Cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế đô thị môn Quản trị kinh doanh | Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Nền kinh tế đô thị là tổng thể những hoạt động lao động sản xuất củacon người hình thành trong một giai đoạn lịch sử nhất định để thực hiện quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm. Đó là một hệ thống hoạt động lao động sản xuất và các mối quan hệ phức tạp có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau thành các bộ phận cấu thành có những mối quan hệ đa dạng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Môn:
Thông tin:
17 trang 2 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế đô thị môn Quản trị kinh doanh | Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Nền kinh tế đô thị là tổng thể những hoạt động lao động sản xuất củacon người hình thành trong một giai đoạn lịch sử nhất định để thực hiện quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm. Đó là một hệ thống hoạt động lao động sản xuất và các mối quan hệ phức tạp có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau thành các bộ phận cấu thành có những mối quan hệ đa dạng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

57 29 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 46836766
Chương II
Cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế đô thị
I- Cơ cấu kinh tế đô thị
1- Khái niệm nền kinh tế đô thị và cơ cấu kinh tế đô thị
Nền kinh tế đô thị tổng thể những hoạt động lao động sản xuất của con người hình thành trong
một giai đoạn lịch sử nhất định để thực hiện quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng
sản phẩm. Đó là một hệ thống hoạt động lao động sản xuất và các mối quan hệ phức tạp có thể
được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau thành các bộ phận cấu thành có những mối quan
hệ đa dạng.
Cơ cấu kinh tế đô thị theo nghĩa triết học, được hiểu như là tập hợp những mối quan hệ
bản, tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành bên trong của nền kinh tế đô thị. Những
mối quan hệ bản nhất hình thành trong quá trình tái sản xuất-hội đô thị những mối
quan hệ giữa các ngành, các khu vực các thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế đô thị, tăng
trưởng kinh tế được xem như là sự tăng tổng việc làm, và nguồn gốc tăng trưởng là do tăng cầu
lao động (do tăng cầu các hàng hóa) hoặc một sự tăng cung lao động (tạo ra do lao động di
tới thành phố). Kết quả của tăng trưởng là tăng tổng gtrị sản xuất (TGTSX) và tăng tổng sản
phẩm trong nước (TSPTN). thế, cơ cấu kinh tế đô thị được nghiên cứu trên góc độ cơ cấu của
tổng việc làm, cơ cấu của TGTSX và TSPTN theo ngành, theo khu vực và theo thành phần kinh
tế.
2- Cơ cấu kinh tế đô thị theo ngành
Ngành kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế : Nnh kinh tế là tập hợp các tổ chức, doanh nghiệp có
cùng vị trí, chức năng trong hệ thống phân công lao động hội. Sự hình thành tồn tại các
ngành có tính khách quan và tính lịch sử. Hà nội 36 phố phường xưa kia phản ánh rõ chức năng
của từng phố và ngành nghề.
Cơ cấu ngành của kinh tế đô thị biểu thị bằng tỷ trọng từng ngành trong kinh tế đô thị, phản ánh
vai tvà những mối quan hệ giữa những tập hợp các tổ chức, doanh nghiệp cùng thực hiện một
chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội đô thị. Nó phản ánh trình độ phân công lao
động trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cơ cấu ngành kinh tế của đô thị luôn thay đổi
do sự tăng trườngphát triển nhanh chóng của đô thị. Hiện nay 36 phố phường thủ đô đã hoàn
toàn đổi khác và đang đổi khác từng ngày.
cấu ngành theo tổng việc làm : Nghiên cứu cơ cấu ngành được thực hiện theo các góc độ
khác nhau. Sự phân chia tổng việc làm theo ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghiên
cứu quan hệ hai bộ phận lao động trong kinh tế đô thị đó là mối quan hệ giữa bộ phận lao động
cơ bản và lao động phục vụ của đô thị trong từng ngành kinh tế và trong toàn bộ kinh
lOMoARcPSD| 46836766
tế đô thị . Đồng thời phản ánh quy mô, tỷ lệ lao động từng ngành trong tổng thể nền kinh tế của
đô thị.
Cơ cấu ngành theo TGTSX & TSPTN : Nhằm phản ánh vai trò từng ngành trong việc sáng tạo
ra sản phẩm xã hội ở đô thị. Trong chừng mực nhất định nó phản ánh hiệu quả sản xuất ở đô
thị.
Điều chỉnh cơ cấu ngành trong quá trình đô thị hoá : Điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế đô
thị một trong các biện pháp làm tăng trưởng kinh tế đô thị . Trong điều kiện kinh tế còn khó
khăn về đầu tư thì thay đổi cơ cấu ngành là phương sách tốt nhất và là hướng phát triển kinh tế
theo chiều sâu.
3- Cơ cấu kinh tế đô thị theo 3 khu vực
Có thể phân chia toàn bộ hoạt động kinh tế đô thị thành 3 khu vực. Khu vực I bao gồm các hoạt
động nông-lâm nghiệp và thuỷ sản; khu vực II gồm các hoạt động công nghiệp xây dựng; khu
vực III gồm các hoạt động dịch vụ. Khu vực II và III phải đóng vai trò chủ đạo trong kinh tế đô
thị. Khu vực I phải giảm dần cả về tuyệt đối và tương đối. Những điều đó thể hiện qua t trọng
tổng việc làm và kết quả sản xuất.
4- Cơ cấu kinh tế đô thị theo thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế phản ánh trình độ phát triển của quan hệ sản xuất trước hết là quan
hệ sở hữu trong kinh tế. Việc nghiên cứu cơ cấu kinh tế đô thị được thực hiện trên cơ sở những
thành phần thực tế đang tồn tại. Nó cho biết số lượng, vai trò của từng thành phần, qua đó thấy
được mức độ thống trị của quan hệ sản xuất chủ đạo trong kinh tế đô thị. Một trong những đặc
trưng cơ bản của cơ cấu này là xu hướng đơn giản hoá của nó. Hiện nay Đảng và Nhà nước chủ
trương nền kinh tế nhiều thành phần, để thấycơ cấu này, trong thực tế thống kê chia thành 3
thành phần. Đó thành phần kinh tế Nhà nước (Quốc doanh), không phải Nhà nước (Ngoài
quốc doanh) và thành phần có vốn đầu nước ngoài. Tuy nhiên trong mỗi thành phần này ta
thể tiếp tục nghiên cứu cơ cấu bên trong của nó. Thuộc thành phần kinh tế quốc doanh bao gồm
các tổ chức, doanh nghiệp chế độ sở hữu Nhà nước về liệu sản xuất. Các tổ chức còn lại
thuộc hình thức ngoài quốc doanh. Như vậy vmặt lý thuyết chỉ nên chia làm hai thành phần
thôi. Để thấy được số lượng, vai trò của từng thành phần một cách cụ thể ta cần dựa vào thống
kê tổng việc làm và kết quả sản xuất.
II- Tăng trưởng kinh tế đô thị
1- Khái niệm và những nhân tố làm tăng trưởng kinh tế đô thị
Tăng trưởng kinh tế đô thị là quá trình tích tụ, tập trung và lớn lên về quy mô kinh tế xã
hội đô thị. Quá trình tăng trưởng và tập trung kinh tế đô thị diễn ra theo hai hướng: chiều rộng
và chiều sâu. Theo chiều rộng chính là sự đô thị hoá - là sự mở rộng quy tăng dân số đô
thị ; theo chiều sâu chính là sự tăng tổng việc làm ở đô thị, thay đổi cơ cấu kinh tế đô thị và
lOMoARcPSD| 46836766
nâng cao khả năng, hiệu quả sản xuất. Kết qủa là nâng cao đời sống, nâng cao thu nhập, tăng GO
và GDP, tăng tích luỹ.
Trong lịch sử phát triển đô thị, tiền đề cơ bản của đô thị hoá sự phát triển công nghiệp, thương
mại, dịch vụ thu hút nhiều nhân lực nông thôn đến sống và làm việc. Đô thị hoá một vùng làm
tăng mật độ giao thông và tăng các mối quan hệ kinh tế xã hội với các vùng lân cận. Trong lịch
sử phát triển đô thị thì tăng trưởng kinh tế là nguyên nhân đô thị hoá tăng trưởng đô thị. Trong
kinh tế hiện đại hiện nay thì đô thị hoá làm tăng trưởng đô thị. Thực vậy, khi chính phủ nhận
thức đầy đủ hơn về sự phát triển kinh tế - hội, việc xây dựng một khu đô thị mới được tính
toán đầy đủ trên các phương diện chứ không chờ sự phát triển của bản thân khu vực đó. Ví dụ
khu Đô thị Nam sài gòn được xây dựng từ khu đất nông nghiệp rất kém hiệu quả… Như vậy đô
thị hoá làm tăng trưởng kinh tế đô thị.
Những biểu hiện của tăng trưởng kinh tế đô thị thể : Thay đổi cấu kinh tế đô thị, nâng
cao khả năng hiệu quả kinh tế đô thị, tăng tỷ trong dân số đô thị trong tổng dân số
Trên quan điểm dân số: T trọng dân số đô thị trong tổng số dân (%) tăng có nghĩa là đô thị tăng
trưởng. Số liệu thống kê từ 1931 đến 1989 của nước ta nói lên điều đó.
Năm 1931 1954 1975 1979 1989
7,5% 11 21,5 19,2 21 , 4
Trên quan điểm GDP của khu vực đô thị : GDP tính theo lãnh thổ, trên phạm vi đô thị tăng biểu
hiện kinh tế đô thị tăng trưởng.
Trên quan điểm quycác ngành : Tăng quy các nnh biểu hiện qua s tăng việc làm, tăng
lao động và tăng kết quả sản xuất.
Trên quan điểm tăng thu nhập của người lao động: tăng tỷ lệ tổng thu nhập của dân số đô thị/Tổng
thu nhập dân số nông thôn, tăng mật độ dân số đô thị ...
Trên quan điểm tốc độ tăng trưởng kinh tế và vai trò kinh tế đô thị : để đo lường tăng trưởng
kinh tế đô thị ta sử dụng các chỉ số phản ánh tốc độ tăng GDP và tỷ trọng GDP đô thị trong
kinh tế quốc dân.
2- Những nhân tố làm tăng trưởng kinh tế đô thị
+ Chuyển đổi cấu các ngành kinh tế đô thị : m tăng trưởng kinh tế đô thị theo chiều sâu,
tăng năng suất lao động xã hội trong khi tổng việc làm không đổi.
+ Mở rộng quy mô sản xuất do xây dựng mới và mở rộng, đóng cửa và thu hẹp hay làm giảm số
việc làm tương đối (thay đổi thuần túy trong tổng việc làm trong một thành phố), áp dụng các
chính sách đầu nước ngoài : vừa làm tăng tổng việc làm (theo chiều rộng) vừa làm thay đổi
cơ cấu kinh tế trong kinh tế đô thị.
+ Các chính sách kinh tế nhằm phát huy hết năng lực sẵn có cũng có tác dụng như mở rộng quy
mô kinh tế, nâng cao năng suất lao động xã hội.
lOMoARcPSD| 46836766
+ Nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng k thuật mới trong kinh tế đô thị, làm nâng cao hiệu qu
sản xuất.
+ Quy đô thị hợp : Hợp hoá quy đô thị làm thay đổi của cấu thành tổng việc làm.
Việc lựa chọn quy mô, địa điểm hợp của các doanh nghiệp, các ngành tạo ra quy mô hợp lý
của đô thị nhằm khai thác hết các lợi thế của đô thị.
3- ảnh hưởng của các chính sách công cộng đến tăng trưởng kinh tế
Các chính cách công cộng bao gồm : chính sách giáo dục, y tế, phục vụ công cộng, đầu xây
dựng sở hạ tầng kinh doanh, chính sách thuế kinh doanh Các chính sách này đều ảnh
hưởng tới cung, cầu lao động trong đô thị. Khi thay đổi cung cầu về lao động của đô thị tức
là số lượng lao động hay việc làm sẽ thay đổi.
Khi đô thị áp dụng các chính sách cải thiện hệ thống giáo dục, dịch vụ công cộng, cơ sở hạ tầng
kinh doanh, và giảm thuế kinh doanh có nghĩa là giảm chi phí sản xuất của các doanh nghiệp thì
cầu lao động tăng (đường cầu lao động dịch chuyển sang phải). Đồng thời khi cải thiện cơ sở hạ
tầng sinh hoạt, và giảm thuế tiêu dùng có nghĩa là thành phố thu hút lao động thì cung lao động
tăng (đường cung lao động dịch chuyển sang phải). Để điều tiết cung cầu lao động, thành phố có
thể sử dụng 2 chính sách cơ bản : trợ cấp hoặc giảm thuế cho các công ty mới hoặc công ty quan
trọng và tăng thuế đối với các công ty cần hạn chế phát triển . Bất cứ chính sách công cộng nào
làm giảm chi phí sản xuất sẽ làm tăng cầu lao động và tăng việc làm cân bằng, trong điều kiện
các yếu tố khác không đổi. Trong truờng hợp trợ cấp thuế (các yếu tố khác không đổi), thu
nhập từ thuế được sử dụng trợ giúp các dịch vụ công cộng đia phương, thì một cộng đồng
thuế thấp sẽ có dịch vụ công cộng ít hơn. Thực tế cho thấy nếu một thành phố cắt giảm thuế và
từ đó buộc phải giảm chi tiêu dịch vụ công cộng (đường sá, giáo dục, an toàn công cộng), thì sẽ
dẫn đến chậm tăng trưởng thể giảm sút. Ngược lại, nếu một thành phố cắt giảm thuế
giảm chi tiêu không phải dịch vụ công cộng đồng thời tăng cường các chương trình tái phân phối
cho người nghèo thì thành phố sẽ tăng trưởng. Nói cách khác, ảnh hưởng của cắt giảm thuế phụ
thuộc vào lọai dịch vụ bị cắt giảm cùng với thuế. Nếu thuế được dùng để tài trợ cho cho các dịch
vụ công cộng cho các nkinh doanh thì sự cắt giảm thuế không chắc đã khuyến khích tăng
trưởng kinh tế.
