lOMoARcPSD| 45474828
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
MỤC ĐÍCH CỦA CHƯƠNG:
Sau khi nghiên cứu học tập chương này, sinh viên cần:
- Nắm được các kiến thức về lịch sử phát triển của Luật Thương Mại (LTM);
- Hiểu được các khái niệm và nội dung của LTM;
- Nắm được Chủ thể của LTM mối quan hệ của LTM với Luật Dân Sự
LTMquốc tế.
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG:
1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN LUẬT THƯƠNG MẠI
Nền kinh tế hàng hoá hình thành, phát triển đã làm cho mua bán hàng hoá trở thành
một hoạt động mang tính chuyên nghiệp sản xuất hàng hoá không còn con đường duy
nhất dẫn đến lợi nhuận. Việc thực hiện luân chuyển, phân phối hàng hóa từ người sản xuất
đến người tiêu dùng, tthị trường này sang thị trường khác đã trở thành hội lợi nhuận
tốt cho những người thực hiện nó. Lúc này, tầng lớp thương nhân đã dần hình thành trong
xã hội và mua bán hàng hoá được họ coi là một nghề nghiệp chính “Nghề thương mại”.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế ng hoá, tầng lớp thương nhân ngày càng
đông lớn mạnh. Khi tập quán, thói quen, thông lệ không đủ để tạo ra quy tắc ứng xử
giữa họ, những quy định pháp luật thương mại đầu tiên được ban hành, không chỉ để điều
chỉnh hoạt động thương mại của thương nhân mà còn xác định quy chế pháp lý hay địa vị
pháp của thương nhân. Sự hình thành phát triển không ngừng của những quy định
pháp luật ghi nhận địa vị của thương nhân hoạt động thương mại của họ đã trở thành
nhân tố quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển đa dạng các loại hình tổ chức kinh doanh
và các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thế giới và ở mỗi quốc gia. Những quy định
pháp luật thương mại đầu tiên chủ yếu những quy định điều chỉnh hành vi mua bán hàng
hoá, bởi khi mới hình thành, khái niệm thương mại chỉ gắn liền với mua bán hàng hoá
những hành vi có liên quan đến mua bán hàng hoá diễn ra (chủ yếu) giữa các thương nhân.
Pháp luật thương mại với tư cách là một lĩnh vực pháp luật tương đối độc lập trong
pháp luật dân sự được hình thành dần dần châu Âu, bắt đầu bởi sự phát triển nhanh chóng
của lực lượng sản xuất và theo đó là đòi hỏi thay đổi các quan hệ sản xuất đang tồn tại.
Tại Việt Nam, dưới thời thuộc Pháp, trào lưu canh tân đất nước khuyến khích phát
triển nghệ thương mại đã bắt đầu ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật thời đó. Bộ
Dân luật thi hành tại các toà Nam án Bắc Kỳ ban hành năm 1931 đã quy định nhiều hình
lOMoARcPSD| 45474828
thức hùn vốn lập hội (hội buôn - công ty), bao gồm hội người và hội vốn. Bộ luật Thương
mại áp dụng tại Trung phần được ban hành m 1942, Luật Thương mại của chính quyền
Việt Nam cộng hoà được ban hành năm 1972 cũng nhiều quy định về công ty kinh
doanh. Từ sau khi thống nhất đất nước, pháp luật thương mại Việt Nam cũng luôn được
xây dựng phát triển với tính chất là một lĩnh vực pháp luật tương đối độc lập với pháp
luật dân sự, minh chứng bằng sự hiện diện của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, Luật
Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999,
2005, 2014,2020, Luật Thương mại năm 2005... Các văn bản này đã song hành cùng với
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991, Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005, 2015.
Như vậy, có thể nói, sự hình thành, phát triển của nền sản xuất hàng hoá và sự xuất
hiện của tầng lớp thương nhân đo hình thành pháp luật thương mại. Nghiên cứu của
nhiều học giả cho thấy, các quy định đầu tiên điều chỉnh hoạt động thương mại và xác định
quy chế thương nhân ra đời rất sớm, xuất phát từ nhu cầu giao lưu thương mại quốc tế
có nguồn gốc từ các chế định, các quy tắc quy phạm (thành văn tập quán) khá hoàn
chỉnh được nội luật hoá trong pháp luật của quốc gia. mức độ khái quát, thể hiểu,
pháp luật thương mại những quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
nhằm quy định quy chế thương nhân và điều chỉnh hoạt động thương mại của họ.
Trong thời đại ngày nay, khái niệm Thương mạiđược hiểu theo nghĩa rộng, có nội
hàm đồng nghĩa với khái niệm Kinh doanh. Quan hệ thương mại được hình thành giữa
các thương nhân cùng quốc tịch, lãnh thổ hoặc có sự khác biệt về quốc tịch, lãnh thổ. Điều
này dẫn đến sự phát triển của pháp luật thương mại về phạm vi, đối tượng điều chỉnh cũng
như hình thức chứa đựng quy phạm pháp luật, theo đó, điều ước quốc tế đã đang trở
thành nguồn quan trọng của pháp luật thương mại.
Luật Thương mại của Việt Nam quy định: Hoạt động thương mại hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Sự phát triển theo hướng mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh của pháp luật
thựơng mại thể hiện ở các khía cạnh cơ bản:
- Trong pháp luật thương mại, sự mở rộng về nội hàm của khái niệm
Thương mại”, theo đó, từ điểm khởi đầu Thương mạichỉ bao hàm ý nghĩa hành vi
mua bán hàng hoá nhằm mục đích sinh lợi, đến nay, pháp luật thương mại quốc gia và quốc
tế đều xu hướng tiếp cận thương mại tất cả những hành vi mục đích sinh lợi
những hành vi đó thể diễn ra trong các quan hệ mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, sở hữu trí tuệ, nhượng quyền thương mại.., có hoặc không có yếu tố nước ngoài;
lOMoARcPSD| 45474828
- Về quy chế thương nhân: Trong pháp luật thương mại, ngày càng sự mở
rộng đa dạng về các loại hình tổ chức kinh doanh, theo đó, pháp luật quy định nhiều loại
hình thương nhân, nhiều hình thức hiện diện thương mại, đáp ng nhu cầu hoạt động
thương mại của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài;
thập niên 70, 80, khái niệm “Luật Kinh tế” (không phải khái niệm Luật Thương
mại) được sử dụng phổ biến. Ở Việt Nam, những ý tưởng đầu tiên về sử dụng khái niệm
Luật Thương mại”, Luật Kinh doanhđể thay thế cho khái niệm Luật Kinh tếxuất hiện
khi diễn ra những thay đổi về kinh tế, về cơ chế quản lý kinh tế và dẫn đến những thay đổi
căn bản trong điều chỉnh pháp luật đối với c quan hệ kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân.
Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, chủ thể của Luật Kinh tế không còn là các tổ
chức kinh tế hội chủ nghĩa (tổ chức kinh tế nhà nước, tổ chức kinh tế tập thể) với
cách các đơn vị thực hiện hoạt động sản xuất theo kế hoạch được giao. Nền kinh tế không
còn vận hành theo chế kế hoạch hoá tập trung vận hành theo chế thị trường,
sự quản của nhà nước, với nền tảng sự công nhận quyền tự do sở hữu, quyền tự do
kinh doanh, đồng thời chịu nhiều tác động tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Những thay đổi này dẫn đến yêu cầu đổi mới trong khoa học luật kinh tế, theo đó, sự tồn
tại của khái niệm “Luật Kinh tế” trở nên không còn phù hợp. Bên cạnh đó, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, phạm
vi quyền tự do kinh doanh cũng không ngừng được mở rộng, từ chỗ Tự do kinh doanh
theo quy định pháp luậtđến Tự do kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật
không cấm”..., vai trò can thiệp, kiểm soát từ phía nhà ớc cũng thu hẹp rất nhiều theo xu
hướng tôn trọng và đảm bảo thực hiện những hành vi không trái pháp luật của người kinh
doanh (thương nhân). Xu hướng này làm cho yếu tố Luật tưđược thể hiện rất nét
khái niệm Luật thương mại” dần được sử dụng phổ biến, với ý nghĩa là lĩnh vực pháp luật
điều chỉnh hoạt động thương mại, hoạt động đầu kinh doanh của thương nhân. Khái
niệm Luật Thương mạiđã được thay thế cho khái niệm Luật Kinh tế”, mặc nhiều
vấn đề “lý luận vvấn đề này còn những quan điểm khác nhau cơ cấu của cũng
chưa ồn định.
1.2 KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm Luật Thương Mại
Trong khoa học pháp lý, mặc còn nhiều cách hiểu khác nhau, song thể định
nghĩa: “ Luật Thương mại lĩnh vực pháp luật bao gồm tổng thể c quy định pháp luật
do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm quy định quy chế thương nhân, điều chỉnh
hoạt động thương mại của thương nhân vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại của họ”.
lOMoARcPSD| 45474828
Như vậy, có thể hiểu về Luật thương mại như sau:
Một là, Luật Thương mại là một lĩnh vực pháp luật gồm tổng thể các quy định pháp
luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh quy chế thương nhân hoạt
động thương mại của thương nhân cũng như chế giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại giữa họ.
Hai là,Việt Nam, có sự khác biệt giữa khái niệm Luật Thương mại - với tính chất
là một lĩnh vực pháp luật hay một môn học với khái niệm Luật Thương mại - với tính chất
một văn bản luật do Quốc hội ban hành (ví dụ: Luật Thương mại năm 1997 Luật
Thương mại năm 2005).
Ba là, Luật Thương mại Việt Nam đã đang được tiếp nhận với phạm vi đối
tượng nghiên cứu chủ yếu các quy định pháp luật quốc gia các quan hệ thương mại
nội địa.
1.2.2. Nội dung của Luật Thương mại Việt Nam
1.2.2.1 Luật Thương mại quy định quy chế thương nhân
Thương nhân là chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Luật Thương mại xác lập
quy chế thương nhân thông qua các văn bản pháp luật cụ thể về doanh nghiệp và các hình
thức tổ chức kinh doanh khác.
Quy chế thương nhân được xác lập với các nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Luật Thương mại quy định các loại hình thương nhân: Thương nhân là tổ
chức, nhân hoạt động thương mại hiện diện bằng nhiều hình thức khác nhau, phụ
thuộc vào quy định của mỗi quốc gia, dụ như: Công ty TNHH, CTCP, ng ty hợp danh,
DNTN... Mỗi loại hình thương nhân cụ thể muốn được thành lập hoạt động trong nền
kinh tế, trước hết, cần quy định pháp luật quốc gia về loại hình đó, tức cần sở
pháp lý để một loại hình thương nhân cụ thể thành lập và hoạt động hợp pháp.
Thứ hai, Luật Thương mại quy định về điều kiện và thủ tục gia nhập thị trường của
nhà đầu tư. Nhà đầu tư có quyền tự do thành lập doanh nghiệp để đầu tư kinh doanh trong
những ngành nghề pháp luật không cấm.
Thứ ba, Luật Thương mại quỵ định về quyền nghĩa vụ của thương nhân tổ
chức, cá nhân góp vốn (gọi chung là nhà đầu tư)
Thứ tư, Luật Thương mại quy định vấn đề quản trị nội bộ của mỗi loại hình thương
nhân
Thứ năm, Luật Thương mại quy định vấn đề tổ chức lại doanh nghiệp: Hợp nhất,
sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi doanh nghiệp (gọi chung tổ chức lại doanh nghiệp) là
các nhu cầu tất yếu của doanh nghiệp trước tác động của các yếu tố thị trường. Tổ chức lại
lOMoARcPSD| 45474828
doanh nghiệp giúp thương nhân thực hiện các mục tiêu cạnh tranh thông qua các hình thức
tập trung kinh tế hoặc chuyền đổi sang mô hình kinh doanh phù hợp khác.
Thứ sáu, Luật Thương mại quy định điều kiện, thủ tục rút khỏi thị trường của thương
nhân (bao gồm thủ tục giải thể và phá sản doanh nghiệp)
1.2.2.2 Luật Thương mại quy định về hoạt động thương mại của thương nhân
và vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại của h
Hoạt động thương mại hoạt động thuộc chức năng chính của thương nhân, nằm
trong khuôn khổ lý do thành lập và mục tiêu lợi nhuận của thương nhân. Hoạt động thương
mại chủ yếu diễn ra trên sở quan hệ hợp đồng, có tự do thoả thuận và thống nhất ý chí
một số các giao dịch khác như tự tổ chức khuyến mại, quảng cáo, tổ,chức đấu thầu...
Luật Thương mại quy định về hoạt động thương mại của thương nhân thông qua
các văn bản pháp luật cụ thể và với các nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, Luật Thương mại quy định các hoạt động thương mại thương nhân
được thực hiện, nguyên tắc điều kiện thực hiện các hoạt động đó, bao gồm: Mua bán
hàng hoá; Cung ứng dịch vụ thương mại; Ủy thác mua bán hàng hoá; Môi giới thương mại;
Đại lý thương mại; Đấu thầu hàng hoá, dịch vụ; Đấu giá hàng hoá; Nhượng quyền thương
mại; Khuyến mại, quảng cáo và nhiều hoạt động thương mại khác.. Các quy định này vừa
sở pháp lý, vừa khuôn khổ pháp cho sự thoả thuận của các bên. Trong nhiều
trường hợp, thoả thuận vượt ra ngoài khuôn khổ luật định sẽ bị coi là vô hiệu.
Thứ hai, Luật Thương mại là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại giữa các thương nhân và giữa thương nhân với các chủ thể khác
liên quan, bao gồm cả quy định xác định quyền hạn và trách nhiệm của các bên, hình thức,
cách thức giải quyết tranh chấp giữa họ.
1.3. CHỦ THỂ CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI
Chủ thể của Luật Thương mại bao gồm các tổ chức, cá nhân tham gia vào các quan
hệ thương mại các quan hệ pháp luật có liên quan đến quá trình hoạt động thương mại
của thương nhân.
