-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập chương 5 Kinh tế chính trị Tư sản tầm thường | Lịch sử các học thuyết kinh tế
Tóm tắt chương 5 bằng lược đồ tư duy. Trình bày hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của trường phái hậu cổ điển? Các nền dân chủ tự điều chỉnh và phát triển thị trường tư bản là cơ sở cho kinh tế học cổ điển. Trước sự phát triển của kinh tế học cổ điển, hầu hết các nền kinh tế quốc dân đều tuân theo hệ thống chính sách quân chủ từ trên xuống dưới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lịch sử các học thuyết kinh tế 7 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Bài tập chương 5 Kinh tế chính trị Tư sản tầm thường | Lịch sử các học thuyết kinh tế
Tóm tắt chương 5 bằng lược đồ tư duy. Trình bày hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của trường phái hậu cổ điển? Các nền dân chủ tự điều chỉnh và phát triển thị trường tư bản là cơ sở cho kinh tế học cổ điển. Trước sự phát triển của kinh tế học cổ điển, hầu hết các nền kinh tế quốc dân đều tuân theo hệ thống chính sách quân chủ từ trên xuống dưới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế 7 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC PHẦN: Lịch sử các học PHIẾU BÀI TẬP 05
thuyết kinh tế thế kỷ XVI - XIX
Chương 5. Kinh tế chính trị Tư sản tầm thường
1. Tóm tắt chương 5 bằng lược đồ tư duy
2. Trình bày hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của trường phái hậu cổ điển?
Các nền dân chủ tự điều chỉnh và phát triển thị trường tư bản là cơ sở cho kinh
tế học cổ điển. Trước sự phát triển của kinh tế học cổ điển, hầu hết các nền kinh
tế quốc dân đều tuân theo hệ thống chính sách quân chủ từ trên xuống dưới, chỉ huy và kiểm soát.
Nhiều nhà tư tưởng cổ điển nổi tiếng nhất, bao gồm Smith và Turgot, đã phát
triển lí thuyết của họ như là một sự thay thế cho các chính sách bảo hộ và chính
sách lạm phát của chủ nghĩa trọng thương châu Âu. Kinh tế học cổ điển trở nên
gắn liền với nền kinh tế và sau này là chính trị và quyền tự do.
Lí thuyết kinh tế cổ điển được phát triển ngay sau khi chủ nghĩa tư bản phương
Tây ra đời và Cách mạng Công nghiệp. Các nhà kinh tế học cổ điển cung cấp
một cách tốt nhất những nỗ lực ban đầu để giải thích hoạt động bên trong của
chủ nghĩa tư bản. Các nhà kinh tế cổ điển ngay sau đó đã phát triển các lí thuyết
về giá trị, giá cả, cung, cầu và phân phối.
Lí thuyết gần như loại bỏ tất cả sự can thiệp của chính phủ vào thị trường giao
dịch và ưa thích một thị trường thả lỏng hơn được biết với cách gọi là “tự do
kinh tế” hay “hãy để như nó vốn có”.
Các nhà tư tưởng cổ điển không hoàn toàn thống nhất trong niềm tin và hiểu
biết của họ về thị trường mặc dù có những đề tài chính đáng chú ý trong hầu hết
các tài liệu cổ điển. Đa số ủng hộ thương mại tự do và cạnh tranh giữa các công
nhân và doanh nghiệp. Các nhà kinh tế học cổ điển muốn chuyển đổi ra khỏi
cấu trúc xã hội dựa trên giai cấp để ủng hộ chế độ nhân tài. * đặc điểm
Không công nhận chính sách bảo hộ mậu dịch của nhà nước và chú trọng phân
tích các vấn đề của lĩnh vực sản xuất trong sự tách biệt khỏi lĩnh vực giao
thương và có thể đề xuất và áp dụng các phương pháp nghiên cứu tiến bộ như
phương pháp nguyên nhân-hậu quả, suy diễn, quy nạp, logic trừu tượng. Nhưng
theo đó việc đặt ra vấn đề dối lâp giữa hai lĩnh vực sản xuất và sự giao thương
đã làm cho các nhà kinh tế học cổ điển nhận định về các vấn đề này không
chính xác và đầy đủ theo những liên quan mật thiết giữa hai lĩnh vực đó, trong
đó có ảnh hưởng của các yếu tố giao thương lên quá trình sản xuất.