Bất cứ chính sách nào làm thành phố hấp dẫn hơn đều dẫn đến tăng cung cầu lao
động, nhưng chưa chắc đẫ dẫn đến tăng việc làm cân bằng (trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi). Về mặt tài chính, chương trình trợ cấp sẽ có hiệu quả khi tổng thu nhập thuế vượt
chi tiêu các dịch vụ công cộng. khi thực hiện chương trình trợ cấp tức giảm gánh nặng
thuế địa phương. Việc cắt giảm thuế hoặc trợ cấp làm cho thành phố hấp dẫn các công ty hơn
đồng thời những cơ sở thuế của thành phố sẽ tăng làm tăng tổng thu nhập từ thuế. Vì thành phố
tăng trưởng nên chi tiêu cho các dịch vụ địa phương (đường xá, trường học, cảnh sát, cứu hỏa)
cũng tăng thêm. Việc xác định hiệu quả thực hiện bằng cách so sánh tổng thu nhập từ thuế
tổng chi tiêu của thành phố về các dịch vụ này.
lOMoARcPSD| 46836766
Tăng hoặc giảm thuế : Trong thực tế, một số thành phố miễn giảm một số sắc thuế địa
phương trong một thời k, (thuế tài sản thường là 10 năm ) cho các công ty mới hoặc các công
ty cần có sự khuyến khích đặc biệt ví dụ công ty môi trường.
Giữa thuế và tăng trưởng kinh tế đô thị mối quan hệ tương đối chặt chẽ. Giả sử thành phố
thực hiện một chương trình thuế mới, chương trình y làm tăng hoặc giảm tổng việc làm của
thành phố đồng thời có khả năng điều chỉnh cơ cấu ngành trong kinh tế đô thị.
Trong một thành phố có nhiều ngành công nghiệp, nếu thành phố tăng mức thuế ở một số
ngành nào đó thì điều đó có ảnh hưởng đến cả 2 mặt cung và cầu của thị trường lao động thành
phố.
1)Tăng thuế làm giảm cầu lao động : Thuế làm tăng chi phí sản xuất của các nhà sản xuất. Giả
sử việc chi trả cho lao động, vốn và đất không đổi thì một công ty phải nộp mức thuế tăng hơn
trước. Tăng chi phí sản xuất làm tăng gbán của sản phẩm một số ngành, do đó làm giảm mức
sản xuất giảm cầu lao động. Trong hình 2-1 đường cầu dịch chuyển sang trái: mỗi mức
lương cao hơn, cầu lao động ít đi.
Hình 2-1 Thuế làm tăng tổng việc làm
2) Sử dụng thuế làm tăng cung lao động : Việc tăng thu của đô thị và sử dụng nguồn thu đó để
nâng cấp sở hạ tầng, cải thiện chất lượng môi trường làm tăng độ hấp dẫn của thành phố.
Những người nhậy cảm với chất lượng sống sẽ chuyển đến thành phố có điều kiện tốt hơn làm
tăng cung lao động trong thành phố (dịch chuyển đường cung sang phải).
Việc thay đổi mức thuế các ngành còn ảnh hưởng đến phân phối việc làm giữa
ngành, làm thay đổi cấu ngành. tiền lương giảm, chi phí sản xuất của các ngành mức
thuế tăng cũng sgiảm bằng cách giảm một phần tiền lương đắp việc tăng thuế. Việc tăng
thuế làm tăng thuần y chi phí sản xuất như vậy ngành công nghiệp nào bị tăng thuế sẽ giảm
tổng lực lượng lao động. Ngược lại, ngành công nghiệp không bị tăng thuế sẽ trả tiền lương thấp
hơn (tương đối) như vậy chi phí sản xuất của nó sẽ giảm và tổng việc làm tăng. Trong hình 2-1
Tăng việc làm trong ngành công nghiệp không bị tăng thuế lớn hơn việc giảm việc làm trong
ngành bị tăng thuế, như vậy tổng việc làm tăng. Điều y xuất hiện khi t trọng các ngành bị
tăng thuế nhỏ hơn ngành không bị tăng thuế đồng thời việc sử dụng thuế vào việc cải thiện
sở hạ tầng hay cải thiện môi trường đô thị .
S1
S2
D2
D1
P = lương
1300
1000
60
số lao động
50
lOMoARcPSD| 46836766
Hình 2-2 cho thấy một kết quả khác của chính sách thuế. Trong trường hợp các hộ
gia đình ít nhạy cảm với sự thay đổi cơ sở hạ tầng và chất lượng môi trường thì tốc độ tăng cung
nhỏ so với tốc độ giảm cầu (ảnh hưởng của thuế mạnh hơn ảnh hưởng của chất lượng sở hạ
tầng và môi trường) và số lượng lao động cân bằng giảm. đường cung dịch chuyển ít, nên tiền
lương giảm không đáng kể. Do đó, tăng việc làm trong ngành không bị tăng thuế hay giảm thuế
chưa đủ để mức giảm việc làm trong ngành công nghiệp bị tăng thuế. nh 2-2 Thuế làm giảm
tổng việc làm
Như vậy, việc tăng giảm thuế có thể làm tăng hoặc giảm tổng việc làm. Tổng việc làm sẽ
tăng nếu tốc độ tăng cung (di cư làm giảm tiền lương) lớn hơn so với tốc độ giảm cầu (giảm cầu
lao động của ngành bị tăng thuế). Tổng việc làm sẽ giảm nếu tốc độ giảm cầu lớn. Vậy thuế phải
đảm bảo tính khả thi với nhà sản xuất và kết quả nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng và cải thiện
môi trường đủ hấp dẫn thu thút lao động .
ảnh hưởng của chương trình trợ cấp đến tăng trưởng kinh tế đô thị
Chương trình trợ cấp là sự cụ thể hoá của mộ số các chính sách công cộng. Chính quyền đô thị
có thể thu hút các công ty xuất khẩu hoặc công ty mới đồng thời hạn chế các công ty khác bằng
cách đưa ra những chương trình trợ cấp đặc biệt cho các công ty sản xuất hàng xuất khẩu hoặc
công ty mới, tăng thuế ở các công ty không có chủ trương khuyến khích bằng các biện pháp
dưới đây.
Công trái công nghiệp : chính quyền thành phố thể phát hành công trái công
nghiệpmiễn thuế đẻ tạo vốn cho phát triển. Chính quyền đô thị dùng thu nhập từ công trái để
mua đất cho các công ty nhân thuê. nguồn lãi thu từ công trái công nghiệp không bị
đánh thuế quốc gia nên người mua công trái chấp nhận mức lãi suất tương đối thấp (ví dụ 8%
chứ không phải 10 %)do đó người thuê trả ít hơn mức lãi suáat thị trường đối với những khoản
tiền vay đcung cấp vốn cho dự án. Tuy nhiên, việc sử dụng công trái công nghiệp sẽ bị hạn chế
khi thuế quố gia đánh vào nguồn lãi thu từ công trái công nghiệp.
Vay mượn và đảm bảo vay mượn : Chính quyền đô thị có thể giúp các công ty đầu tư phát triển
vay tiền và đứng ra bảo lãnh giúp họ. Trong cả hai trường hợp các công ty đầu tư phát triển được
vay tiền với lãi suất thấp hoặc thành phố tính lãi thấp hơn thị trường, hoặc thành phố giảm những
rủi ro liên quan tới vay mượn tư nhân, giúp các công ty đầu tư phát triển vay tư nhân với lãi suất
thấp.
Tạo địa điểm : Chính quyền đô thị có thể cấp đất và dịch vụ công cộng cho phát triển đô thị mới.
Thành phố mua một khu vực nào đó, dọn dẹp mặt bằng, xây dựng đường sá, hệ thống cấp thoát
nước, xử lý chất thải sau đó bán chỗ cho các nhà đầu tư phát triển thấp hơn chi phí để xây dựng
nó.
4- Dự đoán tăng trưởng kinh tế
3 phương pháp để dự đoán tăng trưởng kinh tế : 1- Phương pháp nghiên cứu cơ sở kinh tế :
là phương pháp ước lượng mức tăng tổng việc làm thông qua số nhân việc làm và mức tăng
lOMoARcPSD| 46836766
GDP; đây là phương pháp tương đối đơn giản không đòi hỏi chi phí tốn kém. 2- Phương
pháp nghiên cứu đầu ra đầu vào phương pháp để dự đoán mức tăng sản lượng do tăng mức
xuất khẩu; phương pháp này phức tạp hơn. 3- c phương pháp thống kê : Dự đoán tăng trưởng
GDP GO bằng các phương pháp hồi quy thông qua các y số thống kê. a- Phương pháp
nghiên cứu cơ sở kinh tế
Mục đích của phương pháp nghiên cứu kinh tế cơ sở là ước lượng mức tăng tổng việc làm được
tạo ra nhờ tăng việc làm xuất khẩu. Để ước lượng mức tăng tổng việc làm cần thông qua ước
lượng số nhân việc làm.
Giống như một hộ gia đình, đô thị cũng phát triển bằng cách sản xuất hàng hóa cho mình và bán
cho thành phố khác. Xuất khẩu thu tiền về cho nền kinh tế đô thị, làm tăng thu nhập và làm giàu
thành phố thông qua quá trình số nhân. Ta goi Tn tổng việc làm thời kỳ n ; To tổng việc
làm thời kỳ hiện tại; T là mức tăng tổng việc làm từ kỳ o đến k n.
Tn = T
0
+ T ; T có thể dự đoán bằng nhiều cách khác nhau
Cách 1 : T = T/ B * B = Số nhân * B hoặc
Cách 2 : T = B + B’
Trong đó : B số việc làm xuất khẩu hiện tại; T/B số
nhân việc làm của thời kỳ hiện tại.
B mức tăng việc làm xuất khẩu dự đoán.
B’ mức tăng việc làm phục vụ dự đoán
Theo cách 1 : Để dự doán mức tăng tổng việc làm, các nhà dự đoán cần : 1- ước lượng số
nhân hiện tại và 2- dự kiến mức tăng việc làm xuất khẩu. Bước 1- Xác định số nhân của
thời kỳ hiện tại
- Để xác định số nhân việc làm, trước hết cần ước xác định tổng số việc làm của thành
phố (T); sau đó xác định lực lượng lao động thành phố tham gia vào sản xuất xuất khẩu (B).
Để xác định T ta sử dụng các số liệu của thống kê . Vấn đề còn lại là xác định B.
Để xác định B ta có thể sử dụng các phương pháp thống kê khác nhau :
1) thu thập những số liệu vận chuyển hàng hóa thực tế thành phố sản xuất đến
những nơi khác (sản phẩm xuất khẩu). Phương pháp này khá tốn kém nên hầu hết các thành
phố sử dụng cách làm ít tốn kém hơn nhưng kém chính xác hơn để ước tính số nhân việc làm
cho xuất khẩu.
2) Phương pháp đơn giản hơn là phân chia các ngành công nghiệp thành hai nhóm
ngành: nhóm nnh xuất khẩu nhóm ngành công nghiệp địa phương. Nhóm ngành xuất khẩu
sản xuất sản phẩm để xuất khẩu. Tất cả công nhân trong ngành này được coi là công nhân xuất
khẩu. dụ giả định ngành sản xuất găng tay ngành công nghiệp xuất khẩu thì tất cả số
công nhân trong ngành này được xem như là công nhân xuất khẩu. Nếu thức ăn ở các tiệm ăn
được xem là hàng hóa địa phương thì mọi công nhân trong ngành này được coi như công nhân
địa phương. Vấn đề một số găng tay tiêu dùng địa phương, một lượng thức ăn
dân không sống ở địa phương tiêu thụ. Nói cách khác, rất ít ngành công nghiệp là xuất khẩu
lOMoARcPSD| 46836766
hoàn toàn hoặc tiêu thụ hoàn toàn địa phương nên khi phân chia như vậy chỉ có tính chất tương
đối.
3) Sử dụng thương số địa phương : phương pháp này cho rằng mỗi ngành công
nghiệp sản xuất một phần cho xuất khẩu và một phần cho tiêu dùng địa phương. Để xác định
tỉ lệ sản lượng xuất khẩu trong mỗi ngành công nghiệp người ta tìm thương số địa phương của
mỗi ngành đó theo công thức:
L
1
= Mức sản xuất sản phẩm i thành phố Mức
tiêu thụ sản phẩm i ở thành phố.
Nếu thương số bằng 1 (sản xuất bằng tiêu thụ) như vậy không công nhân nào sản xuất sản
phẩm xuất khẩu. Nếu L
1
= 5, sản xuất bằng 5 lần mức tiêu dùng địa phương, như vậy 1/5 công
nhân sản xuất sản phẩm cho thị trường địa phương, còn 4/5 sản xuất cho xuất khẩu.
Như vậy vẫn phải thống kê mức sản xuất và tiêu thụ từng loại sản phẩm .
Thực tế không cho phép xác định trực tiếp thương số địa phương chính xác. Thayo đó
là cách tính gần đúng
Số việc làm sản xuất sản phẩm i thành phố
L
2
= Tổng số việc làm ở thành phố
Số việc làm sản xuất sản phẩm i toàn quốc
Tổng số việc làm quốc gia (6-8).
