Chương 1 nhập môn marketing - marketing căn bản | Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp

Giải thích khái niệm Marketing và tại sao Marketing lại quan trọng đối với doanh nghiệp trong thời đại hiện nay? Phân tích các yếu tố của Marketing Mix và vai trò của chúng trong việc xây dựng chiến lược Marketing. So sánh sự khác biệt giữa Marketing truyền thống và Marketing số. Tại sao Marketing trong doanh nghiệp không chỉ là công việc của bộ phận Marketing mà còn là của toàn bộ doanh nghiệp?

Chuong 1 Nhap mon marketing
Sản phẩm
Nghệ thuật bán hàng
Thu lợi nhuận thông qua khối lượng bán
Chương 1
NHẬP MÔN MARKETING
I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN
Marketing đúng theo ý nghĩa của nó xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX ở Mỹ,
phát triển từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1932, đặc biệt sau Chiến tranh thế giới
thứ hai.
Trong những năm 30 và 40 của thế kỷ 20, Marketing và những vấn đề của nó xuất hiện
ở Châu Âu. Nhiều sở Marketing lần lượt hình thành Anh, Áo, nhiều nước khác. Mục
đích chính của Marketing trong giai đoạn này là hoàn thiện những phương pháp, kỹ thuật lưu
thông hàng hoá. Chính vậy một thời từ “thương mại”“Marketing” được sử dụng
như những từ đồng nghĩa.
Sự phức tạp của sản xuất, tiêu thụ sản phNm trong những năm 5060, cũng như sự
cạnh tranh gay gắt của thị trường càngm tăng thêm vai trò, ý nghĩa của Marketing trong
quản lý nền kinh tế ở các nướcbản. Hàng loạt viện khoa học, cơ sở Marketing, văn phòng
vấn được thành lập trong các nghiệp, công ty. Hoạt động Marketing đã đóng vai trò
quyết định trong lĩnh vực quản lý và cạnh tranh của các nhà tư bản.
Vào những năm 70, trong điều kiện cạnh tranh, độc quyền ngày càng gay gắt, nhiệm
vụ của Marketing ngày càng phức tạp. Lĩnh vực áp dụng Marketing được mở rộng. Nó không
chỉ được sử dụng trong các xí nghiệp, công ty, mà còn được sử dụng trong quản lý toàn bộ xã
hội. Nhiệm vụ chủ yếu của Marketing trong giai đoạn này đảm bảo đến mức cao nhất lợi
nhuận độc quyền Nhà Nước, thông qua việc sử dụng hoạt động kinh doanh năng động cụ
thể của các tập đoàn, xí nghiệp, công ty.
Quá trình phát triển của Marketing gắn liền với quá trình phát triển từ một nghiệp,
công ty bán hàng thụ động chuyển sang nhạy cảm, linh hoạt hơn với thị trường.
Để dễ dàng nghiên cứu cần phân biệt quá trình bán hàng và quá trình Marketing.
Bán hàng chỉ nhằm đạt được mục đích của người bán; Marketing tập trung vào nhu
cầu của người mua. Bán hàng là hành động của người bán mục đích biến đổi giá trị sử
dụng thành giá trị; Marketing với mục đích làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng bằng các
phương tiện là hàng hoá, tìm khách hàng, phân phối và tiêu thụ sản phNm.
Bán hàng, bắt đầu thực hiện với các sản phNm mà công ty đang có, để nhằm thu được
lợi nhuận thông qua khối lượng hàng bán ra. Nội dung Marketing biểu thị sự cam kết của
công ty với khách hàng, các nghiệp, công ty sản xuất kinh doanh những sản phNm
khách hàng cần thiết mua bằng cách tối đa các nhu cầu của khách hàng để thu được lợi
nhuận.
II. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI MARKETING
1. Khái niệm
Có rất nhiều định nghĩa về Marketing, tuy nhiên, chúng ta có thể chia làm hai định
nghĩa đại diện cho Marketing truyền thống và Marketing hiện đại.
1.1 Marketing truyền thống (Traditional Marketing)
Là hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm hướng dòng sản phNm từ nhà sản xuất đến tay
người tiêu dùng một cách tối ưu.
1.2 Marketing hiện đại (Modern Marketing)
Là hoạt động của con người nhằm hướng dẫn việc thoả mãn các nhu cầu, mong muốn
thông qua quá trình trao đổi hàng hoá.
Thoả
Thoả
mãn
mãn
các
các
nhu
nhu
cầu
cầu
kháchkhách
hàng
hàng
VậnVận
dụng
dụng
các
các
chiến
chiến
lược
lược
Marketing
Marketing
ThuThu
lợi
lợi
nhuận
nhuận
thông
thông
qua
qua
thoả
thoả
mãn
mãn
nhu
nhu
cầu
cầu
khách
khách
hàng
hàng
Như vậy tưởng chính của Marketing trong quá trình sản xuất kinh doanh khám
phá nhu cầu của khách hàng để cung ứng hàng hoá phù hợp, chỉ bán cái khách hàng cần chứ
không phải bán cái mà nhà sản xuất có sẵn.
Để giải thích thêm về định nghĩa này ta sẽ xem xét những khái niệm sau: nhu cầu,
mong muốn, yêu cầu, hàng hoá, trao đổi, giao dịch và thị trường.
Nhu cầu cấp thiết (needs)
Là cảm giác thiếu hụt cái gì đó mà con người cảm nhận được.
Nhu cầu của con người rất đa dạng và phức tạp. Nó bao gồm cả những nhu cầu về sinh
bản về ăn, mặc, ở, đi lại an toàn tính mạng lẫn nhu cầu hội về sự thân thiết, gần
gũi, uy tín tình cảm gắn cũng như những nhu cầu nhân về tri thức tự thể hiện
mình.
Nếu nhu cầu không được thoả mãn thì con người sẽ cảm thấy khổ sở bất hạnh…
Một người chưa được đáp ứng sẽ phải lựa chọn một trong hai hướng giải quyết: bắt tay vào
làm để tìm kiếm một đối tượng khả năng thoả mãn được nhu cầu; hoặc cố gắng kiềm chế
nó.
Mong muốn (wants)
Là một nhu cầu có dạng đặc thù, tương ứng với trình độ văn hoá và nhân cách cá thể.
Chẳng hạn: Dân các nước kém phát triển, khi đói khát chỉ cần những thức ăn
uống cần thiết như: bánh mì, cơm, nước lã… đủ. Nhưng dân các nước phát triển,
khi đói và khát họ cần các loại thức ăn và uống cao cấp, đầy đủ dinh dưỡng và vệ sinh….
Như vậy, mong muốn được tả như các đối tượng dùng để thoả mãn các đòi hỏi
của con người phù hợp với điều kiện môi trường sống.
Nhu cầu có khả năng hiện thực (Demands)
Là mong muốn được kèm theo điều kiện có khả năng thanh toán.
Một quốc gia có thể căn cứ vào các loại nhu cầu có khả năng hiện thực của năm trước
để hoạch định việc sản xuất hàng hoá cho năm sau.
Tuy nhiên, trên thực tế cần phải căn cứ vào sự thay đổi mong muốn của con người
theo thời gian; sự biến động của giá cả hàng hoá sự thay đổi thu nhập của dân trong
từng thời kỳ.
Người tiêu dùng thường chọn các loại sản phNm đem lại lợi ích cao nhất phù hợp
với túi tiền của họ.
Sản phẩm (Product)
bất cứ vật thể thoả mãn được mong muốn được cung ứng trên thị trường
nhằm mục đích thu hút sự chú ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng.
Đặc điểm của sản phNm là khi một người có một nhu cầu nào đó, chẳng hạn: một phụ
nữ muốn có sức thu hút hơn, người này có thể lựa chọn nhiều loại sản phNm nhằm đáp ứng
Hình 1.1: S n pham và nhu cầầu
S n pham A
Nhu cầầu X
S n pham B Nhu cầầu X
S n pham C
Nhu cầầu X
nhu cầu nào đó. Tuỳ theo ước muốn cá nhân, các loại sản phẩm sẽ được ưa thích theo các thứ
bậc ưu tiên khác nhau:
- Tiêu chuẩn để khách hàng ưu tiên lựa chọn sản phẩm đáp ứng nhu cầu có thể xếp thứ
tự như: giá cả không cao, kiểu mẫu hợp thời trang, địa điểm – bán hàng thuận tiện…
- Sản phẩm cung ứng trên thị trường – có thể đáp ứng nhu cầu khách hàng ở các mức
độ khác nhau. Có thể minh hoạ mối quan hệ giữa các sản phẩm với nhu cầu như sau:
Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm cung ứng như hiện nay, khách hàng sẽ lựa chọn
sản phẩm nào phù hợp với nhu cầu nhất.Trong các trường hợp sau: sản phẩm C được xem như
sản phẩm lý tưởng.
A – Nhu cầu chưa được đáp ứng
B – Nhu cầu được đáp ứng một phần
C – Nhu cầu được đáp ứng hoàn toàn
Sản phẩm tưởng luôn mục tiêu phấn đấu của các nhà sản xuất kinh doanh.
Marketing chính hoạt động nhằm đạt được sản phẩm tưởng này.Như vậy, sản phNm
đặc điểm chính là đáp ứng nhu cầu của khách hàng; quan điểm về sản phẩm thay đổi theo thời
gian do thị hiếu, nhu cầu của con người thay đổi lúc này sang lúc khác, từ thế hệ này sang thế
hệ khác.
Giá trị, chi phí và sự thỏa mãn (Value, Cost, Satisfaction)
Người tiêu dùng không chỉ mua sản phẩm mà họ mua lợi ích của sản phẩm. Đó chính
là giá trị tiêu dùng của một sản phẩm.
Giá trị tiêu dùng của một sản phNm là sự đánh giá của người tiêu dùng về khả năng
tổng thể của sản phNm có thể thỏa mãn nhu cầu của họ.
Chi phí đối với một sản phNm là toàn bộ những hao tổn mà người tiêu dùng phải bỏ ra
để có được giá trị tiêu dùng của nó.
Sự thỏa mãn của người tiêu dùng là mức độ trạng thái cảm giác của họ khi so sánh
giữa kết quả tiêu dùng sản phNm với những điều họ mong đợi trước khi mua.
Trao đổi (Exchange): trao đổi là hành vi nhận từ một người nào đó thứ mà mình
muốn và đưa lại cho người đó một thứ gì đó.
Trao đổi là một trong bốn hình thức mà con người có thể có được vật phNm mong
muốn. Chẳng hạn: người đói có thể có được thực phNm theo các cách sau:
- Họ có thể tự tìm thực phNm bằng cách đi săn, đi câu cá, hái trái cây (tự cung cấp).
- Họ có thể ăn cắp hoặc chiếm đoạt thực phNm của người khác.
- Họ có thể đi ăn xin.
Phẩm.
- Họ thể đưa cái họ như tiền, hàng hoá khác, dịch vụ… để đổi lấy thực
Cả
bốn
cách
trên
đều
nhằm
đáp
ứng
nhu
cầu
của
con
người
;
trong
đó
việc
trao
đổi có
nhiều ưu điểm, vì người này không phải cầu xin người khác, không phụ thuộc vào sự ban tặng
cũng như không xâm phạm quyền lợi người khác; con người không phải cố gắng tạo ra mọi
cái cần thiết cho chính mình….
Trao đổi là khái niệm cơ bản của Marketing. Để cho việc trao đổi tự nguyện thực hiện
được, cần có các điều kiện sau đây:
* Tối thiểu phải có hai bên.
* Mỗi bên phải có một vật gì có giá trị đối với bên kia.
* Mỗi bên có khả năng liên lạc thông tin và phân phối hàng hoá.
* Mỗi bên có quyền tự do chấp nhận hoặc khước từ hàng hoá của bên kia.
* Mỗi bên đều phải nhận thấy là nên hay muốn giao dịch với bên kia.
Các điều kiện trên đây mới chỉ tạo ra tiềm năng trao đổi. Còn việc trao đổi thực
hiện được hay không là còn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên về những điều kiện trao
đổi. Nếu thoả thuận được thì có thể kết luận là do trao đổi tất cả các bên tham gia đều có lợi,
bởi lẽ mỗi bên đều có quyền khước từ hay chấp nhận đề nghị.
Giao dịch (Transaction)
Nếu như trao đổikhoa học của Marketing, giao dịch chínhđơn vị đo lường trong
lĩnh vực này.
Giao dịch là một cuộc trao đổi mang tính chất thương mại những vật có giá trị giữa hai bên.
Để giao dịch thì bên A phải chuyển cho bên B vật X và nhận lại của B vật Y
Một số điều kiện cơ bản cho giao dịch là:
- Có ít nhất hai vật có giá trị.
- Có sự thoả thuận về các điều kiện giao dịch.
- Thời gian thực hiện đã được thoả thuận.
- Địa điểm thực hiện đã được thoả thuận.
Thông thường các điều kiện của giao dịch được pháp lý hậu thuẫn và bảo hộ.
Thị trường (Markets)
Thị trường là gì?