Hiện nay ta thấy hoàn toàn có thể dựa trên phương pháp phân tích nguyên nhân-
hậu quả, tính toán các chỉ số kinh tế trung bình, các nhà “cổ điển” tìm cách làm
sáng tỏ cơ cấu hình thành giá trị hàng hóa. Theo đó người ta nhận định với
những dao động của giá cả trên thị trường không liên quan đến các giá trị tự
nhiên của tiền và số lượng của chúng, mà liên quan đến các chi phí sản xuất,
hay nói cách khác, đến số lượng lao động bỏ ra.
Phạm trù giá trị vào thời đó được đánh giá là mấu chốt của phân tích kinh tế, là
gốc rễ để nảy mầm các phạm trù khác. Vấn đề giá trị hàm chứa các câu hỏi như
sau cụ thể như với các giá trị biểu hiện giống như một hiện tượng và các dạng
thức của nó thế nào? Cơ sở, nguồn gốc hay nguyên nhân nào của giá trị? Giá trị
có đại lượng hay không và cách xác định đại lượng đó như thế nào? Cái gì có
thể dùng để đo giá trị? Giá trị thực hiện chức năng nào trong lý thuyết kinh tế?
Ngoài ra, việc đơn giản hóa phân tích và hệ thống hóa đã làm cho khoa học kinh
tế hướng đến phát minh các quy luật mang tính cơ học, tương tự như trong vật
lý học, nghĩa là không tính đến các yếu tố tâm lý, đạo đức, luật pháp và các yếu tố xã hội khác.
Như chúng ta đã biết thì vơi sự tăng trưởng kinh tế và phồn thịnh xã hội được
cho là không phải dựa vào nguyên tắc xuất siêu, mà là sự năng động và cân
bằng trạng thái nền kinh tế quốc gia. Như vậy nên với vấn đề này thì các nhà
“cổ điển” không vận dụng các phương pháp phân tích toán học hay mô hình
toán học để có thể chọn ra phương án tối ưu trong số các phương án về tình
trạng kinh tế. Trường phái cổ điển đưa ra các giả thuyết để chứng minh sự cân
bằng trong kinh tế là có thể đạt được một cách tự động theo quy luật thị trường của Jean-Baptiste Say
Đã có rất nhiều người cho rằng tiền tệ được cho là của con người tạo ra một
cách chủ quan và hiện thì đến giai đoạn của trường phái cổ điển tiền tệ được cho
là một dạng hàng hóa tách biệt từ trong thế giới hàng hóa, và chúng không thể
bị thay thế bởi những thỏa thuận giữa mọi người. Tuy nhiên, chức năng của tiền
chỉ được đánh giá là phương tiện trao đổi mang tính kỹ thuật.
3. Khái quát những luận điểm “tầm thường” trong kinh tế chính trị hậu cổ điển?
* Là học thuyết mang tính chất chủ quan:
Mục đích không phải để kế thừa và phát triển những tư tưởng khoa học của
nhân loại mà nhằm che đậy các mâu thuẫn và khuyết tật của chủ nghĩa tư bản,
từ đó ca ngợi và bảo vệ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, biện hộ cho chủ
nghĩa tư bản bằng mọi giá. * Trong phương pháp luận:
+ Xa rời phương pháp luận của trường phái cổ điển, không đi sâu vào phân tích
bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế, chỉ chú ý xem xét các hiện tượng
bên ngoài. Đặc biệt là áp dụng phương pháp tâm lý chủ quan trong phân tích
kinh tế, coi kinh tế chính trị là khoa học nghiên cứu về đạo đức xã hội.