Mẫu số (phần việc làm sản xuất sản phẩm i của quốc gia) cho biết địa phương cần sản xuất bao
nhiêu để thỏa mãn cầu sản phẩm i ở địa phương. Ví dụ, nếu 1% của việc làm quốc gia dùng sản
xuất găng tay (mẫu số 0,01), thì thành phố được giả định cần 1% lực lượng lao động của
mình để thỏa mãn nhu cầu găng tay địa phương. Nếu thành phố dùng 6% lực lượng lao động vào
sản xuất găng tay (tử số là 0,06) thì 1/6 lực lượng lao động được giả định dùng sản xuất cho tiêu
dùng địa phương , và 5/6 được giả định để sản xuất cho xuất khẩu.
- Ước tính việc làm xuất khẩu trong mỗi ngành : Đối với mỗi ngành công nghiệp, thương
số địa phương tạo ra một ước lượng của việc làm xuất khẩu. Nếu Ti tổng việc làm trong
ngành công nghiệp i, và Li là thương số địa phương của ngành công nghiệp i , thì việc làm xuất
khẩu trong ngành công nghiệp này là Bi:
Li 1
Bi = Li .Ti (2-x)
dụ, nếu Li= 4 Ti = 800 => Bi= 600 nghĩa 3/4 tổng số công nhân trong ngành công
nghiệp sản xuất cho xuất khẩu. Tổng việc làm xuất khẩu của thành phố được tính bằng cách cộng
tát cả việc làm xuất khẩu ở trong toàng ngành công nghiệp.
Số nhân việc làm là tỷ số giữa tổng việc làm và việc làm xuất khẩu ;
Số nhân –Vl Ti
= Bi ; i=1-n
lOMoARcPSD| 46836766
Có 3 vấn đề khi áp dụng cách tiếp cận thương số địa phương.
1) Thành phần tiêu dùng đồng nhất. Cách tiếp cận giả định các thành phố có mức cầu găng tay
bình quân đầu người như nhau. Tất nhiên, tiêu dùng găng tay phụ thuộc vào thời tiết,
mốt, sở thích đối với các môn thể thao ngoài trời (trượt tuyết, câu cá...). Nếu dân thành phố tiêu
dùng một số lượng găng tương đối lớn thì thương số địa phương L
2
ước lượng vượt về số công
nhân sản xuất xuất khẩu và ngược lại
2- Tính tự cung Một giả định khác của cách tiếp cận thương số quốc gia không có
xuất nhập khẩu găng. Như vậy việc sản xuất găng là phần cần thiết để tự cung cấp địa phương.
Nếu quốc gia xuất khẩu găng, phần việc làm quốc gia trong sản xuất găng sẽ vượt phần cần
thiết cho tự cung, như vậy thương số địa phương sẽ ước tính thấp số công nhân sản xuất xuất
khẩu. Ngược lại, Nếu nhập khẩu găng thương số địa phương sẽ ước lượng vượt về số lượng
công nhân sản xuất xuất khẩu.
3- Ghép nhóm các ngành công nghiệp. Thương số quốc gia được tính cho một nhóm
nhiều hàng hóa, không phải cho một sản phẩm cụ thể. Ví dụ, một thành phố có thể tính thương
số địa phương cho ngành công nghiệp dêt may, gồm sản xuất găng, áo y, quần áo trẻ em. Gi
sử toàn bộ công nhân dệt may của thành phố sản xuất găng xuất khẩu: Không có sản phẩm dệt
may nào khác sản xuất trong thành phố; ngành công nghiệp dệt may lớn đến mức làm thương
số địa phương cho ngành này là 1: Thành phố sử dụng tỉ lệ lao động của để sản xuất găng
giống như quốc gia sử dụng trong sản xuất dệt may. Thương số địa phương của thành phố giả
sử rằng thành phố không xuất khẩu sản phẩm dệt may, trong khi thực tế nó xuất khẩu găng
nhập khẩu hàng dệt. Nhóm các hàng hóa thành một nhóm chung làm cho thương số địa phương
ước lượng việc làm xuất khẩu thấp.
Bước 2- Ước tính mức tăng việc làm xuất khẩu và mức tăng tổng việc làm
Nội dung của bước này là ước nh B trong phương trình T = T/ B * B qua đó để có được
T. Do yếu tố bất định trong dự đoán sự kiện tương lai nên việc dự đoán xuất khẩu mang tính
nghệ thuật nhiều hơn là khoa học. Có một cách tiếp cận là (1) ước lượng xu hướng quốc gia về
cầu đối với mỗi hàng hóa. (2) Đánh giá tính hấp dẫn tương đối cảa thành phố đối với những công
ty sản xuất hàng hóa tương ứng. Các nhà dự đoán kinh tế đô thị thể ước tính nhu cầu toàn
quốc về găng tay cho thế kỷ sau, trên sở xem xét xu hướng thời tiết, tình hình thể thao mùa
đông và xu hướng mốt. Nếu độ hấp dẫn tương đối của thành phố không hy vọng thay đổi thì sản
xuất găng của thành phố sẽ tăng cùng tỷ lệ như khnăng tiêu dùng găng toàn quốc: nếu tăng gấp
đôi mức tiêu dùng găng sẽ làm tăng gấp đôi việc làm mức sản xuất găng. Nếu tính hấp dẫn
tương đối của thành phố tăng theo thời gian thì việc làm mức sản xuất ng của sẽ tăng
tương đối nhanh.
ứng dụng cách tiếp cận nghiên cứu kinh tế cơ sở :
Phương pháp nghiên cứu kinh tế sở được ứng dụng để dự đoán tăng trưởng dân số và nhu cầu
dịch vụ công cộng trong đô thị. Giả định, thành phố lập đề án ngành công nghiệp sản xuất ng
sẽ thu hút 1000 lao động. Nếu số nhân việc làm 2,5 thì cách tiếp cận này giả định tổng việc
lOMoARcPSD| 46836766
làm sẽ tăng 2500 chỗ. Nếu cứ 3 người dân thành thị trên một việc làm thì dân số của thành phố
sẽ tăng 7500 người, làm tăng cầu tất cả các dịch vụ công cộng. Ví dụ, nếu bình quân
chỉ một cháu trong độ tuổi đến trường trên 4 người dân thì tổng số trẻ đến trường sẽ tăng 1500
cháu.
Các công ty trên địa bàn đô thị sử dụng những đán việc làm tính theo phương pháp kinh
tế cơ sở để dự đoán mức cầu sản phẩm của họ. Giả sử phương pháp y dự tính dân số tăng 7500
người. Nếu cứ 3750 người cần một thợ cắt tóc thì thành phố sẽ cần 2 người. Nếu thành phố tăng
7500 người mỗi năm và cứ 30000 người cần một trung tâm buôn bán thì sau 4 năm nữa sẽ có đủ
cầu để thành lập một trung tâm buôn bán mới.
Chính quyền đô thị cũng sử dụng phương pháp cơ sở kinh tế để quản lý việc tăng trưởng.
Nếu Chính quyền đô thị tác động đến việc bán hàng và việc làm của những ngành công nghiệp
sở của thì thể quản lý được dân số thành phố. Giả sử thành phố mục tiêu tăng
thêm 15000 người trong 20 năm nữa. Nếu cứ 3 người có một việc làm thì thành phố sẽ đáp ứng
mục tiêu dân số trong trường hợp tăng bổ xung 5000 việc làm. Nếu số nhân việc làm là 2,5
thì thành phố sẽ đáp ứng mục tiêu dân số và việc làm trong trường hợp nó có 2000 việc làm xuất
khẩu.
Theo cách 2 : Các nhà dự đoán cần dự đoán từng mức tăng bằng phương pháp thống kê như
ngoại suy hàm xu thế. Phương pháp thống kê đòi hỏi phải có một dãy số thống kê qua nhiều
năm.
b- Phương pháp phân tích đầu vào và đầu ra
Phương pháp phân tích đầu vào và đầu ra dựa trên cơ sở tính toán sự trao đổi giữa các hộ và các
công ty trong nền kinh tế. Cthể phương pháp này tính đầu o đầu ra từng ngành công
nghiệp xuất khẩu, không sử dụng cách tiếp cận thương số địa phương để dự đoán khối lượng
xuất khẩu, mà đo lường xuất khẩu trực tiếp. Bảng vầo- ra
Giả sử một thành phố sản xuất tiêu dùng 3 hàng a: y tính, đây điện hàng hóa tiêu
dùng địa phương. y nh và dây điện được sản xuất cho cả xuất khẩu và tiêu dùng địa phương.
Các nhà sản xuất địa phương (cửa hàng ăn, giặt là, cửa hàng bánh mì) sản xuất hàng hóa cho tiêu
dùng địa phương. Toàn bộ sự trao đổi tiêu dùng sản phẩm được trình bày dưới dạng bảng sau:
Bảng 2-1. Bảng vào- ra ( Đơn giản hoá )
Đơn vị tính Tỷ VND
Nhà sản xuất
Tiêu dùng
Xuất
khẩu
Tổng số
(
Đầu ra
)
Sản xuất
Công ty
máy tính
Nhà sản xuất
dây điện
DN.
địa
phương
Hộ gia
đình
0
300
150
180
1370
2000
Máy tính
400
0
0
0
600
1000
Dây điện
DN Địa phương
0
0
0
2500
-
2500
lOMoARcPSD| 46836766
Cột thứ nhất cho biết việc sử dụng đầu vào của các công ty máy tính. Để sản xuất máy tính họ
mua 400$ dây điện thuê 1000 lao động thành phố và 600$ đầu vào nhập khẩu (nguyên liệu thô
bán sản phẩm). Tổng của những chi phí đầu vào này là tổng sản lượng của ngành công nghiệp
máy tính (2000$) bằng tổng đầu ra của ngành. Bảng hệ số chi phí đầu vào
Bảng 2-2 được tính từ bảng 2-1, Cột thứ nhất cho thấy hệ số đầu vào đối với ngành máy nh: Cứ
mỗi đô la sản xuấy y tính thì ngành y sử dụng 20 xu đầu vào từ ngành công nghiệp đây
điện, 50 xu chi phí lao động, và 30 xu nguyên liệu nhập khẩu; Cột 2 và 3 cho thấy hệ số đầu vào
của các nhà sản xuất dây điện và nhà buôn địa phương. Cột 4 cho thấy các hộ chi 5% thu nhập
của họ mua máy tính, 69% cho hàng hóa địa phương, và 26% cho hàng nhập.
Sử dụng các hệ số để ước lượng ảnh hưởng của số nhân đến mức tăng xuất khẩu máy tính. Giả
sử mức xuất khẩu máy tính tăng 100 triệu đồng, sẽ làm tăng chi tiêu địa phương, tạo ra một loạt
vòng chi tiêu. Ba vòng chi tiêu đầu tiên diễn ra như sau:
Vòng 1. Tăng mức bán máy tính làm tăng sản xuất y điện 0,2x100 = 20 tr. đ. tiền
lương tăng 0,5x100 = 50 tr. đ.
Vòng 2 : Sản xuất tăng thêm 20 tr. đ. y điện làm tăng thêm mức bán y tính 6 tr. đ. (0, 3x20)
tăng thêm tiền lương 12tr. đ (0,6x20). Tăng tiền lương ở vòng đầu 50 tr. đ. làm tăng mức mua
máy của các gia đình 2.5tr. đ. (0,05x50) và mức tiêu dùng địa phương 34,5tr. đ. (0,69x50). Vòng
3 : Tăng mức bán máy tính, tiền lương và mức bán hàng địa phương làm tăng bổ xung mức bán
dây điện, tiền lương, máy tính và tiêu dùng địa phương.
Do quá trình nhân tăng xuất khẩu máy tính sẽ làm tăng chi tiêu cả 3 loại hàng hóa. Chi tiêu
quá trình tái chi tiêu thu nhập diễn ra liên tục nhưng vòng chi tiêu sau đều nhỏ hơn vòng trước.
Quá trình nhân sẽ giảm dần cả nhà sản xuất người tiêu dùng chi tiêu một phần ngân sách
của họ cho hàng nhập. Nchỉ ra ở dòng 5 bảng 2-2 (nhập) có sự chênh lệch 30 % sản xuất máy
tính, 10% sản xuất dây điện, 14% sản xuất hàng a địa phương và 26% sản xuất của các hộ gia
đình. Sự chênh lệch này làm yếu quá trình nhân, làm cho mỗi vòng chi tiêu trở thành nhỏ hơn
Lao động
1000
600
2000
0
0
3600
Nhập khẩu
600
100
350
920
-
2170
Tổng số (đầu
vào)
2000
$
$
2500
$
3600
1970
1000
Bng hệ số chi phí đầu vào
Bảng 2-2.
Đầu vào
Nhà sản xuất
Hộ gia đình
Công ty máy
tính
Nhà sản xuất
dây điện
Nhà buôn địa
phương
Máy tính
0.0
.3
.06
.05
Dây điện
.2
.0
.00
.00
Địa phương
.00
.00
.00
.69
.6
.8
.00
Lao động
.5
.1
.14
.26
Nhập khẩu
.3
Tổng
1
1
1
1
Quá trình nhân
lOMoARcPSD| 46836766
vòng trước. Hệ số chi phí đầu vào thể sử dụng để tính số nhân chi tiêu cho các ngành công
nghiệp xuất khẩu.
Mô hình hoá cho dự đoán sản lượng các ngành
Gọi xij là sản phẩm ngành i sử dụng cho sản xuất sản phẩm ngành j ( dòng i, cột j ) Xj
là sản lượng ngành j (GO ngành j); Xi là sản lượng ngành i; aij là những hệ số chi phí trực tiếp
sản phẩm ngành i cho ngành j ; aij =
xij
; ei là giá trị xuất khẩu của ngành i ,
Xj
n
Như vậy Xi = aijXj + ei (i=1,2..n )
j 1
Do đó ta có một hệ gồm n phương trình và n ẩn số;
Nếu viết các hệ số chi phí dưới dạng ma trận A ; X là véc tơ cột khối lượng sản phẩm; e là véc
tơ cột sản lượng xuất khẩu thì hệ phương trình có dạng
X =AX + e
Biến đổi thêm một chút ta có X - AX = e suy ra (E*
- A)X = e trong đó E* là ma trận đơn vị
Để xác định sản lượng mỗi ngành người ta đi m ma trận nghịch đảo (E*-A)
-1
; sau đó
nhân ma trận nghịch đảo này với véc tơ sản phẩm xuất khẩu e.
