

















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61787563
ĐỀ CƯƠNG QUẢN TRỊ HỌC
Câu 1: Phân tích khái niệm quản trị
- Quản trị là hoạt động nhằm đạt được mục tiêu một cách có hiệu quả bằng sự
phối hợp các hoạt động của người khác thông qua hoạch định, tổ chức, lãnh đạo
và kiểm soát các nguồn lực của tổ chức trong một môi trường luôn thay đổi.
Từ khái niệm trên, có thể thấy được bản chất của quản trị là hoạt động của một
hay một số người nhằm phối hợp hoạt động của những người khác để đạt được
những mục tiêu của tổ chức. Hoạt động quản trị sẽ không được diễn ra hay
không được “nhìn thấy” nếu tổ chức chỉ có một người, không có sự phối hợp hay tương tác với nhau.
Ví dụ: Kim tự tháp Ai Cập – biểu tượng KH – KT văn minh hiện đại là một biểu
tượng của quản trị học, thể hiện trình độ tổ chức, quản trị cao, cần sự phối hợp
hàng vạn nhân công. Hoặc đơn giản là 2 người cùng khiêng 1 chiếc bàn cũng
cần sự quản trị, sự phối hợp đi nhanh, đi chậm…
Câu 2: Trình bày quản trị là khoa học, nghệ thuật và là một nghề
+ Quản trị là một khoa học
Thứ nhất, thực tiễn hoạt động quản trị ra đời từ rất lâu khi có đòi hỏi phải
phối hợp và kết hợp hoạt động của những con người trong một tổ chức.
Thứ hai, Các lý thuyết quản trị là sự tổng hợp, khái quát hóa cao từ thực tiễn
hoạt động quản trị với sự kế thừa, phát triển các lý thuyết, kinh nghiệm đã có về
quản trị; lý thuyết và thực hành quản trị đòi hỏi phải nhận thức và vận dụng các
quy luật kinh tế, xã hội và tâm lý để giải quyết các vấn đề của quản trị.
Thứ ba, lý thuyết quản trị sử dụng các thành tựu của các môn học khác nhau
vào giải quyết các vấn đề của quản trị như triết học, kinh tế học, tâm lí học,…
+ Quản trị là một nghệ thuật
Quản trị là khoa học nhưng thực hành quản trị là một nghệ thuật. Một nhà
quản trị nổi tiếng đã nói rằng: “Một vị tướng tài thì không cần biết kỹ thuật điều
khiển tên lửa như thế nào, kỹ thuật lái máy bay ra sao và làm thế nào để xe tăng
vượt qua được chướng ngại vật, nhưng phải biết khi nào thì dùng pháo và loại
pháo cỡ nào sẽ mang lại hiệu quả mong muốn. Khi nào thì dùng máy bay, khi
nào dùng xe tăng. Sự phối hợp của chúng như thế nào và có thể mang lại những
hiệu quả gì? Phải làm gì để có thể sử dụng tốt nhất các loại vũ khí đó? Người
làm tướng phải nắm chắc những kiến thức loại này và phải luôn sáng tạo. Trong
lĩnh vực quản trị kinh doanh cũng vậy”. lOMoAR cPSD| 61787563
Tính nghệ thuật của quản trị xuất phát từ sự thay đổi linh hoạt, sự biến đổi
muôn hình muôn vẻ của đối tượng và môi trường quản trị. Như đã nói ở trên,
quản trị là hoạt động phối hợp giữa nhiều người trong tổ chức để đạt được mục
tiêu. Đối tượng của quản trị là con người, mà con người thì luôn có tâm tư, tình
cảm, tính cách và phẩm chất tâm lý nhất định. Ở trong những điều kiện, hoàn
cảnh khác nhau, con người có nhu cầu, động cơ, hành vi ứng xử có thể khác
nhau. Do đó, nhà quản trị cần phải có hoạt động quản trị, ứng xử thích hợp với
các trạng thái tâm lý, đặc điểm tâm sinh lý của mỗi người trong bối cảnh cụ thể.
Bên cạnh đó, môi trường quản trị cũng luôn thay đổi. Những tác động của môi
trường đến hoạt động quản trị không giống nhau nên không thể áp dụng khoa
học quản trị vào thực tiễn một cách khuôn mẫu, cứng nhắc mà phải mềm dẻo,
linh hoạt, sáng tạo để phù hợp với mỗi con người, mỗi hoạt động gắn với điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể có nghĩa là phải có nghệ thuật quản trị nhất là khi quá
trình kinh doanh luôn đặt ra những nhiệm vụ mới cho các nhà quản trị. Trong
điều kiện cạnh tranh ngày càng gia tăng, các chủ doanh nghiệp muốn cứu vãn sự
đổ vỡ của doanh nghiệp, hoặc đưa doanh nghiệp sang một bước phát triển cao
hơn về chất đều đòi hỏi phải có sự hoàn thiện những nhân tố trong quản trị, như
phương pháp, nghệ thuật, công nghệ và cơ cấu tổ chức quản trị kinh doanh.
+ Quản trị là một nghề
Từ những năm 50 của thế kỷ 20 hoạt động quản trị tiến dẫn đến chuyên
nghiệp, một số người được đào tạo bài bản về quản trị và hoạt động của họ, từ
đó quản trị trở thành một nghề và người ta có thể kiếm sống, phát triển từ nghề
này. Điển hình như nghề quản trị kinh doanh. Có thể nói, quản trị kinh doanh đã
trở thành một nghề danh giá, tấm bằng MBA trở thành tấm “hộ chiếu” để một cá
nhân có thể bước vào thế giới kinh doanh đầy cảm hứng và thách thức và những
người có bằng MBA ở các nước phát triển là tầng lớp có thu nhập cao và được xã hội trọng vọng.
Khi quản trị trở thành một nghề, con người tách ra khỏi các hoạt động sản
xuất trực tiếp để chuyên tâm vào hoạt động quản trị do đó hiệu quả của hoạt
động quản trị trong một tổ chức được nâng lên và qua đó nâng cao hiệu quả hoạt
động của tổ chức do sự chuyên môn đó.
Câu 3: Trình bày khái quát các chức năng của quản trị
Quá trình quản trị thực hiện 4 chức năng riêng biệt, song có mối quan hệ
mật thiết với nhau đó là: hoạch định (phải làm gì), tổ chức (ai làm, làm cách
nào?), lãnh đạo (gây ảnh hưởng lên cách làm), kiểm soát (đảm bảo thực hiện mục tiêu) lOMoAR cPSD| 61787563
a. Hoạch định
Hoạch định là việc xác định mục tiêu của tổ chức, dự tính những cách thức
để đạt được và các nguồn lực cần phải có để đạt được mục tiêu của tổ chức. Cụ
thể, những nhiệm vụ của hoạch định gồm: Thứ nhất, xác định các mục tiêu của tổ chức
Hai là, xây dựng chiến lược tổng thể và chiến lược bộ phận, cụ thể hóa chúng
thành các kế hoạch để phối hợp hành động b. Tổ chức
Tổ chức là chức năng thiết kế cơ cấu tổ chức bộ máy, tổ chức công việc và
phân quyền. Các nhiệm vụ của tổ chức bao gồm: Xác định các việc phải làm,
Phân công cá nhân, bộ phận nào làm và phối hợp hoạt động như thế nào với các
cá nhân, bộ phận trong tổ chức. Những bộ phận nào được hình thành, mối quan
hệ giữa chúng và hệ thống quyền hành trong tổ chức. c. Lãnh đạo
Lãnh đạo là gây ảnh hưởng, thúc đẩy, hướng dẫn và động viên người thừa
hành thực hiện nhiệm vụ trên cơ sở hiểu rõ động cơ, hành vi của họ bằng phong
cách lãnh đạo thích hợp để đạt được mục tiêu.
