Phân tích những đặc trưng cơ bản của nền sản xuất hàng hóa và liên hệ ở Việt Nam | Bài tiểu luận học phần Kinh tế chính trị Mác - Lênin

Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch.Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh, và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
Đề số 02: Phân tích những đặc trưng cơ bản của nền sản xuất hàng hóa và
liên hệ ở Việt Nam
Giảng viên hướng dẫn:
Lớp: N03 - KTCTML/K15
Thực hiện: Nhóm 4
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
Năm học: 2022 2023
MỞ ĐẦU
Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa:
Để trao đổi mua bán:
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa tính nhân, vừa
tính xã hội.
Ưu thế; Trong sản xuất sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản
xuất nên thể khai thác hiệu quả lợi thế về tự nhiên, hội của con người,
của từng vùng và từng địa phương
Thứ hai, dưới tác động của các quy luật (quy luật cạnh tranh, quy luật cung
hội.cầu, quy luật giá trị…) buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn năng động,
linh hoạt, có chiến lược, kế hoạch dài hạn, cải tiến kỹ thuật, tổ chức sản xuất
hợp lý… để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu của
con người. Đồng thời tạo ra những nhà sản xuất, kinh doanh giỏi, những người
lao động lành nghề.
Thứ ba, kinh tế hàng hóa điều kiện kích thích nghiên cứu ứng dụng
những thành tựu nghiên cứu khoa học vào sản xuất. Qua đó thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Thứ tư, sản xuất hàng hóamô hình kinh tế mở, thúc đẩy giao lưu kinh tế,
giao lưu văn hóa, tạo điều kiện nâng cao, cải thiện đời sống vật chất của
NỘI DUNG
1. Khái niệm về nền sản xuất hàng hóa: Theo C. Mác, sản xuất hàng hóa làkiểu
tổ chức hoạt động kinh tế đó, những người sản xuất sản phẩm nhắm mục
đích trao đổi, mua bán
dụ: người săn bắn, trông cây, nuôi gia súc gia cầm nhằm mục đích chính là
để phục vụ cho nhu cầu cung cấp thực phẩm cho gia đình
Người nuôi tằm, dệt may phục vụ chon hu cầu may mặc quần áo cho bản thân,
gia đình
2. Phân tích 3 đặc trưng cơ bản
Để trao đổi mua bán: Trong lịch sử có hai kiểu tổ chức kinh tế sản xuất tự
cung tự cấp và sản xuất hàng hóa. Nếu sản xuất tự cung tự cấp kiểu tổ chức
kinh tế mà sản phẩm được sản xuất chỉ có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
chính bản thân người sản xuất thì sản xuất hàng hóa kiểu tổ chức kinh tế
sản phẩm được sản xuất ra dùng để bán chứ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của người khác thông qua trao đổi, mua bán.
dụ: Về sản xuất tự cung tự cấp: Người nguyên thủy tự săn băn, hái lượm
đẻ phục vụ cho nhu cầu của bản thân, và gia đình
Sản xuất hàng hóa: Giả sử như người thợ dệt vải có nhiều vải hơn so với nhu
cầu của bản thân mình nhưng người đó lại cần nhiều loại sản phẩm khác,
chẳng hạn như lương thực. Người thợ vải sẽ mang số vải dư thừa để đổi lấy
gạo. ngược lại, người nông dân cũng thừa gạo đồng thời thiếu vải
để may mặc nên sẽ dùng gạo để đổi lấy vải.