1.3.1. Thương nhân - chủ thể chủ yếu của Luật Thương mại
Nội dung chủ yếu của Luật Thương mại quy định về thương nhân và hành vi thương
mại của họ. Do vậy, tất cả các quốc gia, thương nhân luôn chủ thể chủ yếu của Luật
Thương mại.
Thương nhân bao gồm doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác, thường
xuyên tham gia vào các quan hệ thương mại, givị trí trung tâm tất cả các quan hệ thương
mại tham gia vào quan hệ pháp luật khác cần phải thực hiện trong quá trình hoạt động
lOMoARcPSD| 45474828
thương mại, bao gồm quan hệ đầu tư góp vốn, hợp đồng thương mại, đăng kí kinh doanh,
giải quyết tranh chấp thương mại, giải thể, phá sản...
Thương nhân là chủ thể chủ yếu của Luật Thương mại, xuất hiện trong các trường
hợp sau đây:
-Thương nhân là chủ thể đầu tư, góp vốn để thành lập doanh nghiệp.
-Thương nhân chủ thể thực hiện các hoạt động thương mại như mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ thương mại, xúc tiến thương mại
-Chức năng, nhiệm vụ chính của thương nhân là hoạt động thương mại nhằm mục
tiêu lợi nhuận. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu đó, thương nhân hoạt động
thương mại với tính chất nghề nghiệp, thường xuyên, liên tục và là chủ thể chủ yếu trong
các quan hệ mua bán hàng hoá, cung ứng địch vụ thương mại, xúc tiến thương mại...
-Thương nhân là chủ thể thực hiện các hoạt động đăng kí kinh doanh (đăng kí thành
lập doanh nghiệp, đăng kí thay đổi nội dung đăng kí doanh nghiệp).
-Thương nhân chthể thực hiện các hoạt động tổ chức lại doanh nghiệp (hợp
nhất, sáp nhập, chia, ch, chuyển đổi doanh nghiệp), chủ thể thực hiện các hoạt động
rút khỏi thị trường (giải thể, phá sản doanh nghiệp) chủ thể của tranh chấp thương
mại và quan hệ giải quyết tranh chấp thương mại.
1.3.2. Các chủ thể khác có quan hệ pháp lý với thương nhân trong quá trình thành
lập, hoạt động thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại của thương nhân
- Tổ chức, cá nhân không có đăng kí kinh doanh (không phải là thương nhân)
cóthể tham gia vào quan hệ thương mại trở thành chủ thể của Luật Thương mại. Tổ
chức, nhân khi thực hiện đầu , góp vốn thành lập doanh nghiệp trở thành chủ thể
của quan hệ đầu vào tổ chức kinh tế. Tổ chức, nhân hợp đồng mua bán hàng hoá,
uỷ thác mua bán ng hoá, môi giới... với thương nhân trở thành chủ thể quan hệ thương
mại hỗn hợp (quan hệ thương mại một bên thương nhân, một bên không phải
thương nhân). - quan đăng kí kinh doanh đầu mối quan trọng thực hiện quản lý nhà
nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chủ thể kinh doanh khác. Cơ quan
đăng kí kinh doanh là nơi tiến hành các thủ tục đăng kí thành lập doanh nghiệp, đăng kí hộ
kinh doanh, đăng kí thay đổi nội dung đăng kí doanh nghiệp, đăng kí tạm ngừng, chấm dứt
hoạt động kinh doanh...
-quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chuyên ngành: Trong quá trình hoạt động
thương mại, đđảm bảo quản nhà nước về kinh tế, thương nhân phải thực hiện một số
lOMoARcPSD| 45474828
nghĩa vụ cần thiết tại cơ quan quản lý chuyên ngành, tuỳ thuộc vào loại hoạt động thương
mại mà họ thực hiện.
- Tồ chức, nhân thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp thương mại của
thương nhân: Khi hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại, Tán, tổ chức trọng tài,
hoà giải viên (khi thực hiện hoà giải thương mại), trọng tài viên của hội đồng trọng tài vụ
việc được coi là chủ thể của Luật Thương mại.
1.4 HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ HÀNH VI THƯƠNG MẠI
1.4.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh
Theo quy định tại K21, Đ4 Luật Doanh Nghiệp năm 2020 có qui định: “Kinh doanh
việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình từ đầu tư,
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm
kiếm lợi nhuận”.
Như vậy, khác với các hành vi dân sự thuần tuý khác (cũng trao đổi, cũng cung ứng
dịch vụ), mục tiêu chính của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận. Đối với các doanh nghiệp, lợi
nhuận được tạo ra khi số tiền thu được trong kinh doanh (doanh thu) lớn hơn số tiền phải
chi phí (chi phí kinh doanh), tiền bán ra trừ tiền chi phí bằng lợi nhuận. Bất cứ hoạt động
nào, cho về mặt nh thức giống kinh doanh nhưng mục tiêu của hoạt động đó không
phải là tạo ra lợi nhuận đều không phải là kinh doanh
1.4.2 Khái niệm hành vi thương mại
Thương mại, comerxium (tiếng Latinh), commerce (tiếng Anh), có nghĩa buôn
bán. nước ta, theo cách hiểu phổ thông, thương mại hoạt động trao đổi hay giao lưu
hàng hoá, dịch vụ trên cơ sở thuận mua vừa bán.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005: “ Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận về hành vi thương mại bằng một khái niệm nghĩa
khái quát đó là hoạt động thương mại (tổ hợp các hành vi thương mại). Theo quy định của
khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại m 2005; Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Dưới giác độ học thuật, khái niệm
hành vi thương mại được xem xét đây tương ứng với khái niệm hoạt động thương mại cụ
thể: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư...
1.4.3 Đặc điểm của hành vi thương mại
Mối quan hệ giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại được nhìn nhận là mối
lOMoARcPSD| 45474828
quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, trong đó, hành vi dân sự cái chung, hành
vi thương mại là cái riêng.
Điểm chung của hai loại hành vi này thể hiện chỗ hành vi dân sự hành vi thương
mại đều là hành vi của con người, phát sinh và tồn tại trong quá trình sản xuất, trao đổi sản
phẩm, hàng hoá, đều là những nội dung của quan hệ hàng hoá - tiền tệ và ở những mức độ
nhất định đều chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan.
Bên cạnh những điểm giống nhau tạo nên tính chất chung giữa hành vi dân sự và
hành vi thương mại, giữa chúng cũng có những điểm khác biệt và chính những điểm khác
biệt này tạo nên đặc điểm của hành vi thương mại. Hành vi thương mại một số đặc điểm
cơ bản sau:
Thứ nhất, hành vi thương mại khác hành vi dân sự về thời điểm xuất hiện và về tính
ổn định. Qua nghiên cứu lịch sử ra đời và phát triển của quá trình trao đổi hàng hoá, có thể
khẳng định hành vi dân sự ra đời sớm hơn và ổn định hơn hành vi thương mại.