Lãnh đạo là hoạt động quan trọng cần thiết trong thực hành quản trị. Nhà
quản trị phải thực hện các hoạt động lãnh đạo, họ phải là một nhà lãnh đạo d. Kiểm soát
Kiểm soát là việc xác định thành quả kết quả đạt được trên thực tế so với
mục tiêu đã đặt ra để phát hiện những sai lệch và nguyên nhân của chúng từ đó
thực hiện các hoạt động điều chỉnh để đảm bảo tổ chức đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Mục tiêu kế hoạch của tổ chức thường được xác định trước tuy nhiên mục
tiêu, kế hoạch được thực hiện trong môi trường luôn thay đổi, chứa đựng nhiều
yếu tố bất định,.. do đó hoạt động kiểm soát giúp nhà quản trị phát hiện được
những sai lệch để có những điều chỉnh đảm bảo sự phù hợp giữa hoạt động thực
tiễn với mục tiêu đặt ra và tránh lãng phí nguồn lực.
Câu 4: Phân tích khái niệm môi trường quản trị
Môi trường quản trị chỉ các định chế hay lực lượng bên trong và bên ngoài
có ảnh hưởng đến hoạt động quản trị của tổ chức. Theo Robbins, nhà quản trị
chỉ có ảnh hưởng giới hạn đến kết quả hoạt động của tổ chức vì tổ chức có
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả của tổ chức mà nhà quản trị không thể kiểm
soát, khống chế được nó. Chúng là các yếu tố của môi trường bên trong và bên
ngoài tổ chức. Nhà quản trị ở cấp nào và lĩnh vực nào cũng bị chi phối bởi các
yếu tố môi trường bên ngoài (vĩ mô và vi mô) và môi trường bên trong của tổ
chức ở các mức độ khác nhau. Các yếu tố của môi trường quản trị luôn vận
động, tương tác lẫn nhau, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động
quản trị một tổ chức. Tình hình suy thoái kinh tế dẫn đến sức mua giảm, sự thay
đổi của công nghệ, kỹ thuật dẫn đến trên thị trường xuất hiện sản phẩm mới có lOMoAR cPSD| 61787563
chất lượng tốt, giá rẻ, một cán bộ quản trị giỏi, một nhân viên thạo việc bỗng
nhiên xin đi khỏi công ty mà chưa có người thay thế tương xứng, sự thay đổi
của giá cả các yếu tố đầu vào… tất cả chúng đều ảnh hưởng đến hoạt động quản trị.
Câu 5: Phân tích ảnh hưởng của yếu tố môi trường chung tới hoạt
động quản trị trong tổ chức. Lấy ví dụ minh họa.
Môi trường chung ảnh hưởng đến hoạt động quản trị trong tổ chức bao gồm
các yếu tố kinh tế vĩ mô; yếu tố chính trị, luật pháp; yếu tố văn hóa, xã hội; yếu
tố công nghệ, kỹ thuật và yếu tố tự nhiên.
A) Các yếu tố kinh tế vĩ mô: Những biến động của các yếu tố kinh tế có thể tạo
ra cơ hội và cả những thách thức với doanh nghiệp. Để đảm bảo thành công
của hoạt động doanh nghiệp trước biến động về kinh tế, các nhà quản trị của
doanh nghiệp phải theo dõi, phân tích, dự báo biến động của từng yếu tố để đưa
ra các giải pháp, các chính sách kịp thời, phù hợp với từng thời điểm cụ thể
nhằm tận dụng, khai thác những cơ hội, giảm thiểu nguy cơ và đe dọa.
+ Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Chỉ số GDP bình quân đầu người cao tỷ lệ
thuận với mức thu nhập cũng như đời sống của người dân ở quốc gia đó. Khi
GDP tăng tức thu nhập, đầu tư, chi tiêu công của người dân tăng lên, nhu cầu
tiêu dùng hàng hóa cũng tăng lên và ngược lại, GDP giảm đồng nghĩa thu nhập
giảm theo và cầu hàng hóa giảm, gây ảnh hưởng tới cân bằng cung cầu thị
trường. Khi này nhà quản trị cần nắm bắt được thông tin để ra quyết định (hoạch
định, tổ chức, kiểm soát) đúng đắn trong những thời gian sắp tới.
+ Lạm phát: Lạm phát làm cho mức giá chung của các loại hàng hóa tăng lên
(hay nói cách khác là đồng tiền bị mất giá), khiến sức mua của đồng tiền giảm
xuống, cũng có nghĩa là thu nhập chung của người dân giảm xuống khiến cho
sức cạnh tranh tăng cao, hàng hóa khó tiêu thụ. Nhà quản trị nắm bắt được các
thông tin về tình hình lạm phát sẽ sáng suốt và đúng đắn hơn trong việc ra quyết
định trong các chu kì kinh doanh tiếp theo, hạn chế được các rủi ro, tránh những
tổn thất không đáng có.
+ Tỉ giá hối đoái: Tỉ giá hối đoái và lạm phát có mối quan hệ mật thiết với
nhau, chúng tác động qua lại lẫn nhau, khi tỉ giá hối đoái tăng (đồng nội tệ mất
giá) khiến sức mua của đồng tiền giảm hay nói cách khác là tăng lạm phát, tuy
nhiên đồng nội tệ mất giá tức hàng hóa của nước sở tại trên các nước nhập khẩu
khác sẽ giảm giá dẫn đến đẩy mạnh xuất khẩu, điều này đặc biệt có lợi cho các
doanh nghiệp xuất khẩu. Thông tin này yêu cầu nhà quản trị cần phải đặc biệt
quan tâm vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí, giá cả và sức cạnh tranh của
doanh nghiệp. Đây là minh chứng rõ ràng cho việc mỗi một mục tiêu vĩ mô đạt
được đều có sự đánh đổi bởi mục tiêu vĩ mô khác. lOMoAR cPSD| 61787563
+ Lãi suất: Lãi suất là một công cụ thường được sử dụng trong chính sách tiền
tệ nhằm điều tiết sản lượng của cả nền kinh tế vĩ mô. Vì vậy mà nhà quản trị
cũng không thể bỏ qua vì doanh nghiệp chính là thuộc nền kinh tế vĩ mô đó. Lãi
suất tỉ lệ nghịch với sản xuất của doanh nghiệp, khi lãi suất tăng, doanh nghiệp
vay vốn ít đi, chí phí cao lên, giá thành sản phẩm cao lên dẫn đến sản lượng
giảm và ngược lại. Đặc biệt, nhà quản trị cũng phải quan tâm đến lạm phát khi
thị trường ở trạng thái bão hòa tức sức cạnh tranh lớn, khi lãi suất tăng lên, sẽ
thu hút FDI mạnh hơn, đồng nghĩa với việc cạnh tranh cũng tăng cao nhưng
thêm phần khó khăn vì đây là cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài.