Từ thị trường được sử dụng trong một số cách. Có một thị trường chứng khoán (stock
market) một thị trường ô tô, một thị trường bán lẻ một thị trường bán sỉ cho các mặt
hàng sử dụng trong gia đình. Một người có thể sẽ đi vào thị trường, còn người khác có thể dự
định đưa vào thị trường một sản phNm.
ràng, nhiều cách sử dụng từ thị trường trong thuyết kinh tế, trong kinh doanh
nói chung, trong Marketing nói riêng. Một thị trường thể được định nghĩa như nơi
người mua người bán gặp nhau, hàng hoá dịch vụ được đưa ra để bán, s chuyển
giao quyền sở hữu diễn ra. Một thị trường cũng thể được định nghĩa như nhu cầu được
tạo ra bởi một nhóm khách hàng tiềm năng nào đó đối với sản phNm hay dịch vụ. Thí dụ, có
một thị trường nông thôn cho những sản phNm dầu mỏ. Từ thị trường nhu cầu thường
được sử dụng thay đổi nhau, chúng cũng có thể được sử dụng kết hợp với nhau trong một
từ kép
Hình 1.2: S phát tri n c a vi c trao đ i t p trung
Ng phư Th săn
Th i gốốm Nống dần
Ng phư Th săn
Th i gốốm Nống dần
Ng phư Th săn
Th ng nhầnươ
Th i gốốm Nống dần
nhu cầu thị trường (market demand). Hoặc thị trường tập hợp những người mua hàng
hiện có và sẽ có.
Những định nghĩa thị trường này thể không đủ chính xác để chúng ta dùng đây.
Do vậy thị trường được sử dụng ở đây được định nghĩa là những người có nhu cầu chưa được
thoả mãn, có khả năng chi trả và sẵn lòng chi trả. Vì vậy, trong nhu cầu thị trường cho một sản
phNm, dịch vụ nào đó, 3 yếu tố để xem xét Những người nhu cầu chưa được thoả
mãn, có sức mua và có hành vi mua.
Để tìm hiểu bản chất của thị trường, chúng ta hãy hình dung một hội nguyên thuỷ
gồm có 4 người: một ngư dân, một thợ săn, một thợ gốm và một nông dân
Tự cung tự cấp
Trao đổi phân tán
Trao đổi tập trung
Phương thức thứ nhất tự cung tự cấp, trong đó mỗi người thể kiếm được cho
mình tất cả những thứ cần thiết. Ngư dân giành phần lớn thời gian để đánh bắt cá, phần thời
gian còn lại thì giành để đi săn, làm đồ gốm trồng trọt để tự đảm bảo cho mình tất cả
những thứ mà anh ta cần. Những người khác cũng tương tự nên hiệu quả của công việc chính
kém hơn so với việc chuyên vào một nghề.
Phương thức thứ hai – trao đổi phân tán, trong đó mỗi người đều xem ba người kia là
khách hàng tiềm năng hợp thành thị trường của mình. Từng hai người riêng lẻ đổi lấy sản
phNm cho nhau.
Phương thức thứ ba trao đổi tập trung, trong đó xuất hiện một nhân vật mới gọi
thương nhân, người này cư ngụ tại một khu vực trung tâm được gọi là chợ. Cả bốn người đều
đem những hàng hoá cụ thể của mình đến cho thương nhân rồi đổi chúng lấy những thứ cần
thiết cho mình. Vì vậy, cả bốn người chỉ cần đến một thị trường sẽ có tất cả hàng hoá cần thiết
chứ không phải đến với ba người khác nhau.
Sự xuất hiện của thương nhân làm giảm một cách đáng kể tổng số các mối giao dịch
cần thiết phải có để thực hiện các sự trao đổi hàng hoá.
Ngoài ra, thị trường của các nhà hảo tâm cũng được hình thành – nhằm đáp ứng các
nhu cầu về tài chính cho các tổ chức phi lợi nhuận.
Marketing
Khái niệm về thị trường cuối cùng đem lại cho chúng ta chu trình hiểu biết đầy đủ về
khái niệm Marketing.
Marketing là làm việc với thị trường để thực hiện những vụ trao đổi với mục đích thoả
mãn những nhu cầu và mong muốn của con người.
Như vậy, Marketing là hoạt động của con người nhằm đáp ứng hay thoả mãn các nhu
cầu và mong muốn thông qua tiến trình trao đổi hàng hoá.
Quá trình trao đổi đòi hỏi phải làm việc. Ai muốn bán thì phải cần tìm người mua, xác
định những nhu cầu của họ, thiết kế các sản phNm phù hợp, đưa chúng ra thị trường, xếp vào
kho, vận chuyển, thương lượng về giá cả… Nền tảng của hoạt động Marketing những việc
như tạo ra hàng hoá, khảo sát, thiết lập quan hệ giao dịch, tổ chức phân phối, xác định giá cả,
triển khai dịch vụ.
Thông thường, chúng ta nghĩ rằng chỉ người bán thực hiện hoạt động Marketing;
nhưng cả người mua cũng tham gia vào việc đó. Các bà nội trợ tiến hành Marketing riêng của
mình, khi đi tìm những thứ hàng mình cần với giá cả họ sẵn sàng trả. Trong khi săn
lùng những mặt hàng khan hiếm nhân viên cung ứng của công ty sẽ phải đi tìm người bán
đưa ra cho họ những điều kiện giao dịch hấp dẫn. Thị trường Người bán đó một thị
trường trong đó người bán quyền lực hơn người mua trở thành nhà hoạt động thị
trường tích cực nhất. Thị trường người mua đó thị trường trong đó người mua
quyền lực hơn và là nơi người bán trở thành những nhà hoạt động thị trường tích cực nhất.
2. Phân loại Marketing
Marketing ngày nay đã đạt trình độ phát triển rất cao. được ứng dụng trong nhiều
hệ thống và nhiều lĩnh vực phong phú khác nhau. Người ta phân biệt:
Macro – Marketing: ứng dụng cho các hệ thống lớn (toàn quốc, toàn cầu…) nhằm
điều kiện, điều chỉnh sự phát triển kinh tế của mỗi nước, mỗi khu vực và toàn thế giới. Nhiều
quốc gia đã biết sử dụng Macro – Marketing như một công cụ hữu hiệu để điều tiết thị trường,
hạn chế và chấm dứt khủng hoảng thừa…
Micro – Marketing: ứng dụng trong những hệ thống nhỏ: Các công ty, nghiệp,
nhà hàng, khách sạn… Những thành công trong kinh doanh các đơn vị này không tách rời
các hoạt động Marketing hữu hiệu đã được tiến hành, khái niệm Marketing nói chung thường
đồng nhất với Micro – Marketing. Trong nghiên cứu, giảng dạy Marketing người ta thường ưu
tiên chọn Marketing của một hãng, một xí nghiệp để nghiên cứu.
Người ta cũng thường phân loại Marketing ra thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất bao
gồm những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc trao đổi hàng hoá dịch vụ nghĩa lĩnh
vực kinh doanh (Business Marketing). Nhóm thứ hai bao gồm các lĩnh vực còn lại, phi kinh
doanh (Non business Marketing).
Marketing kinh doanh (Business Marketing).
Business Marketing bao gồm nhiều lĩnh vực kinh doanhliên quan trực tiếp đến sản
xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ như:
- Marketing công nghiệp (Industrial Marketing)
- Marketing thương mại (Trade Marketing)
- Marketing trong nước (Domestic Marketing)
- Marketing quốc tế (International Marketing)
- Marketing xuất khNu (Export Marketing)
- Marketing nhập khNu (Import Marketing)
- Marketing tư liệu sản xuất (Mean of Production Marketing)
- Marketing dịch vụ (Service Marketing)
- Marketing hàng tiêu dùng (Consumer Goods Marketing)
Marketing phi kinh doanh (Non business Marketing).
Marketing phi kinh doanh bao gồm nhiều lĩnh vực ngoài phạm vi hoạt động sản xuất
kinh doanh. Đó sự vận dụng các nguyên Marketing vào các hoạt động của các tổ chức
chính trị, xã hội, đảng phái, các tổ chức thể thao, văn nghệ, tôn giáo…
III. VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA MARKETING
1. Vai trò
Marketing vai trò rất quan trọng trong kinh doanh. hướng dẫn, chỉ đạo phối
hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhờ các hoạt động Marketing
các quyết định đề ra trong sản xuất kinh doanh có cơ sở khoa học vững chắc hơn, xí nghiệp có
điều kiện thông tin đầy đủ hơn thoả mãn mọi yêu cầu của khách hàng. Vai trò của
Marketing được thể hiện ở các mặt sau:
1.1 Đối với sản xuất
- Giúp khảo sát thị trường, hoạt động sản xuất và tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu của khách
hàng một cách thiết thực.
- Marketing chính là biện pháp cụ thể hoá kế hoạch kinh doanh tại xí nghiệp.
- Giúp dung hoà tốt các mục tiêu của xí nghiệp, kích thích sự nghiên cứu và cải tiến
sản xuất.
1.2 Đối với thị trường
Vận dụng Marketing có tác dụng kích thích thị trường xã hội trong và ngoài nước, liên
kết chặt chẽ với cơ chế của đời sống kinh tế. Marketing rất cần thiết khi giải quyết các vấn đề
về thị trường, trong mối quan hệ giữa công ty với thị trường.
1.3 Đối với kế hoạch
Như một phương tiện, một công cụ tìm ra phương hướng, con đường hoạt động tương
lai của công ty. Marketing phản ánh tập trung kế hoạch kinh tế. Kế hoạch hoá và Marketing có
quan hệ chặt chẽ với nhau: Marketing phục vụ trước tiên các quá trình thực hiện các kế hoạch
tạo sở khách quan khoa học cho kế hoạch; nhờ đó tính khoa học tính hiện thực
của kế hoạch được nâng cao. Trên cơ sở nghiên cứu Marketing từ đó rút ra những kết luận
về khả năng tiêu thụ sản phNm thu được thông qua hoạt động của vốn đầu tư tương ứng.
2. Chức năng
2.1 Chức năng tiêu thụ sản pham
- Tìm hiểu những người tiêu thụ và lựa chọn những người tiêu thụ có khả năng nhất.
- Hướng dẫn khách hàng về thủ tục kết hợp đồng, đơn đặt hàng, chuNn bị các
chứng từ vận tải, danh mục gởi hàng, các thủ tục hải quan, chỉ dẫn bao gói, ký mã hiệu và các
thủ tục khác để sẵn sàng giao hàng.
- Kiểm soát về giá cả.
- Chỉ ra các nghiệp vụ và nghệ thuật bán hàng.
- Quảng cáo, tuyên truyền…
2.2 Chức năng nghiên cứu thị trường
Đó việc xem xét các biến động của thị trường bản chất hoạt động của các chiến
lược Marketing của công ty. Chức năng này bao gồm các hoạt động sau: thu thập thông tin về
thị trường, phân tích tiềm năng nhu cầu tiêu dùng và dự đoán triển vọng.
2.3 Chức năng tổ chức quản lý
- Tăng cường khả năng của các xí nghiệp thích ứng với điều kiện biến động thường
xuyên về lao động, vật tư, tài chính, thị trường.
- Phối hợp và lập kế hoạch.
- Thoả mãn nhu cầu thị trường ngày càng cao.
- Tổ chức và hoàn thiện hệ thống tiêu thụ, phân phối sản phNm.
2.4 Chức năng hiệu quả kinh tế
Đối với nền kinh tế, Marketing có tác dụng thúc đNy kinh tế phát triển, hợp lý hoá các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, thể nói Marketing công cụ cho việc tạo lợi
nhuận cho xí nghiệp.
IV. MỤC TIÊU CỦA MARKETING
1. Tối đa hoá sự tiêu thụ
Nhiều người lãnh đạo của giới kinh doanh cho rằng mục tiêu của Marketing là tạo điều
kiện dễ dàng kích thích mức tiêu dùng cao nhất. Điều này sẽ tác dụng ngược trở lại
tạo điều kiện nâng cao tối đa khả năng sản xuất, tạo công ăn việc làmtạo ra nhiều của cải
cho xã hội. Quan điểm này được phản ánh trong những tiêu đề điển hình của nhiều công ty.
2. Tối đa hoá sự hài lòng của khách hàng
Theo quan điểm này mục tiêu của hệ thống Marketing đạt được mức độ thoả mãn
người tiêu dùng cao nhất, chứ không phải mức tiêu dùng cao nhất. Việc tiêu dùng một số
lượng kẹo “gum” hay mua sắm thật nhiều quần áo là kết quả của việc thoả mãn nhu cầu khách
hàng nhiều hơn. Tuy nhiên, sự hài lòng của khách hàng khó đo lường được vì:
- Chưa có nhà kinh tế nào nghĩ ra cách đo mức độ hài lòng của khách hàng bằng dụng
cụ cụ thể, nhưng sự hài lòng hoàn toàn do một sản phNm đặc thù hoặc hoạt động Marketing
có thể đánh giá được.
- Sự thoả mãn trực tiếp của cá nhân người tiêu dùng được từ các hàng hoá đặc biệt
gây ra tác hại xấu như tình trạng ô nhiễm và huỷ hoại môi trường.
- Kinh nghiệm những người hài lòng khi sử dụng các loại hàng hoá như hàng hoá
mang tính địa vị hội… lại phụ thuộc vào việc bao nhiêu người khác các hàng hoá
này. Cho nên, người ta khó đánh giá hệ thống Marketing theo thuật ngữ khách hàng đã thoả
mãn hay hài lòng ở mức độ cụ thể là bao nhiêu.
3. Tối đa hoá sự lựa chọn
Một số nhà kinh doanh cho rằng mục tiêu cơ bản của hệ thống Marketingcung cấp
thật phong phú các chủng loại hàng giành cho người tiêu dùng quyền lựa chọn cao nhất.
Hệ thống Marketing phải đem lại cho người tiêu dùng khả năng tìm thấy những thứ hàng phù
hợp nhất với thị hiếu của họ. Người tiêu dùng phải có khả năng cải thiện tốt hơn lối sống của
mình và nhờ vậy được thoả mãn tốt nhất.
Nhưng việc tối đa hoá lựa chọn đòi hỏi tốn thêm chi phí vì:
- Hàng hoá dịch vụ sẽ đắt hơn việc quản lý sản xuất lưu thông hàng hoá tốn
kém hơn giá cả cao hơn sẽ làm giảm thu nhập thực tế sức tiêu thụ hàng hoá của khách
hàng.