Thứ hai, hành vi thương mại được thực hiện trên thị trường và nhằm mục đích sinh
lợi. Theo quy định của pháp luật, hành vi thương mại không chỉ là hành vi diễn ra trên thị
trường mà còn là hành vi nhằm mục đích sinh lợi.
Thứ ba, hành vi thương mại hành vi mang tính chất nghề nghiệp, được thương
nhân (tổ chức, cá nhân kinh doanh) thực hiện.
Thương mại hành vi mang tính nghề nghiệp nghĩa chủ thể của hành vi khi
tham gia thương trường thực hiện sự phân công lao động xã hội. Các hành vi này được chủ
thể tiến hành thường xuyên, liên tục, thể hiện tính chuyên nghiệp cao và mang lại thu nhập
chính cho chủ thể thực hiện hành vi.
Cũng cần lưu ý rằng, xuất phát từ bản chất của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như xuất phát từ vai trò của hành vi thương mại
trong nền kinh tế, Nhà nước tác động ở mức độ cao hơn o các hành vi thương mại so với
các hành vi dân sự. Chính sự tác động của Nhà nước vào hành vi thương mại đã tạo nên sự
khác biệt nhất định giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại.
Tóm lại, giữa hành vi dân sự hành vi thương mại những sự tương đồng
khác biệt. Chính trên cơ sở sự ơng đồng, khác biệt đó thể nhìn nhận một cách khái
quát mối quan hệ giữa hành vi dân sự hành vi thương mại mối quan hệ giữa hành vi
dân sự và hành vi thương mại là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, trong đó hành vi
dân sự là cái chung và hành vi thương mại là cái riêng. Với tư cách cái chung và cái riêng,
hành vi dân sự hành vi thương mại đều tồn tại khách quan độc lập tương đối với
nhau; những thuộc tính vốn của các hành vi dân sự được biểu hiện cụ thể trong các hành
vi thương mại đồng thời trong hành vi thương mại cũng có những nét đặc thù riêng của nó.
lOMoARcPSD| 45474828
1.4.4 Phân loại hành vi thương mại
Dựa trên những căn cứ khác nhau, hành vi thương mại thể được chia ra các loại
khác nhau.
* Dựa vào tính chất của hành vi và chủ thể thực hiện hành vi, hành vi thương mại
thể được chia ra thành: Hành vi thương mại thuần túy, hành vi thương mại phụ thuộc,
hành vi thương mại hỗn hợp.
- Hành vi thương mại thuần túy: hành vi thương mại bản chất của
thuộc về công việc buôn bán hoặc vì hình thức của được pháp luật coi tiêu biểu cho
hành vi thương mại.
- Hành vi thương mại phthuộc: những hành vi bản chất dân sự nhưng
do thương nhân thực hiện theo nhu cầu nghề nghiệp hay nhân lúc hành nghề và do đó được
coi hành vi thương mại. dụ, thương nhân mua phương tiện, trang thiết bị văn phòng
để trang bị cho các phòng làm việc của mình là hành vi thương mại phụ thuộc (do nhu cầu
của nghề nghiệp).
Một hành vi bản chất dân sự chỉ thể trở thành hành vi thương mại khi hội
đủ hai yếu tố: (i) Hành vi đó phải do thương nhân (thương gia) thực hiện; (ii) Hành vi đó
được thương nhân thực hiện nhân dịp hành nghề hoặc do nhu cầu nghề nghiệp.
Pháp luật thương mại Việt Nam chỉ mới liệt các hành vi thương mại thuần tuý
còn các hành vi thương mại phụ thuộc không được ghi nhận. Bởi vậy, khi xem xét phải căn
cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định một hành vi có được xem là một nh vi thương
mại phụ thuộc hay không. Tuy nhiên, trên cơ sở luận như đã trình bày, thể suy đoạn
các hành vi của thương nhân trong hoạt động kinh doanh của mình đều hành vi thương
mại, trừ khi họ chứng minh được rằng hành vi đó không có mục đích thương mại.
- Hành vi thương mại hỗn hợp: thể được hiểu hành vi thương mại đối
với một bên (thương nhân) nhưng lại là hành vi dân sự đối với bên kia (cá nhân không
tư cách thương nhân).
* Dựa vào lĩnh vực phát sinh cũng như đối tượng của hành vi thương mại theo
tinh thần của Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000 (US
Vietnam Bilateral Trade Agreement), các hành vi thương mại có thể chia ra các nhóm như
sau:
- Nhóm hành vi thương mại hàng hoá;
- Nhóm hành vi thương mại dịch vụ;
- Nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực đầu tư;
- Nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
lOMoARcPSD| 45474828
Cùng với sự phát triển của kinh tế - hội nói chung, các hành vi thương mại không
chỉ tồn tại trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác như:
đầu tư, sản xuất, shữu trí tuệ v.v.. Chính vậy, việc phân loại các hành vi thương mại
dựa trên tiêu chí đối tượng của hành vi trở nên phức tạp, bởi trong mỗi lĩnh vực trao đổi,
đầu tư, sản xuất... đều tồn tại các hành vi mua bán hoặc dịch vụ. Như vậy, suy cho cùng
hành vi thương mại trong các lĩnh vực nói trên chỉ thể được chia thành: thương mại hàng
hoá thương mại dịch vụ. Trong mỗi lĩnh vực, do mỗi loại “hàng hoá” cũng như “công
việc” những đặc thù của chúng, cho nên thương mại hàng hoá thương mại dịch vụ
trong từng lĩnh vực cũng những điểm riêng biệt. Chính vì vậy, sẽ nâng cao hiệu quả điều
chỉnh pháp luật hơn nếu sự kết hợp tiêu cđối tượng với lĩnh vực phát sinh hành vi
thương mại để phân loại hành vi thương mại thành các nhóm cụ thể. Hiện nay, pháp luật
nước ta đang đi theo hướng quy định các hoạt động thương mại theo từng lĩnh vực.
+ Nhóm hành vi thương mại hàng hoá: Hành vi thương mại hàng hoá là những hành
vi phát sinh trong quá trình trao đổi hàng hoá, bao gồm: mua bán hàng hoá các hoạt
động khác liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như cung ứng dịch vụ thương mại,
xúc tiến thương mại.
Trong thương mại hàng hoá, mua bán hàng hoá hành vi chủ yếu nhất, đặc trưng
của hành vi mua bán hàng hoá thể hiện ở đối tượng của hành vi này là hàng hoá, bao gồm:
Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liều
với đất đai.