+ Thuế: Thuế suất tăng dẫn đến chi phí đầu vào tăng, giá hàng hóa tăng, sức
mua giảm xuống, kéo theo cạnh tranh cao. Việc hạ thấp thuế suất sẽ tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp. Thuế suất áp dụng cho các ngành nghề, lĩnh vực, sản
phẩm ở mỗi giai đoạn có thể khác nhau đòi hỏi nhà quản trị phải linh hoạt trong
hoạch định kinh doanh, chiến lược sản phẩm, thị trường để tránh rủi ro và kinh doanh có lợi.
+ Tiền lương và thu nhập: Tác động đến giá thành và nguồn nhân lực của doanh nghiệp:
Thu nhập hay nó phản ánh tới mức sống của người dân. Người tiêu dùng
sẽ chi tiêu những sản phẩm phù hợp với điều kiện kinh tế. Vì thế, doanh nghiệp
phải phân loại từng bậc sản phẩm để mọi khách hàng có thể biết đến và tiêu
dùng sản phẩm của doanh nghiệp.
Tiền lương của công nhân, nhân viên là yếu tố chính quyết định đến
nguồn nhân lực của doanh nghiệp; bởi tiền lương chính là nguồn sống của hầu
hết mọi người; mức lương thường được đặt lên hàng đầu trong tâm lí và đó
cũng chính là nguồn hứng khởi cho họ làm việc. Các nhà quản trị phải có chính
sách cụ thể quy định về mức tiền lương phù hợp với năng lực làm việc của mỗi
người, có sự thưởng, phạt công minh để tạo ra sự hài lòng, tin tưởng trong môi
trường làm việc. Có sự khuyến khích những sáng kiến mới sáng tạo để tạo hứng
khởi trong công việc; các nhà quản trị cũng cần có chính sách đặc biệt với
những công nhân, nhân viên có tuổi nghề lâu năm để trong tâm lí của họ có sự
gắn bó lâu dài với doanh nghiệp.
Ví dụ : Tập đoàn Vingroup trong bối cảnh nền kinh tế “ảm đạm”: Nền
kinh tế của Việt Nam trong năm 2012 với tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 5,03%
đây là mức tăng trưởng thấp nhất trong vòng 12 năm qua . Kèm theo các chỉ số
về lạm phát đạt 6,81%. Mức lãi suất cho vay dao động trong khoảng 12-15%.
Tình hình, thị trường tiêu dùng trong nước ảm đạm và chưa thấy dấu hiệu phát lOMoAR cPSD| 61787563
triển. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản con số thống kê vào cuối năm 2012 là khoảng
55000 doanh nghiệp. Điều này ảnh hưởng tới sự giảm về khách hàng mua và sử
dụng dịch vụ của Tập đoàn Vingroup. Thị trường bất động sản chung đang bị
đóng băng bởi hàng tồn kho lớn, và chi phí nguyên vật liệu gia tăng. Tuy bối cảnh
kinh tế có sự ảm đạm, nổi lên trong đó vẫn có các thành phố lớn đang phát triển
có tốc độ phát triển cao như Đà Nẵng , Bình Dương. Đây là các thị trường tiềm
năng của Tập đoàn Vingroup. Chính vì thế mà tập đoàn quyết định phát triển tiềm
năng ở các thành phố lớn này như việc xây dựng các trung tâm thương mại tại
các thành phố Đà Nẵng, Bình Dương, phát triển dự án dịch vụ nghĩ dưỡng,…
B) Yếu tố chính trị, luật pháp
Bên cạnh đó, yếu tố chính trị pháp luật cũng ảnh hưởng đến hoạt động quản
trị của các tổ chức. Ổn định chính trị là điều kiện cần thiết, khách quan để phát
triển kinh tế đất nước vì các doanh nghiệp là những tế bào của đất nước. Các
nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước, hệ thống luật pháp đúng đắn,
phù hợp với thực tiễn thị trường sẽ thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp trong
kinh tế thị trường. Mở cửa, hội nhập nền kinh tế có tác động định hướng chung
đối với nền kinh tế và doanh nghiệp vừa có thể tạo thời cơ song cũng có thể là
rủi ro mà trong quản trị doanh nghiệp phải tính đến để đưa ra những quyết định
quản trị cả về chiến lược lẫn tác nghiệp phù hợp.
Ví dụ: Các cuộc bạo động diễn ra ở các nước Trung Á ngày càng nhiều. Vô
tình làm cho các doanh nghiệp không thể hoạt động bình thường. Vì thế làm ảnh
hưởng đến lợi nhuận của các doanh nghiệp.
C) Yếu tố văn hóa, xã hội
Trên thực tế hiện nay cho thấy, Quản trị Doanh nghiệp là hoạt động đòi hỏi
rất nhiều kinh nhiệm, tư duy và sự nhạy bén. Bên cạnh đó, thì Quản trị Doanh
nghiệp còn phải chịu tác động bởi rất nhiều những yếu tố từ môi trường xung
quanh. Cụ thể, một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công
hay thất bại của Doanh nghiệp chính là yếu tố văn hóa. Vì ở đây, yếu tố văn hóa
bao hàm những yếu tố văn hóa xã hội nói chung và những yếu tố văn hóa của Doanh nghiệp nói riêng.
Đầu tiên ta có thể thấy, yếu tố văn hóa – xã hội nói chung là yếu tố tác động
từ môi trường bên ngoài. Văn hóa – xã hội sẽ bao gồm những chuẩn mực,
phong tục tập quán, nhân khẩu học…và các giá trị được công nhận, được tôn
trọng trong một xã hội hoặc một nền kinh tế cụ thể. Bên cạnh đó, văn hóa – xã
hội còn ảnh hưởng hay bao hàm đến tất cả các yếu tố như dân số, trình độ học
vấn, nghề nghiệp…. Nếu một trong những yếu tố văn hóa – xã hội trên có sự
thay đổi thì sẽ tác động trực tiếp đến sự thay đổi của môi trường kinh tế và ảnh
hưởng đến chiến lược kinh doanh của Doanh nghiệp. Như vậy, những hiểu biết lOMoAR cPSD| 61787563
về mặt văn hóa – xã hội sẽ là cơ sở rất quan trọng cho các nhà quản trị trong quá
trình đưa ra chiến lược kinh doanh mới của Doanh nghiệp. Việc nắm chắc môi
trường dân số, nghề nghiệp, học vấn sẽ cung cấp cho nhà quản trị những thông
tin, dữ liệu quan trọng trong việc hoạch định chiến lược sản phẩm, thị trường,
phân phối, quảng cáo và tiếp thị. Các thông tin về yếu tố văn hóa – xã hội như
phong tục tập quán, đặc điểm nhân khẩu học sẽ giúp cho các nhà quản trị nắm
được tâm lý, suy nghĩ, hành động và phong cách tiêu dùng của khách hàng đến
các khúc thị trường khác nhau. Cụ thể, thì các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ đưa
ra được những con số cụ thể, những nhu cầu về chủng loại, chất lượng, số
lương, hình dáng, mẫu mã của hàng hóa hay dịch vụ đặc trưng cho các phong
cách trừu tượng đó. Các nhà quản trị phải hiểu được rằng: “muốn kinh doanh có
hiệu quả thì các nhà quản trị phải điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình
phù hợp với lối sống, đạo đức của xã hội hiện tại”.