- Việc gia tăng chủng loại sản phNm đòi hỏi phải nỗ lực nghiên cứu người tiêu dùng
lớn hơn. Người tiêu dùng mất nhiều thời gian nghiên cứu và đánh giá các loại sản phNm.
- Sản phNm nhiều hơn không thực sự đồng nghĩa với việc gia tăng sự lựa chọn cần
thiết của người tiêu dùng. Chẳng hạn, việc quá nhiều bia, nhãn nước ngọt trên thị trường
hiện nay, mà hầu hết chúng có mùi vị tương tự. Tình trạng này gọi là dư thừa nhãn hiệu, người
tiêu dùng đương đầu với việc lựa chọn nhầm lẫn.
- Quá nhiều chủng loại sản phNm cũng không được khách hàng hoan nghênh. Một số
khách hàng cảm thấy hoang mang lo lắng khi quá nhiều chủng loại sản phNm công
dụng tương tự để lựa chọn.
4. Tối đa hoá chất lượng cuộc sống
Nhiều người cho rằng mục tiêu bản của hệ thống Marketing phải cải thiện chất
lượng đời sống. Khái niệm này bao gồm: chất lượng, số lượng, chủng loại, dễ tìm kiếm, chi
phí sản xuất hàng hoá, chất lượng môi trường vật chất, chất lượng môi trường văn hoá.
Người ta sẽ xét đoán hệ thống Marketing bằng mức độ thoả mãn nhu cầu người tiêu
dùng trực tiếp do nó tạo ra, và bằng sự tác động của hoạt động Marketing đến chất lượng môi
trường vật chất và văn hoá.
Hầu hết mọi người đồng ý rằng chất lượng của cuộc sống mục tiêu quí giá đối với
hệ thống Marketing. Nhưng người ta cũng nhận thức rằng không dễ dàng đo lường chất lượng
cuộc sống và chủ đề chất lượng cuộc sống vẫn còn mâu thuẫn trong việc giải thích.
V. MARKETING HỖN HỢP (MARKETING MIX)
1. Khái niệm
Marketing mix tập hợp các yếu tố biến động thể kiểm soát được của Marketing
mà công ty phối hợp để tạo ra sự đáp ứng theo mong muốn của thị trường mục tiêu.
Nếu sự phối hợp hoạt động những thành phần Marketing được nhịp nhàng và đồng bộ
thích ứng với tình huống của thị trường đang diễn tiến thì công cuộc kinh doanh của xí nghiệp
hoặc của công ty sẽ trôi chảy, hạn chế sự xuất hiện những khả năng rủi ro do đó mục tiêu
sẽ đạt được lợi nhuận tối đa. Nhà quản trị tài năng nhà tổ chức, điều hành phối hợp các
thành phần Marketing trong một chiến lược chung, đảm bảo thế chủ động với mọi tình huống
diễn biến của thị trường.
2. Các thành phần của Marketing mix
Marketing mix bao gồm những gì mà công ty có thể thực hiện để tác động đến nhu cầu
về sản phNm của mình.
Các khả năng tác động đến nhu cầu thể tập hợp thành 4 nhóm còn gọi “4P”:
Product, Price, Place, Promotion.
Hình 1.3: 4 P c a Marketng hốỗn h p
- Product (sản pham): đại diện cho sự kết hợp giữa hàng hoá và dịch vụ công ty
đưa vào thị trường mục tiêu.
- Price (giá cả): đại diện cho số lượng tiền mà khách hàng phải trả để nhận sản phNm.
- Place (phân phối): đại diện cho các hoạt động đa dạng của công ty để sản phNm sẵn
sàng cung cấp cho thị trường mục tiêu.
- Promotion (chiêu thị): đại diện cho các hoạt động truyền đạt các giá trị sản phNm
và thuyết phục khách hàng mua sản phNm.
Bốn thành phần trên thường được sử dụng song song, kết hợp, nhưng tuỳ điều kiện cụ
thể của thị trường từng lúc, từng nơi mà có thể chú trọng hơn một hay một số thành phần nào
đó.
Chủng loại
Chất
ợng Mẫu
mã Tính
năng Tên
nhãn Bao
bì Kích cỡ
Dịch vụ
Bảo hành
Trả lại
Marketing mix
Sản pham Phân phối
Thị trường
mục tiêu
Kênh
Phạm
vi
Danh mục hàng hoá
Địa
điểm Dự
trữ
Vận chuyển
Giá cả
Giá quy
định Chiết
khấu Bớt giá
Kỳ hạn thanh toán
Điều kiện trả chậm
Chiêu thị
Kích thích tiêu
thụ Quảng cáo
Lực lượng bán hàng
Quan hệ công
chúng Bán hàng
trực tiếp
3. Những yếu tố ảnh hưởng đến Marketing hỗn hợp
Trong kinh doanh, các hoạt động Marketing hỗn hợp được biểu hiện khá linh hoạt
uyển chuyển. Vì trong quá trình vận dụng chịu tác động bởi nhiều nhân tố chi phối mang
tính quyết định, có thể nói những nhân tố ấy gồm:
* Uy tín và vị trí của xí nghiệp trên thị trường: khách hàng thường có tâm lý mua hàng
theo Sự tín nhiệm về nhãn hiệu sản phNmhọ quen sử dụng. Sự tín nhiệm của khách hàng
đối với sản phẩm càng lớn thì uy tín vị trí của công ty hoặc nghiệp trên thị trường càng
cao.
* Tình huống của thị trường: trong nền kinh tế thị trường, sự hình thành và chuyển hoá
từ hình thái thị trường này sang hình thái thị trường khác đối với một loại hàng hoá nào đó sẽ
tạo nên những tình huống kinh doanh khác nhau với những ứng phó khác nhau giữa các nhà
kinh doanh. Vì vậy đối với các nhà kinh doanh phải có những đối sách thích hợp ứng với từng
tình huống cụ thể sao cho sản phẩm của mình tham gia vào thị trường vừa đạt được lợi nhuận,
vừa thoả mãn được nhu cầu.
* Vòng đời sản pham: bất kỳ một sản phẩm nào cũng đều phải trải qua những giai đoạn
nhất định từ lúc xuất hiện cho đến khi rút khỏi thị trường. mỗi giai đoạn khác nhau đều có
nội dung hoạt động kinh doanh khác nhau. Nếu như nhận định sai về một giai đoạn nào đó
trong vòng đời sản phẩm sẽ dẫn đến nội dung hoạt động kinh doanh không đúng và tất yếu sẽ
dẫn đến sự thất bại.
* Tính chất hàng hoá: mỗi loại hàng hoá đều tính chất khác nhau. Căn cứ vào các
tính chất đó mà nhà kinh doanh có cách tổ chức những nội dung kinh doanh thích hợp.
Tóm lại, hoạt động Marketing hỗn hợp một nghệ thuật của sự vận dụng các thành
phần của mình trong kinh doanh. Nó hoàn toàn không theo một công thức cứng nhắc nào hoặc
một chuNn mực nào đã được qui định trước.
VI. QUẢN TRN MARKETING
1. Khái niệm
Quản trị marketing - là phân tích, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thi
hành những biện pháp nhằm thiết lập, củng cố và duy trì những cuộc trao đổi có lợi với những
người mua đã được lựa chọn để đạt được những nhiệm vụ xác định của doanh nghiệp như thu
lợi nhuận, tăng khối lượng hàng tiêu thụ, mở rộng thị trường…(Philip Kotler)
Nhà quản trị marketing - là người có chức vụ của công ty, làm nhiệm vụ phân tích tình
huống marketing, thực hiện những kế hoạch đã đề ra và/hay thực hiện các chức năng kiểm tra.
Những nhà quản trị marketing những chuyên gia về các vấn đề như quản việc tiêu thụ,
phụ trách quảng cáo, cổ động tiêu thụ, nghiên cứu marketing và quản trị thương phNm…
2. Các quan điểm quản trị Marketing
rất nhiều quan điểm marketing được hình thành phát triển trong quá trình quản
trị của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, cho đến nay người ta rút ra được 5 quan điểm quản trị
Marketing điển hình sau:
Quan điểm hướng về sản xuất
Quan điểm này khẳng định rằng khách hàng sẽ ưa thích nhiều sản pham được bán
rộng rãi giá cả phải chăng. vậy, doanh nghiệp cần phải tập trung nỗ lực mở rộng quy
mô sản xuất và nâng cao hiễu quả của hệ thống phân phối.
Theo quan điểm này thì yếu tố quyết định thành công cho doanh nghiệp giá bán hạ
và có nhiều hàng hoá. Doanh nghiệp sản xuất những hàng hoá mà họ có thuận lợi. Thực tế thì
các doanh nghiệp sẽ thành công khi nhu cầu vượt quá cung doanh nghiệp lợi thế theo
quy mô (tức là sản xuất càng nhiều thì giá thành càng hạ), đồng thời thị trường mong muốn hạ
giá sản phNm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ khó thành công khi áp dụng quan điểm này
trong điều kiện sản xuất cơ giới hoá hàng loạt dẫn tới cung vượt quá cầu.
Mặc hội đã sự thay đổi nhanh chóng nhưng vẫn còn nhiều doanh nghiệp áp
dụng nó rất thành công. Vấn đề đặc ra là phải biết khi nào thì áp dụng phù hợp và khi nào phải
chuyển sang quan điểm khác phù hợp hơn.
Quan điểm hoàn thiện sản pham
Quan niệm hoàn thiện sản pham cho rằng người tiêu dùng ưa thích những sản pham
có chất lượng cao nhất, có tính năng sử dụng tốt nhất, vì thế doanh nghiệp phải tập trung vào
việc thường xuyên hoàn thiện sản pham.
Quan niệm này dẫn đến căn bệnh marketing thiển cận. Người bán chỉ chú ý đến sản
phNm quên đi những nhu cầu của khách hàng. Một khi doanh nghiệp bỏ qua những nhu
cầu thay đổi nhanh chóng của hội chỉ say sưa với sản phNm của mình thì sẽ khả
năng bị thất bại. Một hãng đường sắt cho rằng khách hàng cần con tàu chứ không phải là một
phương tiện giao thông đã không nhận thấy được mối đe dọa từ các phương tiện giao
thông khác như hàng không, xe tải, xe buýt.
Quan điểm hướng về bán hàng
Quan điểm hướng về bán hàng cho rằng khách hàng sẽ không mua sản pham của
doanh nghiệp với số lượng lớn nếu như doanh nghiệp không những nỗ lực thúc đay bán
hàng và khuyến mãi.
Quan điểm này được vận dụng trong những tình huống thụ động, tức doanh nghiệp
sản xuất sản phNm trước rồi sau đóch thích tiêu thụ. thế doanh nghiệp cần phải đầu
vào khâu tổ chức bán hàng như trang bị cửa hàng hiện đại, tuyển chọn huấn luyện nhân
viên bán hàng, đào tạo kỹ năng thuyết phục khách hàng, chú ý đến công cụ quảng cáo,
khuyến mãi.
Quan điểm hướng về khách hàng
Quan điểm hướng về khách hàng khẳng định rằng để thành công doanh nghiệp phải
xác định chính xác nhu cầu mong muốn của thị trường mục tiêu, đồng thời thể thoả
mãn các nhu cầu mong muốn đó sao cho có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh.
Thực chất của quan điểm này là triết lý kinh doanh Marketing định hướng khách hàng,
tức là lấy khách hàng làm mục tiêu tồn tại. Đặc trưng của quan điểm này là:
Hiểu rõ nhu cầu, mong muốn của khách hàng mục tiêu và thoả mãn nó;
Tăng lợi nhuận trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của khách hàng, bán cái mà khách
hàng cần chứ không phải cố gắng bán bán cái mình có thể làm ra.
Sử dụng tổng hợp các công cụ khác nhau (Marketing hỗn hợp)
Quan điểm Marketing đạo đức xã hội
Đây là quan điểm mới cũng là xu hướng mà xã hội quan tâm trong tương lai.
Quan điểm cho rằng nhiệm vụ của doanh nhiệp là xác định nhu cầu, mong muốn và lợi
ích của các thị trường mục tiêu và thoả mãn chúng bằng những phương thức có hiệu quả hơn
(so với đối thủ cạnh tranh) đồng thời duy trì hay củng cố mức sung túc cho người tiêu dùng
và toàn xã hội.
Quan điểm này đòi hỏi phải kết hợp hài hoà giữa 3 lợi ích khách hàng nhau: lợi ích
khách hàng, lợi ích doanh nghiệp và lợi ích xã hội. Sản phNm của các doanh nghiệp phải giúp
cho cộng đồng cải thiện chất lượng cuộc sống, chứ không chỉ đơn thuần đời sống vật chất.
Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp thoả mãn được hai lợi ích đầu nhưng đã lãng quên lợi ích
xã hội như: gây ô nhiễm, huỷ hoại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên, gây bệnh tật cho con
người… Kết quả là bị xã hội lên án, tNy chay. Hãng bột ngọt Vidan từng bị lên án là đã gây ô
nhiễm môi trường cho cộng đồng.
3. Quá trình quản trị marketing
Marketing không chỉ đơn giản là quảng cáo hoạt động của những người bán hàng.