Vấn đề còn lại là dự đoán mức xuất khẩu e của từng ngành.
c- Hạn chế của các phương pháp
Giả định số nhân không đổi : cả 2 phương pháp đều giả định là số nhân không đổi. Thực
tế số nhân của thành phố có thể thay đổi do :
1- Qui thành phố sản phẩm tiêu dùng. Số nhân tăng theo qui thành phố
phản ánh khả năng thành phố lớn tạo thuận lợi cho các công ty hơn vì thành phố lớn có cầu đủ
lớn để trợ giúp những hoạt động lợi thế nhờ qui mô. dụ, nếu thành phố tăng trưởng tới
mức thể khuyến khích xây dựng loại nhà hàng cỡ lớn thì dân thành phố sẽ tới nhà
hàng địa phương không phải đi tới thành phố khác. Một phần thu nhập tăng lên được tiêu
dùng ở địa phương, như vậy, số nhân thu nhập và việc làm sẽ tăng lên.
2- Qui thành phố đầu vào trung gian : thành phố phát triển nên cầu đầu
vào trung gian cũng tăng lên và rất nhiều những đầu vào này lại được cung cấp bởi địa phương
không phải nhập từ nơi khác. dụ, nếu công nghiệp y tính tăng trưởng đến mức
thành phố có thể trợ giúp các nhà sản xuất chip địa phương thì các công ty máy tính chỉ phải
chi tiêu ít để nhập đầu vào và mua nhiều tại địa phương. Do đó, mỗi mức tăng xuất máy tính
sẽ tạo ra mức tăng thu nhập lớn hơn.
3- Thay đổi giá đầu vào : Thay đổi giá đầu vào sẽ gây ra sự thay thế nhân tđầu
vào làm thay đổi sự tương tác giữa các khu vực kinh tế. Giả sử tiền lương thành phố tăng làm
cho công tyy tính thay thế thiết bị vốn nhập cho lao động. Nếu hệ số đầu vào của lao động
lOMoARcPSD| 46836766
giảm từ 0,5 xuống 0,4 thì chỉ 40$ trong 100$ tăng do xuất máy sẽ được trả cho người lao động.
một tỷ lệ nhỏ thu từ xuất khẩu được tiêu dùng tại địa phương y nên hiệu quả nhân của
việc tăng xuất sẽ giảm xuống.
Giả định tiền lương cố định : Cả 2 phương pháp đều giả định tiền lương thành phố cố định không
kể qui mô thành phố. Nói cách khác, chúng ta giả định một sự dịch chuyển ngang của đường cầu
lao động thành phố mà không thay đổi sự cân bằng việc làm. Giả sử phương pháp cơ sở kinh tế
tính toán số nhân là 2.5 dự kiến tăng 10000 việc làm xuất khẩu. Dựa trên những con số này
phương pháp sở kinh tế dự đoán tổng việc làm thành phố sẽ tăng 25000 chỗ. Điều y
không chính xác vì đường cung lao động thành phố có độ dốc dương như vậy tăng cầu lao động
sẽ làm tăng tiền lương thành phố. Trong hình 5-3 (chương 5) tổng việc làm chỉ tăng 16000 chỗ
không phải 25000. Do cả phương pháp sở kinh tế đẩu ra đầu vào đều giả định tiền
lương cố định nên chúng đánh giá quá cao sự ảnh hưởng kích thích của việc tăng xuất khẩu.
Xuất như nguồn tăng trưởng kinh tế : Cả 2 phương pháp đều giả định chỉ một cách cho
thành phố tăng trưởng tăng xuất khẩu. thuyết tăng trưởng kinh tế do tăng xuất khẩu
không hoàn toàn đúng. Tăng trưởng cũng xuất hiện do kết quả của (1) giảm nhập, (2) tăng năng
suất lao động hoặc (3) tăng cường trao đổi trong nội bộ khu vực nội thành.
Một sự giảm nhập có ảnh hưởng kích thích giống ntăng xuất. Trong khi tăng xuất làm
tăng dòng tiền vào kinh tế đô thị thì một sự giảm nhập làm giảm dòng tiền chuyển ra. Nền kinh
tế có thể được kích thích hoặc bằng tăng dòng vào (xuất) hoặc giảm dòng ra (nhập). Để giải thích
khái niệm thay thế nhập, giả sử rằng thành phố ban đầu chi 10 triệu USD một năm để nhập bàn
ghế văn phòng. Nếu người tiêu dùng chuyển sang tiêu dùng bàn ghế văn phòng sản xuất tại địa
phương thì 10 triệu USD trước kia ra khỏi đô thị bây giờ được trả cho các nhà sản xuất trên địa
bàn đô thị và sẽ được chi tiêu tái chi tiêu trong nội bộ nền kinh tế đô thị . Chi tiêu tái chi
tiêu 10 triệu USD có ảnh hưởng tương tự như tăng 10 triệu USD bán hàng xuất. Nếu số nhân chi
tiêu 2.5 thì mức thay đổi tổng thu nhập do thay thế nhập 25 triệu USD. Trong chính sách
phát triển kinh tế xem khả năng thay thế nhập, giảm nhập cũng giống như việc tăng xuất.
Một ví dụ trái ngược với lý thuyết định hướng nhập khẩu của tăng trưởng kinh tế đô thị
trường hợp về nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế toàn cầu đã tăng trưởng mặc dù không có hiện
tượng xuất sang thế giới khác. Tăng trưởng kinh tế xuất hiện do 2 nguyên nhân. Thứ nhất, lợi
thế kỹ thuật đã tăng sản phẩm cũng như thu nhập thực tế trên đầu người. Thứ 2, thay đổi công
nghệ sản xuất và vận chuyển đã gia tăng trao đổi giữa các vùng. Trao đổi m tăng thu nhập thực
tế vì cho phép vùng chuyên môn hoá sản xuất hàng a mà có lợi thế cạnh tranh. Yếu tố
tương tự cũng xuất hiện ở mức độ vùng: tăng năng suất lao động hoặc trao đổi trong nội thị làm
tăng thu nhập đầu người như vậy nền kinh tế đô thị có thể tăng trưởng mà không cần tăng xuất.
Thị trường lao động đô thị Cả hai cách tiếp cận đều chú ý đến khía cạnh cầu của thị trường lao
động. Tức tăng trưởng xuất hiện khi cầu về lao động thành phố tăng. Như giải thích trong phần
trước, tăng cung lao động cũng tăng việc làm cân bằng, như vậy, tăng trưởng cũng thể xuất
hiện như kết quả của việc tăng cung hoặc cầu. Có một số chính sách công cộng làm dịch
lOMoARcPSD| 46836766
chuyển đường cung và tăng việc làm cân bằng, trong đó có chính sách môi trường và chính sách
cơ sở hạ tầng.
ảnh hưởng bên ngoài đến kinh tế thành phố Cả 2 phương pháp đã giả định rằng kinh tế thành
phố phụ thuộc vào bên ngoài. Thực tế có một số chính sách công cộng địa phương có thể được
sử dụng để tăng việc m cân bằng của thành phố. Về phương diện cầu, thành phố thể dịch
chuyển đường cầu sang phải bằng việc (1) cắt giảm thuế kinh doanh, (2) cải thiện cơ sở hạ tầng
công nghiệp hoặc (3) tăng năng suất lao động bằng cách cải thiện hệ thống giáo dục. Trên phương
diện cung, thành phố có thể dịch chuyển đường cung sang phải bằng cách (1) cắt giảm thuế cho
dân thành phố, (2) cải thiện sở hạ tầng cho dân cư, (3) cải thiện dịch vụ về trường học, nơi
vui chơi giải trí và an toàn công cộng (4) cải thiện môi trường thành phố.
Cần chú ý rằng chính sách công cộng không cần tập trung mạnh vào việc tăng xuất khẩu
của thành phố. Trong số những chiến lược lựa chọn, chiến lược thay thế nhập khẩu tăng
cường trao đổi trong nội thị. Trong chừng mực chính sách công cộng khuyên khích thay thế nhập
hoặc trao đổi nội bộ thì thể tăng việc làm thu nhập không phải tăng nhập khẩu của
thành phố.
d- Các phương pháp thống kê
- Phương pháp dự đoán dân số và lao động : sẽ xem xét ở chương dân số đô thị
- Phương pháp hồi quy dự đoán GO và GDP : Giả sử GO và GDP tăng trưởng
như những năm trước, GO và GDP của đô thị sẽ tăng theo thời gian. Hàm hồi quy có thể
được xác định dưới dạng đường thẳng y
t
= a + bt khi ta cho rằng chưa có giới hạn về khả
năng thành phố ; dưới dạng đường cong y
t
= a + blgt bt khi ta cho rằng khả năng sản xuất của
thành phố đã bị giới hạn bởi các yếu tố sản xuất.
III- Lợi ích và các vấn đề của tăng trưởng việc làm
1- Các vấn đề xã hội
Khi tăng qui thành phố bằng các giải pháp tăng trưởng việc làm tăng của cải của
dân thành phố cần giải quyết các vấn đềtính công bằng xã hội : bao nhiêu việc làm mới
do tăng trưởng kinh tế tạo ra dành cho người mới đến bao nhiêu dành cho dân gốc của
thành phố. Đặc biệt giải quyết vấn đề lao động trước đó không việc làm nay có việc làm.
Mối quan hệ người mới/người cũ có liên quan đến vấn đề quy mô thành phố.
2- Vấn đề dân số và lao động
Tăng tổng việc làm tạo ra dòng di vào thành phố tăng trưởng dân số. Nếu bình quân lao
động thành phố năng lực đảm nhận nhiệm vụ mới ít hơn lao động thành phố khác thì nhiều
công việc sẽ được thực hiện bởi lao động di cư đến.
lOMoARcPSD| 46836766
Tăng trưởng vịêc làm dẫn đến tăng dân số do đó làm tăng cầu về nhà ở, đất đai dịch vụ
công cộng. Điều này giả định chính quyền thành phố sẽ kết hợp chính sách phát triển kinh tế của
họ với những chính sách sử dụng đất đai, giao thông và đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
3- Các vấn đề kinh tế
Tăng tổng việc làm ảnh hưởng đến thu nhập thực tế bình quân đầu người đô thị. Thay đổi
tiền lương danh nghĩa giá cả thường bù trừ cho nhau, như vậy, tiền lương thực tế của nhóm
dân cư nào ít bị ảnh hưởng bởi mức tăng tổng việc làm? 3 nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập
thực tế cần quan tâm : tlthất nghiệp, t lệ tham gia lực lượng lao động, và cơ cấu nghề nghiệp.
Tăng tổng việc làm, về nguyên tắc, làm tăng thu nhập bình quân đầu người. Bởi vì :
- Tăng tiền lương thực tế cho mỗi ngành nghề. tăng trưởng việc làm tạo ra sự tăng
tổng thu nhập trong toàn bộ dân (giả sử sự thay đổi tiền lương danh nghĩa giá cả sinh
hoạt trừ cho nhau), Nhân tố quan trọng nhất làm tăng thu nhập tăng tiền lương được
khuyến khích làm những công việc được trả cao hơn và do tăng tỷ lệ tham gia lao động. Hệ số
co dãn lớn hơn đối với những hộ ít được học hành, công nhân trẻ, thế công nhân trong các
nhóm này thu được lợí ich tương đối lớn do được khuyến khích làm những công việc được trả
lương cao hơn. Nếu xét trong từng nhóm dân cư, tiền lương thực tế đối với một nghề nhất định,
hay của một nhóm nghề không chịu ảnh hưởng bởi tăng trưởng việc làm.
- Tăng trưởng việc làm đã thúc đẩy công nhân tiến lên thực hiện những cấp độ công
việc cao hơn. Tăng cầu lao động làm cho công ty khuyến khích công nhân nhanh dành những
công việc được trả cao hơn
- Tăng tỷ lệ có việc làm : tăng trưởng việc làm làm giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng
tỷ lệ tham gia lao động, như vậy, làm tăng tỷ lệ có việc làm dân số trong tuổi lao động.
Câu hỏi và bài tập
1- Khái niệm về cấu kinh tế đô thị ? Phương pháp nghiên cứu những cấu kinh tế chủ
yếu trong kinh tế đô thị ?
2- Tăng trưởng kinh tế đô thị và những nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế đô thị ?
3- Trình bày sự ảnh hưởng của các chính sách công cộng đến tăng trưởng kinh tế đô thị ?
4- Trình bày các phương pháp dự đoán tăng trưởng kinh tế đô thị ?
5- Phân tích lợi ích và những bất lợi trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở đô thị ?
6- Sử dụng cuốn s liu kinh tế xã hi c đô thị lớn của Việt nam NXB Thống kê tháng 10- 1998
Hãy xác định cấu kinh tế hai thành phố nội thành phố Hồ Chí Minh, cho nhận
xét về chức năng các đô thị?
7- Giả sử có số liệu thống kê về sản xuất và sử dụng sản phẩm của thành phố dưới dạng bảng
IO như sau, hãy tính các số nhân của các ngành.
lOMoARcPSD| 46836766
8- Hãy hoàn thiện bảng IO và tính các số nhân; giải thích ý nghĩa kết quả.
Ngành
Máy tính
Dây điện
Hàng địa
phương
Lao động
Xuất khẩu
Tổng số
Máy tính
350
?
300
1150
2000
Dây điện
500
?