+ Sử dụng nhiều tài liệu, số liệu thiếu khoa học, phi lịch sử để nghiên cứu. * Về nội dung
+ Xuất phát từ mục tiêu bảo vệ giai cấp tư sản, biện hộ cho chủ nghĩa tư bản
một cách có ý thức nên họ không thể tìm kiếm và xây dựng những phạm trù,
khái niệm và quy luật khoa học. Họ quan tâm xem xét phạm trù quy luật có lợi
hay không có lợi cho giai cấp tư sản. Đúng như C.Mác đã nhận xét: “Sự nghiên
cứu vô tư đã nhường chỗ cho những trận chiến đấu của bọ viết văn thuê, những
sự tìm tòi khoa học vô tư đã được thay thế bằng sự ca tụng có tính chất thiên kiến và đê hèn”.
+ Học thuyết kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển không những không phát triển
được lý luận của học thuyết kinh tế tư sản cổ điển mà dần dần xa rời, sau đó
đoạn tuyệt với những nội dung khoa học của nó, đặc biệt lý luận giá trị - lao
động. Họ chỉ quan tâm tới việc tìm tòi những yếu điểm, những tư tưởng tầm
thường trong học thuyết kinh tế tư sản cổ điển để xây dựng thành hệ thống
những quan điểm cho rằng: các phạm trù kinh tế là quy luật tự nhiên, phi lịch
sử, hay chủ nghĩa tư bản là tồn tại vĩnh viễn vv… Do vậy sự xuất hiện của kinh
tế chính trị tư sản hậu cổ điển là sự báo hiệu sự khủng hoảng về tư tưởng, lý
luận của giai cấp tư sản sau học thuyết kinh tế tư sản cổ điển.
+ Học thuyết kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển là học thuyết mang tính chất
phản động, trái với đạo lý của con người.
4. Khái quát cuộc đời và sự nghiệp của Malthus
Thomas Malthus sinh ngày 13 tháng 2 năm 1766 ở phía nam Luân Đôn. Ông là
người thứ sáu trong bảy anh em, tất cả đều là con trai của Henrietta và Daniel
Malthus. Đó là một gia đình trí thức quan trọng, thậm chí họ là bạn thân của
các triết gia như David Hume và Jean-Jacques Rousseau . Với thời gian trôi
qua, Malthus đã tạo ra một mối quan hệ thân thiết với một nhà kinh tế vĩ đại
khác của thời điểm này, David Ricardo.
Ngay từ nhỏ, Thomas Malthus đã có thể tiếp cận Trường Jesus ở Cambridge. Ở
đó, ông tham gia các khóa học về sự suy giảm, tiếng Latin và tiếng Hy Lạp, mặc
dù môn học chính của ông là toán học. Đến năm 1791, Malthus đã tốt nghiệp
chuyên gia trong các lĩnh vực này, vì vậy ông được bổ nhiệm vào cùng trường
hai năm sau đó. Năm 1979 ông đã được tấn phong và trở thành một mục sư Anh giáo .
Nhiều năm sau, vào năm 1804, ông thành lập một gia đình với Harriet
Eckersall, người có ba đứa con và sự giáo dục bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi
những ý tưởng tự do về giáo dục của Rousseau.
Giống như các thành viên khác trong gia đình, Thomas Malthus bị hở hàm ếch
ảnh hưởng đến lời nói, cũng như sứt môi. Vì lý do này, ông đã từ chối thực hiện
một bức chân dung cá nhân, đó là điển hình vào thời điểm đó. Đó là cho đến
năm 1833, sau khi trải qua phẫu thuật, khi anh quyết định thực hiện nó.
Thomas Robert Malthus ông mất vào ngày 29 tháng 12 năm 1834 tại
Rookery , mặc dù và hài cốt của anh ta đang ở Bath Abbey ở Anh.
5. Trình bày lý luận nhân khẩu của Malthus. Tại sao Mác gọi lý luận này
của Manlthus đã phỉ báng tự nhiên và con người? * Nội dung:
- Mục đích: Giải thích nguyên nhân của nạn thất nghiệp, sự bần cùng hóa giai cấp vô sản.
Trong tác phẩm Bàn về qui luật nhân khẩu, ông viết:
+ Dân số tăng nhanh chóng theo cấp số nhân (lấy dẫn chứng dân số nước Mĩ).
→ Sai vì dân số nước Mĩ tăng nhanh do di dân, là gia tăng cơ học chứ không phải gia tăng tự nhiên.