Mua bán hàng hoá được quy định cụ thể trong chương 2 Luật Thương mại năm
2005. Với 49 điều trong chương 2, Luật Thương mại năm 2005 quy định tương đối đầy đủ
các vấn đề liên quan đển mua bán hàng hoá với cách một hoạt động chủ yếu của
thương nhân Việt Nam. Ngoài những điều quy định chung đối với hoạt động mua bán
hàng hoá như: Hình thức hợp đồng mua bán hàng hoá, hàng hcấm kinh doanh, hàng hoá
hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh doanh điều kiện, áp dụng biện pháp khẩn cấp đối
với hàng hoá lưu thông trong nước, mua bán hàng hoá quốc tế, xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập hàng hoá, chuyển khẩu hàng hoá, áp dụng c
biện pháp khẩn cấp đối với hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế, nhãn hàng hoá lưu thông
trong nước hàng hxuất khẩu, nhập khẩu, giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá và quy
tắc xuất xứ hàng hoá, một nội dung quan trọng trong chương này đó các quy định về
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá. Đặc biệt, trong chương
2 Luật Thương mại năm 2005, pháp luật đã ghi nhận hoạt động mua bán hàng hoá mới,
tiên tiến trong nền kinh tế thị trường, đó là mua bán hàng hoá qua sở giao dịch.
lOMoARcPSD| 45474828
Bên cạnh hoạt động mua bán hàng hoá trong thương mại hàng hoá còn các hoạt
động dịch vụ thương mại như: (i) Xúc tiến thương mại (bao gồm: Khuyến mại, quảng cáo
thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hoá, dịch vụ, hội chợ, triển lãm thương mại); (ii)
Trung gian thương mại (bao gồm: Đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác
mua bán hàng hoá, đại thương mại) (iii) Một số hoạt động thương mại cụ thể khác,
như: Gia công trong thương mại, đấu giá hàng hoá, đấu thầu hàng hoá dịch vụ, dịch v
logistics, cho thuê hàng hoậ, nhượng quyền thương mại.
Mặc dù thuộc nội hàm của khái niệm thương mại hàng hoá, song khác với hoạt động
mua bán hàng hoá, các dịch vụ thương mại kể trên có đối tượng là dịch vụ, tức toàn bộ
các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người sản phẩm của nó tồn tại
dưới hình thái phi vật thể. Bên cạnh đó, các hoạt động này phải là những hành vi liên quan
trực tiếp với hành vi mua bán hàng hoá, phục vụ trực tiếp cho việc mua bán hàng hoá. Các
hành vi thương mại hàng hoá được quy định cụ thể ở trong các chương 4, 5, 6 Luật Thương
mại năm 2005. Các quy định của Luật Thương mại tập trung ghi nhận bản chất của các
hoạt động dịch vụ thương mại, cách thức thực hiện các hoạt động đó, đặc biệt quy định về
quyền và nghĩa vụ của thương nhân khi tiến hành các hoạt động dịch vụ thương mại này.
+ Nhóm hành vi thương mại dịch vụ: Thương mại dịch vụ được hiểu các hoạt
động thướng mại trong các ngành, lĩnh vực dịch vụ. Đây khái niệm dùng để chỉ khía
cạnh thương mại, tính chất thương mại trong các ngành, lĩnh vực dịch vụ. Khác với mua
bán hàng hoá trong thương mại hàng h(đối tượng của hoạt động này các sản phẩm
hữu hình), trong thương mại dịch vụ đối tượng của lại những sản phẩm nh, tức
những sản phẩm không cầm nắm, không nhìn thấy được nhưng lại được cảm nhận qua
tiêu dùng trực tiếp của khách hàng và quá trình sản xuất, tiêu dùng sản phẩm dịch vụ diễn
ra đồng thời, nhưng hiệu quả của dịch vụ đối với người tiêu dùng lại rất khác nhau.
Như vậy, thể hiểu nhóm hành vi thương mại dịch vụ là những hành vi phát sinh
trong các khu vực của nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ của nền kinh tế, bao gồm các
hành vi trong: Sản xuất công nghiệp, xây dựng, vận tải, dịch vụ tài chính - ngân hàng, bảo
hiểm V.V.. Tất nhiên, không phải tất cả c nh vi trong các khu vực trên đều hành vi
thương mại dịch vụ chỉ những hành vi nào có đầy đnhững thành tố của nh vi thương
mại mới được coi là hành vi thương mại dịch vụ.
- Nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực đầu những hành vi đầu
nhằmmục đích tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư, là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu để thực
hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua
cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện
dự án đầu tư.
lOMoARcPSD| 45474828
- Cũng tương tự như những hành vi thương mại trong lĩnh vực dịch vụ, không
phảitất cả các hoạt động đầu nh vi thượng mại chỉ có những hoạt động đầu
cho kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận mới được coi là hành vi thương mại.
- Nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực shữu trí tuệ những hành vi
liênquan đến việc chiếm hữu, sử dụng định đoạt các sản phẩm của trí tuệ nhằm mục
đích thương mại, bao gồm các hành vi như: Sử dụng đối tượng của sở hữu công nghiệp
(bằng phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích) trong hoạt động kinh tế - thương mại, sử
dụng các đối tượng của sở hữu công nghiệp như là một yếu tố thể hiện lợi thé cạnh tranh,
chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ v.v..
1.5. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA THƯƠNG NHÂN
1.5.1 Khái niệm thương nhân
Tại khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 xác định: Thương nhân bao gồm
tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên và có đăng kí kinh doanh”.
Từ khái niệm thương nhân được xác định trên đây, thể thấy thương nhân những
thuộc tính cơ bản như:
(i) Thương nhân phải thực hiện các hoạt động thương mại; thương nhân phải
thựchiện các hoạt động thương mại một cách độc lập;
(ii) Thương nhân phải thực hiện các hoạt động thương mại một cách thường
xuyên;(iii) Thương nhân phải đăng kí kinh doanh.
1.5.2. Đặc điểm pháp lý của thương nhân
- Thương nhân có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại: Thương nhân hành
vi thương mại mối quan hệ logic với nhau. Điều đó được thể hiện ngay chính khoản 1
Điều 6 Luật Thương mại năm 2005: “ Thương nhân bao gồm tổ chức... cá nhân hoạt động
thương mại..”. Như vậy, thương nhân là chủ thể thực hiện hành vi thương mại. Muốn xem
chủ thể phải thương nhân hay không , thì phải xem chủ thể đó thực hiện hành vi
thương mại hay không.
Thứ hai, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa
chính mình lợi ích của bản thân mình: Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mạỉ Việt Nam
năm 2005 quy định, thương nhân phải hoạt động thựơng mại một cách độc lập.
Như vậy, theo tinh thần của pháp luật thương mại, thực hiện hành vi thương mại độc
lập, mang danh nghĩa chính mình lợi ích bản thân mình dấu hiệu cần thiết đxác
định chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại có phải là thương nhân hay không.
lOMoARcPSD| 45474828
Thứ ba, thương nhân phải thực hiện các hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp
thường xuyên: Hoạt động thương mại thường xuyên một trong các dấu hiệu pháp
không thể thiếu để xác định cách thương nhân. Một chủ thể thực hiện hành vi thương
mại một cách độc lập, tự thân, nhân danh chính mình nhưng hành vi thương mại đó không
diễn ra một cách thường xuyên, liên tục thì không thể là thương nhân. Điều đó được phản
ánh khá rõ nét trong pháp luật thương mại của các nước.