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa tính nhân, vừa
tính xã hội. Tính xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa thể hiện ở
chỗ sản phẩm được làm ra để phục vụ hội, đáp ứng nhu cầu của những
người khác trong hội. Tính nhân của sản xuất hàng hóa bởi sản xuất
cái bằng cách thức như thế nào công việc riêng, sự độc lập của mỗi
người. Tính chất tư nhân có thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính chất xã
hội. Điều này tạo n mâu thuẫn của sản xuất hàng hóa. Mâu thuẫn giữa lao
động nhân lao động hội nguyên nhân gây nên khủng hoảng trong
nền kinh tế hàng hóa Ví dụ:
Mục đích là giá trị, lợi nhuận, theo hướng mở:
Ví dụ
3. Liên hệ ở Việt Nam
Việt Nam thời kỳ bao cấp chủ yếu gồm các ngành đó ng nghiệp, công
nghiệp thương nghiệp. Công nghiệp được chia thành công nghiệp nặng
(như điện, than, gang thép, chế tạo máy công cụ,… ); công nghiệp hóa chất;
công nghiệp nhẹ; công nghiệp thực phẩm (thuốc lá, đường mật, rượu bia, đồ
hộp,… ). Lực lượng lao động gồm công nhân, nông dân và lao động tri thức.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV khẳng định sản xuất hội chủ nghĩa
tức nền kinh tế dựa vào hai thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh (trong
công và thương nghiệp) và tập thể (trong nông nghiệp với hợp tác xã cấp cao
làm nòng cốt)
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa chế thị trường,
chúng ta xem kế hoạch hóa đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế
hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch chủ yếu; coi thị trường
chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực
tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh
tế quốc doanh, tập thể là chyếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu nhân
và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Giáo sư Trần Văn Thọ viết về tình trạng kinh tế 10 năm đầu sau chiến tranh:
"Mười năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử
Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80%
dân số sống nông thôn 70% lao động là ng dân) nhưng Việt Nam thiếu
ăn, nhiều người phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên
đầu người giảm liên tục từ năm 1976 đến 1979, sau đó tăng trở lại nhưng cho
đến năm 1981 vẫn không hồi phục lại mức năm 1976. Công thương nghiệp
cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sống
của người dân cùng khốn khó. Ngoài những khó khăn của một đất nước
sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, nguyên nhân chính của tình trạng
nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển, trong đó nổi bật
nhất sự nóng vội trong việc áp dụng hình hội chủ nghĩa trong kinh
tế ở miền Nam... Nguy cơ thiếu ăn kéo dài và những khó khăn cùng cực khác
làm phát sinh hiện tượng "phá rào" trong nông nghiệp, trong mậu dịch
trong việc quyết định giá cả lương thực đã cải thiện tình hình tại một số địa
phương. Nhưng phải đợi đến đổi mới (tháng 12/1986) mới biến chuyển
thực sự. Do tình trạng đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam
trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng 35%, trong thời gian đó dân số tăng 22%.
Như vậy, GDP đầu người trung bình tăng chỉ độ 1% (mỗi năm)"
KẾT LUẬN
Tổng kết và kiến nghị:
| 1/4

Preview text:


TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
Đề số 02: Phân tích những đặc trưng cơ bản của nền sản xuất hàng hóa và
liên hệ ở Việt Nam Giảng viên hướng dẫn: Lớp: N03 - KTCTML/K15 Thực hiện: Nhóm 4 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. Năm học: 2022 2023 MỞ ĐẦU
Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa: Để trao đổi mua bán:
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính tư nhân, vừa có tính xã hội.
Ưu thế; Trong sản xuất có sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản
xuất nên có thể khai thác hiệu quả lợi thế về tự nhiên, xã hội của con người,
của từng vùng và từng địa phương
Thứ hai, dưới tác động của các quy luật (quy luật cạnh tranh, quy luật cung
hội.cầu, quy luật giá trị…) buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn năng động,
linh hoạt, có chiến lược, kế hoạch dài hạn, cải tiến kỹ thuật, tổ chức sản xuất
hợp lý… để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu của
con người. Đồng thời tạo ra những nhà sản xuất, kinh doanh giỏi, những người lao động lành nghề.
Thứ ba, kinh tế hàng hóa là điều kiện kích thích nghiên cứu và ứng dụng
những thành tựu nghiên cứu khoa học vào sản xuất. Qua đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ tư, sản xuất hàng hóa là mô hình kinh tế mở, thúc đẩy giao lưu kinh tế,
giao lưu văn hóa, tạo điều kiện nâng cao, cải thiện đời sống vật chất của xã NỘI DUNG
1. Khái niệm về nền sản xuất hàng hóa: Theo C. Mác, sản xuất hàng hóa làkiểu
tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những người sản xuất sản phẩm nhắm mục đích trao đổi, mua bán
Ví dụ: người săn bắn, trông cây, nuôi gia súc gia cầm nhằm mục đích chính là
để phục vụ cho nhu cầu cung cấp thực phẩm cho gia đình
Người nuôi tằm, dệt may phục vụ chon hu cầu may mặc quần áo cho bản thân, gia đình
2. Phân tích 3 đặc trưng cơ bản
Để trao đổi mua bán: Trong lịch sử có hai kiểu tổ chức kinh tế là sản xuất tự
cung tự cấp và sản xuất hàng hóa. Nếu sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức
kinh tế mà sản phẩm được sản xuất chỉ có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
chính bản thân người sản xuất thì sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế
mà sản phẩm được sản xuất ra dùng để bán chứ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của người khác thông qua trao đổi, mua bán.