1000
Hàng địa phương
2500
?
Lao động
1000
600
2000
3600
Nhập khẩu
?
?
300
?
1650
Tổng số
2000
?
?
3600
?
lOMoARcPSD| 46836766
| 1/17

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46836766 Chương II
Cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế đô thị
I- Cơ cấu kinh tế đô thị
1- Khái niệm nền kinh tế đô thị và cơ cấu kinh tế đô thị
Nền kinh tế đô thị là tổng thể những hoạt động lao động sản xuất của con người hình thành trong
một giai đoạn lịch sử nhất định để thực hiện quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng
sản phẩm. Đó là một hệ thống hoạt động lao động sản xuất và các mối quan hệ phức tạp có thể
được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau thành các bộ phận cấu thành có những mối quan hệ đa dạng.
Cơ cấu kinh tế đô thị theo nghĩa triết học, được hiểu như là tập hợp những mối quan hệ
cơ bản, tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành bên trong của nền kinh tế đô thị. Những
mối quan hệ cơ bản nhất hình thành trong quá trình tái sản xuất-xã hội ở đô thị là những mối
quan hệ giữa các ngành, các khu vực và các thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế đô thị, tăng
trưởng kinh tế được xem như là sự tăng tổng việc làm, và nguồn gốc tăng trưởng là do tăng cầu
lao động (do tăng cầu các hàng hóa) hoặc một sự tăng cung lao động (tạo ra do lao động di cư
tới thành phố). Kết quả của tăng trưởng là tăng tổng giá trị sản xuất (TGTSX) và tăng tổng sản
phẩm trong nước (TSPTN). Vì thế, cơ cấu kinh tế đô thị được nghiên cứu trên góc độ cơ cấu của
tổng việc làm, cơ cấu của TGTSX và TSPTN theo ngành, theo khu vực và theo thành phần kinh tế.
2- Cơ cấu kinh tế đô thị theo ngành
Ngành kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế : Ngành kinh tế là tập hợp các tổ chức, doanh nghiệp có
cùng vị trí, chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội. Sự hình thành và tồn tại các
ngành có tính khách quan và tính lịch sử. Hà nội 36 phố phường xưa kia phản ánh rõ chức năng
của từng phố và ngành nghề.
Cơ cấu ngành của kinh tế đô thị biểu thị bằng tỷ trọng từng ngành trong kinh tế đô thị, phản ánh
vai trò và những mối quan hệ giữa những tập hợp các tổ chức, doanh nghiệp cùng thực hiện một
chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội đô thị. Nó phản ánh trình độ phân công lao
động và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cơ cấu ngành kinh tế của đô thị luôn thay đổi
do sự tăng trường và phát triển nhanh chóng của đô thị. Hiện nay 36 phố phường thủ đô đã hoàn
toàn đổi khác và đang đổi khác từng ngày.
Cơ cấu ngành theo tổng việc làm : Nghiên cứu cơ cấu ngành được thực hiện theo các góc độ
khác nhau. Sự phân chia tổng việc làm theo ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghiên
cứu quan hệ hai bộ phận lao động trong kinh tế đô thị đó là mối quan hệ giữa bộ phận lao động
cơ bản và lao động phục vụ của đô thị trong từng ngành kinh tế và trong toàn bộ kinh lOMoAR cPSD| 46836766
tế đô thị . Đồng thời phản ánh quy mô, tỷ lệ lao động từng ngành trong tổng thể nền kinh tế của đô thị.
Cơ cấu ngành theo TGTSX & TSPTN : Nhằm phản ánh vai trò từng ngành trong việc sáng tạo
ra sản phẩm xã hội ở đô thị. Trong chừng mực nhất định nó phản ánh hiệu quả sản xuất ở đô thị.
Điều chỉnh cơ cấu ngành trong quá trình đô thị hoá : Điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế đô
thị là một trong các biện pháp làm tăng trưởng kinh tế đô thị . Trong điều kiện kinh tế còn khó
khăn về đầu tư thì thay đổi cơ cấu ngành là phương sách tốt nhất và là hướng phát triển kinh tế theo chiều sâu.
3- Cơ cấu kinh tế đô thị theo 3 khu vực
Có thể phân chia toàn bộ hoạt động kinh tế đô thị thành 3 khu vực. Khu vực I bao gồm các hoạt
động nông-lâm nghiệp và thuỷ sản; khu vực II gồm các hoạt động công nghiệp và xây dựng; khu
vực III gồm các hoạt động dịch vụ. Khu vực II và III phải đóng vai trò chủ đạo trong kinh tế đô
thị. Khu vực I phải giảm dần cả về tuyệt đối và tương đối. Những điều đó thể hiện qua tỷ trọng
tổng việc làm và kết quả sản xuất.
4- Cơ cấu kinh tế đô thị theo thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế phản ánh trình độ phát triển của quan hệ sản xuất mà trước hết là quan
hệ sở hữu trong kinh tế. Việc nghiên cứu cơ cấu kinh tế đô thị được thực hiện trên cơ sở những
thành phần thực tế đang tồn tại. Nó cho biết số lượng, vai trò của từng thành phần, qua đó thấy
được mức độ thống trị của quan hệ sản xuất chủ đạo trong kinh tế đô thị. Một trong những đặc
trưng cơ bản của cơ cấu này là xu hướng đơn giản hoá của nó. Hiện nay Đảng và Nhà nước chủ
trương nền kinh tế nhiều thành phần, để thấy rõ cơ cấu này, trong thực tế thống kê chia thành 3
thành phần. Đó là thành phần kinh tế Nhà nước (Quốc doanh), không phải Nhà nước (Ngoài
quốc doanh) và thành phần có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên trong mỗi thành phần này ta có
thể tiếp tục nghiên cứu cơ cấu bên trong của nó. Thuộc thành phần kinh tế quốc doanh bao gồm
các tổ chức, doanh nghiệp có chế độ sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất. Các tổ chức còn lại
thuộc hình thức ngoài quốc doanh. Như vậy về mặt lý thuyết chỉ nên chia làm hai thành phần mà
thôi. Để thấy được số lượng, vai trò của từng thành phần một cách cụ thể ta cần dựa vào thống
kê tổng việc làm và kết quả sản xuất.
II- Tăng trưởng kinh tế đô thị
1- Khái niệm và những nhân tố làm tăng trưởng kinh tế đô thị
Tăng trưởng kinh tế đô thị là quá trình tích tụ, tập trung và lớn lên về quy mô kinh tế xã
hội đô thị. Quá trình tăng trưởng và tập trung kinh tế đô thị diễn ra theo hai hướng: chiều rộng
và chiều sâu. Theo chiều rộng chính là sự đô thị hoá - là sự mở rộng quy mô và tăng dân số đô
thị ; theo chiều sâu chính là sự tăng tổng việc làm ở đô thị, thay đổi cơ cấu kinh tế đô thị và lOMoAR cPSD| 46836766
nâng cao khả năng, hiệu quả sản xuất. Kết qủa là nâng cao đời sống, nâng cao thu nhập, tăng GO và GDP, tăng tích luỹ.
Trong lịch sử phát triển đô thị, tiền đề cơ bản của đô thị hoá là sự phát triển công nghiệp, thương
mại, dịch vụ thu hút nhiều nhân lực nông thôn đến sống và làm việc. Đô thị hoá một vùng làm
tăng mật độ giao thông và tăng các mối quan hệ kinh tế xã hội với các vùng lân cận. Trong lịch
sử phát triển đô thị thì tăng trưởng kinh tế là nguyên nhân đô thị hoá và tăng trưởng đô thị. Trong
kinh tế hiện đại hiện nay thì đô thị hoá làm tăng trưởng đô thị. Thực vậy, khi chính phủ nhận
thức đầy đủ hơn về sự phát triển kinh tế - xã hội, việc xây dựng một khu đô thị mới được tính
toán đầy đủ trên các phương diện chứ không chờ sự phát triển của bản thân khu vực đó. Ví dụ
khu Đô thị Nam sài gòn được xây dựng từ khu đất nông nghiệp rất kém hiệu quả… Như vậy đô
thị hoá làm tăng trưởng kinh tế đô thị.
Những biểu hiện của tăng trưởng kinh tế đô thị có thể là : Thay đổi cơ cấu kinh tế đô thị, nâng
cao khả năng hiệu quả kinh tế đô thị, tăng tỷ trong dân số đô thị trong tổng dân số
Trên quan điểm dân số: Tỷ trọng dân số đô thị trong tổng số dân (%) tăng có nghĩa là đô thị tăng
trưởng. Số liệu thống kê từ 1931 đến 1989 của nước ta nói lên điều đó. Năm 1931 1954 1975 1979 1989 7,5% 11 21,5 19,2 21 , 4
Trên quan điểm GDP của khu vực đô thị : GDP tính theo lãnh thổ, trên phạm vi đô thị tăng biểu
hiện kinh tế đô thị tăng trưởng.
Trên quan điểm quy mô các ngành : Tăng quy mô các ngành biểu hiện qua sự tăng việc làm, tăng
lao động và tăng kết quả sản xuất.
Trên quan điểm tăng thu nhập của người lao động: tăng tỷ lệ tổng thu nhập của dân số đô thị/Tổng
thu nhập dân số nông thôn, tăng mật độ dân số đô thị ...
Trên quan điểm tốc độ tăng trưởng kinh tế và vai trò kinh tế đô thị : để đo lường tăng trưởng
kinh tế đô thị ta sử dụng các chỉ số phản ánh tốc độ tăng GDP và tỷ trọng GDP ở đô thị trong kinh tế quốc dân.
2- Những nhân tố làm tăng trưởng kinh tế đô thị
+ Chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế đô thị : làm tăng trưởng kinh tế đô thị theo chiều sâu,
tăng năng suất lao động xã hội trong khi tổng việc làm không đổi.
+ Mở rộng quy mô sản xuất do xây dựng mới và mở rộng, đóng cửa và thu hẹp hay làm giảm số
việc làm tương đối (thay đổi thuần túy trong tổng việc làm trong một thành phố), áp dụng các
chính sách đầu tư nước ngoài : vừa làm tăng tổng việc làm (theo chiều rộng) vừa làm thay đổi
cơ cấu kinh tế trong kinh tế đô thị.
+ Các chính sách kinh tế nhằm phát huy hết năng lực sẵn có cũng có tác dụng như mở rộng quy
mô kinh tế, nâng cao năng suất lao động xã hội. lOMoAR cPSD| 46836766
+ Nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới trong kinh tế đô thị, làm nâng cao hiệu quả sản xuất.
+ Quy mô đô thị hợp lý : Hợp lý hoá quy mô đô thị làm thay đổi của cấu thành tổng việc làm.
Việc lựa chọn quy mô, địa điểm hợp lý của các doanh nghiệp, các ngành tạo ra quy mô hợp lý
của đô thị nhằm khai thác hết các lợi thế của đô thị.
3- ảnh hưởng của các chính sách công cộng đến tăng trưởng kinh tế
Các chính cách công cộng bao gồm : chính sách giáo dục, y tế, phục vụ công cộng, đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh doanh, chính sách thuế kinh doanh … Các chính sách này đều có ảnh
hưởng tới cung, cầu lao động trong đô thị. Khi thay đổi cung và cầu về lao động của đô thị tức
là số lượng lao động hay việc làm sẽ thay đổi.
Khi đô thị áp dụng các chính sách cải thiện hệ thống giáo dục, dịch vụ công cộng, cơ sở hạ tầng
kinh doanh, và giảm thuế kinh doanh có nghĩa là giảm chi phí sản xuất của các doanh nghiệp thì
cầu lao động tăng (đường cầu lao động dịch chuyển sang phải). Đồng thời khi cải thiện cơ sở hạ
tầng sinh hoạt, và giảm thuế tiêu dùng có nghĩa là thành phố thu hút lao động thì cung lao động
tăng (đường cung lao động dịch chuyển sang phải). Để điều tiết cung cầu lao động, thành phố có
thể sử dụng 2 chính sách cơ bản : trợ cấp hoặc giảm thuế cho các công ty mới hoặc công ty quan
trọng và tăng thuế đối với các công ty cần hạn chế phát triển . Bất cứ chính sách công cộng nào
làm giảm chi phí sản xuất sẽ làm tăng cầu lao động và tăng việc làm cân bằng, trong điều kiện
các yếu tố khác không đổi
. Trong truờng hợp trợ cấp thuế (các yếu tố khác không đổi), mà thu
nhập từ thuế được sử dụng trợ giúp các dịch vụ công cộng đia phương, thì một cộng đồng có
thuế thấp sẽ có dịch vụ công cộng ít hơn. Thực tế cho thấy nếu một thành phố cắt giảm thuế và
từ đó buộc phải giảm chi tiêu dịch vụ công cộng (đường sá, giáo dục, an toàn công cộng), thì sẽ
dẫn đến chậm tăng trưởng và có thể giảm sút. Ngược lại, nếu một thành phố cắt giảm thuế và
giảm chi tiêu không phải dịch vụ công cộng đồng thời tăng cường các chương trình tái phân phối
cho người nghèo thì thành phố sẽ tăng trưởng. Nói cách khác, ảnh hưởng của cắt giảm thuế phụ
thuộc vào lọai dịch vụ bị cắt giảm cùng với thuế. Nếu thuế được dùng để tài trợ cho cho các dịch
vụ công cộng cho các nhà kinh doanh thì sự cắt giảm thuế không chắc đã khuyến khích tăng trưởng kinh tế.
Bất cứ chính sách nào làm thành phố hấp dẫn hơn đều dẫn đến tăng cung và cầu lao
động, nhưng chưa chắc đẫ dẫn đến tăng việc làm cân bằng (trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi).
Về mặt tài chính, chương trình trợ cấp sẽ có hiệu quả khi tổng thu nhập thuế vượt
chi tiêu các dịch vụ công cộng. Vì khi thực hiện chương trình trợ cấp tức là giảm gánh nặng
thuế địa phương. Việc cắt giảm thuế hoặc trợ cấp làm cho thành phố hấp dẫn các công ty hơn
đồng thời những cơ sở thuế của thành phố sẽ tăng làm tăng tổng thu nhập từ thuế. Vì thành phố
tăng trưởng nên chi tiêu cho các dịch vụ địa phương (đường xá, trường học, cảnh sát, cứu hỏa)
cũng tăng thêm. Việc xác định hiệu quả thực hiện bằng cách so sánh tổng thu nhập từ thuế và
tổng chi tiêu của thành phố về các dịch vụ này. lOMoAR cPSD| 46836766
Tăng hoặc giảm thuế : Trong thực tế, một số thành phố miễn giảm một số sắc thuế địa
phương trong một thời kỳ, (thuế tài sản thường là 10 năm ) cho các công ty mới hoặc các công
ty cần có sự khuyến khích đặc biệt ví dụ công ty môi trường.
Giữa thuế và tăng trưởng kinh tế đô thị có mối quan hệ tương đối chặt chẽ. Giả sử thành phố
thực hiện một chương trình thuế mới, chương trình này làm tăng hoặc giảm tổng việc làm của
thành phố đồng thời có khả năng điều chỉnh cơ cấu ngành trong kinh tế đô thị.
Trong một thành phố có nhiều ngành công nghiệp, nếu thành phố tăng mức thuế ở một số
ngành nào đó thì điều đó có ảnh hưởng đến cả 2 mặt cung và cầu của thị trường lao động thành phố.
1)Tăng thuế làm giảm cầu lao động : Thuế làm tăng chi phí sản xuất của các nhà sản xuất. Giả
sử việc chi trả cho lao động, vốn và đất không đổi thì một công ty phải nộp mức thuế tăng hơn
trước. Tăng chi phí sản xuất làm tăng giá bán của sản phẩm một số ngành, do đó làm giảm mức
sản xuất và giảm cầu lao động. Trong hình 2-1 đường cầu dịch chuyển sang trái: ở mỗi mức
lương cao hơn, cầu lao động ít đi. P = lương S1 1300 S2 1000 D1 D2 50 60 Q= số lao động
Hình 2-1 Thuế làm tăng tổng việc làm
2) Sử dụng thuế làm tăng cung lao động : Việc tăng thu của đô thị và sử dụng nguồn thu đó để
nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải thiện chất lượng môi trường làm tăng độ hấp dẫn của thành phố.
Những người nhậy cảm với chất lượng sống sẽ chuyển đến thành phố có điều kiện tốt hơn làm
tăng cung lao động trong thành phố (dịch chuyển đường cung sang phải).
Việc thay đổi mức thuế ở các ngành còn có ảnh hưởng đến phân phối việc làm giữa
ngành, làm thay đổi cơ cấu ngành. Vì tiền lương giảm, chi phí sản xuất của các ngành có mức
thuế tăng cũng sẽ giảm bằng cách giảm một phần tiền lương bù đắp việc tăng thuế. Việc tăng
thuế làm tăng thuần túy chi phí sản xuất như vậy ngành công nghiệp nào bị tăng thuế sẽ giảm
tổng lực lượng lao động. Ngược lại, ngành công nghiệp không bị tăng thuế sẽ trả tiền lương thấp
hơn (tương đối) như vậy chi phí sản xuất của nó sẽ giảm và tổng việc làm tăng. Trong hình 2-1
Tăng việc làm trong ngành công nghiệp không bị tăng thuế lớn hơn việc giảm việc làm trong
ngành bị tăng thuế, như vậy tổng việc làm tăng. Điều này xuất hiện khi tỷ trọng các ngành bị
tăng thuế nhỏ hơn ngành không bị tăng thuế đồng thời việc sử dụng thuế vào việc cải thiện cơ
sở hạ tầng hay cải thiện môi trường đô thị . lOMoAR cPSD| 46836766
Hình 2-2 cho thấy một kết quả khác của chính sách thuế. Trong trường hợp mà các hộ
gia đình ít nhạy cảm với sự thay đổi cơ sở hạ tầng và chất lượng môi trường thì tốc độ tăng cung
nhỏ so với tốc độ giảm cầu (ảnh hưởng của thuế mạnh hơn ảnh hưởng của chất lượng cơ sở hạ
tầng và môi trường) và số lượng lao động cân bằng giảm. Vì đường cung dịch chuyển ít, nên tiền
lương giảm không đáng kể. Do đó, tăng việc làm trong ngành không bị tăng thuế hay giảm thuế
chưa đủ để bù mức giảm việc làm trong ngành công nghiệp bị tăng thuế. Hình 2-2 Thuế làm giảm tổng việc làm
Như vậy, việc tăng giảm thuế có thể làm tăng hoặc giảm tổng việc làm. Tổng việc làm sẽ
tăng nếu tốc độ tăng cung (di cư làm giảm tiền lương) lớn hơn so với tốc độ giảm cầu (giảm cầu
lao động của ngành bị tăng thuế). Tổng việc làm sẽ giảm nếu tốc độ giảm cầu lớn. Vậy thuế phải
đảm bảo tính khả thi với nhà sản xuất và kết quả nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng và cải thiện
môi trường đủ hấp dẫn thu thút lao động .
ảnh hưởng của chương trình trợ cấp đến tăng trưởng kinh tế đô thị
Chương trình trợ cấp là sự cụ thể hoá của mộ số các chính sách công cộng. Chính quyền đô thị
có thể thu hút các công ty xuất khẩu hoặc công ty mới đồng thời hạn chế các công ty khác bằng
cách đưa ra những chương trình trợ cấp đặc biệt cho các công ty sản xuất hàng xuất khẩu hoặc
công ty mới, tăng thuế ở các công ty không có chủ trương khuyến khích bằng các biện pháp dưới đây.
Công trái công nghiệp : chính quyền thành phố có thể phát hành công trái công
nghiệpmiễn thuế đẻ tạo vốn cho phát triển. Chính quyền đô thị dùng thu nhập từ công trái để
mua đất và cho các công ty tư nhân thuê. Vì nguồn lãi thu từ công trái công nghiệp không bị
đánh thuế quốc gia nên người mua công trái chấp nhận mức lãi suất tương đối thấp (ví dụ 8%
chứ không phải 10 %)do đó người thuê trả ít hơn mức lãi suáat thị trường đối với những khoản
tiền vay để cung cấp vốn cho dự án. Tuy nhiên, việc sử dụng công trái công nghiệp sẽ bị hạn chế
khi thuế quố gia đánh vào nguồn lãi thu từ công trái công nghiệp.
Vay mượn và đảm bảo vay mượn : Chính quyền đô thị có thể giúp các công ty đầu tư phát triển
vay tiền và đứng ra bảo lãnh giúp họ. Trong cả hai trường hợp các công ty đầu tư phát triển được
vay tiền với lãi suất thấp hoặc thành phố tính lãi thấp hơn thị trường, hoặc thành phố giảm những
rủi ro liên quan tới vay mượn tư nhân, giúp các công ty đầu tư phát triển vay tư nhân với lãi suất thấp.
Tạo địa điểm : Chính quyền đô thị có thể cấp đất và dịch vụ công cộng cho phát triển đô thị mới.
Thành phố mua một khu vực nào đó, dọn dẹp mặt bằng, xây dựng đường sá, hệ thống cấp thoát
nước, xử lý chất thải sau đó bán chỗ cho các nhà đầu tư phát triển thấp hơn chi phí để xây dựng nó.
4- Dự đoán tăng trưởng kinh tế
Có 3 phương pháp để dự đoán tăng trưởng kinh tế : 1- Phương pháp nghiên cứu cơ sở kinh tế :
là phương pháp ước lượng mức tăng tổng việc làm thông qua số nhân việc làm và mức tăng lOMoAR cPSD| 46836766
GDP; đây là phương pháp tương đối đơn giản không đòi hỏi chi phí tốn kém. 2- Phương
pháp nghiên cứu đầu ra đầu vào là phương pháp để dự đoán mức tăng sản lượng do tăng mức
xuất khẩu; phương pháp này phức tạp hơn. 3- Các phương pháp thống kê : Dự đoán tăng trưởng
GDP và GO bằng các phương pháp hồi quy thông qua các dãy số thống kê. a- Phương pháp
nghiên cứu cơ sở kinh tế

Mục đích của phương pháp nghiên cứu kinh tế cơ sở là ước lượng mức tăng tổng việc làm được
tạo ra nhờ tăng việc làm xuất khẩu. Để ước lượng mức tăng tổng việc làm cần thông qua ước
lượng số nhân việc làm.
Giống như một hộ gia đình, đô thị cũng phát triển bằng cách sản xuất hàng hóa cho mình và bán
cho thành phố khác. Xuất khẩu thu tiền về cho nền kinh tế đô thị, làm tăng thu nhập và làm giàu
thành phố thông qua quá trình số nhân. Ta goi Tn là tổng việc làm thời kỳ n ; To là tổng việc
làm thời kỳ hiện tại; T là mức tăng tổng việc làm từ kỳ o đến kỳ n.
Tn = T0 + T ; T có thể dự đoán bằng nhiều cách khác nhau Cách 1 :
T = T/ B * B = Số nhân * B hoặc Cách 2 : T = B + B’
Trong đó : B là số việc làm xuất khẩu hiện tại; T/B số
nhân việc làm của thời kỳ hiện tại.
B mức tăng việc làm xuất khẩu dự đoán.
B’ mức tăng việc làm phục vụ dự đoán
Theo cách 1 : Để dự doán mức tăng tổng việc làm, các nhà dự đoán cần : 1- ước lượng số
nhân hiện tại và 2- dự kiến mức tăng việc làm xuất khẩu. Bước 1- Xác định số nhân của thời kỳ hiện tại
- Để xác định số nhân việc làm, trước hết cần ước xác định tổng số việc làm của thành
phố (T); sau đó xác định lực lượng lao động thành phố tham gia vào sản xuất xuất khẩu (B).
Để xác định T ta sử dụng các số liệu của thống kê . Vấn đề còn lại là xác định B.
Để xác định B ta có thể sử dụng các phương pháp thống kê khác nhau : 1)
thu thập những số liệu vận chuyển hàng hóa thực tế mà thành phố sản xuất đến
những nơi khác (sản phẩm xuất khẩu). Phương pháp này khá tốn kém nên hầu hết các thành
phố sử dụng cách làm ít tốn kém hơn nhưng kém chính xác hơn để ước tính số nhân việc làm cho xuất khẩu. 2)
Phương pháp đơn giản hơn là phân chia các ngành công nghiệp thành hai nhóm
ngành: nhóm ngành xuất khẩu và nhóm ngành công nghiệp địa phương. Nhóm ngành xuất khẩu
sản xuất sản phẩm để xuất khẩu. Tất cả công nhân trong ngành này được coi là công nhân xuất
khẩu. Ví dụ giả định là ngành sản xuất găng tay là ngành công nghiệp xuất khẩu thì tất cả số
công nhân trong ngành này được xem như là công nhân xuất khẩu. Nếu thức ăn ở các tiệm ăn
được xem là hàng hóa địa phương thì mọi công nhân trong ngành này được coi như công nhân
địa phương. Vấn đề là có một số găng tay tiêu dùng ở địa phương, và một lượng thức ăn mà
dân không sống ở địa phương tiêu thụ. Nói cách khác, rất ít ngành công nghiệp là xuất khẩu lOMoAR cPSD| 46836766
hoàn toàn hoặc tiêu thụ hoàn toàn địa phương nên khi phân chia như vậy chỉ có tính chất tương đối. 3)
Sử dụng thương số địa phương : phương pháp này cho rằng mỗi ngành công
nghiệp sản xuất một phần cho xuất khẩu và một phần cho tiêu dùng địa phương. Để xác định
tỉ lệ sản lượng xuất khẩu trong mỗi ngành công nghiệp người ta tìm thương số địa phương của
mỗi ngành đó theo công thức:
L1 = Mức sản xuất sản phẩm i ở thành phố Mức
tiêu thụ sản phẩm i ở thành phố.
Nếu thương số bằng 1 (sản xuất bằng tiêu thụ) như vậy không có công nhân nào sản xuất sản
phẩm xuất khẩu. Nếu L1= 5, sản xuất bằng 5 lần mức tiêu dùng địa phương, như vậy 1/5 công
nhân sản xuất sản phẩm cho thị trường địa phương, còn 4/5 sản xuất cho xuất khẩu.
Như vậy vẫn phải thống kê mức sản xuất và tiêu thụ từng loại sản phẩm .
Thực tế không cho phép xác định trực tiếp thương số địa phương chính xác. Thay vào đó là cách tính gần đúng
Số việc làm sản xuất sản phẩm i thành phố
L2 = Tổng số việc làm ở thành phố
Số việc làm sản xuất sản phẩm i toàn quốc
Tổng số việc làm quốc gia (6-8).
Mẫu số (phần việc làm sản xuất sản phẩm i của quốc gia) cho biết địa phương cần sản xuất bao
nhiêu để thỏa mãn cầu sản phẩm i ở địa phương. Ví dụ, nếu 1% của việc làm quốc gia dùng sản
xuất găng tay (mẫu số là 0,01), thì thành phố được giả định là cần 1% lực lượng lao động của
mình để thỏa mãn nhu cầu găng tay địa phương. Nếu thành phố dùng 6% lực lượng lao động vào
sản xuất găng tay (tử số là 0,06) thì 1/6 lực lượng lao động được giả định dùng sản xuất cho tiêu
dùng địa phương , và 5/6 được giả định để sản xuất cho xuất khẩu.