Ví dụ minh họa: Yếu tố văn hóa – xã hội nói chung: Theo khoa học thì cá
chép vàng là một loài cá hoàn toàn có thể ăn được và không hề ảnh hưởng đến
sức khỏe của con người. Nhưng theo phong tục, tín ngưỡng của những người
Việt Nam thì cá chép vàng là một loài cá vô cùng linh thiêng, mang đến yếu tố
tâm linh vì cá chép vàng gắn liền với những truyền thuyết như: cá chép vượt vũ
môn hóa rồng; cá chép tiễn ông Công ông Táo về trời… Bởi vậy mà người dân
Việt Nam không ai ăn cá vàng mà ngược lại còn rất tôn trọng chúng và coi đó là
một con vật của bậc thần linh ở trên trời. Hiểu được điều đó, mà các hoạt động
quản trị của các Doanh nghiệp sản xuất thực phẩm ăn uống, chế biến thức ăn
đóng hộp sẽ không lựa chọn cá chép vàng để làm nguyên liệu. Nhưng ngược lại,
những Doanh nghiệp đã nắm bắt cơ hội về sự linh thiêng của cá chép vàng nên
đã lai giống và đã mở những cửa hàng bán cá chép vàng để người dân mua về
làm cảnh nhằm tạo phong thủy tốt, cầu mong sự may mắn cho gia đình.
Bên cạnh những yếu tố tác động từ bên ngoài thì yếu tố tác động ở bên trong
của Doanh nghiệp là văn hóa doanh nghiệp cũng tác động to lớn đến hoạt động
quản trị. Trong hoạt động quản trị của Doanh nghiệp thì văn hóa Doanh nghiệp
được thiết lập nhằm đào tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc thực hiện sứ
mạng, mục tiêu và chiến lược dài hạn của Doanh nghiệp. Văn hóa Doanh nghiệp
bao gồm những giá trị, niềm tin, những chuẩn mực, quy tắc, nguyên tắc hay
khuôn mẫu có tác động định hướng các kết quả và các hành vi của người lao
động. Có thể thấy, văn hóa Doanh nghiệp chính là công cụ, phương tiện mà
thông qua đó nhà quản trị thực hiện công việc quản lý của mình. Thực tế đã cho
ta thấy rằng, nếu một tổ chức có nền văn hóa Doanh nghiệp mạnh thì sẽ làm
tăng thêm sự quyết tâm của các thành viên, sẽ tự nguyện chiến đấu vì giá trị và
chiến lược chung của Doanh nghiệp chứ không phải chỉ về mức tiền lương hay
tiền thưởng. Nhờ vậy, mà hoạt động quản trị Doanh nghiệp trở lên vô cùng dễ lOMoAR cPSD| 61787563
dàng và đạt được hiệu quả cao. Trái ngược lại, nếu nền văn hóa Doanh nghiệp
“yếu kém” thì sẽ dẫn đến tình trạng mơ hồ, mọi quyết tâm và nhiệt huyết của
nhân viên bị giảm sút, mâu thuẫn, hỗn độn, mất phương hướng. Điều này sẽ làm
cho hoạt động quản trị gặp vô vàn khó khăn, căng thẳng, không đạt được những
mục tiêu của Doanh nghiệp. Bên cạnh đó, văn hóa Doanh nghiệp còn ảnh hưởng
đến quyết định của các nhà quản trị và định hình phong cách lãnh đạo của họ.
Qua đây, yếu tố văn hóa là vô cùng quan trọng và có ảnh hưởng to lớn đến hoạt
động quản trị Doanh nghiệp. Với các yếu tố văn hóa – xã hội thì sẽ giúp cho
quản trị Doanh nghiệp nắm chắc được những con số, thông tin liên quan đến
phong cách của người tiêu dùng trên thị trường để từ đấy đưa ra những chiến
lược kinh doanh. Còn với yếu tố văn hóa của bản thân Doanh nghiệp thì sẽ giúp
hoạt động quản trị trở nên dễ dàng điều hành nhân viên. Và khi xây dựng được
một văn hóa Doanh nghiệp tốt thì chứng tỏ hoạt động quản trị tốt.
Ví dụ y ếu tố văn hóa bản thân Doanh nghiệp: Google là một công ty đã
phát triển với văn hóa Doanh nghiệp độc nhất. Cụ thể, là những buổi ăn trưa
miễn phí, phòng gym miễn phí, kì nghỉ, tiệc tùng cho nhân viên, hoa hồng tài
chính và những biểu thuyết trình trực tiếp với lãnh đạo…. CEO của Google là
Sundar Pichai là một người gốc Ấn và ông đi lên từ vị trí thấp nhất nên ông rất
thấu hiểu, quan tâm, chia sẻ và đáp ứng những nhu cầu cá nhân của nhân viên
để họ có một môi trường làm việc thoải mái nhất có thể. Chính vì vậy, mà hoạt
động quản trị của Google diễn ra vô cùng thuận lợi và nhân viên của Google
được biết tới như những người tài năng, xuất chúng nhất thế giới
(Cùng với yếu tố chính trị pháp luật, yếu tố văn hóa, xã hội cũng ảnh hưởng
đến hoạt động quản trị của tổ chức. Bởi quản trị tổ chức liên quan đến vấn đề sử
dụng nguồn nhân lực, khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh mà yếu tố
văn hóa truyền thống, phong tục tập quán, các chuẩn mực xã hội, đạo đức sẽ chi
phối mạnh mẽ đến người lao động trong tổ chức doanh nghiệp, hành vi của
khách hàng, nhà cung cấp và đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh. Cùng với đó
là xu hướng toàn cầu hóa sẽ dẫn đến sự đa dạng về văn hóa, lối sống của các đối
tượng này mà quản trị tổ chức, doanh nghiệp cần phải có nội dung, cách thức thích hợp. )
- Ví dụ về ảnh hưởng văn hóa vùng miền +
Cách làm việc của nhà quản trị miền Bắc:
Người Bắc sống theo kiểu làng xã, bảo thủ, để ý, xét nét vì thế mà nhà quản
trị miền Bắc có phong cách riêng của họ
Thích sự sang trọng nhưng phải thể hiện rõ được đẳng cấp chứ không phải dựa vào sự thoải mái lOMoAR cPSD| 61787563
Nhà quản trị ở miền bắc tự tin vào năng lực, địa vị của mình, đối với nhân
viên vẫn có khoảng cách và thường xuyên thúc ép nhân viên làm việc nghiêm túc, nhanh chóng
Nhà quản trị miền Bắc là người độc lập và quyết đoán, Họ có thể tự tạo ra
một bản kế hoạch mà không cần quan tâm nhiều đến ý kiến của nhân viên. Họ
giải quyết tốt các vấn đề khó khăn của công ty nhưng lại thường theo ý kiến chủ quan của bản thân
Họ chú trọng đặc biệt đến năng lực của nhân viên, ai giỏi ai tốt sẽ được
trọng dụng. Hơn nữa họ không chỉ chú trọng đến kết quả mà còn chú trọng cả
quá trình hoàn thành công việc
Họ nghiêm khắc và kỉ luật cao
+ Cách làm việc của nhà quản trị miền Trung: Người miền trung quanh năm
phải chịu nhiều thiên tai thiệt thòi, nhưng với đức tính chịu thương chịu khó, họ
không ngừng cố gắng vươn lên. Vì thế, những khổ cực ấy đã đúc kết nên phong
cách lãnh đạo của riêng họ. Cụ thể như sau:
Miền trung không quá chú trọng vào cách ăn mặc vì học muốn tạo cảm giác
thoải mái nhất khi giao tiếp
Đối với những chiến lược phân khúc thị trường, những ông sếp miền Trung
thường không thích sự đổi mới, thay vào đó là việc mở thêm các đại lý, chi
nhanh cho khách hàng tiếp cận với sản phẩm của họ tốt hơn
Nhà quản trị luôn lắng nghe ý kiến của nhân viên vì họ hiểu rằng việc đoàn
kết mới có thể giải quyết được mọi vấn đề
Nhà quản trị miền trung thường lưỡng lự với những quyết định của mình
không chắc chắn nên họ sẵn sàng nghe góp ý của nhân viên và từ đó sếp và
nhân viên thân thiện với nhau
D) Yếu tố công nghệ, kỹ thuật
Công nghệ, kỹ thuật là yếu tố cơ bản quyết định năng lực cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh bền vững của doanh nghiệp. Đồng thời, đây cũng là yếu tố
vừa có thể đem lại thời cơ song cũng là những thách thức to lớn trong kinh
doanh và quản trị doanh nghiệp. Phần thắng sẽ dành cho các doanh nghiệp có
năng lực dự báo, phân tích, lựa chọn, tiếp nhận và khai thác thành tựu khoa học,
kỹ thuật, công nghệ và ứng dụng chúng có hiệu quả vào hoạt động kinh doanh quản trị.