+ Trong khi đó của cải, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt tăng theo cấp số cộng.
Ông lí giải “do diện tích có hạn, độ màu mỡ đất đai ngày càng giảm”.
→ Sai do khi khoa học phát triển ta có thể thay đổi điều này.
+ Do dân số tăng theo cấp số nhân, của cải tăng theo cấp số cộng, nên dẫn đến
sự khan hiếm tư liệu sinh hoạt → Bần cùng, đói rét trở nên phổ biến → Thất
nghiệp, đói nghèo. Ông đã đổ tội cho người lao động, cho rằng họ là nguyên
nhân dẫn đến các vấn đề kinh tế.
- Biện pháp: Phải hạn chế tốc độ tăng dân số, lập lại cân bằng dân số và của cải. Cụ thể:
+ Gây chiến tranh, bắt công nhân làm thêm giờ để giảm tuổi thọ + Thiên tai, dịch bệnh
Đó là những điều Malthus nêu ra trong lần xuất bản đầu tiên. Trong lần thứ 2,
các giải pháp ông đưa ra bớt cực đoan hơn:
+ Chủ trương không cho thanh niên kết hôn sớm, giáo dục giới tính cho thanh niên.
+ Phát triển mậu dịch tự do, di dân đến vùng đất mới. * vì :
+ Malthus đã đem những qui luật của giới động vật để đưa ra qui luật nhân khẩu
áp dụng chung cho xã hội
→ Tùy tiện, áp đặt trong việc nghiên cứu.
+ Những giải pháp Malthus đưa ra rất cực đoan, phi nhân tính, mang tính chất
thù địch con người cần phê phán như việc kích động chiến tranh diệt chủng,
chiến tranh cướp bóc, nô dịch các dân tộc chậm tiến, bắt công nhân làm thêm
giờ để giảm tuổi thọ.
6. Trình bày lý luận tái sản xuất của Malthus. Tại sao nói Malthus là nhà tư
tưởng đại diện cho tầng lớp quý tộc, tăng lữ trong xã hội?
Lý luận tái sản xuất của Malthus.
Malthus đặt nguyên tắc dân số trên hai vấn đề.
Thứ nhất khẳng định: “Dân số, nếu không kiểm soát, tăng theo cấp số nhân với
một tính chất như tự nó tăng gấp đôi trong mỗi 25 năm”
Malthus cố gắng bổ sung sự chính xác vào nguyên tắc này bằng cách dựa vào
kinh nghiệm dân số ở Mỹ. Thế nhưng, khoa thống kê học đang có sẵn đều
không đáng tin cậy, và ít hỗ trợ theo thực nghiệm cho định đề của Malthus. Do
đó, ông thận trọng cho biết rằng việc tăng gấp đôi dân số này trong mỗi 25 năm
không phải là mức độ tăng dân số tối đa cũng như nhất thiết không phải lúc nào
cũng là mức thực. Nhưng Malthus rõ ràng khẳng định sự tồn tại của mức tăng
dân số tiềm năng theo cấp số nhân.
Đối trọng với định đề thứ nhất là định đề thứ hai: Trong những điều kiện thuận
lợi nhất, phương tiện sinh kế (nghĩa là cung cấp lương thực) không thể tăng
nhanh hơn cấp số cộng. Sự chính xác mà Malthus đưa vào khẳng định thứ hai
này là không thích hợp, vì cấp số cộng của cung cấp lương thực không thể được
thực tế ủng hộ, thậm chí không lỏng lẻo như khẳng định thứ nhất. Tuy nhiên, sự
đặt kề nhau của hai định đề đầu tiên dẫn đến sự thừa nhận khác biệt cụ thể giữa
sự phát triển dân số tiềm năng so với cung cấp lương thực. Theo lời Malthus:
“Khả năng dân số... đang trở nên quá cao, sự gia tăng loài người chỉ có thể kìm
lại ở mức các phương tiện sinh kế bằng hoạt động bất biến của luật tất yếu, hoạt
động như một sự kiểm soát đối với khả năng lớn hơn”
Sự khó xử dân số này đặt ra vấn đề lý thuyết và thực tế. Vấn đề lý thuyết tập
trung vào sự nhận dạng sự kiểm soát thực sự đổi với tăng dân số, vấn đề thực tế
liên quan đến giải pháp cho vấn đề, nghĩa là sự kiểm soát nên được khích lệ đối
với người khác. Malthus đề cập cả hai vấn đề, bắt đầu bằng vấn đề nhận dạng.