Ví dụ: Về sản xuất tự cung tự cấp: Người nguyên thủy tự săn băn, hái lượm
đẻ phục vụ cho nhu cầu của bản thân, và gia đình
Sản xuất hàng hóa: Giả sử như người thợ dệt vải có nhiều vải hơn so với nhu
cầu của bản thân mình nhưng người đó lại cần có nhiều loại sản phẩm khác,
chẳng hạn như lương thực. Người thợ vải sẽ mang số vải dư thừa để đổi lấy
gạo. Và ngược lại, người nông dân cũng dư thừa gạo và đồng thời thiếu vải
để may mặc nên sẽ dùng gạo để đổi lấy vải.
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính tư nhân, vừa có
tính xã hội. Tính xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa thể hiện ở
chỗ sản phẩm được làm ra để phục vụ xã hội, đáp ứng nhu cầu của những
người khác trong xã hội. Tính tư nhân của sản xuất hàng hóa bởi vì sản xuất
cái gì và bằng cách thức như thế nào là công việc riêng, có sự độc lập của mỗi
người. Tính chất tư nhân có thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính chất xã
hội. Điều này tạo nên mâu thuẫn của sản xuất hàng hóa. Mâu thuẫn giữa lao
động tư nhân và lao động xã hội là nguyên nhân gây nên khủng hoảng trong
nền kinh tế hàng hóa Ví dụ:
Mục đích là giá trị, lợi nhuận, theo hướng mở: Ví dụ 3. Liên hệ ở Việt Nam
Việt Nam thời kỳ bao cấp chủ yếu gồm các ngành đó là nông nghiệp, công
nghiệp và thương nghiệp. Công nghiệp được chia thành công nghiệp nặng
(như điện, than, gang thép, chế tạo máy công cụ,… ); công nghiệp hóa chất;
công nghiệp nhẹ; công nghiệp thực phẩm (thuốc lá, đường mật, rượu bia, đồ
hộp,… ). Lực lượng lao động gồm công nhân, nông dân và lao động tri thức.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV khẳng định sản xuất xã hội chủ nghĩa
tức là nền kinh tế dựa vào hai thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh (trong
công và thương nghiệp) và tập thể (trong nông nghiệp với hợp tác xã cấp cao làm nòng cốt)
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường,
chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường
chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực
tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh
tế quốc doanh, và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân
và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Giáo sư Trần Văn Thọ viết về tình trạng kinh tế 10 năm đầu sau chiến tranh:
"Mười năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử
Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80%
dân số sống ở nông thôn và 70% lao động là nông dân) nhưng Việt Nam thiếu
ăn, nhiều người phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên
đầu người giảm liên tục từ năm 1976 đến 1979, sau đó tăng trở lại nhưng cho
đến năm 1981 vẫn không hồi phục lại mức năm 1976. Công thương nghiệp
cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sống
của người dân vô cùng khốn khó. Ngoài những khó khăn của một đất nước
sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, nguyên nhân chính của tình trạng
nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển, trong đó nổi bật
nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa trong kinh
tế ở miền Nam... Nguy cơ thiếu ăn kéo dài và những khó khăn cùng cực khác
làm phát sinh hiện tượng "phá rào" trong nông nghiệp, trong mậu dịch và
trong việc quyết định giá cả lương thực đã cải thiện tình hình tại một số địa
phương. Nhưng phải đợi đến đổi mới (tháng 12/1986) mới có biến chuyển
thực sự. Do tình trạng đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam
trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng 35%, trong thời gian đó dân số tăng 22%.
Như vậy, GDP đầu người trung bình tăng chỉ độ 1% (mỗi năm)" KẾT LUẬN
Tổng kết và kiến nghị: