo Tình Hình Kinh Tế – Xã
Hội Quý III tháng 9 năm 2021) “Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2021 ước tính
giảm 6,17% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam tính và
công bố GDP quý đến nay. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,04%;
khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 5,02%; khu vực dịch vụ giảm 9,28%. Về sử dụng
GDP quý III/2021, tiêu dùng cuối cùng giảm 2,83% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài
sản tăng 1,61%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 2,51%; nhập khẩu hàng hóa và dịch
vụ tăng 10,75%. ”GDP 9 tháng năm 2021 chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ năm trước do
dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, nhiều địa phương
kinh tế trọng điểm phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh. Dịch
Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại và dịch
vụ. Tăng trưởng âm trong 9 tháng năm 2021 của một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn
đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế. Ngành bán buôn,
bán lẻ giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước, làm giảm 0,3 điểm phần trăm trong tốc độ
tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành vận tải kho bãi giảm 7,79%, làm
giảm 0,47 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 23,18%, làm giảm 0,57
điểm phần trăm. Ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao nhất với mức
tăng 21,15%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
tăng 8,37%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 5,24%,
đóng góp 0,32 điểm phần trăm. Về sử dụng GDP 9 tháng năm 2021, tiêu dùng cuối cùng
tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2020; tích lũy tài sản tăng 4,27%; xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ tăng 14,21%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 18,46%.[10]
[10] Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý III và 9 tháng năm 2021.
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/09/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iii-
va-9-thang-nam-2021, ngày truy cập 25-10-2021. 14
Theo báo VietNam News Agency (Đức Dũng,2021) “Ngày 27/8/2021, Công ty CP Đào
tạo và Phát triển Doanh nghiệp DGroup đã cùng với CLB Doanh nhân khởi nghiệp Việt
Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ thành phố Hà Nội (Hanoisme), cộng đồng doanh
nhân Việt Nam tổ chức buổi tọa đàm online “Chiến lược và hướng đi cho doanh nghiệp
vừa và nhỏ thời COVID-19”, với sự tham gia của gần 200 doanh nghiệp, doanh nhân. Ông
Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính cho biết, thời gian qua, do ảnh hưởng của COVID-
19, trong 7 tháng năm 2021, gần 80.000 doanh nghiệp đã phải rời bỏ thị trường. Từ nay
đến hết năm, nếu Việt Nam có thể kiểm soát được dịch bệnh và phục hồi kinh tế, số lượng
doanh nghiệp phá sản cũng ở mức 100.000. Hiện mỗi tháng có khoảng 10.000 doanh
nghiệp phá sản. Trường hợp nếu không kiểm soát được dịch bệnh, sẽ có khoảng 150.000
doanh nghiệp phá sản trong năm nay. Theo ông Hiếu, nguyên nhân chính là doanh nghiệp
bị mất tính thanh khoản, khả năng chi trả. “Một doanh nghiệp mất thanh khoản cũng sẽ
kéo theo các đối tác của họ không thu xếp được dòng tiền và mất thanh khoản theo sau đó", ông Hiếu nói. [11]
Đối với trung tâm kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Trong 8 tháng đầu năm 2021, TP.HCM đã ghi nhận sự sụt giảm đáng kể thể hiện qua các chỉ số kinh tế:
+ Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ giảm hơn 10%
+ Chỉ số sản xuất công nghiệp giảm 6,6%
+ Tổng vốn thu hút đầu tư nước ngoài giảm gần 44%
Dự báo cả năm tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố giảm 2,8% so với cùng kì và
không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 6%.( Kịch bản tăng trưởng kinh tế 2021,VTV24, 2021).
[11] Đức Dũng, Tìm hướng đi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thời COVID-19, https://ncov.vnanet.vn/tin-
tuc/tim-huong-di-cho-doanh-nghiep-vua-va-nho-thoi-covid-19/55ca1e3f-54b2-4c1c-b905-140aa80d8b12, ngày truy cập 12-10-2021. 15
Các công trình trọng điểm gặp khó khăn do dịch Covid, tạm ngưng thi công hoặc thi công cầm chừng:
+ Dự án Cầu Thủ Thiêm 2
+ Cầu vượt trước bến xe miền đông mới
+ Dự án xây dựng hầm chui đường Nguyễn Văn Linh – Nguyễn Hữu Thọ Quận 7
+ Tuyến đường sắt Metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên (Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí
Minh Mùa Dịch Covid-19 Thứ 4 Ra Sao !?, Café Khởi Nghiệp, 2021)
➔ Nhận định: Dịch bệnh Covid-19 – Đại dịch nguy hiểm toàn cầu đã ảnh hưởng đến
tất cả các quốc gia trên thế giới. Hầu hết các quốc gia rơi vào suy thoái nghiêm trọng, kinh
tế và thương mại toàn cầu suy giảm mạnh; trong đó có Việt Nam nói chung và thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng. GDP cả nước 9 tháng năm 2021 chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ
năm trước. Để hoàn thành được mục tiêu đến hết năm 2021, GDP tăng 6,5% theo kế hoạch
Quốc Hội giao là một thách thức lớn trong 4 tháng còn lại của năm 2021. Dịch Covid-19
kéo dài đã làm nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ phá sản; chuỗi cung ứng
trong nước và quốc tế bị đứt gãy do các đợt giãn cách liên tiếp, số doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới tháng 9/2021 có sự sụt giảm nghiêm trọng cả về số lượng và số vốn đăng
ký. Dự báo cả năm tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố Hồ Chí Minh cũng giảm 2,8%
so với cùng kì và không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 6% do sự tác động to lớn và nghiêm
trọng của dịch bệnh Covid đợt thứ 4 này.