Malthus là nhà tư tưởng đại diện cho tầng lớp quý tộc, tăng lữ trong xã hội vì:
Malthus chống lại nhà nước phúc lợi, nhưng hình dung trước những phê phán
của Keynes đối với kinh tế học trọng cung của Say và Ricardo.
7. Khái quát cuộc đời và sự nghiệp của J.B.Say?
Jean-Baptiste Say (1766 – 1832) là nhà kinh tế học người Pháp, xuất thân từ
một gia đình đại thương nhân ở thành phố Lyon, bản thân đã từng tham gia công
việc kinh doanh là giáo sư kinh tế của nhiều trường đại học ở Pháp.
Tác phẩm chủ yếu của ông là: “Vấn đáp kinh tế chính trị” (1817) và “Tập bài
giảng kinh tế chính trị” (1828-1832).
Tư tưởng cơ bản trong tác phẩm của J. B. Say là ông cho rằng khoa học kinh tế
chính trị không phải là chính trị và phải được tách ra khỏi yếu tố chính trị-xã
hội. Đối với J. B Say, kinh tế học là môn học của những định luật chi phối việc
sản xuất, phân phối và tiêu dùng của cải, nó gần với khoa vật lý vì đều dựa trên
sự quan sát vô tư và khách quan. Sự thật, ông muốn xóa bỏ yếu tố giai cấp và xã
hội trong kinh tế chính trị và không thừa nhận mâu thuẫn vốn có trong XHTB.
Phương pháp nghiên cứu của ông còn mang tính chất siêu hình, nó biểu hiện ở
việc ông không biết tính chất lịch sử của các phạm trù kinh tế. Khi xét đến nhân
tố sản xuất, phân phối, tiêu dùng, ông cô lập quá trình đó, không thấy mối quan
hệ bên trong giữa chúng. Các Mác nói: “Adam Smith chưa biết hàng hóa, nhưng
đã bắt đầu từ phân công, còn J. B. Say lại bắt đầu từ phân phối”.
8. Trình bày lý luận giá trị của J.B.Say. Chỉ ra sự khác biệt của lý luận này
với lý luận giá trị của trường phái cổ điển Anh?
Lý luận giá trị của J.B. Say xoay quanh quan điểmrằng giá trị củamột sản phẩm
phụ thuộc vào khả năng sản xuất và cung cầu trênthị trường, và rằng giá trị của
một sản phẩm không phải do lượng laođộngđã sử dụng để sản xuất nó. Say cho
rằng giá trị của một sản phẩmphụthuộc vào sự hữu ích và sự khan hiếm của nó,
và rằng thị trường tựdolàcách tốt nhất để xác định giá trị của sản phẩm.
Sự khác biệt của lý luận giá trị của J.B. Say với lý luận giá trị củatrường phái cổ
điển Anh là ở chỗ, trong khi AdamSmith và DavidRicardo tập trung vào lượng
lao động để đánh giá giá trị của một sảnphẩm, Say tập trung vào sự hữu ích và
khan hiếm của sản phẩm. Saychorằng giá trị của một sản phẩm phụ thuộc vào
sự hữu ích của nó đối với người tiêu dùng, và rằng nhu cầu và cung cầu trên thị
trường sẽ xác địnhgiá trị của sản phẩm.
Say cũng nhấn mạnh rằng sự tăng trưởng sản xuất và cung cầu trênthị trường sẽ
dẫn đến sự vận động của giá cả, và rằng thị trường tự dolà cáchtốt nhất để xác
định giá trị của sản phẩm và đưa ra các quyết định kinhtế.
Tóm lại, lý luận giá trị của J.B. Say tập trung vào sự hữu ích và khanhiếm của
sản phẩm, và cho rằng giá trị của một sản phẩmphụ thuộcvàocung cầu trên thị
trường. Điều này khác với lý luận giá trị của trườngphái cổ điển Anh, tập trung
vào lượng lao động để đánh giá giá trị sản phẩm.
9. Trình bày lý luận ba nhân tố sản xuất J.B.Say. So sánh với lý thuyết thu
nhập của trường phái cổ điển Anh?
J.B. Say đưa ra lý luận ba nhân tố sản xuất, gồm lao động, vốn và đất đai. Theo
ông, ba nhân tố này là những yếu tố cơ bản tạo nên sản xuất và tạo ra giá trị
trong nền kinh tế. Lao động đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, vốn cung
cấp nguồn lực để tạo ra sản phẩm và đất đai cung cấp nguyên liệu và không gian để sản xuất.
So với lý thuyết thu nhập của trường phái cổ điển Anh, lý luận ba nhân tố sản
xuất của J.B. Say tương đương với ba yếu tố sản xuất của Adam Smith, gồm lao
động, vốn và đất đai. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa hai lý thuyết này là Say
cho rằng ba nhân tố này là những yếu tố độc lập và có thể được sử dụng độc lập
với nhau để tạo ra sản phẩm, trong khi đó trường phái cổ điển Anh coi ba yếu tố
này là những yếu tố tương tác với nhau để tạo ra thu nhập.
Trường phái cổ điển Anh coi thu nhập là sự phân chia giữa lao động và vốn,
trong khi Say cho rằng giá trị của một sản phẩm phụ thuộc vào sự hữu ích của
nó đối với người tiêu dùng, và rằng nhu cầu và cung cầu trên thị trường sẽ xác
định giá trị của sản phẩm. Vì vậy, Say tập trung vào sự hữu ích và khan hiếm
của sản phẩm, và cho rằng giá trị của một sản phẩm phụ thuộc vào cung cầu trên thị trường.
Tóm lại, lý luận ba nhân tố sản xuất của J.B. Say tương đương với ba yếu tố sản
xuất của Adam Smith và không khác biệt nhiều về mặt lý thuyết. Tuy nhiên,
điểm khác biệt giữa hai lý thuyết này là về cách tiếp cận vấn đề giá trị của sản
phẩm và thu nhập trong nền kinh tế.
10.Trình bày lý luận thất nghiệp của J.B.Say. Thông qua lý luận đó hãy
chứng minh J.B.Say là nhà kinh tế chính trị tư sản?
Lý luận thất nghiệp của J.B. Say xoay quanh quan điểm rằng thất nghiệp là do
sự mất cân bằng giữa cung và cầu trong thị trường lao động, và rằng thị trường
tự do là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề này. Theo Say, một sự suy giảm cung
lao động sẽ dẫn đến tăng giá nhân công, tạo động lực cho các nhà sản xuất tăng
cường đầu tư và mở rộng sản xuất. Điều này sẽ tạo ra cơ hội việc làm mới và
giảm thiểu thất nghiệp.
Tuy nhiên, lý luận thất nghiệp của J.B. Say được cho là bảo vệ lợi ích của tầng
lớp tư sản, vì ông cho rằng thị trường tự do sẽ tự động điều chỉnh và giải quyết
vấn đề thất nghiệp mà không cần can thiệp của chính phủ. Say cũng phản đối
các biện pháp chính sách công để giảm thiểu thất nghiệp, ví dụ như việc tạo ra
các chương trình hỗ trợ xã hội cho người thất nghiệp.
Vì vậy, lý luận thất nghiệp của J.B. Say được coi là bảo vệ lợi ích của tầng lớp
tư sản và không đưa ra các giải pháp thực tiễn cho vấn đề thất nghiệp. Điều này
cho thấy Say là một nhà kinh tế chính trị tư sản, có quan điểm bảo vệ lợi ích của
tầng lớp này trong nền kinh tế.
11.Trình bày lý luận tái sản xuất của J.B.Say. So sánh lý luận này với lý luận
tái sản xuất của trường phái cổ điển Anh?