- Ước tính việc làm xuất khẩu trong mỗi ngành : Đối với mỗi ngành công nghiệp, thương
số địa phương tạo ra một ước lượng của việc làm xuất khẩu. Nếu Ti là tổng việc làm trong
ngành công nghiệp i, và Li là thương số địa phương của ngành công nghiệp i , thì việc làm xuất
khẩu trong ngành công nghiệp này là Bi: Li 1 Bi = Li .Ti (2-x)
Ví dụ, nếu Li= 4 và Ti = 800 => Bi= 600 có nghĩa là 3/4 tổng số công nhân trong ngành công
nghiệp sản xuất cho xuất khẩu. Tổng việc làm xuất khẩu của thành phố được tính bằng cách cộng
tát cả việc làm xuất khẩu ở trong toàng ngành công nghiệp.
Số nhân việc làm là tỷ số giữa tổng việc làm và việc làm xuất khẩu ; Số nhân –Vl Ti = Bi ; i=1-n lOMoAR cPSD| 46836766
Có 3 vấn đề khi áp dụng cách tiếp cận thương số địa phương.
1) Thành phần tiêu dùng đồng nhất. Cách tiếp cận giả định các thành phố có mức cầu găng tay
bình quân đầu người như nhau. Tất nhiên, tiêu dùng găng tay phụ thuộc vào thời tiết,
mốt, sở thích đối với các môn thể thao ngoài trời (trượt tuyết, câu cá...). Nếu dân thành phố tiêu
dùng một số lượng găng tương đối lớn thì thương số địa phương L2 ước lượng vượt về số công
nhân sản xuất xuất khẩu và ngược lại 2-
Tính tự cung Một giả định khác của cách tiếp cận thương số quốc gia là không có
xuất nhập khẩu găng. Như vậy việc sản xuất găng là phần cần thiết để tự cung cấp địa phương.
Nếu quốc gia xuất khẩu găng, phần việc làm quốc gia trong sản xuất găng sẽ vượt phần cần
thiết cho tự cung, như vậy thương số địa phương sẽ ước tính thấp số công nhân sản xuất xuất
khẩu. Ngược lại, Nếu nhập khẩu găng thương số địa phương sẽ ước lượng vượt về số lượng
công nhân sản xuất xuất khẩu. 3-
Ghép nhóm các ngành công nghiệp. Thương số quốc gia được tính cho một nhóm
nhiều hàng hóa, không phải cho một sản phẩm cụ thể. Ví dụ, một thành phố có thể tính thương
số địa phương cho ngành công nghiệp dêt may, gồm sản xuất găng, áo váy, quần áo trẻ em. Giả
sử toàn bộ công nhân dệt may của thành phố sản xuất găng xuất khẩu: Không có sản phẩm dệt
may nào khác sản xuất trong thành phố; và ngành công nghiệp dệt may lớn đến mức làm thương
số địa phương cho ngành này là 1: Thành phố sử dụng tỉ lệ lao động của nó để sản xuất găng
giống như quốc gia sử dụng trong sản xuất dệt may. Thương số địa phương của thành phố giả
sử rằng thành phố không xuất khẩu sản phẩm dệt may, trong khi thực tế nó xuất khẩu găng và
nhập khẩu hàng dệt. Nhóm các hàng hóa thành một nhóm chung làm cho thương số địa phương
ước lượng việc làm xuất khẩu thấp.
Bước 2- Ước tính mức tăng việc làm xuất khẩu và mức tăng tổng việc làm
Nội dung của bước này là ước tính B trong phương trình T = T/ B * B qua đó để có được
T. Do yếu tố bất định trong dự đoán sự kiện tương lai nên việc dự đoán xuất khẩu mang tính
nghệ thuật nhiều hơn là khoa học. Có một cách tiếp cận là (1) ước lượng xu hướng quốc gia về
cầu đối với mỗi hàng hóa. (2) Đánh giá tính hấp dẫn tương đối cảa thành phố đối với những công
ty sản xuất hàng hóa tương ứng. Các nhà dự đoán kinh tế đô thị có thể ước tính nhu cầu toàn
quốc về găng tay cho thế kỷ sau, trên cơ sở xem xét xu hướng thời tiết, tình hình thể thao mùa
đông và xu hướng mốt. Nếu độ hấp dẫn tương đối của thành phố không hy vọng thay đổi thì sản
xuất găng của thành phố sẽ tăng cùng tỷ lệ như khả năng tiêu dùng găng toàn quốc: nếu tăng gấp
đôi mức tiêu dùng găng sẽ làm tăng gấp đôi việc làm và mức sản xuất găng. Nếu tính hấp dẫn
tương đối của thành phố tăng theo thời gian thì việc làm và mức sản xuất găng của nó sẽ tăng tương đối nhanh.
ứng dụng cách tiếp cận nghiên cứu kinh tế cơ sở :
Phương pháp nghiên cứu kinh tế cơ sở được ứng dụng để dự đoán tăng trưởng dân số và nhu cầu
dịch vụ công cộng trong đô thị. Giả định, thành phố lập đề án ngành công nghiệp sản xuất găng
sẽ thu hút 1000 lao động. Nếu số nhân việc làm là 2,5 thì cách tiếp cận này giả định tổng việc lOMoAR cPSD| 46836766
làm sẽ tăng 2500 chỗ. Nếu cứ 3 người dân thành thị trên một việc làm thì dân số của thành phố
sẽ tăng 7500 người, làm tăng cầu tất cả các dịch vụ công cộng. Ví dụ, nếu bình quân
chỉ một cháu trong độ tuổi đến trường trên 4 người dân thì tổng số trẻ đến trường sẽ tăng 1500 cháu.
Các công ty trên địa bàn đô thị sử dụng những đề án việc làm tính theo phương pháp kinh
tế cơ sở để dự đoán mức cầu sản phẩm của họ. Giả sử phương pháp này dự tính dân số tăng 7500
người. Nếu cứ 3750 người cần một thợ cắt tóc thì thành phố sẽ cần 2 người. Nếu thành phố tăng
7500 người mỗi năm và cứ 30000 người cần một trung tâm buôn bán thì sau 4 năm nữa sẽ có đủ
cầu để thành lập một trung tâm buôn bán mới.
Chính quyền đô thị cũng sử dụng phương pháp cơ sở kinh tế để quản lý việc tăng trưởng.
Nếu Chính quyền đô thị tác động đến việc bán hàng và việc làm của những ngành công nghiệp
cơ sở của nó thì nó có thể quản lý được dân số thành phố. Giả sử thành phố có mục tiêu tăng
thêm 15000 người trong 20 năm nữa. Nếu cứ 3 người có một việc làm thì thành phố sẽ đáp ứng
mục tiêu dân số trong trường hợp nó tăng bổ xung 5000 việc làm. Nếu số nhân việc làm là 2,5
thì thành phố sẽ đáp ứng mục tiêu dân số và việc làm trong trường hợp nó có 2000 việc làm xuất khẩu.
Theo cách 2 : Các nhà dự đoán cần dự đoán từng mức tăng bằng phương pháp thống kê như
ngoại suy hàm xu thế. Phương pháp thống kê đòi hỏi phải có một dãy số thống kê qua nhiều năm.
b- Phương pháp phân tích đầu vào và đầu ra
Phương pháp phân tích đầu vào và đầu ra dựa trên cơ sở tính toán sự trao đổi giữa các hộ và các
công ty trong nền kinh tế. Cụ thể phương pháp này tính đầu vào và đầu ra từng ngành công
nghiệp xuất khẩu, không sử dụng cách tiếp cận thương số địa phương để dự đoán khối lượng
xuất khẩu, mà đo lường xuất khẩu trực tiếp. Bảng vầo- ra
Giả sử một thành phố sản xuất và tiêu dùng 3 hàng hóa: máy tính, đây điện và hàng hóa tiêu
dùng địa phương. Máy tính và dây điện được sản xuất cho cả xuất khẩu và tiêu dùng địa phương.
Các nhà sản xuất địa phương (cửa hàng ăn, giặt là, cửa hàng bánh mì) sản xuất hàng hóa cho tiêu
dùng địa phương. Toàn bộ sự trao đổi tiêu dùng sản phẩm được trình bày dưới dạng bảng sau:
Bảng 2-1. Bảng vào- ra ( Đơn giản hoá ) Đơn vị tính Tỷ VND Tiêu dùng Nhà sản xuất Công ty Nhà sản xuất DN. địa Hộ gia Xuất Tổng số Sản xuất máy tính dây điện phương đình khẩu ( Đầu ra ) Máy tính 0 300 150 180 1370 2000 Dây điện 400 0 0 0 600 1000 DN Địa phương 0 0 0 2500 - 2500 lOMoAR cPSD| 46836766 Lao động 1000 600 2000 0 0 3600 Nhập khẩu 600 100 350 920 - 2170 Tổng số (đầu 2000 $ Bảng 2-2. $ 1000 Bảng hệ 2500 số c $ hi phí 3600 đầu và o 1970 vào) Nhà sản xuất Đầu vào Công ty máy Nhà sản xuất Nhà buôn địa Hộ gia đình tính dây điện phương Máy tính 0.0 .3 .06 .05 Dây điện .2 .0 .00 .00 Địa phương .00 .00 .00 .69 Lao động .5 .6 .8 .00 Nhập khẩu .3 .1 .14 .26 Tổng 1 1 1 1 Quá trình nhân
Cột thứ nhất cho biết việc sử dụng đầu vào của các công ty máy tính. Để sản xuất máy tính họ
mua 400$ dây điện thuê 1000 lao động thành phố và 600$ đầu vào nhập khẩu (nguyên liệu thô
và bán sản phẩm). Tổng của những chi phí đầu vào này là tổng sản lượng của ngành công nghiệp
máy tính (2000$) bằng tổng đầu ra của ngành. Bảng hệ số chi phí đầu vào
Bảng 2-2 được tính từ bảng 2-1, Cột thứ nhất cho thấy hệ số đầu vào đối với ngành máy tính: Cứ
mỗi đô la sản xuấy máy tính thì ngành này sử dụng 20 xu đầu vào từ ngành công nghiệp đây
điện, 50 xu chi phí lao động, và 30 xu nguyên liệu nhập khẩu; Cột 2 và 3 cho thấy hệ số đầu vào
của các nhà sản xuất dây điện và nhà buôn địa phương. Cột 4 cho thấy các hộ chi 5% thu nhập
của họ mua máy tính, 69% cho hàng hóa địa phương, và 26% cho hàng nhập.
Sử dụng các hệ số để ước lượng ảnh hưởng của số nhân đến mức tăng xuất khẩu máy tính. Giả
sử mức xuất khẩu máy tính tăng 100 triệu đồng, sẽ làm tăng chi tiêu địa phương, tạo ra một loạt
vòng chi tiêu. Ba vòng chi tiêu đầu tiên diễn ra như sau:
Vòng 1. Tăng mức bán máy tính làm tăng sản xuất dây điện 0,2x100 = 20 tr. đ. và tiền
lương tăng 0,5x100 = 50 tr. đ.
Vòng 2 : Sản xuất tăng thêm 20 tr. đ. dây điện làm tăng thêm mức bán máy tính 6 tr. đ. (0, 3x20)
và tăng thêm tiền lương 12tr. đ (0,6x20). Tăng tiền lương ở vòng đầu 50 tr. đ. làm tăng mức mua
máy của các gia đình 2.5tr. đ. (0,05x50) và mức tiêu dùng địa phương 34,5tr. đ. (0,69x50). Vòng
3 : Tăng mức bán máy tính, tiền lương và mức bán hàng địa phương làm tăng bổ xung mức bán
dây điện, tiền lương, máy tính và tiêu dùng địa phương.
Do quá trình nhân tăng xuất khẩu máy tính sẽ làm tăng chi tiêu cả 3 loại hàng hóa. Chi tiêu và
quá trình tái chi tiêu thu nhập diễn ra liên tục nhưng vòng chi tiêu sau đều nhỏ hơn vòng trước.
Quá trình nhân sẽ giảm dần vì cả nhà sản xuất và người tiêu dùng chi tiêu một phần ngân sách
của họ cho hàng nhập. Như chỉ ra ở dòng 5 bảng 2-2 (nhập) có sự chênh lệch 30 % sản xuất máy
tính, 10% sản xuất dây điện, 14% sản xuất hàng hóa địa phương và 26% sản xuất của các hộ gia
đình. Sự chênh lệch này làm yếu quá trình nhân, làm cho mỗi vòng chi tiêu trở thành nhỏ hơn lOMoAR cPSD| 46836766
vòng trước. Hệ số chi phí đầu vào có thể sử dụng để tính số nhân chi tiêu cho các ngành công nghiệp xuất khẩu.
Mô hình hoá cho dự đoán sản lượng các ngành
Gọi xij là sản phẩm ngành i sử dụng cho sản xuất sản phẩm ngành j ( dòng i, cột j ) Xj
là sản lượng ngành j (GO ngành j); Xi là sản lượng ngành i; aij là những hệ số chi phí trực tiếp
sản phẩm ngành i cho ngành j ; aij = xij
; ei là giá trị xuất khẩu của ngành i , Xj n
Như vậy Xi = aijXj + ei (i=1,2..n ) j 1
Do đó ta có một hệ gồm n phương trình và n ẩn số;
Nếu viết các hệ số chi phí dưới dạng ma trận A ; X là véc tơ cột khối lượng sản phẩm; e là véc
tơ cột sản lượng xuất khẩu thì hệ phương trình có dạng X =AX + e
Biến đổi thêm một chút ta có X - AX = e suy ra (E*
- A)X = e trong đó E* là ma trận đơn vị
Để xác định sản lượng mỗi ngành người ta đi tìm ma trận nghịch đảo (E*-A)-1 ; sau đó
nhân ma trận nghịch đảo này với véc tơ sản phẩm xuất khẩu e.