Như vậy, pháp luật thương mại thừa nhận sự cần thiết của hai yếu tố: tính nghề
nghiệp tính thường xuyên để xác định tư cách thương nhân. Để trở thành thương nhân
thì các chủ thể phải thường xuyên thực hiện những hành vi thương mại, điều đó nghĩa
chủ thể thực hiện những hành vi thương mại một cách thực tế lặp đi, lặp lại, kế tiếp mang
tính nghề nghiệp.
Thứ tư, thương nhân phải có năng lực hành vi thương mại: Năng lực hành vi là khả
năng của tổ chức, nhân bằng những hành vi của chính bản thân mình thể xác lập
thực hiên các quyền nghĩa vụ pháp lý. Tổ chức, nhân năng lực hành vi sẽ được
tham gia với tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật bằng hành vi của mình có thể độc lập
xác lập thực hiện các quyền nghĩa vụ pháp lý cũng như độc lập chịu trách nhiệm về
những hành vi của mình.
Thứ năm, thương nhân phải đăng kinh doanh: Khoản 1 Điều 6 Luật Thương
mại năm 2005 quy định: “Thương nhân gồm... có đăng kinh doanh”. Như vậy, đăng
kí kinh doanh vừa có thể được nhìn nhận như là một đặc điểm của thương nhân vừa có thể
coi như là một yêu cầu bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức muốn trở thành thương nhân.
Việc đăng kí doanh nghiệp tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về kinh
tế, xác nhận sự tồn tại hoạt động của doanh nghiệp, cung cấp thông tin cần thiết về doanh
nghiệp nhằm tạo thuận lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ với doanh nghiệp.
1.5.3 Các loại thương nhân
Dựa vào các quy định của pháp luật, thương nhân có thể được chia ra các loại sau:
Thứ nhất, thương nhân nhân: Thương nhân nhân có nghĩa thương nhân
đó là một con người cụ thể. Để trở thành thương nhân, con người cụ thể phải năng lực
pháp luật năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự (xem thêm Mục 1
Chương 3 Bộ luật Dân sự năm 2015), đồng thời phải đầy đủ c dấu hiệu pháp của
thương nhân, họ có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi để thực hiện hoạt động
thương mại, tự mình gánh chịu những trách nhiệm bằng toàn btài sản của mình về hoạt
động thương mại đó.
Theo pháp luật thương mại, thương nhân nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên
không thuộc các trường hợp bị pháp luật cấm kinh doanh.
lOMoARcPSD| 45474828
Cá nhân được coi là thương nhân khi họ có đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của thương
nhân nhân muốn hoạt động kinh doanh thương mại, phải tiến hành đăng doanh
nghiệp tại quan đăng kinh doanh thẩm quyền. Kể từ thời điểm được cấp giấy chứng
nhận đăng doanh nghiệp, cách thương nhân của họ được xác lập họ thể tiến
hành các hoạt động thương mại.
Thứ hai, thương nhân là pháp nhân:
Một tổ chức chỉ được coi thương nhân pháp nhân khi nó hội đủ các điều kiện
của pháp nhân theo Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015: Được thành lập theo qui định của
Bộ Luật này hoặc luật có liên quan; cấu tổ chức chặt chẽ theo qui định của Bộ luật
này; Có tài sản độc lập với các nhân, pháp nhân khác; Và tự chụ Trách nhiệm bằng Tài sản
của mình; Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.; Đồng
thời có đủ các dấu hiệu của thương nhân. Xét các dấu hiệu pháp lý của thương nhân và tiêu
chuẩn pháp của pháp nhân, hiện nay ớc ta, các thương nhân pháp nhân chủ yếu
bao gồm: (i) Thương nhân là các DNNN; (ii) Thương nhân là các hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã; (iii) Thương nhân là các CTCP, công ty TNHH, công ty hợp danh.
Ngoài các đặc điểm của thương nhân nói chung, các thương nhân là pháp nhân đều
phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động thương mại trong phạm vi số
vốn, tài sản của pháp nhân. Ngoài ra, mỗi loại thương nhân còn những đặc điểm riêng
biệt, tương ứng với hình thức tổ chức của mình.
1.6 QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CƠ BẢN CỦA THƯƠNG NHÂN
1.6.1 Trách nhiệm cơ bản của thương nhân
Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định:
- DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chvà tự chịu trách nhiệm bằng
toànbộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp;
- Công ty hợp danh doanh nghiệp phải ít nhất 02 thành viên chủ sở
hữuchung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi thành
viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty thể thêm thành viên góp
vốn; Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
về các nghĩa vụ của công ty; Thành viên góp góp vốn chchịu trách nhiệm về các khoản
nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty;
- Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá
nhânlàm chủ sở hữu (sau đây gọi chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách
nhiệm về các khoản nợ nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ
của công ty;
lOMoARcPSD| 45474828
- Công ty TNHH hai thành viên trở lên DN từ 02 đến 50 thành viên
tổchức, nhân. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ trường hợp quy định
tại khoản 4 Điều 47 của Luật Doanh nghiệp năm 2020;
- Đối với CTCP, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sảnkhấc của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Như vậy, theo quy định tại Luật DN m 2020 hai chế độ trách nhiệm tài sản
khác nhau cho các nhà đầu (chủ sở hữu) của thương nhân, đó trách nhiệm hạn
TNHH. Hay nói cách khác, khi xử tài sản của thương nhân bị phá sản, các chủ shữu
của các loại hình thương nhân khác nhau chịu trách nhiệm tài sản khác nhau: có những chủ
sở hữu chịu trách nhiệm vô hạn, có những chủ sở hữu chịu TNHH.
1.6.1.1 Trách nhiệm vô hạn
Trách nhiệm hạn trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp (thương
nhân), theo đó chủ sở hữu doanh nghiệp (thương nhân) chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ
của thương nhân bằng toàn bộ tài sản của mình, kể cả những tài sản không được huy động
vào kinh doanh của doanh nghiệp (thương nhân).
dụ: Chủ DNTN A tổng số tài sản 50 tỉ đồng, đầu 20 tỉ đồng vốn thành
lập một DNTN, còn 30 tỉ đồng để mua sắm các tài sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng
ngày. Sau thời gian hoạt động, doanh nghiệp này kinh doanh thua lỗ, tài sản còn lại của
doanh nghiệp chỉ còn 7 tỉ đồng, trong lúc đó, doanh nghiệp khoản nợ phải thanh toán
cho các chủ nợ của mình 15 tỉ đồng. Là chủ thể phải chịu trách nhiệm hạn theo quy
định của pháp luật, chủ DNTN A ngoài việc lấy7 tỉ đồng (tài sản còn lại của doanh nghiệp)
để thanh toán cho các chủ nợ, còn phải lấy thêm 8 tỉ đồng từ khối tài sản phục vụ nhu cầu
tiêu dùng hàng ngày của mình đthanh toán đủ 15tỉ đồng cho các chủ nợ của doanh nghiệp.
do để pháp luật quy định buộc một số chủ sở hữu doanh nghiệp (thương nhân)
phải chịu trách nhiệm vô hạn là vì tài sản của các chủ sở hữu này không có sự tách bạch rõ
ràng giữa tài sản kinh doanh và tài sản khác.