Ví dụ 1: Với sự ra đời của các thiết bị công nghệ hiện đại ngày càng nhiều.
Nó làm xuất hiện và tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm cạnh tranh.
Qua đó đe dọa các sản phẩm lỗi thời khiến cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn. Điều đó bắt họ phải giải quyết các sản phẩm lỗi thời đó. lOMoAR cPSD| 61787563
Ví dụ 2: Mới đây nhất là sự ra đi của một ông hoàng 1 thời của công nghệ
thông tin. Yahoo vào những năm 2000 là một ứng dụng chát hàng đầu thế giới.
Thế nhưng sự ra đời của những điện thoại thông minh đã thay đổi tất cả. Chậm
chạp trong việc chuyển đổi công nghệ, Yahoo đã không giữ được vị thế của
mình. Những công ty công nghệ như Facebook, Google đã ra đời thay thế.
E) Yếu tố tự nhiên
Yếu tố tự nhiên bao gồm khí hậu, thủy văn, địa lý, địa hình, các nguồn tài
nguyên thiên nhiên… là nguồn lực đem lại cuộc sống cho con người. Lối sống,
sinh hoạt và các nhu cẩu của con người chịu sự chi phối mạnh mẽ của các yếu tố
tự nhiên. Việc khai thác, sử dụng các yếu tố tự nhiên thiếu khoa học, hợp lý
cũng dẫn đến tàn phá môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến con người. Do đó,
trong kinh doanh và quản lý cần phải có kế hoạch khoa học, hợp lý để khai thác
và bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường là cái nôi mà con người đang sống.
Doanh nghiệp cần phải thể hiện trách nhiệm xã hội, đạo đức nghề nghiệp trong vấn đề này.
Ví dụ: Với nguồn năng lượng sạch hiện tại ở Việt Nam đang là ưu thế. Nó
đang được nhiều doanh nghiệp quan tâm chú trọng đầu tư khai thác nguồn năng
lượng sạch này để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Quá đó giúp cho các doanh
nghiệp đạt được nhiều lợi nhuận.
Câu 6: Phân tích ảnh hưởng của yếu tố môi trường đặc thù tới hoạt
động quản trị trong tổ chức. Lấy ví dụ minh họa.
Trả lời Môi trường đặc thù (hay môi trường ngành) bao gồm các yếu tố: khách
hàng, nhà cung ứng, đối thủ cạnh tranh và các cơ quan hữu quan. A) Khách hàng
Khách hàng là người mua sản phẩm của doanh nghiệp. Mua cái gì? Có mua
hay không? Cách thức mua như thế nào? Khi nào mua? Là những thông tin mà
doanh nghiệp cần phải có để có kế hoạch đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu
doanh nghiệp đáp ứng được tốt các nhu cầu của họ thì sẽ tồn tại và phát triển,
ngược lại sẽ thất bại.
Doanh nghiệp cần tạo được sự tín nhiệm của khách hàng, đây là tài sản quý
giá của doanh nghiệp. Muốn vậy, phải xem “khách hàng là thượng đế”, phải
thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng hơn đối thủ cạnh tranh. Muốn đạt
được điều này doanh nghiệp phải xác định rõ các vấn đề sau:
Xác định rõ khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp
Xác định rõ nhu cầu và hành vi mua hàng của khách hàng bằng cách phân tích
các đặc tính của khách hàng qua các yếu tố như: yếu tố mang tính hành vi tiêu
dùng (tìm kiếm lợi ích, tính trung thành trong tiêu thụ,..), yếu tố tâm lý (thói
quen, sở thích,..); yếu tố xã hội, dân số (trình độ, nghề nghiệp,...)... Để thấy rõ lOMoAR cPSD| 61787563
được ảnh hưởng của yếu tố khách hàng tới hoạt động quản trị doanh nghiệp thì
ta cần tìm hiểu ảnh hưởng của yếu tố khách hàng vào từng hoạt động hoạch
định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm soát.
a, Ảnh hưởng của yếu tố khách hàng tới hoạt động hoạch định trong doanh nghiệp.
- Trong sứ mệnh của các doanh nghiệp đã đề ra thiên hướng hoạt động và
lýdo tồn tại của tổ chức thì bị ảnh hưởng một phần do yếu tố khách hàng. Nó
thể hiện họ muốn xây dựng một doanh nghiệp như thế nào trong cái nhìn của khách hàng.
- Mục tiêu cụ thể của các doanh nghiệp mang những đặc trưng như tính đo
được và cụ thể, tính định hướng, tính thành quả thì cái gốc vẫn hướng về khách
hàng xây dựng công ti sao cho gần gũi với nhu cầu của khách hàng và tiếp cận
nhiều khách hàng vì từ khách hàng mới giúp công ti có doanh thu, doanh số…
nếu doanh nghiệp đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng thì sẽ tồn tại và
phát triển ngược lại thì sẽ thất bại.
- Trong quá trình xác định chiến lược thì có một bước quan trọng là phân
tích và đánh giá môi trướng (trong, ngoài) phần không thể thiếu trong đánh giá
môi trường là yếu tố khách hàng. Yếu tố khách hàng quyết định kế hoạch của
công ty trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
- Yếu tố khách hàng có tác động đến tất cả các loại hoạch định như hoạch
định chiến lượt, hoạch định chiến thuật và tác động rõ nét nhất là hoạch định tác
nghiệp bởi vì nhiều thời thì nhất định có tính đặc thù của nhu cầu khách hàng
nhữ lễ, tết… thì kiểu hoạch định với phạm vi hẹp và thời gian ngắn như hoạch
định tác nghiệp rất phụ thuộc vào yếu tố khách hàng.
b, Ảnh hưởng của yếu tố khách hàng tới hoạt động tổ chức trong doanh nghiệp.