2.2.2. Nền kinh t Ā Hộ gia đnh
Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới tăng trưởng kinh tế dương, nhưng đại
dịch đã để lại những tác động dài hạn đối với các hộ gia đình - thu nhập của khoảng 45%
hộ gia đình được khảo sát giảm trong tháng 1 năm 2021 so với tháng 1 năm 2020.
Hai bản báo cáo được UNDP Việt Nam thực hiện với sự phối hợp của Trung tâm Phân
tích và Dự báo (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) và Viện Khoa học Lao động và
Xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội). Báo cáo đánh giá tác động đã khảo sát 498 16
hộ gia đình. Kết quả khảo sát cho thấy, tác động kinh tế là rất lớn, trong đó 88% hộ gia
đình bị ảnh hưởng việc làm vào tháng 7/2021 và 63,5% hộ gia đình bị giảm thu nhập từ
30% trở lên so với thời kỳ trước đại dịch (tháng 12/2019). Các hộ gia đình làm du lịch, nhà
hàng, khách sạn và vận tải hành khách bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Trong đợt dịch Covid-19 lần thứ 4, tại tâm dịch và cũng là trọng điểm kinh tế của cả
nước như TP.HCM đã chứng kiến những cuộc “di dân” khổng lồ. Hàng trăm ngàn lao động
từ các địa phương này tìm mọi cách để về quê. Người đi bộ, người đi xe máy, quãng đường
để về nhà có thể là vài trăm nhưng cũng có thể là cả nghìn cây số. Biết rõ tự ý di chuyển
ra khỏi thành phố khi chưa được phép bằng phương tiện cá nhân là sai quy định phòng
chống dịch, song người lao động ngoại tỉnh vẫn “liều mình” để được về nhà. Nhiều gia
đình mang theo cả “gia tài”, con cái chất hết trên một chiếc xe máy để về quê. Cuộc sống
của người lao động, thu nhập thấp, hết việc là hết tiền, họ phải ở trong những khu nhà trọ
chật hẹp điều kiện thấp. Tài sản lao động sau bao năm xa quê của nhiều người tất cả cũng
chỉ trên một chiếc xe máy là hết, nhiều người đến xe cũng không có để đi. Đồng thời họ
cũng là những người có nguy cơ bị nhiễm bệnh cao hơn do không đủ điều kiện, hiểu biết
để thực hiện tốt các thông điệp phòng chống Covid -19. Vì vậy, việc tiếp tục ở lại TP.HCM
dường như là quá sức, họ không thể cầm cự được với số tiền tích góp ít ỏi từ mức lương lao động trước đó. 17
Kết quả khảo sát thực tế 50 người ở thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Thủ Đức do
nhóm thực hiện:
- Việc kiếm thêm thu nhập trong mùa dịch chỉ chiếm 24,4%, tỉ lệ không kiếm được
thu nhập và hoàn toàn tiêu dùng bằng tiền tiết kiệm, tích lũy trước đó chiếm 75,9%. Trong
thời kì dịch bệnh kéo dài hơn 5 tháng tại TP.HCM, hoạt động của các công ty, nhà máy bị
ngưng trệ rất nhiều; kéo theo nhiều lao động mất việc làm và phải sống bằng tiền tích góp
trước đó. Do đó, những lao động có mức lương thấp, không tiết kiệm được nhiều rất khốn
đốn, lao đao về chi phí sinh hoạt hằng ngày với tình hình dịch bệnh TP.HCM. 18
- Tình hình tài chính hiện tại: 13,3% vẫn ổn, 30% bị ảnh hưởng nặng và 56,7% phải
giảm bớt chi tiêu, sinh hoạt hằng ngày để tiết kiệm bởi tình hình dịch bệnh căng thẳng kéo dài.
- Hầu hết người dân và các ngành nghề đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi tình hình dịch
bệnh. Theo khảo sát, bộ phận người lao động (hệ thống nhà máy, xí nghiệp, người nông
dân..) bị ảnh hưởng nhiều nhất, chiếm 46,7%. Do đây là bộ phận thường có cuộc sống khá
bấp bênh, mức lương không quá dư dả để có để tiết kiệm để ứng phó với dịch bệnh Covid.
Những mặt hàng xuất khẩu ứ động trong xe container do bạn hàng Trung Quốc ngừng thu mua.
- Bộ phận bị ảnh hưởng nhiều thứ hai là mảng dịch vụ ( Hướng dẫn viên du lịch, nhà
hàng, khách sạn..) chiếm 33,3%.
- Bộ phận tham gia sản xuất bị ảnh hưởng kinh tế bởi dịch bệnh chiếm 13,3%. 19