Pháp luật hiện hành quy định, các chủ thể sau phải chịu trách nhiệm hạn: Chủ
DNTN; thành viên hợp danh của công ty hợp danh; thành viên hkinh doanh; thành viên
tổ hợp tác.
1.6.1.2. Trách nhiệm hữu hạn
Trách nhiêm hữu hạn là trách nhiêm của chủ sở hữu doanh nghiệp, theo đó chủ sở
lOMoARcPSD| 45474828
hữu doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi vốn góp vào doanh nghiệp; bản thân doanh nghiệp chịu trách nhiệm trước nghĩa
vụ của mình đến hết giá trị tài sản có trong doanh nghiệp.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các thương nhân được hưởng quy chế TNHH
gồm: (i) Công ty TNHH; (ii) CTCP; (iii) hợp tác xã và (iv) DNNN
khía cạnh thứ hai, chủ sở hữu (hay thành viên) của doanh nghiệp (thương nhân)
chịu TNHH, nghĩa họ chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn mà các thành viên
đầu tư vào công ty. Cũng theo dụ trên, cho dù công ty TNHH Akhoản nợ phải xử
70 tỉ đồng, nhưng các thành viên của công ty này (B, C, D) được hưởng quy chế
TNHH cho nên họ chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp vào công ty TNHH A, cụ
thể: B chịu trách nhiệm trong phạm vi 10 tỉ đồng; C chịu trách nhiệm trong phạm vi 20 tỉ
đồng và D chịu trách nhiệm trong phạm vi 20 tỉ đồng.
Pháp luật hiện hành quy định, các chủ sở hữu (thành viên) của doanh nghiệp
(thương nhân) phải chịu TNHH gồm: (i) thành viên công ty TNHH; (ii) cổ đông CTCP;
(iii) thành viền góp vốn vào công ty hợp danh; (iv) thành viên họp tác (v) đại diện
chủ sở hữu DNNN.
1.6.2 Quyền cơ bản của thương nhân
- Quyền tự do kinh doanh:
Tại khoản 2 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 cũng quy định: “Thương nhân
quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và
theo các phương thức mà pháp luật không cấm”. Như vậy, ở đây quyền tự do kinh doanh
của thương nhân được tiếp cận dưới góc độ quyền chủ thể.
Dưới góc độ quyền chủ thể, quyền tự do kinh doanh của thương nhân được hiểu
thương nhân được thực hiện các hoạt động thương mại mà pháp luật không cấm.
Nội dung của quyền tự do kinh doanh của thương nhân gồm:
+ Tự do thành lập doanh nghiệp;
+ Tự do lựa chọn ngành nghề và quy mô kinh doanh;
+ Tự do lựa chọn khách hàng và trực tiếp giao dịch vói khách
hàng; + Tự do lựa chọn lao động theo nhu cầu kinh doanh; . + Tự
do lựa chọn hình thức, cách thức giải quyết tranh chấp; + Các
quyền tự do khác mà pháp luật không cấm.
- Quyền bình đẳng trong hoạt động thương mại của thương nhân
Tại Điều 10 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Thương nhân thuộc mọi
lOMoARcPSD| 45474828
thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại”; (iii) Luật
Doanh nghiệp năm 2020 tiếp cận quyền bình đẳng của doanh nghiệp (thương nhân) như
một sự bảo đảm của Nhà nước đối với doanh nghiệp (thương nhân): “Nhà nước... bảo đảm
bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu
thành phần kinh tế”.
một quyền chủ thể của thương nhân (doanh nghiệp) quyền bình đẳng giữa các
thương nhân (doanh nghiệp) đòi hỏi bình đẳng trong suốt thời gian tồn tại của , từ khi
thành lập, đi vào hoạt động thương mại (kinh doanh) khi giải thể, phá sản doanh
nghiệp/thương nhân.
+ Quyền bình đẳng của thương nhân (doanh nghiệp) trong đăng thành lập doanh
nghiệp + Quyền bình đẳng giữa các thương nhân (doanh nghiệp) trong hoạt động
kinh doanh
- Quyền bình đẳng của thương nhân (doanh nghiệp) trong việc giải thể, phá sản:
Bên cạnh việc ghi nhận những quyền cơ bản của thương nhân (doanh nghiệp), pháp
luật hiện hành còn quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của thương nhân (doanh
nghiệp).

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45474828 CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
MỤC ĐÍCH CỦA CHƯƠNG:
Sau khi nghiên cứu học tập chương này, sinh viên cần: -
Nắm được các kiến thức về lịch sử phát triển của Luật Thương Mại (LTM); -
Hiểu được các khái niệm và nội dung của LTM; -
Nắm được Chủ thể của LTM và mối quan hệ của LTM với Luật Dân Sự và LTMquốc tế.
NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG:
1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN LUẬT THƯƠNG MẠI
Nền kinh tế hàng hoá hình thành, phát triển đã làm cho mua bán hàng hoá trở thành
một hoạt động mang tính chuyên nghiệp và sản xuất hàng hoá không còn là con đường duy
nhất dẫn đến lợi nhuận. Việc thực hiện luân chuyển, phân phối hàng hóa từ người sản xuất
đến người tiêu dùng, từ thị trường này sang thị trường khác đã trở thành cơ hội lợi nhuận
tốt cho những người thực hiện nó. Lúc này, tầng lớp thương nhân đã dần hình thành trong
xã hội và mua bán hàng hoá được họ coi là một nghề nghiệp chính “Nghề thương mại”.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tầng lớp thương nhân ngày càng
đông và lớn mạnh. Khi tập quán, thói quen, thông lệ không đủ để tạo ra quy tắc ứng xử
giữa họ, những quy định pháp luật thương mại đầu tiên được ban hành, không chỉ để điều
chỉnh hoạt động thương mại của thương nhân mà còn xác định quy chế pháp lý hay địa vị
pháp lý của thương nhân. Sự hình thành và phát triển không ngừng của những quy định
pháp luật ghi nhận địa vị của thương nhân và hoạt động thương mại của họ đã trở thành
nhân tố quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển đa dạng các loại hình tổ chức kinh doanh
và các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thế giới và ở mỗi quốc gia. Những quy định
pháp luật thương mại đầu tiên chủ yếu là những quy định điều chỉnh hành vi mua bán hàng
hoá, bởi khi mới hình thành, khái niệm thương mại chỉ gắn liền với mua bán hàng hoá và
những hành vi có liên quan đến mua bán hàng hoá diễn ra (chủ yếu) giữa các thương nhân.
Pháp luật thương mại với tư cách là một lĩnh vực pháp luật tương đối độc lập trong
pháp luật dân sự được hình thành dần dần ở châu Âu, bắt đầu bởi sự phát triển nhanh chóng
của lực lượng sản xuất và theo đó là đòi hỏi thay đổi các quan hệ sản xuất đang tồn tại.