- Trong cơ cấu tổ chức thì việc luôn luôn nâng cao trình độ quản trị viên và
trang thiết bị hiện đại, tối tân giúp chất lượng và năng suất tăng cao để tạo ra
những sản phẩm một cách nhanh chóng và chất lượng vì yêu cầu và đòi hỏi của
khách với sản phẩm hàng ngày càng nâng cao về cả chất lượng và số lượng.
- Công tác phân công lao động: Việc phân công lao động hợp lý sẽ tạo điều
kiện cho cán bộ công nhân viên thực hiện tốt công việc của mình, đáp ứng được
các yêu cầu của khách hàng. Chăm sóc khách hàng là một trong những hoạt
động quan trọng của doanh nghiệp vì vậy cũng bị ảnh hưởng bởi công tác phân công lao động.
- Bộ máy chăm sóc khách hàng: tác động của khách hàng góp phần lớn
trong việc cấu thành bộ phận này. Nếu doanh nghiệp tổ chức bộ máy chăm sóc
khách hàng một cách khoa học, chuyên nghiệp thì đội ngũ nhân viên sẽ thực lOMoAR cPSD| 61787563
hiện tốt, do không phải kiêm nhiệm nhiều công việc từ đó đáp ứng nhu cầu khách hàng tốt hơn.
- Cấu trúc tổ chức theo khách hàng: chia tổ chức thành các nhánh đảm
nhận việc phục vụ đối tượng khách hàng nào đó. Mỗi đơn vị tập trung vào thỏa
mãn nhu cầu từng nhóm khách hàng chuyên biệt.
- Cấu trúc theo khu vực địa lý: mỗi vùng miền thì đặc trưng nhu cầu tại
khuvực đó là khác nhau và cơ cấu tổ chức cũng phải thay đổi để phù hợp với
nhu cầu khác hàng tại đó.
c, Ảnh hưởng của yếu tố khách hàng tới hoạt động lãnh đạo của doanh nghiệp.
- Nhà lãnh đạo cần thấy rõ và truyền đạt cho mọi nhân viên trong công ti
nhận thức tốt về vai trò của khách hàng và chăm sóc khách hàng thì hoạt động
chăm sóc khách hàng mới được thực hiện tốt và có hiệu quả.
- Chính sách của nhà lãnh đạo đối với nhân viên: vì ảnh hưởng của khách
hàng rất lớn đến việc thành bại của công ti nên đội ngũ chăm sóc khác hàng
cũng cần được chú trọng. Nếu có các chính sách phù hợp nhằm khuyến khích
động viên nhân viên của mình thì các nhân viên này sẽ thực hiện hoạt động
chăm sóc khách hàng một cách tích cực và hiệu quả. Ngược lại, nếu không động
viên khen thưởng kịp thời sẽ tạo tâm lý chán nản, không muốn làm việc trong đội ngũ nhân viên.
d, Ảnh hưởng của yếu tố khách hàng tới hoạt động kiểm soát của công ty. -
Xác định tiêu chuẩn kiểm soát: trên khía cạnh sản phẩm để phục vụ khách
hàng dựa trên yêu cầu khách hàng đối với chất lượng sản phẩm đầu ra của công
ti dể đưa ra một tiêu chuẩn kiểm soát phù hợp với nhu cầu ấy của khách hàng.
- So sánh với tiêu chuẩn: dựa trên khía cạnh sản phẩm để phục vụ khách
hàng là đảm bảo được rằng sản phẩm trước khi đến tay khách hàng thì phải đạt
được những tiêu chuẩn nhất định mà công ti đã đề ra từ trước.
- Tiến hành điểu chỉnh: với sản phẩm thành quả dựa trên phản ảnh của
khách hàng với sản phẩm đó thì sẽ có những thay đổi để phù hợp với khách hàng nhất có thể.
→ Như vậy: Tất cả hoạt động hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát của
doanh nghiệp đều dựa trên thông tin về nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, khả
năng mua, hành vi và cách thức mua hàng của khách hàng; phải tính đến sự tín
nghiệm của khách hàng để tạo dựng và phát triển chữ tín, phát triển thương
hiệu; phải luôn chủ động thiết lập kênh thông tin về khách hàng, chủ động trong
dự báo thay dổi về nhu cầu, thị hiếu hành vi mua của khách hàng, cập nhật
nhanh chóng, chính xác các thông tin này trong việc ra quyết định kinh doanh
và quản trị của công ty lOMoAR cPSD| 61787563
Ví dụ: Công ty TNHH Sản Xuất Hàng Tiêu Dùng Bình Tiên (Biti’s) là một
trong những “doanh nghiệp tên tuổi” đi đầu trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh
giày dép. Ở Việt Nam, khi nhắc đến giày dép, người ta nghĩ ngay đến Bitis -
“Nâng niu bàn chân Việt”. Năm 2002, Bitis bán hàng sang Lào thông qua Công
ty Xuất nhập khẩu Phouphet. Tại lần đầu tiên thâm nhập vào thị trường Lào, các
sản phẩm của Bitis bán rất chạy. Tuy nhiên, khi sự hiếu kỳ qua đi thì Bitis và
Phouphet đối mặt với tình trạng suy giảm lượng hàng bán. Ngoài sự cạnh tranh
mạnh mẽ từ các sản phẩm của Trung Quốc và Thái Lan thì còn có một số
nguyên nhân ẩn chứa. Qua nghiên cứu, nguyên nhân chính khiến cho các sản
phẩm của Bitis bị khách hàng Lào từ chối đến từ màu sắc các sản phẩm của
Bitis. Màu sắc đóng vai trò quan trọng trong đức tin của văn hoá Lào. Sự phản
đối mạnh mẽ khách hàng Lào đối với màu tím xuất phát từ quan niệm rằng màu
tím gắn với sự tan vỡ. Do đó mọi người không muốn mua giày màu tím vì
không muốn gặp rủi ro. Do không hiểu điều này nên Bitis bán một lượng lớn
giày màu tím sang thị trường Lào. Khi giày màu tím được bày bán thì không có
khách hàng người Lào nào động tới. Thậm chí ngay khi những đôi giày tím
được mang cho học sinh các trường học ở địa phương thì ngay lập tức bố mẹ
chúng mang trả lại cửa hàng. Là người tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ của doanh
nghiệp, khách hàng là một yếu tố quyết định đầu ra của sản phẩm. Ví dụ trên
cho thấy một điều đó là: không có khách hàng các doanh nghiệp sẽ gặp khó
khăn trong tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ của mình. Như vậy, khách hàng và
nhu cầu của họ nhìn chung có những ảnh hưởng hết sức quan trọng đến các hoạt
động về hoạch định chiến lược và sách lược kinh doanh của mọi công ty. Tìm
hiểu kỹ lưỡng và đáp ứng đầy đủ nhu cầu cùng sở thích thị hiếu của khách hàng
mục tiêu sống còn cho mỗi doanh nghiệp nói chung và hệ thống quản trị của nó nói riêng.