Chính xác hơn marketing là một quá trình thích nghi toàn diện với việc tận dụng những khả
Tiếốn hành các ho t đ ng marketng
Chiếến l c, l p kếế ho ch và ki m soátượ
So n th o ch ng trình marketng-mix ươ
Nghiến c u, thiếết kếế và s n xuấết s n pham
Xác đ nh giá cho s n pham
Các ph ng th c phấn phốếi s nươ pham
Khuyếến khích tiếu th
L a ch n th tr ng m c tếu ườ
Đo l ng m c cấầu c a thườ tr ngườ
Phấn khúc và l a ch n th tr ng m c tiếu; đ nh v s n pham trến th tr ng ườ ườ
Phần tch kh năng c a th tr ng ườ
H thốếng nghiến c u và thống tin marketing
Mối tr ngườ marketing
Th tr ng ng i tiếu ườ ườ dùng
Th tr ng doanh ườ nghi p
Hình 1.4: Quá trình qu n tr marketng
năng lợi đang mở ra của thị trường. Những hoạt động này của marketing thật sự hiệu
quả khi chúng được hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm tra lãnh đạo một cách khoa học.
Quá trình quản trị marketing được thực hiện theo bốn giai đoạn sau:
1. Phân tích các khả năng của thị trường
2. Lựa chọn những thị trường mục tiêu
3. Xây dựng chương trình marketing mix
4. Thực hiện các biện pháp marketing
Tóm tắt
Marketing ra đời từ những năm đầu của thế kỷ 20 và phát triển kể từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai, sau đó lan rộng ra khắp các nước trên thế giới. Lúc đầu nó được xem như là
phương tiện của kỹ thuật lưu thông hàng hoá, nên lúc được dùng với danh nghĩa
thương mại. Nhưng dần về sau vị trí của marketing mới được khẳng định trở thành một
trong những môn khoa học cho các nhà kinh doanh
Marketing ảnh hưởng đến cuộc sống cho tất cả mọi người. tất cả những
bạn làm nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng và tạo ra lợi nhuận bằng cách:
Cung cấp hàng hoá hay dịch vụ mà họ cần;
Định ra mức giá mà họ chấp nhận trả;
Đưa hàng hoá hay dịch vụ của bạn đến tay khách hàng
Đưa thông tin và thu hút khách hàng mua hàng hoá hay dịch vụ của bạn
Khách hàng của bạn là những cá nhân hay doanh nghiệp khác cần hàng hoá hay dịch
vụ của bạn và chấp nhận trả tiền mua.
Marketing nghiên cứu việc các bên khác nhau làm thế nào để thoả mãn những nhu
cầu ước muốn của họ thông qua các tiến trình trao đổi. Những khái niệm căn bản trong
việc nghiên cứu Marketing là nhu cầu, ước muốn, cần dùng, sản pham, trao đổi, giao dịch và
thị trường.
Marketing có nhiều quan điểm, nhưng có hai quan điểm là nổi bật hơn hết đó là quan
niệm Marketing truyền thống và Marketing hiện đại. Marketing truyền thống thì nhà sản xuất
chỉ bán những gì họ sản xuất ra được, cho nên nhiệm vụ của họ là cải tiến năng suất sản xuất
, đồng thời làm hạ giá thành xuống và dùng nhiều nổ lực để bán được hàng. Marketing hiện
đại thì mang tính hội hơn, cho rằng công ty cần xem việc thoả mãn khách hàng, hạnh
phúc lâu dài của người tiêu thụ và của xã hội, như là chìa khoá để đạt thành các mục tiêu của
tổ chức.
Mục tiêu của Marketing nhằm để tối đa hoá sự tiêu thụ, sự hài lòng của khách
hàng, tối đa hoá sự lựa chọn và cao hơn nữa là tối đa hoá chất lượng cuộc sống.
Marketing hỗn hợp sự phối hợp của các thành phần Marketing, bao gồm bốn
thành phần cơ bản, đó là sản pham, giá cả, phân phối và chiêu thị. Trong mỗi thành phần của
marketing hỗn hợp cả một chiến lược cho mỗi công ty lựa chọn, tuỳ theo những lĩnh vực
kinh doanh mà ứng dụng một cách cụ thể.
Tóm lại, Marketing ngày càng được nhiều tổ chức thuộc lĩnh vực kinh doanh, lĩnh
vực quốc tế, lĩnh vực phi lợi nhuận quan tâm trong việc nhận ra được Marketing đã đóng
góp như thế nào để đạt được hiệu năng trên thương trường.
Chương 2. Nghiên cứu
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Marketing khác với bán hàng như thế nào? Theo bạn người bán hàng giỏi phải
người làm Marketing giỏi hay không? Bạn sẽ trở thành một nhà Marketing chuyên nghiệp, hay
một người bán hàng chuyên nghiệp khi bạn đi làm sau khi tốt nghiệp? Hãy giải thích.
2. Hãy phân biệt Marketing truyền thống với Marketing hiện đại. Lấy thí dụ minh hoạ
cho một sản phNm cụ thể.
3. Tại sao trong những năm gần đây, nhiều tổ chức phi lợi nhuận đã vận dụng công việc
Marketing? Hãy trình bày chi tiết về một thí dụ đặc trưng.
4. người cho rằng Marketing trong thời đại ngày nay nhằm hướng tới nâng cao
chất lượng cuộc sống của con người. Bạn hãy bình luận câu nói trên.
5. Người ta cho rằng, marketing ngày nay không chỉ 4 thành phần, tới năm
thành phần cấu tạo nên marketing hỗn hợp. Bạn hãy cho biết thành phần đó hãy phân
tích chúng?
Chương 2. Nghiên cứu
Chương 2
NGHIÊN CỨU MARKETING
I. NGHIÊN CỨU MARKETING
1. Khái niệm
Theo Philip Kotler, “Nghiên cứu marketing xác định một cách hệ thống những
tư liệu cần thiết do tình huống marketing đặt ra cho công ty, thu thập, phân tích chúng và báo
cáo kết quả”
Theo hiệp hội Marketing Mỹ, “Nghiên cứu Marketing quá trình thu thập phân
tích có hệ thống các thông tin (dữ liệu) về các vấn đề liên quan đến các hoạt động Marketing
hàng hoá và dịch vụ”.
2. Mục đích của nghiên cứu Marketing
tưởng chủ đạo của Marketing ”Mọi quyết định kinh doanh đều phải xuất phát từ
thị trường”. Muốn thực hiện được tưởng chủ đạo này thì phải đầy đủ thông tin về thị
trường, về môi trường kinh doanh, tức là phải nghiên cứu Marketing để:
- Hiểu rõ khách hàng.
- Hiểu rõ các đối thủ cạnh tranh.
- Hiểu rõ tác động của môi trường đến doanh nghiệp.
- Hiểu rõ các điểm mạnh, điểm yếu của ta.
Căn cứ vào các thông tin thu được qua nghiên cứu Marketing, các nhà quản sẽ vạch
ra chiến lược, chính sách kinh doanh phù hợp nhằm vào thị trường mục tiêu.
Nghiên cứu Marketing không chỉ hỗ trợ cho các quyết định Marketing tính chiến
thuật chiến lược, còn được dùng để xác định, giải đáp một vấn đề cụ thể như: tìm hiểu
phản ứng của người tiêu dùng về giá cả một loại sản phNm, về một loại bao bì mới hay về hiệu
quả của một chương trình quảng cáo.
Công ty có thể nghiên cứu marketing bằng nhiều cách khác nhau. Tuỳ vào đặc tính kinh
doanh cũng như qui của mỗi công ty họ phải giải quyết các nhiệm vụ khác nhau như:
nghiên cứu đặc tính của thị trường; đo lường khả năng tiềm tàng của thị trường; phân tích sự
phân chia thị trường giữa các công ty; phân tích tình hình tiêu thụ; nghiên cứu các xu thế hoạt
động kinh doanh; nghiên cứu hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu phản ứng với
mặt hàng tiềm năng của nó; nghiên cứu chính sách giá. Sau đây các loại nghiên cứu
Marketing thường được tiến hành:
- Nghiên cứu thị trường: Nhằm trả lời các câu hỏi về tiềm năng thương mại của thị trường.
- Nghiên cứu về sản phẩm: Nhằm trả lời các câu hỏi về khả năng chấp nhận sản phẩm
của công ty, về các sản phẩm cạnh tranh, về phương hướng phát triển sản phẩm của công ty.
- Nghiên cứu phân phối: Nhằm giải đáp các vấn đề về tổ chức, quản kênh phân phối.
- Nghiên cứu quảng cáo: Nhằm giải đáp các vấn đề về hiệu quả quảng cáo,về chọn phương tiện
quảng cáo, về nội dung quảng cáo.
- Nghiên cứu dự báo: Nhằm giải đáp các vấn đề về dự báo nhu cầu ngắn hạn (1 năm), dự báo
trung hạn và dài hạn (từ 2 năm trở lên).
Ví dụ: Các nội dung nghiên cứu về quảng cáo có thể là:
Hình 2.1: S đốầ qui trình nghiến c u marketngơ
Báo cáo kếốt qu nghiến c u
X lý và phần tch thống tnThu th p thống tnL a ch n các nguốần thống tn
Phát hi n vầốn đếầ và m c tếu nghiến c u
+ Nghiên cứu động cơ mua của người tiêu dùng
+ Nghiên cứu tâm lý: tâm lý gia đình của người Việt Nam
+ Nghiên cứu lựa chọn phương tiện quảng cáo
+ Nghiên cứu chọn nội dung quảng cáo
+ Nghiên cứu hiệu quả của quảng cáo
Ví dụ: Nghiên cứu hành vi tiêu dùng hàng nội mặt hàng xe gắn máy của người dân thành
phố Long Xuyên.
II. QUI TRÌNH NGHIÊN CỨU MARKETING
Mặc dù ở mỗi doanh nghiệp có những nghiên cứu khác nhau nhưng nhìn chung qui trình
nghiên cứu marketing bao gồm 5 giai đoạn chính và chúng có các dạng sau:
1. Phát hiện vấn đề và mục tiêu nghiên cứu
Châm ngôn câu: “Phát hiện đúng vấn đề tức là đã giải quyết được một nửa vấn đề”.
Nếu phát hiện vấn đề sai thì các phương pháp nghiên cứu cũng lạc hướng, dẫn tới tốn kém
ích. Mặt khác, nhiều khi các vấn đề đang Nn náu mà ta thể chưa biết, nếu không được phát
hiện sẽ dẫn đến các hậu qủa lớn.
Khi một doanh nghiệp phát hiện ra rằng khách hàng không còn mua sản phNm của họ
nữa. Vấn đề đặc ra là làm thế nào để thu hút khách hàng mua sản phNm của công ty nhiều hơn
hoặc khách hàng đánh giá như thế nào và sản phNm của doanh nghiệp.
Bước tiếp theo doanh nghiệp phải xác định các mục tiêu nghiên cứu. Các mục tiêu
này có thể là thăm dò, tức là dự kiến thu thập những số liệu về khách hàng để làm sáng tỏ vấn
đề, hoặc cũng thể giúp ta đưa ra giả thiết. Mục tiêu nghiên cứu thể tả, tức dự
kiến mô tả những hiện tượng nhất định; hoặc cũng có thể mục tiêu lại là thử nghiệm nhằm kiểm
tra một giả thiết về mối quan hệ nhan quả nào đó.
2. Lựa chọn nguồn thông tin
Nguồn thông tin là những số liệu hay dữ liệu mà nhà nghiên cứu có thể thu thập được.
Một cách tổng quát nhất có hai nguồn dữ liệu cơ bản trong marketing, đó là nguồn dữ liệu thứ
cấp và nguồn dữ liệu sơ cấp.
Dữ liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấpnguồn dữ liệu đã được thu nhập xử cho mục đích nào đó, nhà
nghiên cứu marketing sử dụng lại cho việc nghiên cứu của mình. Có hai nguồn dữ liệu thứ cấp
là nguồn bên trong và nguồn bên ngoài.
Dữ liệu thứ cấp bên trong: là các dữ liệu từ các báo cáo của những bộ phận chức năng
trong doanh nghiệp như doanh thu, chi phí, hoạt động phân phối, quảng cáo…
hợp.
Hình 2.2: Nguốần d li u th cầốp
D li u th cầốp
Bến trong cống ty Bến ngoài cống ty
B ph n khác Marketing Xuấết b n Internet T h p
B ng 2.1: Kếố ho ch thu th p nh ng d li u s cầốp ơ
Dữ
liệu
thứ
cấp
bên
ngo
ài:
bao
gồm
hai
ngu
ồn
chín
h:
ngu
ồn
thư
viện
ngu
ồn
tổ
Nguồn thư viện: bao gồm các dữ liệu đã được xuất bản trong các sách báo, tạp
chí, đặc san, các báo cáo nghiên cứu, niên giám thống kê…
Nguồn tổ hợp: bao gồm các dữ liệu tổ hợp do các công ty nghiên cứu thị
trường thực hiện sẵn để bán cho khách hàng chứ không được xuất bản.
Dữ liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp là dữ liệu mà nhà nghiên cứu marketing thu thập trực tiếp tại nguồn (lần
đầu) để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của mình. Khi nghiên cứu các vấn đề mang tính đặc
thù của doanh nghiệp thì phải cần đến các thông tin sơ cấp.
Dữ liệu cấp được thu thập bằng nhiều phương pháp khác nhau. Muốn thu thập
những dữ liệu sơ cấp tốt nhất là lập một kế hoạch đặc biệt. Kế hoạch này đòi hỏi phải có những
quyết định sơ bộ về các phương pháp nghiên cứu, công cụ nghiêu cứu, kế hoạch chọn mẫu, các
phương pháp liên lạc với công chúng.