Vấn đề còn lại là dự đoán mức xuất khẩu e của từng ngành.
c- Hạn chế của các phương pháp
Giả định số nhân không đổi : cả 2 phương pháp đều giả định là số nhân không đổi. Thực
tế số nhân của thành phố có thể thay đổi do : 1-
Qui mô thành phố và sản phẩm tiêu dùng. Số nhân tăng theo qui mô thành phố
phản ánh khả năng thành phố lớn tạo thuận lợi cho các công ty hơn vì thành phố lớn có cầu đủ
lớn để trợ giúp những hoạt động có lợi thế nhờ qui mô. Ví dụ, nếu thành phố tăng trưởng tới
mức nó có thể khuyến khích xây dựng loại nhà hàng cỡ lớn thì dân cư thành phố sẽ tới nhà
hàng địa phương mà không phải đi tới thành phố khác. Một phần thu nhập tăng lên được tiêu
dùng ở địa phương, như vậy, số nhân thu nhập và việc làm sẽ tăng lên. 2-
Qui mô thành phố và đầu vào trung gian : Vì thành phố phát triển nên cầu đầu
vào trung gian cũng tăng lên và rất nhiều những đầu vào này lại được cung cấp bởi địa phương
mà không phải nhập từ nơi khác. Ví dụ, nếu công nghiệp máy tính tăng trưởng đến mức mà
thành phố có thể trợ giúp các nhà sản xuất chip địa phương thì các công ty máy tính chỉ phải
chi tiêu ít để nhập đầu vào và mua nhiều tại địa phương. Do đó, mỗi mức tăng xuất máy tính
sẽ tạo ra mức tăng thu nhập lớn hơn. 3-
Thay đổi giá đầu vào : Thay đổi giá đầu vào sẽ gây ra sự thay thế nhân tố đầu
vào làm thay đổi sự tương tác giữa các khu vực kinh tế. Giả sử tiền lương thành phố tăng làm
cho công ty máy tính thay thế thiết bị vốn nhập cho lao động. Nếu hệ số đầu vào của lao động lOMoAR cPSD| 46836766
giảm từ 0,5 xuống 0,4 thì chỉ 40$ trong 100$ tăng do xuất máy sẽ được trả cho người lao động.
Vì một tỷ lệ nhỏ thu từ xuất khẩu được tiêu dùng tại địa phương gây nên hiệu quả nhân của
việc tăng xuất sẽ giảm xuống.
Giả định tiền lương cố định : Cả 2 phương pháp đều giả định tiền lương thành phố cố định không
kể qui mô thành phố. Nói cách khác, chúng ta giả định một sự dịch chuyển ngang của đường cầu
lao động thành phố mà không thay đổi sự cân bằng việc làm. Giả sử phương pháp cơ sở kinh tế
tính toán số nhân là 2.5 và dự kiến tăng 10000 việc làm xuất khẩu. Dựa trên những con số này
phương pháp cơ sở kinh tế dự đoán tổng việc làm ở thành phố sẽ tăng 25000 chỗ. Điều này
không chính xác vì đường cung lao động thành phố có độ dốc dương như vậy tăng cầu lao động
sẽ làm tăng tiền lương thành phố. Trong hình 5-3 (chương 5) tổng việc làm chỉ tăng 16000 chỗ
mà không phải 25000. Do cả phương pháp cơ sở kinh tế và đẩu ra đầu vào đều giả định tiền
lương cố định nên chúng đánh giá quá cao sự ảnh hưởng kích thích của việc tăng xuất khẩu.
Xuất như là nguồn tăng trưởng kinh tế : Cả 2 phương pháp đều giả định chỉ có một cách cho
thành phố tăng trưởng là tăng xuất khẩu. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế là do tăng xuất khẩu là
không hoàn toàn đúng. Tăng trưởng cũng xuất hiện do kết quả của (1) giảm nhập, (2) tăng năng
suất lao động hoặc (3) tăng cường trao đổi trong nội bộ khu vực nội thành.
Một sự giảm nhập có ảnh hưởng kích thích giống như tăng xuất. Trong khi tăng xuất làm
tăng dòng tiền vào kinh tế đô thị thì một sự giảm nhập làm giảm dòng tiền chuyển ra. Nền kinh
tế có thể được kích thích hoặc bằng tăng dòng vào (xuất) hoặc giảm dòng ra (nhập). Để giải thích
khái niệm thay thế nhập, giả sử rằng thành phố ban đầu chi 10 triệu USD một năm để nhập bàn
ghế văn phòng. Nếu người tiêu dùng chuyển sang tiêu dùng bàn ghế văn phòng sản xuất tại địa
phương thì 10 triệu USD trước kia ra khỏi đô thị bây giờ được trả cho các nhà sản xuất trên địa
bàn đô thị và sẽ được chi tiêu và tái chi tiêu trong nội bộ nền kinh tế đô thị . Chi tiêu và tái chi
tiêu 10 triệu USD có ảnh hưởng tương tự như tăng 10 triệu USD bán hàng xuất. Nếu số nhân chi
tiêu là 2.5 thì mức thay đổi tổng thu nhập do thay thế nhập là 25 triệu USD. Trong chính sách
phát triển kinh tế xem khả năng thay thế nhập, giảm nhập cũng giống như việc tăng xuất.
Một ví dụ trái ngược với lý thuyết định hướng nhập khẩu của tăng trưởng kinh tế đô thị
là trường hợp về nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế toàn cầu đã tăng trưởng mặc dù không có hiện
tượng xuất sang thế giới khác. Tăng trưởng kinh tế xuất hiện do 2 nguyên nhân. Thứ nhất, lợi
thế kỹ thuật đã tăng sản phẩm cũng như thu nhập thực tế trên đầu người. Thứ 2, thay đổi công
nghệ sản xuất và vận chuyển đã gia tăng trao đổi giữa các vùng. Trao đổi làm tăng thu nhập thực
tế vì nó cho phép vùng chuyên môn hoá sản xuất hàng hóa mà nó có lợi thế cạnh tranh. Yếu tố
tương tự cũng xuất hiện ở mức độ vùng: tăng năng suất lao động hoặc trao đổi trong nội thị làm
tăng thu nhập đầu người như vậy nền kinh tế đô thị có thể tăng trưởng mà không cần tăng xuất.
Thị trường lao động đô thị Cả hai cách tiếp cận đều chú ý đến khía cạnh cầu của thị trường lao
động. Tức là tăng trưởng xuất hiện khi cầu về lao động thành phố tăng. Như giải thích trong phần
trước, tăng cung lao động cũng tăng việc làm cân bằng, như vậy, tăng trưởng cũng có thể xuất
hiện như là kết quả của việc tăng cung hoặc cầu. Có một số chính sách công cộng làm dịch lOMoAR cPSD| 46836766
chuyển đường cung và tăng việc làm cân bằng, trong đó có chính sách môi trường và chính sách cơ sở hạ tầng.
ảnh hưởng bên ngoài đến kinh tế thành phố Cả 2 phương pháp đã giả định rằng kinh tế thành
phố phụ thuộc vào bên ngoài. Thực tế có một số chính sách công cộng địa phương có thể được
sử dụng để tăng việc làm cân bằng của thành phố. Về phương diện cầu, thành phố có thể dịch
chuyển đường cầu sang phải bằng việc (1) cắt giảm thuế kinh doanh, (2) cải thiện cơ sở hạ tầng
công nghiệp hoặc (3) tăng năng suất lao động bằng cách cải thiện hệ thống giáo dục. Trên phương
diện cung, thành phố có thể dịch chuyển đường cung sang phải bằng cách (1) cắt giảm thuế cho
dân thành phố, (2) cải thiện cơ sở hạ tầng cho dân cư, (3) cải thiện dịch vụ về trường học, nơi
vui chơi giải trí và an toàn công cộng (4) cải thiện môi trường thành phố.
Cần chú ý rằng chính sách công cộng không cần tập trung mạnh vào việc tăng xuất khẩu
của thành phố. Trong số những chiến lược lựa chọn, có chiến lược thay thế nhập khẩu và tăng
cường trao đổi trong nội thị. Trong chừng mực chính sách công cộng khuyên khích thay thế nhập
hoặc trao đổi nội bộ thì có thể tăng việc làm và thu nhập mà không phải tăng nhập khẩu của thành phố.
d- Các phương pháp thống kê -
Phương pháp dự đoán dân số và lao động : sẽ xem xét ở chương dân số đô thị -
Phương pháp hồi quy dự đoán GO và GDP : Giả sử GO và GDP tăng trưởng
như những năm trước, GO và GDP của đô thị sẽ tăng theo thời gian. Hàm hồi quy có thể
được xác định dưới dạng đường thẳng yt = a + bt khi ta cho rằng chưa có giới hạn về khả
năng thành phố ; dưới dạng đường cong yt = a + blgt bt khi ta cho rằng khả năng sản xuất của
thành phố đã bị giới hạn bởi các yếu tố sản xuất.
III- Lợi ích và các vấn đề của tăng trưởng việc làm
1- Các vấn đề xã hội
Khi tăng qui mô thành phố bằng các giải pháp tăng trưởng việc làm và tăng của cải của
dân cư thành phố cần giải quyết các vấn đề có tính công bằng xã hội : có bao nhiêu việc làm mới
do tăng trưởng kinh tế tạo ra dành cho người mới đến và bao nhiêu dành cho dân cư gốc của
thành phố. Đặc biệt là giải quyết vấn đề lao động trước đó không có việc làm nay có việc làm.
Mối quan hệ người mới/người cũ có liên quan đến vấn đề quy mô thành phố.
2- Vấn đề dân số và lao động
Tăng tổng việc làm tạo ra dòng di cư vào thành phố và tăng trưởng dân số. Nếu bình quân lao
động thành phố có năng lực đảm nhận nhiệm vụ mới ít hơn lao động thành phố khác thì nhiều
công việc sẽ được thực hiện bởi lao động di cư đến. lOMoAR cPSD| 46836766
Tăng trưởng vịêc làm dẫn đến tăng dân số và do đó làm tăng cầu về nhà ở, đất đai và dịch vụ
công cộng. Điều này giả định chính quyền thành phố sẽ kết hợp chính sách phát triển kinh tế của
họ với những chính sách sử dụng đất đai, giao thông và đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
3- Các vấn đề kinh tế
Tăng tổng việc làm có ảnh hưởng đến thu nhập thực tế bình quân đầu người ở đô thị. Thay đổi
tiền lương danh nghĩa và giá cả thường bù trừ cho nhau, như vậy, tiền lương thực tế của nhóm
dân cư nào ít bị ảnh hưởng bởi mức tăng tổng việc làm? Có 3 nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập
thực tế cần quan tâm : tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, và cơ cấu nghề nghiệp.
Tăng tổng việc làm, về nguyên tắc, làm tăng thu nhập bình quân đầu người. Bởi vì : -
Tăng tiền lương thực tế cho mỗi ngành nghề. tăng trưởng việc làm tạo ra sự tăng
tổng thu nhập trong toàn bộ dân cư (giả sử sự thay đổi tiền lương danh nghĩa và giá cả sinh
hoạt bù trừ cho nhau), Nhân tố quan trọng nhất làm tăng thu nhập là tăng tiền lương vì được
khuyến khích làm những công việc được trả cao hơn và do tăng tỷ lệ tham gia lao động. Hệ số
co dãn lớn hơn đối với những hộ ít được học hành, công nhân trẻ, vì thế công nhân trong các
nhóm này thu được lợí ich tương đối lớn do được khuyến khích làm những công việc được trả
lương cao hơn. Nếu xét trong từng nhóm dân cư, tiền lương thực tế đối với một nghề nhất định,
hay của một nhóm nghề không chịu ảnh hưởng bởi tăng trưởng việc làm. -
Tăng trưởng việc làm đã thúc đẩy công nhân tiến lên thực hiện những cấp độ công
việc cao hơn. Tăng cầu lao động làm cho công ty khuyến khích công nhân nhanh dành những
công việc được trả cao hơn -
Tăng tỷ lệ có việc làm : tăng trưởng việc làm làm giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng
tỷ lệ tham gia lao động, như vậy, làm tăng tỷ lệ có việc làm dân số trong tuổi lao động.
Câu hỏi và bài tập
1- Khái niệm về cơ cấu kinh tế đô thị ? Phương pháp nghiên cứu những cơ cấu kinh tế chủ
yếu trong kinh tế đô thị ?
2- Tăng trưởng kinh tế đô thị và những nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế đô thị ?
3- Trình bày sự ảnh hưởng của các chính sách công cộng đến tăng trưởng kinh tế đô thị ?
4- Trình bày các phương pháp dự đoán tăng trưởng kinh tế đô thị ?
5- Phân tích lợi ích và những bất lợi trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở đô thị ?
6- Sử dụng cuốn số liệu kinh tế –xã hội các đô thị lớn của Việt nam NXB Thống kê tháng 10- 1998
Hãy xác định cơ cấu kinh tế hai thành phố Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh, cho nhận
xét về chức năng các đô thị?
7- Giả sử có số liệu thống kê về sản xuất và sử dụng sản phẩm của thành phố dưới dạng bảng
IO như sau, hãy tính các số nhân của các ngành. lOMoAR cPSD| 46836766
8- Hãy hoàn thiện bảng IO và tính các số nhân; giải thích ý nghĩa kết quả. Ngành
Máy tính Dây điện Hàng địa Lao động Xuất khẩu Tổng số phương Máy tính 350 ? 300 1150 2000 Dây điện 500 ? 1000 Hàng địa phương 2500 ? Lao động 1000 600 2000 3600 Nhập khẩu ? ? 300 ? 1650 Tổng số 2000 ? ? 3600 ? lOMoAR cPSD| 46836766