Ví dụ: Hãng hàng không Cathay Pacific đã giới thiệu vé thương gia mới sau
18 tháng nghiên cứu các nhu cầu của khách hàng cao cấp tăng độ tiện dụng và
thoải mái cho khách hàng. Ta thấy được hãng bay đã đặt yếu tố khách hàng lên
hàng đầu khi đã dành nguyên một bộ phận nhận sự chuyên nghiên cứu về nhu
cầu của khách hàng trong 18 tháng trước đi vé thương gia được mở và đi vào
phục vụ khách. Yếu tố khách hàng đã quyết định đến việc mở rộng thêm dịch vụ
và tạo ra thêm nhiều mục tiêu mới hãng bay cũng như có cơ cấu tổ chức tiếp
viên mới, chất lượng hơn để hợp với tập khách hàng chất lượng cao này. B) Nhà cung ứng:
Nhà cung ứng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp bao gồm: cung ứng vốn,
lao động hàng hóa, nguyên vật liệu, công nghệ và thông tin. Các yếu tố đầu vào
ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng đầu ra – các sản phẩm mà doanh nghiệp
cung ứng cho thị trường. Quyết định tính thường xuyên, đều đặn của hoạt động lOMoAR cPSD| 61787563
kinh doanh, chất lượng, giá cả, khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Do đó, khi
xây dựng kế hoạch và phát triển các hoạt động tác nghiệp phải tính đến năng lực
nhà cung cấp, đến uy tín của họ và luôn phải có phương án dự phòng để đảm
bảo hoạt động kinh doanh có thể diễn ra thường xuyên, đều đặn mới đảm bảo
thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tổ chức thiết lập, duy
trì các mối quan hệ tốt với nhà cung ứng, luôn có thông tin đầy đủ, chính xác về
nhà cung ứng để có quyết định đúng đắn, hữu hiệu trong cung ứng. Ví dụ:
Amazon là một công ty thương mại điện tử đa quốc gia lớn nhất thế giới được
Jeffrey P.Bezos thành lập vào năm 1994 và đưa nó trực tuyến trong năm 1995.
Vừa qua Amazon đã bị tố vì chèn ép nhà cung ứng bằng điều khoản vô lý. Theo
Wall Street Journal, Amazon đã yêu cầu một số nhà cung cấp nhất định phải
cung cấp cho Amazon quyền mua cổ phiểu ở mức thấp hơn so với thị trường
như là một phần trong hợp đồng giữa Amazon và các công ty này. Amazon
thường ràng buộc các điều khoản chứng quyền với mức độ dịch vụ mà nó mang
lại cho nhà cung cấp. Trong một thỏa thuận với Startek Inc., hãng cung cấp dịch
vụ call – center có trụ sở tại Colorado đã đồng ý cho Amazon quyền mua 20%
cổ phẩn của mình nếu Amazon thực hiện phi vụ kinh doanh trị giá 600 trị USD
với Startek trong 8 năm. Từ một nhà cung cấp, Amazon đã biến nó thành một cổ
đông lớn trong đó. Chính việc Amazon trở thành cổ đông lớn thứ hai của Startek
mang lại nhiều cơ hội hơn cho họ. Khi Amazon trở thành cổ đông như thế, họ đã
quyền lớn trong tay, trong việc đảm bảo cung cấp một phần nguyên liệu cho các
yếu tố đầu vào trong sản xuất. Họ đã có thể tự chủ cả trong việc cung cấp
nguyên liệu cho chính mình. Họ sẽ biết được tiến bộ cung ứng sản phẩm của các
yếu tố, đảm bảo mọi hoạt động diễn ra theo đúng kế hoạch. C) Đối thủ cạnh tranh:
“Đối thủ cạnh tranh là những tổ chức hay cá nhân có khả năng thỏa mãn nhu
cầu các khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp bằng cùng một loại sản phẩm
hoặc những sản phẩm có khả năng thay thế những sản phẩm của doanh nghiệp”.
Sự cạnh tranh là điều tất yếu diễn ra trong thị trường, nó là một trong những yếu
tố giúp thúc đẩy sản xuất phát triển và dịch vụ tốt hơn. Trong hoạt động kinh
doanh, quản trị của doanh nghiệp không thể tránh khỏi sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong cùng một ngành nghề thậm chí cạnh tranh từ những cá nhân,
doanh nghiệp có các ngành nghề tương đồng. Vì vậy, việc tìm hiểu, phân tích,
hiểu rõ đối thủ cạnh tranh sẽ giúp doanh nghiệp đưa ra được các chiến lược
marketing và kinh doanh phù hợp hơn. Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp bao
gồm đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm ẩn.
Đối thủ cạnh tranh hiện tại
Được hiểu là tổ chức cung cấp các sản phẩm, dịch vụ cùng loại sản phẩm
dịch vụ của doanh nghiệp đang sản xuất, cung cấp. Tìm hiểu và phân tích về đối lOMoAR cPSD| 61787563
thủ cạnh tranh hiện tại có một ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp, bởi
vì sự nghiệp của các đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt đông và
kết quả của doanh nghiệp. Ví dụ điển hình của cạnh tranh trực tiếp là những
“cặp đôi” như: Adidas – Nike, Coca Cola - Pepsi, Apple - Samsung, OMO -
Tide... Mức độ cạnh tranh này cao hay thấp đều phụ thuộc vào sự tương tác giữa
nhiều yếu tố như số lượng cá nhân, doanh nghiệp tham gia vào ngành nghề lĩnh
vực đó, mức độ tăng trưởng của ngành, cơ cấu chi phí cố định hay mức độ đa
dạng hóa sản phẩm… Vì vậy, doanh nghiệp cần phân tích đối với từng đối thủ
cạnh tranh về mục tiêu tương lai, định vị thương hiệu của họ, chiến lược họ
đang thực hiện, tiềm năng của họ có thể đạt được. Để doanh nghiệp có thể nắm
và đưa ra được những biện pháp phản ứng kịp thời và phù hợp.
Ví dụ: Sự cạnh tranh của 2 hãng nước uống giải khát hàng đầu thế dới là
Pepsi và CocaCola. Trong lịch sử, Pepsi và CocaCola đã từng có những chiến
lược cạnh tranh bắt chước về sản phẩm, thậm chỉ là cạnh tranh về giá để trả đũa
nhau. Khi Pepsi tung ra thị trường dòng sản phẩm nước uống đóng chai dành
cho người ăn kiêng Diet Pepsi, thì ngay lập tức CocaCola cũng tung ra sản phẩm Diet Coke
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn bao gồm các đối thủ tiềm ẩn (sẽ xuất hiện trong
tương lai) và các đối thủ mới tham gia thị trường, đây cũng là những đối thủ gây
nguy cơ đối với doanh nghiệp. Họ đã đưa vào các năng lực sản xuất tương đối
mới với mong muốn giành được thị phần và các nguồn lực cần thiết khác. Để
đối phó với những đối thủ này, doanh nghiệp cần nâng cao vị thế cạnh tranh của
mình, đồng thời sử dụng những hàng rào hợp pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bên
ngoài như: duy trì lợi thế do sản xuất trên quy mô lớn, đa dạng hóa sản
phẩm, tạo ra nguồn tài chính lớn, khả năng chuyển đổi mặt hàng cao, khả năng
hạn chế trong việc xâm nhập các kênh tiêu thụ, ưu thế về giá thành mà đối thủ
không tạo ra được và sự chống trả mạnh mẽ của các đối thủ đã đứng vững.