Lý luận tái sản xuất của Jean Baptiste Say là một lý thuyết kinh tế học cổ
điển, cho rằng sản xuất hàng hóa sẽ tạo ra đủ thu nhập để duy trì và mở rộng
quá trình sản xuất trong tương lai. Theo Say, nếu các doanh nghiệp sản xuất
hàng hóa đủ nhiều, thì đủ số lượng người tiêu dùng sẽ xuất hiện để mua lại
chúng, và chúng ta sẽ không bao giờ gặp phải tình trạng không có đủ tiền để
tiêu thụ hàng hoá. Do đó, các doanh nghiệp sẽ có đủ lợi nhuận để tái đầu tư
và mở rộng sản xuất trong tương lai. Say cho rằng, việc đầu tư và mở rộng sản
xuất sẽ tạo ra nhiều việc làm mới, tăng năng suất lao động và thu nhập của
người lao động. Điều này sẽ tiếp tục thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng và tạo ra đủ
thu nhập để duy trì và mở rộng sản xuất trong tương lai.
Tuy nhiên, Say cũng cho rằng, lãi suất có thể ảnh hưởng đến quá trình tái sản
xuất. Nếu lãi suất quá cao, thì đầu tư và mở rộng sản xuất sẽ trở nên khó khăn.
Ông nhấn mạnh rằng, chính phủ cần can thiệp để đảm bảo sự ổn định của lãi
suất và thúc đẩy quá trình tái sản xuất.
Tóm lại, lý luận tái sản xuất của Jean Baptiste Say cho rằng việc sản xuất hàng
hóa sẽ tạo ra đủ thu nhập để duy trì và mở rộng quá trình sản xuất trong tương
lai. Lý thuyết này đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của kinh tế học cổ
điển và được sử dụng cho đến ngày nay. *So sánh
Lý luận tái sản xuất của J.B. Say và trường phái cổ điển Anh đều là những lý
thuyết kinh tế học cổ điển tập trung vào quá trình sản xuất và tái sản xuất. Tuy
nhiên, hai lý thuyết này có những khác biệt về cách tiếp cận vấn đề và nhấn
mạnh vào các yếu tố khác nhau.
Theo lý luận tái sản xuất của J.B. Say, sản xuất hàng hóa sẽ tạo ra đủ thu nhập
để duy trì và mở rộng quá trình sản xuất trong tương lai. Nếu các doanh nghiệp
sản xuất hàng hóa đủ nhiều, đủ số lượng người tiêu dùng sẽ xuất hiện để mua
lại chúng, và chúng ta sẽ không bao giờ gặp phải tình trạng không có đủ tiền để
tiêu thụ hàng hoá. Do đó, các doanh nghiệp sẽ có đủ lợi nhuận để tái đầu tư và
mở rộng sản xuất trong tương lai. Say cho rằng, việc đầu tư và mở rộng sản
xuất sẽ tạo ra nhiều việc làm mới, tăng năng suất lao động và thu nhập của người lao động.
Trong khi đó, trường phái cổ điển Anh tập trung vào sự tăng trưởng kinh tế dựa
trên sự tích lũy vốn và tăng năng suất lao động. Họ cho rằng, việc tích lũy vốn
và đầu tư sẽ tạo ra nhiều việc làm mới, tăng năng suất lao động và thu nhập
của người lao động. Họ cũng nhấn mạnh rằng sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc
vào sự cạnh tranh giữa các công ty, và giảm giá cả sẽ tạo ra lợi ích cho người
tiêu dùng. Tuy nhiên, cả J.B. Say và trường phái cổ điển Anh đều nhận thức
được vai trò của lãi suất đối với quá trình tái sản xuất. Say cho rằng, chính phủ
cần can thiệp để đảm bảo sự ổn định của lãi suất và thúc đẩy quá trình tái sản
xuất. Trường phái cổ điển Anh cũng nhấn mạnh rằng, lãi suất cần phải được giữ
ở mức thấp để tạo điều kiện cho đầu tư và mở rộng sản xuất.
Tóm lại, lý luận tái sản xuất của J.B. Say và trường phái cổ điển Anh đều tập
trung vào quá trình sản xuất và tái sản xuất, nhưng có những khác biệt về cách
tiếp cận vấn đề và nhấn mạnh vào các yếu tố khác nhau.