Phương pháp nghiên cứu Quan sát Thực nghiệm Thăm dò dư luận
Công cụ nghiên cứu
Phiếu điều tra Thiết bị máy móc
Kế hoạch chọn mẫu
Đơn vị mẫu Qui mô mẫu Chọn mẫu
Các phương pháp liên hệ
với công chúng
Qua điện thoại Bưu điện Phỏng vấn trực tiếp
| 1/23

Preview text:

Chuong 1 Nhap mon marketing Chương 1 NHẬP MÔN MARKETING
I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN
Marketing đúng theo ý nghĩa của nó xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX ở Mỹ,
phát triển từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1932, đặc biệt sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong những năm 30 và 40 của thế kỷ 20, Marketing và những vấn đề của nó xuất hiện
ở Châu Âu. Nhiều cơ sở Marketing lần lượt hình thành ở Anh, Áo, và nhiều nước khác. Mục
đích chính của Marketing trong giai đoạn này là hoàn thiện những phương pháp, kỹ thuật lưu
thông hàng hoá. Chính vì vậy mà có một thời từ “thương mại” và “Marketing” được sử dụng
như những từ đồng nghĩa.
Sự phức tạp của sản xuất, tiêu thụ sản phNm trong những năm 50 và 60, cũng như sự
cạnh tranh gay gắt của thị trường càng làm tăng thêm vai trò, ý nghĩa của Marketing trong
quản lý nền kinh tế ở các nước tư bản. Hàng loạt viện khoa học, cơ sở Marketing, văn phòng
tư vấn được thành lập trong các xí nghiệp, công ty. Hoạt động Marketing đã đóng vai trò
quyết định trong lĩnh vực quản lý và cạnh tranh của các nhà tư bản.
Vào những năm 70, trong điều kiện cạnh tranh, độc quyền ngày càng gay gắt, nhiệm
vụ của Marketing ngày càng phức tạp. Lĩnh vực áp dụng Marketing được mở rộng. Nó không
chỉ được sử dụng trong các xí nghiệp, công ty, mà còn được sử dụng trong quản lý toàn bộ xã
hội. Nhiệm vụ chủ yếu của Marketing trong giai đoạn này là đảm bảo đến mức cao nhất lợi
nhuận độc quyền Nhà Nước, thông qua việc sử dụng hoạt động kinh doanh năng động và cụ
thể của các tập đoàn, xí nghiệp, công ty.
Quá trình phát triển của Marketing gắn liền với quá trình phát triển từ một xí nghiệp,
công ty bán hàng thụ động chuyển sang nhạy cảm, linh hoạt hơn với thị trường.
Để dễ dàng nghiên cứu cần phân biệt quá trình bán hàng và quá trình Marketing.
Bán hàng chỉ nhằm đạt được mục đích của người bán; Marketing tập trung vào nhu
cầu của người mua. Bán hàng là hành động của người bán mà mục đích là biến đổi giá trị sử
dụng thành giá trị; Marketing với mục đích làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng bằng các
phương tiện là hàng hoá, tìm khách hàng, phân phối và tiêu thụ sản phNm.
Bán hàng, bắt đầu thực hiện với các sản phNm mà công ty đang có, để nhằm thu được
lợi nhuận thông qua khối lượng hàng bán ra. Nội dung Marketing biểu thị sự cam kết của
công ty với khách hàng, các xí nghiệp, công ty sản xuất kinh doanh những sản phNm mà
khách hàng cần thiết mua và bằng cách tối đa các nhu cầu của khách hàng để thu được lợi nhuận.
II. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI MARKETING 1. Khái niệm
Có rất nhiều định nghĩa về Marketing, tuy nhiên, chúng ta có thể chia làm hai định
nghĩa đại diện cho Marketing truyền thống và Marketing hiện đại.
1.1 Marketing truyền thống (Traditional Marketing)
Là hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm hướng dòng sản phNm từ nhà sản xuất đến tay
người tiêu dùng một cách tối ưu. Sản phẩm
Nghệ thuật bán hàngThu lợi nhuận thông qua khối lượng bán
1.2 Marketing hiện đại (Modern Marketing)
Là hoạt động của con người nhằm hướng dẫn việc thoả mãn các nhu cầu, mong muốn
thông qua quá trình trao đổi hàng hoá. Thoả Thoả mãn các các nhu nhu cầu Vận Vận dụng dụng các Thu Thu lợi lợi nhuận nhuận thông thông khách khách hàng chiến chiến lược qua qua thoả thoả mãn mãn nhu Marketing cầu cầu khách khách hàng
Như vậy tư tưởng chính của Marketing trong quá trình sản xuất kinh doanh là khám
phá nhu cầu của khách hàng để cung ứng hàng hoá phù hợp, chỉ bán cái khách hàng cần chứ
không phải bán cái mà nhà sản xuất có sẵn.
Để giải thích thêm về định nghĩa này ta sẽ xem xét những khái niệm sau: nhu cầu,
mong muốn, yêu cầu, hàng hoá, trao đổi, giao dịch và thị trường.
Nhu cầu cấp thiết (needs)
Là cảm giác thiếu hụt cái gì đó mà con người cảm nhận được.
Nhu cầu của con người rất đa dạng và phức tạp. Nó bao gồm cả những nhu cầu về sinh
lý cơ bản về ăn, mặc, ở, đi lại và an toàn tính mạng lẫn nhu cầu xã hội về sự thân thiết, gần
gũi, uy tín và tình cảm gắn bó cũng như những nhu cầu cá nhân về tri thức và tự thể hiện mình.
Nếu nhu cầu không được thoả mãn thì con người sẽ cảm thấy khổ sở và bất hạnh…
Một người chưa được đáp ứng sẽ phải lựa chọn một trong hai hướng giải quyết: bắt tay vào
làm để tìm kiếm một đối tượng có khả năng thoả mãn được nhu cầu; hoặc cố gắng kiềm chế nó. Mong muốn (wants)
Là một nhu cầu có dạng đặc thù, tương ứng với trình độ văn hoá và nhân cách cá thể.
Chẳng hạn: Dân cư ở các nước kém phát triển, khi đói và khát chỉ cần những thức ăn
và uống cần thiết như: bánh mì, cơm, nước lã… là đủ. Nhưng dân cư ở các nước phát triển,
khi đói và khát họ cần các loại thức ăn và uống cao cấp, đầy đủ dinh dưỡng và vệ sinh….
Như vậy, mong muốn được mô tả như là các đối tượng dùng để thoả mãn các đòi hỏi
của con người phù hợp với điều kiện môi trường sống.
Nhu cầu có khả năng hiện thực (Demands)
Là mong muốn được kèm theo điều kiện có khả năng thanh toán.
Một quốc gia có thể căn cứ vào các loại nhu cầu có khả năng hiện thực của năm trước
để hoạch định việc sản xuất hàng hoá cho năm sau.
Tuy nhiên, trên thực tế cần phải căn cứ vào sự thay đổi mong muốn của con người
theo thời gian; sự biến động của giá cả hàng hoá và sự thay đổi thu nhập của dân cư trong từng thời kỳ.
Người tiêu dùng thường chọn các loại sản phNm đem lại lợi ích cao nhất và phù hợp với túi tiền của họ. Sản phẩm (Product)
Là bất cứ vật gì có thể thoả mãn được mong muốn và được cung ứng trên thị trường
nhằm mục đích thu hút sự chú ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng.
Đặc điểm của sản phNm là khi một người có một nhu cầu nào đó, chẳng hạn: một phụ
nữ muốn có sức thu hút hơn, người này có thể lựa chọn nhiều loại sản phNm nhằm đáp ứng
nhu cầu nào đó. Tuỳ theo ước muốn cá nhân, các loại sản phẩm sẽ được ưa thích theo các thứ bậc ưu tiên khác nhau:
- Tiêu chuẩn để khách hàng ưu tiên lựa chọn sản phẩm đáp ứng nhu cầu có thể xếp thứ
tự như: giá cả không cao, kiểu mẫu hợp thời trang, địa điểm – bán hàng thuận tiện…
- Sản phẩm cung ứng trên thị trường – có thể đáp ứng nhu cầu khách hàng ở các mức
độ khác nhau. Có thể minh hoạ mối quan hệ giữa các sản phẩm với nhu cầu như sau:
Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm cung ứng như hiện nay, khách hàng sẽ lựa chọn
sản phẩm nào phù hợp với nhu cầu nhất.Trong các trường hợp sau: sản phẩm C được xem như sản phẩm lý tưởng.
A – Nhu cầu chưa được đáp ứng
B – Nhu cầu được đáp ứng một phần
C – Nhu cầu được đáp ứng hoàn toàn
Sản phẩm lý tưởng luôn là mục tiêu phấn đấu của các nhà sản xuất kinh doanh.
Marketing chính là hoạt động nhằm đạt được sản phẩm lý tưởng này.Như vậy, sản phNm có
đặc điểm chính là đáp ứng nhu cầu của khách hàng; quan điểm về sản phẩm thay đổi theo thời
gian do thị hiếu, nhu cầu của con người thay đổi lúc này sang lúc khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Hình 1.1: S n pham và nhu c ầầu Nhu cầầu X S n pham A S n pham B Nhu cầầu X Sản pham C Nhu cầầu X
Giá trị, chi phí và sự thỏa mãn (Value, Cost, Satisfaction)
Người tiêu dùng không chỉ mua sản phẩm mà họ mua lợi ích của sản phẩm. Đó chính
là giá trị tiêu dùng của một sản phẩm.
Giá trị tiêu dùng của một sản phNm là sự đánh giá của người tiêu dùng về khả năng
tổng thể của sản phNm có thể thỏa mãn nhu cầu của họ.
Chi phí đối với một sản phNm là toàn bộ những hao tổn mà người tiêu dùng phải bỏ ra
để có được giá trị tiêu dùng của nó.
Sự thỏa mãn của người tiêu dùng là mức độ trạng thái cảm giác của họ khi so sánh
giữa kết quả tiêu dùng sản phNm với những điều họ mong đợi trước khi mua.
Trao đổi (Exchange): trao đổi là hành vi nhận từ một người nào đó thứ mà mình
muốn và đưa lại cho người đó một thứ gì đó.
Trao đổi là một trong bốn hình thức mà con người có thể có được vật phNm mong
muốn. Chẳng hạn: người đói có thể có được thực phNm theo các cách sau:
- Họ có thể tự tìm thực phNm bằng cách đi săn, đi câu cá, hái trái cây (tự cung cấp).
- Họ có thể ăn cắp hoặc chiếm đoạt thực phNm của người khác. - Họ có thể đi ăn xin.
- Họ có thể đưa cái gì mà họ có như tiền, hàng hoá khác, dịch vụ… để đổi lấy thực Phẩm. Cả bốn cách trên đều nhằm đáp ứng nhu cầu của con người ; trong đó việc trao đổi có
nhiều ưu điểm, vì người này không phải cầu xin người khác, không phụ thuộc vào sự ban tặng
cũng như không xâm phạm quyền lợi người khác; con người không phải cố gắng tạo ra mọi
cái cần thiết cho chính mình….
Trao đổi là khái niệm cơ bản của Marketing. Để cho việc trao đổi tự nguyện thực hiện
được, cần có các điều kiện sau đây:
* Tối thiểu phải có hai bên.
* Mỗi bên phải có một vật gì có giá trị đối với bên kia.
* Mỗi bên có khả năng liên lạc thông tin và phân phối hàng hoá.
* Mỗi bên có quyền tự do chấp nhận hoặc khước từ hàng hoá của bên kia.
* Mỗi bên đều phải nhận thấy là nên hay muốn giao dịch với bên kia.
Các điều kiện trên đây mới chỉ tạo ra tiềm năng trao đổi. Còn việc trao đổi có thực
hiện được hay không là còn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên về những điều kiện trao
đổi. Nếu thoả thuận được thì có thể kết luận là do trao đổi tất cả các bên tham gia đều có lợi,
bởi lẽ mỗi bên đều có quyền khước từ hay chấp nhận đề nghị.
Giao dịch (Transaction)
Nếu như trao đổi là khoa học của Marketing, giao dịch chính là đơn vị đo lường trong lĩnh vực này.
Giao dịch là một cuộc trao đổi mang tính chất thương mại những vật có giá trị giữa hai bên.
Để giao dịch thì bên A phải chuyển cho bên B vật X và nhận lại của B vật Y
Một số điều kiện cơ bản cho giao dịch là:
- Có ít nhất hai vật có giá trị.
- Có sự thoả thuận về các điều kiện giao dịch.
- Thời gian thực hiện đã được thoả thuận.
- Địa điểm thực hiện đã được thoả thuận.
Thông thường các điều kiện của giao dịch được pháp lý hậu thuẫn và bảo hộ.
Thị trường (Markets)
Thị trường là gì?
Từ thị trường được sử dụng trong một số cách. Có một thị trường chứng khoán (stock
market) và một thị trường ô tô, một thị trường bán lẻ và một thị trường bán sỉ cho các mặt
hàng sử dụng trong gia đình. Một người có thể sẽ đi vào thị trường, còn người khác có thể dự
định đưa vào thị trường một sản phNm.
Rõ ràng, có nhiều cách sử dụng từ thị trường trong thuyết kinh tế, trong kinh doanh
nói chung, và trong Marketing nói riêng. Một thị trường có thể được định nghĩa như là nơi
người mua và người bán gặp nhau, hàng hoá và dịch vụ được đưa ra để bán, và sự chuyển
giao quyền sở hữu diễn ra. Một thị trường cũng có thể được định nghĩa như là nhu cầu được
tạo ra bởi một nhóm khách hàng tiềm năng nào đó đối với sản phNm hay dịch vụ. Thí dụ, có
một thị trường nông thôn cho những sản phNm dầu mỏ. Từ thị trường và nhu cầu thường
được sử dụng thay đổi nhau, và chúng cũng có thể được sử dụng kết hợp với nhau trong một từ kép
là nhu cầu thị trường (market demand). Hoặc thị trường là tập hợp những người mua hàng hiện có và sẽ có.
Những định nghĩa thị trường này có thể không đủ chính xác để chúng ta dùng ở đây.
Do vậy thị trường được sử dụng ở đây được định nghĩa là những người có nhu cầu chưa được
thoả mãn, có khả năng chi trả và sẵn lòng chi trả. Vì vậy, trong nhu cầu thị trường cho một sản
phNm, dịch vụ nào đó, có 3 yếu tố để xem xét – Những người có nhu cầu chưa được thoả
mãn, có sức mua và có hành vi mua.
Để tìm hiểu bản chất của thị trường, chúng ta hãy hình dung một xã hội nguyên thuỷ
gồm có 4 người: một ngư dân, một thợ săn, một thợ gốm và một nông dân Hình 1.2: S phát tri n c a vi c trao đ i t p trung Ng ph ư Thợ săn Ng ph ư Thợ săn Th i gốốm Nống dần Th i gốốm Nống dần Tự cung tự cấp Trao đổi phân tán Ng ph ư Thợ săn Th ng nhần ươ Th i gốốm Nống dần Trao đổi tập trung
Phương thức thứ nhất – tự cung tự cấp, trong đó mỗi người có thể kiếm được cho
mình tất cả những thứ cần thiết. Ngư dân giành phần lớn thời gian để đánh bắt cá, phần thời
gian còn lại thì giành để đi săn, làm đồ gốm và trồng trọt để tự đảm bảo cho mình có tất cả
những thứ mà anh ta cần. Những người khác cũng tương tự nên hiệu quả của công việc chính
kém hơn so với việc chuyên vào một nghề.
Phương thức thứ hai – trao đổi phân tán, trong đó mỗi người đều xem ba người kia là
khách hàng tiềm năng hợp thành thị trường của mình. Từng hai người riêng lẻ đổi lấy sản phNm cho nhau.
Phương thức thứ ba – trao đổi tập trung, trong đó xuất hiện một nhân vật mới gọi là
thương nhân, người này cư ngụ tại một khu vực trung tâm được gọi là chợ. Cả bốn người đều
đem những hàng hoá cụ thể của mình đến cho thương nhân rồi đổi chúng lấy những thứ cần
thiết cho mình. Vì vậy, cả bốn người chỉ cần đến một thị trường sẽ có tất cả hàng hoá cần thiết
chứ không phải đến với ba người khác nhau.
Sự xuất hiện của thương nhân làm giảm một cách đáng kể tổng số các mối giao dịch
cần thiết phải có để thực hiện các sự trao đổi hàng hoá.
Ngoài ra, thị trường của các nhà hảo tâm cũng được hình thành – nhằm đáp ứng các
nhu cầu về tài chính cho các tổ chức phi lợi nhuận. Marketing
Khái niệm về thị trường cuối cùng đem lại cho chúng ta chu trình hiểu biết đầy đủ về khái niệm Marketing.
Marketing là làm việc với thị trường để thực hiện những vụ trao đổi với mục đích thoả
mãn những nhu cầu và mong muốn của con người.
Như vậy, Marketing là hoạt động của con người nhằm đáp ứng hay thoả mãn các nhu
cầu và mong muốn thông qua tiến trình trao đổi hàng hoá.
Quá trình trao đổi đòi hỏi phải làm việc. Ai muốn bán thì phải cần tìm người mua, xác
định những nhu cầu của họ, thiết kế các sản phNm phù hợp, đưa chúng ra thị trường, xếp vào
kho, vận chuyển, thương lượng về giá cả… Nền tảng của hoạt động Marketing là những việc
như tạo ra hàng hoá, khảo sát, thiết lập quan hệ giao dịch, tổ chức phân phối, xác định giá cả, triển khai dịch vụ.
Thông thường, chúng ta nghĩ rằng chỉ có người bán thực hiện hoạt động Marketing;
nhưng cả người mua cũng tham gia vào việc đó. Các bà nội trợ tiến hành Marketing riêng của
mình, khi đi tìm những thứ hàng mà mình cần với giá cả mà họ sẵn sàng trả. Trong khi săn
lùng những mặt hàng khan hiếm nhân viên cung ứng của công ty sẽ phải đi tìm người bán và
đưa ra cho họ những điều kiện giao dịch hấp dẫn. Thị trường Người bán – đó là một thị
trường mà trong đó người bán có quyền lực hơn và người mua trở thành nhà hoạt động thị
trường tích cực nhất. Thị trường người mua – đó là thị trường mà trong đó người mua có
quyền lực hơn và là nơi người bán trở thành những nhà hoạt động thị trường tích cực nhất.
2. Phân loại Marketing
Marketing ngày nay đã đạt trình độ phát triển rất cao. Nó được ứng dụng trong nhiều
hệ thống và nhiều lĩnh vực phong phú khác nhau. Người ta phân biệt:
Macro – Marketing: ứng dụng cho các hệ thống lớn (toàn quốc, toàn cầu…) nhằm
điều kiện, điều chỉnh sự phát triển kinh tế của mỗi nước, mỗi khu vực và toàn thế giới. Nhiều
quốc gia đã biết sử dụng Macro – Marketing như một công cụ hữu hiệu để điều tiết thị trường,
hạn chế và chấm dứt khủng hoảng thừa…
Micro – Marketing: ứng dụng trong những hệ thống nhỏ: Các công ty, xí nghiệp,
nhà hàng, khách sạn… Những thành công trong kinh doanh ở các đơn vị này không tách rời
các hoạt động Marketing hữu hiệu đã được tiến hành, khái niệm Marketing nói chung thường
đồng nhất với Micro – Marketing. Trong nghiên cứu, giảng dạy Marketing người ta thường ưu
tiên chọn Marketing của một hãng, một xí nghiệp để nghiên cứu.
Người ta cũng thường phân loại Marketing ra thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất bao
gồm những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến việc trao đổi hàng hoá dịch vụ nghĩa là lĩnh
vực kinh doanh (Business Marketing). Nhóm thứ hai bao gồm các lĩnh vực còn lại, phi kinh
doanh (Non business Marketing).
Marketing kinh doanh (Business Marketing).
Business Marketing bao gồm nhiều lĩnh vực kinh doanh có liên quan trực tiếp đến sản
xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ như:
- Marketing công nghiệp (Industrial Marketing)
- Marketing thương mại (Trade Marketing)
- Marketing trong nước (Domestic Marketing)
- Marketing quốc tế (International Marketing)
- Marketing xuất khNu (Export Marketing)
- Marketing nhập khNu (Import Marketing)
- Marketing tư liệu sản xuất (Mean of Production Marketing)
- Marketing dịch vụ (Service Marketing)
- Marketing hàng tiêu dùng (Consumer Goods Marketing)
Marketing phi kinh doanh (Non business Marketing).
Marketing phi kinh doanh bao gồm nhiều lĩnh vực ngoài phạm vi hoạt động sản xuất
kinh doanh. Đó là sự vận dụng các nguyên lý Marketing vào các hoạt động của các tổ chức
chính trị, xã hội, đảng phái, các tổ chức thể thao, văn nghệ, tôn giáo…
III. VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA MARKETING 1. Vai trò
Marketing có vai trò rất quan trọng trong kinh doanh. Nó hướng dẫn, chỉ đạo và phối
hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhờ các hoạt động Marketing
các quyết định đề ra trong sản xuất kinh doanh có cơ sở khoa học vững chắc hơn, xí nghiệp có
điều kiện và thông tin đầy đủ hơn thoả mãn mọi yêu cầu của khách hàng. Vai trò của
Marketing được thể hiện ở các mặt sau:
1.1 Đối với sản xuất
- Giúp khảo sát thị trường, hoạt động sản xuất và tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu của khách
hàng một cách thiết thực.
- Marketing chính là biện pháp cụ thể hoá kế hoạch kinh doanh tại xí nghiệp.
- Giúp dung hoà tốt các mục tiêu của xí nghiệp, kích thích sự nghiên cứu và cải tiến sản xuất.
1.2 Đối với thị trường
Vận dụng Marketing có tác dụng kích thích thị trường xã hội trong và ngoài nước, liên
kết chặt chẽ với cơ chế của đời sống kinh tế. Marketing rất cần thiết khi giải quyết các vấn đề
về thị trường, trong mối quan hệ giữa công ty với thị trường.
1.3 Đối với kế hoạch
Như một phương tiện, một công cụ tìm ra phương hướng, con đường hoạt động tương
lai của công ty. Marketing phản ánh tập trung kế hoạch kinh tế. Kế hoạch hoá và Marketing có
quan hệ chặt chẽ với nhau: Marketing phục vụ trước tiên các quá trình thực hiện các kế hoạch
và tạo cơ sở khách quan khoa học cho kế hoạch; nhờ đó mà tính khoa học và tính hiện thực
của kế hoạch được nâng cao. Trên cơ sở nghiên cứu Marketing từ đó rút ra những kết luận rõ
về khả năng tiêu thụ sản phNm thu được thông qua hoạt động của vốn đầu tư tương ứng. 2. Chức năng
2.1 Chức năng tiêu thụ sản pham

- Tìm hiểu những người tiêu thụ và lựa chọn những người tiêu thụ có khả năng nhất.
- Hướng dẫn khách hàng về thủ tục ký kết hợp đồng, đơn đặt hàng, chuNn bị các
chứng từ vận tải, danh mục gởi hàng, các thủ tục hải quan, chỉ dẫn bao gói, ký mã hiệu và các
thủ tục khác để sẵn sàng giao hàng. - Kiểm soát về giá cả.
- Chỉ ra các nghiệp vụ và nghệ thuật bán hàng.
- Quảng cáo, tuyên truyền…
2.2 Chức năng nghiên cứu thị trường
Đó là việc xem xét các biến động của thị trường và bản chất hoạt động của các chiến
lược Marketing của công ty. Chức năng này bao gồm các hoạt động sau: thu thập thông tin về
thị trường, phân tích tiềm năng nhu cầu tiêu dùng và dự đoán triển vọng.
2.3 Chức năng tổ chức quản lý
- Tăng cường khả năng của các xí nghiệp thích ứng với điều kiện biến động thường
xuyên về lao động, vật tư, tài chính, thị trường.
- Phối hợp và lập kế hoạch.
- Thoả mãn nhu cầu thị trường ngày càng cao.
- Tổ chức và hoàn thiện hệ thống tiêu thụ, phân phối sản phNm.
2.4 Chức năng hiệu quả kinh tế
Đối với nền kinh tế, Marketing có tác dụng thúc đNy kinh tế phát triển, hợp lý hoá các
hoạt động sản xuất và kinh doanh. Do đó, có thể nói Marketing là công cụ cho việc tạo lợi nhuận cho xí nghiệp.
IV. MỤC TIÊU CỦA MARKETING
1. Tối đa hoá sự tiêu thụ
Nhiều người lãnh đạo của giới kinh doanh cho rằng mục tiêu của Marketing là tạo điều
kiện dễ dàng và kích thích mức tiêu dùng cao nhất. Điều này sẽ có tác dụng ngược trở lại là
tạo điều kiện nâng cao tối đa khả năng sản xuất, tạo công ăn việc làm và tạo ra nhiều của cải
cho xã hội. Quan điểm này được phản ánh trong những tiêu đề điển hình của nhiều công ty.
2. Tối đa hoá sự hài lòng của khách hàng
Theo quan điểm này mục tiêu của hệ thống Marketing là đạt được mức độ thoả mãn
người tiêu dùng cao nhất, chứ không phải mức tiêu dùng cao nhất. Việc tiêu dùng một số
lượng kẹo “gum” hay mua sắm thật nhiều quần áo là kết quả của việc thoả mãn nhu cầu khách
hàng nhiều hơn. Tuy nhiên, sự hài lòng của khách hàng khó đo lường được vì:
- Chưa có nhà kinh tế nào nghĩ ra cách đo mức độ hài lòng của khách hàng bằng dụng
cụ cụ thể, nhưng sự hài lòng hoàn toàn do một sản phNm đặc thù hoặc hoạt động Marketing
có thể đánh giá được.
- Sự thoả mãn trực tiếp của cá nhân người tiêu dùng có được từ các hàng hoá đặc biệt
gây ra tác hại xấu như tình trạng ô nhiễm và huỷ hoại môi trường.
- Kinh nghiệm những người hài lòng khi sử dụng các loại hàng hoá như hàng hoá
mang tính địa vị xã hội… lại phụ thuộc vào việc có bao nhiêu người khác có các hàng hoá
này. Cho nên, người ta khó đánh giá hệ thống Marketing theo thuật ngữ khách hàng đã thoả
mãn hay hài lòng ở mức độ cụ thể là bao nhiêu.
3. Tối đa hoá sự lựa chọn
Một số nhà kinh doanh cho rằng mục tiêu cơ bản của hệ thống Marketing là cung cấp
thật phong phú các chủng loại hàng và giành cho người tiêu dùng quyền lựa chọn cao nhất.
Hệ thống Marketing phải đem lại cho người tiêu dùng khả năng tìm thấy những thứ hàng phù
hợp nhất với thị hiếu của họ. Người tiêu dùng phải có khả năng cải thiện tốt hơn lối sống của
mình và nhờ vậy được thoả mãn tốt nhất.
Nhưng việc tối đa hoá lựa chọn đòi hỏi tốn thêm chi phí vì:
- Hàng hoá và dịch vụ sẽ đắt hơn vì việc quản lý sản xuất và lưu thông hàng hoá tốn
kém hơn – giá cả cao hơn sẽ làm giảm thu nhập thực tế và sức tiêu thụ hàng hoá của khách hàng.
- Việc gia tăng chủng loại sản phNm đòi hỏi phải nỗ lực nghiên cứu người tiêu dùng
lớn hơn. Người tiêu dùng mất nhiều thời gian nghiên cứu và đánh giá các loại sản phNm.
- Sản phNm nhiều hơn không thực sự đồng nghĩa với việc gia tăng sự lựa chọn cần
thiết của người tiêu dùng. Chẳng hạn, việc có quá nhiều bia, nhãn nước ngọt trên thị trường
hiện nay, mà hầu hết chúng có mùi vị tương tự. Tình trạng này gọi là dư thừa nhãn hiệu, người
tiêu dùng đương đầu với việc lựa chọn nhầm lẫn.
- Quá nhiều chủng loại sản phNm cũng không được khách hàng hoan nghênh. Một số
khách hàng cảm thấy hoang mang và lo lắng khi có quá nhiều chủng loại sản phNm có công
dụng tương tự để lựa chọn.
4. Tối đa hoá chất lượng cuộc sống
Nhiều người cho rằng mục tiêu cơ bản của hệ thống Marketing phải là cải thiện chất
lượng đời sống. Khái niệm này bao gồm: chất lượng, số lượng, chủng loại, dễ tìm kiếm, chi
phí sản xuất hàng hoá, chất lượng môi trường vật chất, chất lượng môi trường văn hoá.
Người ta sẽ xét đoán hệ thống Marketing bằng mức độ thoả mãn nhu cầu người tiêu
dùng trực tiếp do nó tạo ra, và bằng sự tác động của hoạt động Marketing đến chất lượng môi
trường vật chất và văn hoá.
Hầu hết mọi người đồng ý rằng chất lượng của cuộc sống là mục tiêu quí giá đối với
hệ thống Marketing. Nhưng người ta cũng nhận thức rằng không dễ dàng đo lường chất lượng
cuộc sống và chủ đề chất lượng cuộc sống vẫn còn mâu thuẫn trong việc giải thích.
V. MARKETING HỖN HỢP (MARKETING MIX) 1. Khái niệm
Marketing mix là tập hợp các yếu tố biến động có thể kiểm soát được của Marketing
mà công ty phối hợp để tạo ra sự đáp ứng theo mong muốn của thị trường mục tiêu.
Nếu sự phối hợp hoạt động những thành phần Marketing được nhịp nhàng và đồng bộ
thích ứng với tình huống của thị trường đang diễn tiến thì công cuộc kinh doanh của xí nghiệp
hoặc của công ty sẽ trôi chảy, hạn chế sự xuất hiện những khả năng rủi ro và do đó mục tiêu
sẽ đạt được lợi nhuận tối đa. Nhà quản trị tài năng là nhà tổ chức, điều hành phối hợp các
thành phần Marketing trong một chiến lược chung, đảm bảo thế chủ động với mọi tình huống
diễn biến của thị trường.
2. Các thành phần của Marketing mix
Marketing mix bao gồm những gì mà công ty có thể thực hiện để tác động đến nhu cầu về sản phNm của mình.
Các khả năng tác động đến nhu cầu có thể tập hợp thành 4 nhóm còn gọi là “4P”:
Product, Price, Place, Promotion.
- Product (sản pham): đại diện cho sự kết hợp giữa hàng hoá và dịch vụ mà công ty
đưa vào thị trường mục tiêu.
- Price (giá cả): đại diện cho số lượng tiền mà khách hàng phải trả để nhận sản phNm.
- Place (phân phối): đại diện cho các hoạt động đa dạng của công ty để sản phNm sẵn
sàng cung cấp cho thị trường mục tiêu.
- Promotion (chiêu thị): đại diện cho các hoạt động truyền đạt các giá trị sản phNm
và thuyết phục khách hàng mua sản phNm.
Bốn thành phần trên thường được sử dụng song song, kết hợp, nhưng tuỳ điều kiện cụ
thể của thị trường từng lúc, từng nơi mà có thể chú trọng hơn một hay một số thành phần nào đó.
Hình 1.3: 4 P củ a Marketng hốỗn hợp Chủng loại Marketing mix Chất lượng Mẫu mã Tính Kênh năng Tên Phạm nhãn Bao vi bì Kích cỡ Danh mục hàng hoá Sản pham Phân phối Dịch vụ Địa Thị trường Bảo hành mục tiêu điểm Dự Trả lại trữ Vận chuyển Giá cả Chiêu thị Giá quy Kích thích tiêu định Chiết thụ Quảng cáo khấu Bớt giá
Lực lượng bán hàng Kỳ hạn thanh toán Quan hệ công
Điều kiện trả chậm chúng Bán hàng trực tiếp
3. Những yếu tố ảnh hưởng đến Marketing hỗn hợp
Trong kinh doanh, các hoạt động Marketing hỗn hợp được biểu hiện khá linh hoạt và
uyển chuyển. Vì trong quá trình vận dụng nó chịu tác động bởi nhiều nhân tố chi phối mang
tính quyết định, có thể nói những nhân tố ấy gồm:
* Uy tín và vị trí của xí nghiệp trên thị trường: khách hàng thường có tâm lý mua hàng
theo Sự tín nhiệm về nhãn hiệu sản phNm mà họ quen sử dụng. Sự tín nhiệm của khách hàng
đối với sản phẩm càng lớn thì uy tín và vị trí của công ty hoặc xí nghiệp trên thị trường càng cao.
* Tình huống của thị trường: trong nền kinh tế thị trường, sự hình thành và chuyển hoá
từ hình thái thị trường này sang hình thái thị trường khác đối với một loại hàng hoá nào đó sẽ
tạo nên những tình huống kinh doanh khác nhau với những ứng phó khác nhau giữa các nhà
kinh doanh. Vì vậy đối với các nhà kinh doanh phải có những đối sách thích hợp ứng với từng
tình huống cụ thể sao cho sản phẩm của mình tham gia vào thị trường vừa đạt được lợi nhuận,
vừa thoả mãn được nhu cầu.
* Vòng đời sản pham: bất kỳ một sản phẩm nào cũng đều phải trải qua những giai đoạn
nhất định từ lúc xuất hiện cho đến khi rút khỏi thị trường. Ở mỗi giai đoạn khác nhau đều có
nội dung hoạt động kinh doanh khác nhau. Nếu như nhận định sai về một giai đoạn nào đó
trong vòng đời sản phẩm sẽ dẫn đến nội dung hoạt động kinh doanh không đúng và tất yếu sẽ
dẫn đến sự thất bại.
* Tính chất hàng hoá: mỗi loại hàng hoá đều có tính chất khác nhau. Căn cứ vào các
tính chất đó mà nhà kinh doanh có cách tổ chức những nội dung kinh doanh thích hợp.
Tóm lại, hoạt động Marketing hỗn hợp là một nghệ thuật của sự vận dụng các thành
phần của mình trong kinh doanh. Nó hoàn toàn không theo một công thức cứng nhắc nào hoặc
một chuNn mực nào đã được qui định trước. VI. QUẢN TRN MARKETING 1. Khái niệm
Quản trị marketing - là phân tích, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thi
hành những biện pháp nhằm thiết lập, củng cố và duy trì những cuộc trao đổi có lợi với những
người mua đã được lựa chọn để đạt được những nhiệm vụ xác định của doanh nghiệp như thu
lợi nhuận, tăng khối lượng hàng tiêu thụ, mở rộng thị trường…(Philip Kotler)
Nhà quản trị marketing - là người có chức vụ của công ty, làm nhiệm vụ phân tích tình
huống marketing, thực hiện những kế hoạch đã đề ra và/hay thực hiện các chức năng kiểm tra.
Những nhà quản trị marketing là những chuyên gia về các vấn đề như quản lý việc tiêu thụ,
phụ trách quảng cáo, cổ động tiêu thụ, nghiên cứu marketing và quản trị thương phNm…
2. Các quan điểm quản trị Marketing
Có rất nhiều quan điểm marketing được hình thành và phát triển trong quá trình quản
trị của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, cho đến nay người ta rút ra được 5 quan điểm quản trị Marketing điển hình sau:
Quan điểm hướng về sản xuất
Quan điểm này khẳng định rằng khách hàng sẽ ưa thích nhiều sản pham được bán
rộng rãi và giá cả phải chăng. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tập trung nỗ lực mở rộng quy
mô sản xuất và nâng cao hiễu quả của hệ thống phân phối.

Theo quan điểm này thì yếu tố quyết định thành công cho doanh nghiệp là giá bán hạ
và có nhiều hàng hoá. Doanh nghiệp sản xuất những hàng hoá mà họ có thuận lợi. Thực tế thì
các doanh nghiệp sẽ thành công khi nhu cầu vượt quá cung và doanh nghiệp có lợi thế theo
quy mô (tức là sản xuất càng nhiều thì giá thành càng hạ), đồng thời thị trường mong muốn hạ
giá sản phNm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ khó thành công khi áp dụng quan điểm này
trong điều kiện sản xuất cơ giới hoá hàng loạt dẫn tới cung vượt quá cầu.
Mặc dù xã hội đã có sự thay đổi nhanh chóng nhưng vẫn còn nhiều doanh nghiệp áp
dụng nó rất thành công. Vấn đề đặc ra là phải biết khi nào thì áp dụng phù hợp và khi nào phải
chuyển sang quan điểm khác phù hợp hơn.
Quan điểm hoàn thiện sản pham
Quan niệm hoàn thiện sản pham cho rằng người tiêu dùng ưa thích những sản pham
có chất lượng cao nhất, có tính năng sử dụng tốt nhất, vì thế doanh nghiệp phải tập trung vào
việc thường xuyên hoàn thiện sản pham.

Quan niệm này dẫn đến căn bệnh marketing thiển cận. Người bán chỉ chú ý đến sản
phNm mà quên đi những nhu cầu của khách hàng. Một khi doanh nghiệp bỏ qua những nhu
cầu thay đổi nhanh chóng của xã hội mà chỉ say sưa với sản phNm của mình thì sẽ có khả
năng bị thất bại. Một hãng đường sắt cho rằng khách hàng cần con tàu chứ không phải là một
phương tiện giao thông và đã không nhận thấy được mối đe dọa từ các phương tiện giao
thông khác như hàng không, xe tải, xe buýt.
Quan điểm hướng về bán hàng
Quan điểm hướng về bán hàng cho rằng khách hàng sẽ không mua sản pham của
doanh nghiệp với số lượng lớn nếu như doanh nghiệp không có những nỗ lực thúc đay bán hàng và khuyến mãi.
Quan điểm này được vận dụng trong những tình huống thụ động, tức là doanh nghiệp
sản xuất sản phNm trước rồi sau đó kích thích tiêu thụ. Vì thế doanh nghiệp cần phải đầu tư
vào khâu tổ chức bán hàng như trang bị cửa hàng hiện đại, tuyển chọn và huấn luyện nhân
viên bán hàng, đào tạo kỹ năng thuyết phục khách hàng, và chú ý đến công cụ quảng cáo, khuyến mãi.
Quan điểm hướng về khách hàng
Quan điểm hướng về khách hàng khẳng định rằng để thành công doanh nghiệp phải
xác định chính xác nhu cầu và mong muốn của thị trường mục tiêu, đồng thời có thể thoả
mãn các nhu cầu mong muốn đó sao cho có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh.

Thực chất của quan điểm này là triết lý kinh doanh Marketing định hướng khách hàng,
tức là lấy khách hàng làm mục tiêu tồn tại. Đặc trưng của quan điểm này là: 
Hiểu rõ nhu cầu, mong muốn của khách hàng mục tiêu và thoả mãn nó; 
Tăng lợi nhuận trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của khách hàng, bán cái mà khách
hàng cần chứ không phải cố gắng bán bán cái mình có thể làm ra. 
Sử dụng tổng hợp các công cụ khác nhau (Marketing hỗn hợp)
Quan điểm Marketing đạo đức xã hội
Đây là quan điểm mới cũng là xu hướng mà xã hội quan tâm trong tương lai.
Quan điểm cho rằng nhiệm vụ của doanh nhiệp là xác định nhu cầu, mong muốn và lợi
ích của các thị trường mục tiêu và thoả mãn chúng bằng những phương thức có hiệu quả hơn
(so với đối thủ cạnh tranh) đồng thời duy trì hay củng cố mức sung túc cho người tiêu dùng
và toàn xã hội.
Quan điểm này đòi hỏi phải kết hợp hài hoà giữa 3 lợi ích khách hàng nhau: lợi ích
khách hàng, lợi ích doanh nghiệp và lợi ích xã hội. Sản phNm của các doanh nghiệp phải giúp
cho cộng đồng cải thiện chất lượng cuộc sống, chứ không chỉ đơn thuần là đời sống vật chất.
Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp thoả mãn được hai lợi ích đầu nhưng đã lãng quên lợi ích
xã hội như: gây ô nhiễm, huỷ hoại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên, gây bệnh tật cho con
người… Kết quả là bị xã hội lên án, tNy chay. Hãng bột ngọt Vidan từng bị lên án là đã gây ô
nhiễm môi trường cho cộng đồng.
3. Quá trình quản trị marketing
Marketing không chỉ đơn giản là quảng cáo và hoạt động của những người bán hàng.
Chính xác hơn marketing là một quá trình thích nghi toàn diện với việc tận dụng những khả
năng có lợi đang mở ra của thị trường. Những hoạt động này của marketing thật sự có hiệu
quả khi chúng được hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm tra và lãnh đạo một cách khoa học.
Quá trình quản trị marketing được thực hiện theo bốn giai đoạn sau:
1. Phân tích các khả năng của thị trường
2. Lựa chọn những thị trường mục tiêu
3. Xây dựng chương trình marketing mix
4. Thực hiện các biện pháp marketing
Hình 1.4: Quá trình quả n trị marketng Phần tch kh năng c a th tr ng ườ H thốếng nghiến c ệ u và thống tin ứ marketing Mối tr ng ườ marketing Th tr ị ng ng ườ i tiếu ườ dùng Th tr ị ng doanh ườ nghi p ệ
Lự a chọ n thị trườ ng mụ c tếu Đo l ng m ườ c cấầu c ứ a th ủ ị tr ng ườ Phấn khúc và lựa ch n ọ th ịtr ng m ườ c tiếu; đ ụ nh v ị s ị n pham tr ả ến th tr ị ng ườ
Soạ n thả o chươ ng trình marketng-mix Nghiến c u, thiếết k ứ ếế và s n xuấết s ả n ả pham Xác định giá cho s n ả pham Các ph ng th ươ c phấn phốếi s ứ n ả pham
Khuyếến khích tiếu thụ
Tiếốn hành các hoạ t độ ng marketng Chiếến l c, l ượ p k ậ ếế ho ch và ạ ki m soát ể Tóm tắt  
Marketing ra đời từ những năm đầu của thế kỷ 20 và phát triển kể từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai, sau đó lan rộng ra khắp các nước trên thế giới. Lúc đầu nó được xem như là
phương tiện của kỹ thuật lưu thông hàng hoá, nên có lúc nó được dùng với danh nghĩa là
thương mại. Nhưng dần về sau vị trí của marketing mới được khẳng định và trở thành một
trong những môn khoa học cho các nhà kinh doanh

Marketing có ảnh hưởng đến cuộc sống cho tất cả mọi người. Nó là tất cả những gì
bạn làm nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng và tạo ra lợi nhuận bằng cách:
Cung cấp hàng hoá hay dịch vụ mà họ cần;
Định ra mức giá mà họ chấp nhận trả;
Đưa hàng hoá hay dịch vụ của bạn đến tay khách hàng
Đưa thông tin và thu hút khách hàng mua hàng hoá hay dịch vụ của bạn
Khách hàng của bạn là những cá nhân hay doanh nghiệp khác cần hàng hoá hay dịch

vụ của bạn và chấp nhận trả tiền mua.
Marketing nghiên cứu việc các bên khác nhau làm thế nào để thoả mãn những nhu
cầu và ước muốn của họ thông qua các tiến trình trao đổi. Những khái niệm căn bản trong
việc nghiên cứu Marketing là nhu cầu, ước muốn, cần dùng, sản pham, trao đổi, giao dịch và
thị trường.
Marketing có nhiều quan điểm, nhưng có hai quan điểm là nổi bật hơn hết đó là quan
niệm Marketing truyền thống và Marketing hiện đại. Marketing truyền thống thì nhà sản xuất
chỉ bán những gì họ sản xuất ra được, cho nên nhiệm vụ của họ là cải tiến năng suất sản xuất
, đồng thời làm hạ giá thành xuống và dùng nhiều nổ lực để bán được hàng. Marketing hiện

đại thì mang tính xã hội hơn, nó cho rằng công ty cần xem việc thoả mãn khách hàng, hạnh
phúc lâu dài của người tiêu thụ và của xã hội, như là chìa khoá để đạt thành các mục tiêu của tổ chức.

Mục tiêu của Marketing là nhằm để tối đa hoá sự tiêu thụ, sự hài lòng của khách
hàng, tối đa hoá sự lựa chọn và cao hơn nữa là tối đa hoá chất lượng cuộc sống.
Marketing hỗn hợp là sự phối hợp của các thành phần Marketing, bao gồm bốn
thành phần cơ bản, đó là sản pham, giá cả, phân phối và chiêu thị. Trong mỗi thành phần của
marketing hỗn hợp là cả một chiến lược cho mỗi công ty lựa chọn, tuỳ theo những lĩnh vực
kinh doanh mà ứng dụng một cách cụ thể.

Tóm lại, Marketing ngày càng được nhiều tổ chức thuộc lĩnh vực kinh doanh, lĩnh
vực quốc tế, và lĩnh vực phi lợi nhuận quan tâm trong việc nhận ra được Marketing đã đóng
góp như thế nào để đạt được hiệu năng trên thương trường.
Chương 2. Nghiên cứu CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Marketing khác với bán hàng như thế nào? Theo bạn người bán hàng giỏi có phải là
người làm Marketing giỏi hay không? Bạn sẽ trở thành một nhà Marketing chuyên nghiệp, hay
một người bán hàng chuyên nghiệp khi bạn đi làm sau khi tốt nghiệp? Hãy giải thích.
2. Hãy phân biệt Marketing truyền thống với Marketing hiện đại. Lấy thí dụ minh hoạ
cho một sản phNm cụ thể.
3. Tại sao trong những năm gần đây, nhiều tổ chức phi lợi nhuận đã vận dụng công việc
Marketing? Hãy trình bày chi tiết về một thí dụ đặc trưng.
4. Có người cho rằng Marketing trong thời đại ngày nay là nhằm hướng tới nâng cao
chất lượng cuộc sống của con người. Bạn hãy bình luận câu nói trên.
5. Người ta cho rằng, marketing ngày nay không chỉ có 4 thành phần, mà có tới năm
thành phần cấu tạo nên marketing hỗn hợp. Bạn hãy cho biết thành phần đó là gì và hãy phân tích chúng?
Chương 2. Nghiên cứu Chương 2 NGHIÊN CỨU MARKETING
I. NGHIÊN CỨU MARKETING 1. Khái niệm
Theo Philip Kotler, “Nghiên cứu marketing là xác định một cách có hệ thống những
tư liệu cần thiết do tình huống marketing đặt ra cho công ty, thu thập, phân tích chúng và báo cáo kết quả”
Theo hiệp hội Marketing Mỹ, “Nghiên cứu Marketing là quá trình thu thập và phân
tích có hệ thống các thông tin (dữ liệu) về các vấn đề liên quan đến các hoạt động Marketing
hàng hoá và dịch vụ”.

2. Mục đích của nghiên cứu Marketing
Tư tưởng chủ đạo của Marketing là ”Mọi quyết định kinh doanh đều phải xuất phát từ
thị trường”. Muốn thực hiện được tư tưởng chủ đạo này thì phải có đầy đủ thông tin về thị
trường, về môi trường kinh doanh, tức là phải nghiên cứu Marketing để: - Hiểu rõ khách hàng.
- Hiểu rõ các đối thủ cạnh tranh.
- Hiểu rõ tác động của môi trường đến doanh nghiệp.
- Hiểu rõ các điểm mạnh, điểm yếu của ta.
Căn cứ vào các thông tin thu được qua nghiên cứu Marketing, các nhà quản lý sẽ vạch
ra chiến lược, chính sách kinh doanh phù hợp nhằm vào thị trường mục tiêu.
Nghiên cứu Marketing không chỉ hỗ trợ cho các quyết định Marketing có tính chiến
thuật và chiến lược, mà còn được dùng để xác định, giải đáp một vấn đề cụ thể như: tìm hiểu
phản ứng của người tiêu dùng về giá cả một loại sản phNm, về một loại bao bì mới hay về hiệu
quả của một chương trình quảng cáo.
Công ty có thể nghiên cứu marketing bằng nhiều cách khác nhau. Tuỳ vào đặc tính kinh
doanh cũng như qui mô của mỗi công ty mà họ phải giải quyết các nhiệm vụ khác nhau như:
nghiên cứu đặc tính của thị trường; đo lường khả năng tiềm tàng của thị trường; phân tích sự
phân chia thị trường giữa các công ty; phân tích tình hình tiêu thụ; nghiên cứu các xu thế hoạt
động kinh doanh; nghiên cứu hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu phản ứng với
mặt hàng và tiềm năng của nó; nghiên cứu chính sách giá. Sau đây là các loại nghiên cứu
Marketing thường được tiến hành:
- Nghiên cứu thị trường: Nhằm trả lời các câu hỏi về tiềm năng thương mại của thị trường.
- Nghiên cứu về sản phẩm: Nhằm trả lời các câu hỏi về khả năng chấp nhận sản phẩm
của công ty, về các sản phẩm cạnh tranh, về phương hướng phát triển sản phẩm của công ty.
- Nghiên cứu phân phối: Nhằm giải đáp các vấn đề về tổ chức, quản lý kênh phân phối.
- Nghiên cứu quảng cáo: Nhằm giải đáp các vấn đề về hiệu quả quảng cáo,về chọn phương tiện
quảng cáo, về nội dung quảng cáo.
- Nghiên cứu dự báo: Nhằm giải đáp các vấn đề về dự báo nhu cầu ngắn hạn (1 năm), dự báo
trung hạn và dài hạn (từ 2 năm trở lên).
Ví dụ: Các nội dung nghiên cứu về quảng cáo có thể là:
+ Nghiên cứu động cơ mua của người tiêu dùng
+ Nghiên cứu tâm lý: tâm lý gia đình của người Việt Nam
+ Nghiên cứu lựa chọn phương tiện quảng cáo
+ Nghiên cứu chọn nội dung quảng cáo
+ Nghiên cứu hiệu quả của quảng cáo
Ví dụ: Nghiên cứu hành vi tiêu dùng hàng nội mặt hàng xe gắn máy của người dân thành phố Long Xuyên.
II. QUI TRÌNH NGHIÊN CỨU MARKETING
Mặc dù ở mỗi doanh nghiệp có những nghiên cứu khác nhau nhưng nhìn chung qui trình
nghiên cứu marketing bao gồm 5 giai đoạn chính và chúng có các dạng sau: Hình 2.1: S đốầ q ơ
ui trình nghiến cứ u marketng
Phát hi n vầốn đếầ v
à mụ c tếu nghiến c u Báo cáo kếốt qu ả nghiến c u L a ch Thu th
n các nguốần thống tn ậ X
p thống tn lý và phần tch thống tn
1. Phát hiện vấn đề và mục tiêu nghiên cứu
Châm ngôn có câu: “Phát hiện đúng vấn đề tức là đã giải quyết được một nửa vấn đề”.
Nếu phát hiện vấn đề sai thì các phương pháp nghiên cứu cũng lạc hướng, dẫn tới tốn kém vô
ích. Mặt khác, nhiều khi các vấn đề đang Nn náu mà ta có thể chưa biết, nếu không được phát
hiện sẽ dẫn đến các hậu qủa lớn.
Khi một doanh nghiệp phát hiện ra rằng khách hàng không còn mua sản phNm của họ
nữa. Vấn đề đặc ra là làm thế nào để thu hút khách hàng mua sản phNm của công ty nhiều hơn
hoặc khách hàng đánh giá như thế nào và sản phNm của doanh nghiệp.
Bước tiếp theo là doanh nghiệp phải xác định các mục tiêu nghiên cứu. Các mục tiêu
này có thể là thăm dò, tức là dự kiến thu thập những số liệu về khách hàng để làm sáng tỏ vấn
đề, hoặc cũng có thể giúp ta đưa ra giả thiết. Mục tiêu nghiên cứu có thể là mô tả, tức là dự
kiến mô tả những hiện tượng nhất định; hoặc cũng có thể mục tiêu lại là thử nghiệm nhằm kiểm
tra một giả thiết về mối quan hệ nhan quả nào đó.
2. Lựa chọn nguồn thông tin
Nguồn thông tin là những số liệu hay dữ liệu mà nhà nghiên cứu có thể thu thập được.
Một cách tổng quát nhất có hai nguồn dữ liệu cơ bản trong marketing, đó là nguồn dữ liệu thứ
cấp và nguồn dữ liệu sơ cấp. Dữ liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp là nguồn dữ liệu đã được thu nhập và xử lý cho mục đích nào đó, nhà
nghiên cứu marketing sử dụng lại cho việc nghiên cứu của mình. Có hai nguồn dữ liệu thứ cấp
là nguồn bên trong và nguồn bên ngoài.
Dữ liệu thứ cấp bên trong: là các dữ liệu từ các báo cáo của những bộ phận chức năng
trong doanh nghiệp như doanh thu, chi phí, hoạt động phân phối, quảng cáo… hợp. Dữ liệu thứ
Nguồn thư viện: bao gồm các dữ liệu đã được xuất bản trong các sách báo, tạp
chí, đặc san, các báo cáo nghiên cứu, niên giám thống kê… cấp bên
Nguồn tổ hợp: bao gồm các dữ liệu tổ hợp do các công ty nghiên cứu thị ngo
trường thực hiện sẵn để bán cho khách hàng chứ không được xuất bản. ài: bao gồm hai ngu ồn chín h: ngu ồn thư viện và ngu ồn tổ
Hình 2.2: Nguốần d li ữ u th cầốp D li ữ u th cầốp Bến trong cống ty Bến ngoài cống ty B ph ộ n khác ậ Marketing Xuấết bản Internet T h ổ ợp Dữ liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp là dữ liệu mà nhà nghiên cứu marketing thu thập trực tiếp tại nguồn (lần
đầu) để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của mình. Khi nghiên cứu các vấn đề mang tính đặc
thù của doanh nghiệp thì phải cần đến các thông tin sơ cấp.
Dữ liệu sơ cấp được thu thập bằng nhiều phương pháp khác nhau. Muốn thu thập
những dữ liệu sơ cấp tốt nhất là lập một kế hoạch đặc biệt. Kế hoạch này đòi hỏi phải có những
quyết định sơ bộ về các phương pháp nghiên cứu, công cụ nghiêu cứu, kế hoạch chọn mẫu, các
phương pháp liên lạc với công chúng. B ng 2.1: Kếố ho ch thu th p nh ng d li ữ u s cầốp ơ
Phương pháp nghiên cứu Quan sát Thực nghiệm
Thăm dò dư luận
Công cụ nghiên cứu Phiếu điều tra Thiết bị máy móc
Kế hoạch chọn mẫu Đơn vị mẫu Qui mô mẫu Chọn mẫu
Các phương pháp liên hệ Qua điện thoại Bưu điện Phỏng vấn trực tiếp với công chúng