Ví dụ: Các công ty điện lực rõ ràng có thể trở thành đối thủ cạnh tranh của
các công ty viễn thông nếu họ tận dụng lợi thế vốn tài chính và mạng lưới điện
tử sẵn có của mình để xâm nhập thị trường mạng điện thoại không dây, tuy
nhiên, với những rào cản như quy định chống độc quyền, hay mục tiêu chiến
lược của mình, nên các công ty điện lực vẫn chưa mở rộng sang ngành viễn thông.
→ Cạnh tranh luôn tồn tại khách quan trong kinh tế thị trường trong tư duy cạnh
tranh ngày nay người ta không coi “thương trường là chiến trường” mà cạnh
tranh theo hướng cạnh tranh để phát triển “vừa cạnh tranh, vừa hợp tác” để tất
cả đều chiến thắng. Để có thể tồn tại trong cạnh tranh, các doanh nghiệp cần
phải có thông tin cập nhật đầy đủ, chính xác về chiến lược, chiến thuật của đối lOMoAR cPSD| 61787563
thủ cạnh tranh từ đó có chiến lược, chiến thuật, các công cụ và biện pháp cạnh tranh hữu hiệu. Sản phẩm thay thế
Được hiểu là những sản phẩm của những doanh nghiệp cung ứng mang lợi
ích tương tự như sản phẩm của công ty nhưng lại theo một hình thức sản có
phần khác biệt. Sự cạnh tranh như vậy có thể là hình thức của một sản phẩm hay công nghệ tạo khác.
Sức ép do có sản phẩm thay thế sẽ làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của
ngành do mức giá cao nhất bị khống chế. Đa phần sản phẩm thay thế đều là kết
quả của sự phát triển công nghệ, muốn đạt được thành công các doanh nghiệp
cần chú ý việc dành nguồn lực để đẩy mạnh phát triển và vận dụng công nghệ
mới vào hoạt động kinh doanh của mình.
Ví dụ: Hãng Honda đã mở rộng thị trường và đa dạng hóa các dòng sản
phẩm của mình bao gồm cả các dòng xe máy, ô tô... nhằm đáp ứng nhu cầu đa
dạng của khách hàng và cạnh tranh với nhiều hãng khác. D) Các cơ quan hữu quan:
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp luôn chịu sự quản lý, tác động của
các cơ quan hữu quan như chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý thị
trường, hải quan, thuế vụ, công an. Các cơ quan hữu quan khác thực thi các
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, những
tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức
bảo vệ môi trường, cơ quan truyền thông đại chúng… cũng vừa là các tổ chức
có thể tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, song cũng có thể tạo ra áp
lực mà doanh nghiệp phải tính đến trong quá trình hoạt động.
Ví dụ: Chính quyền địa phương thường sẽ tạo điều kiện giúp đỡ doanh
nghiệp trên địa bàn phát triển bằng cách hỗ trợ về nguồn vốn, hay những vấn đề
liên quan đến ngành thuế. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần “sòng phẳng”
thực hiện thật tốt mọi quy định của pháp luật, lấy mục tiêu là phát triển bền vững.
Câu 7: Phân tích ảnh hưởng của yếu tố môi trường bên trong tới
hoạt động quản trị trong tổ chức. Lấy ví dụ minh họa.
A) Nguồn tài chính
Nguồn tài chính có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động quản trị. Tất cả các
hoạt động và quyết định quản trị đều phải có nguồn tài chính để thực hiện. Nếu
nguồn tài chính đầy đủ, dồi dào sẽ tạo thuận lợi cho việc ra quyết định và triển
khai các hoạt động của tổ chức, ngược lại sẽ khó triển khai hiệu quả kinh doanh,
thậm chí thua lỗ, phá sản. lOMoAR cPSD| 61787563
Ví dụ: Tài chính là công cụ nguồn lực phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nó giúp doanh nghiệp thể hiện được tiềm lực của mình. B) Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với sự thành
bại của một tổ chức. Thực chất của quản trị chính là quản trị con người. Nhà
quản trị cần nhận thức đầy đủ tiềm năng, thế mạnh của con người trong tổ chức,
biết tạo điều kiện, môi trường và động lực để khai thác triệt để và phát triển các
tiềm năng, thế mạnh đó. Khác với các nguồn lực khác, để thu hút và sử dụng
nguồn nhân lực hiệu quả, nhà quản trị cần xây dựng và phát triển văn hóa tổ
chức, tạo những nét đặc trưng, thế mạnh cho tổ chức trong hoạt động và quản
trị. Ví dụ: Đối với các doanh nghiệp nhỏ lẻ ở Việt Nam hiện nay, vấn đề khó
khăn nhất là việc giữ chân nhân tài. Để giữ chân được nhân tài thì đòi hỏi cả xã
hội, Nhà nước, và chính doanh nghiệp cần có sự nhìn nhận đúng đắn về giá trị
của những lao động, đặc biệt là lao động chất lượng cao, để có những chính
sách lương thưởng, hay những ghi nhận thích đáng đồng thời phải tạo được môi
trường cạnh tranh lành mạnh để thu hút người tài.
C) Cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ
Cùng với nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, kỹ thuật,
công nghệ cũng ảnh hưởng đến hoạt động quản trị. Các quyết định quản trị và
triển khai các hoạt động của nhà quản trị phải dựa trên cơ sở vật chất và kỹ thuật
hiện có, phải đảm bảo nhận thức đầy đủ và khai thác tiềm năng của cơ sở vật
chất, kỹ thuật, công nghệ hiện có và có thể huy động. Cơ sở vật chất, kỹ thuật,
công nghệ yếu kém, lạc hậu sẽ khó khăn cho việc triển khai các hoạt động kinh
doanh và quản trị. Để thuận lợi cho các hoạt động quản trị, nhà quản trị cần có
chiến lược và triển khai chiến lược phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ
phù hợp với chiến lược kinh doanh phát triển của tổ chức.
Ví dụ: Kodak là một nhà sản xuất máy ảnh chụp bằng phim lớn thế giới.
Nhưng với sự xuất hiện của các máy ảnh kỹ thuật số đã làm thay đổi tất cả.
Chính Kodak đã không thấy được tiềm năng của những chiếc máy này. Và thế
họ vẫn tiếp tục trung thành với máy ảnh chụp bằng phim. Sai lầm này đã khiến
Kodak mất một thị phần rất lớn bởi các đối thủ cạnh tranh như Canon, Fuji,…
D) Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức do nhà quản trị xây dựng nên, song đến lượt nó, cơ cấu tổ chức
lại tác động đến hoạt động quản trị tổ chức. Cơ cấu tổ chức hay cấu trúc tổ chức
của một tổ chức được thiết kế như một hệ thống có mục tiêu, nguyên tắc và có
cơ chế vận hành nhất định. Hoạt động quản trị tổ chức phải định hướng đến thực
hiện mục tiêu và tuân thr nguyên tắc và cơ chế vận hành của hệ thống mới đảm
bảo sự thành công. Song cơ cấu tổ chức không phải là một hệ thống “đóng” cố
định, bất biến, mà còn là hệ thống “mở” có thể thay đổi, điều chỉnh để phù hợp lOMoAR cPSD| 61787563
với môi trường thường xuyên biến động, mà nhà quản trị chính là chủ thể của sự
thay đổi, điều chỉnh này. Cơ cấu tổ chức đúng đắn sẽ đảm bảo hệ thống quản trị
vận hành thuận lợi, hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu của tổ chức và ngược lại.
E) Văn hóa tổ chức
Câu 10: Phân tích khái niệm nhà quản trị