Tại Việt Nam, dưới thời thuộc Pháp, trào lưu canh tân đất nước khuyến khích phát
triển kĩ nghệ và thương mại đã bắt đầu có ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật thời đó. Bộ
Dân luật thi hành tại các toà Nam án Bắc Kỳ ban hành năm 1931 đã quy định nhiều hình lOMoAR cPSD| 45474828
thức hùn vốn lập hội (hội buôn - công ty), bao gồm hội người và hội vốn. Bộ luật Thương
mại áp dụng tại Trung phần được ban hành năm 1942, Luật Thương mại của chính quyền
Việt Nam cộng hoà được ban hành năm 1972 cũng có nhiều quy định về công ty kinh
doanh. Từ sau khi thống nhất đất nước, pháp luật thương mại Việt Nam cũng luôn được
xây dựng và phát triển với tính chất là một lĩnh vực pháp luật tương đối độc lập với pháp
luật dân sự, minh chứng bằng sự hiện diện của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, Luật
Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999,
2005, 2014,2020, Luật Thương mại năm 2005... Các văn bản này đã song hành cùng với
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991, Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005, 2015.
Như vậy, có thể nói, sự hình thành, phát triển của nền sản xuất hàng hoá và sự xuất
hiện của tầng lớp thương nhân là lý đo hình thành pháp luật thương mại. Nghiên cứu của
nhiều học giả cho thấy, các quy định đầu tiên điều chỉnh hoạt động thương mại và xác định
quy chế thương nhân ra đời rất sớm, xuất phát từ nhu cầu giao lưu thương mại quốc tế và
có nguồn gốc từ các chế định, các quy tắc và quy phạm (thành văn và tập quán) khá hoàn
chỉnh được nội luật hoá trong pháp luật của quốc gia. Ở mức độ khái quát, có thể hiểu,
pháp luật thương mại là những quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
nhằm quy định quy chế thương nhân và điều chỉnh hoạt động thương mại của họ.
Trong thời đại ngày nay, khái niệm “Thương mại” được hiểu theo nghĩa rộng, có nội
hàm đồng nghĩa với khái niệm Kinh doanh. Quan hệ thương mại được hình thành giữa
các thương nhân cùng quốc tịch, lãnh thổ hoặc có sự khác biệt về quốc tịch, lãnh thổ. Điều
này dẫn đến sự phát triển của pháp luật thương mại về phạm vi, đối tượng điều chỉnh cũng
như hình thức chứa đựng quy phạm pháp luật, theo đó, điều ước quốc tế đã và đang trở
thành nguồn quan trọng của pháp luật thương mại.
Luật Thương mại của Việt Nam quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác
”.
Sự phát triển theo hướng mở rộng phạm vi và đối tượng điều chỉnh của pháp luật
thựơng mại thể hiện ở các khía cạnh cơ bản: -
Trong pháp luật thương mại, có sự mở rộng về nội hàm của khái niệm
Thương mại”, theo đó, từ điểm khởi đầu “Thương mại” chỉ bao hàm ý nghĩa là hành vi
mua bán hàng hoá nhằm mục đích sinh lợi, đến nay, pháp luật thương mại quốc gia và quốc
tế đều có xu hướng tiếp cận thương mại là tất cả những hành vi có mục đích sinh lợi và
những hành vi đó có thể diễn ra trong các quan hệ mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, sở hữu trí tuệ, nhượng quyền thương mại.., có hoặc không có yếu tố nước ngoài; lOMoAR cPSD| 45474828 -
Về quy chế thương nhân: Trong pháp luật thương mại, ngày càng có sự mở
rộng đa dạng về các loại hình tổ chức kinh doanh, theo đó, pháp luật quy định nhiều loại
hình thương nhân, nhiều hình thức hiện diện thương mại, đáp ứng nhu cầu hoạt động
thương mại của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài;
Ở thập niên 70, 80, khái niệm “Luật Kinh tế” (không phải khái niệm Luật Thương
mại) được sử dụng phổ biến. Ở Việt Nam, những ý tưởng đầu tiên về sử dụng khái niệm
Luật Thương mại”, “Luật Kinh doanh” để thay thế cho khái niệm “Luật Kinh tế” xuất hiện
khi diễn ra những thay đổi về kinh tế, về cơ chế quản lý kinh tế và dẫn đến những thay đổi
căn bản trong điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân.
Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, chủ thể của Luật Kinh tế không còn là các tổ
chức kinh tế xã hội chủ nghĩa (tổ chức kinh tế nhà nước, tổ chức kinh tế tập thể) với tư
cách là các đơn vị thực hiện hoạt động sản xuất theo kế hoạch được giao. Nền kinh tế không
còn vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung mà vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước, với nền tảng là sự công nhận quyền tự do sở hữu, quyền tự do
kinh doanh, đồng thời chịu nhiều tác động tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Những thay đổi này dẫn đến yêu cầu đổi mới trong khoa học luật kinh tế, theo đó, sự tồn
tại của khái niệm “Luật Kinh tế” trở nên không còn phù hợp. Bên cạnh đó, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, phạm
vi quyền tự do kinh doanh cũng không ngừng được mở rộng, từ chỗ “ Tự do kinh doanh
theo quy định pháp luật
” đến “ Tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
không cấm”..., vai trò can thiệp, kiểm soát từ phía nhà nước cũng thu hẹp rất nhiều theo xu
hướng tôn trọng và đảm bảo thực hiện những hành vi không trái pháp luật của người kinh
doanh (thương nhân). Xu hướng này làm cho yếu tố “Luật tư” được thể hiện rất rõ nét và
khái niệm “Luật thương mại” dần được sử dụng phổ biến, với ý nghĩa là lĩnh vực pháp luật
điều chỉnh hoạt động thương mại, hoạt động đầu tư kinh doanh của thương nhân. Khái
niệm “Luật Thương mại” đã được thay thế cho khái niệm “Luật Kinh tế”, mặc dù nhiều
vấn đề “lý luận về vấn đề này còn có những quan điểm khác nhau và cơ cấu của nó cũng chưa ồn định.
1.2 KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm Luật Thương Mại

Trong khoa học pháp lý, mặc dù còn nhiều cách hiểu khác nhau, song có thể định
nghĩa: “ Luật Thương mại là lĩnh vực pháp luật bao gồm tổng thể các quy định pháp luật
do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm quy định quy chế thương nhân, điều chỉnh
hoạt động thương mại của thương nhân và vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại của họ
”. lOMoAR cPSD| 45474828
Như vậy, có thể hiểu về Luật thương mại như sau:
Một là, Luật Thương mại là một lĩnh vực pháp luật gồm tổng thể các quy định pháp
luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh quy chế thương nhân và hoạt
động thương mại của thương nhân cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại giữa họ.
Hai là, ở Việt Nam, có sự khác biệt giữa khái niệm Luật Thương mại - với tính chất
là một lĩnh vực pháp luật hay một môn học với khái niệm Luật Thương mại - với tính chất
là một văn bản luật do Quốc hội ban hành (ví dụ: Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại năm 2005).
Ba là, Luật Thương mại Việt Nam đã và đang được tiếp nhận với phạm vi và đối
tượng nghiên cứu chủ yếu là các quy định pháp luật quốc gia và các quan hệ thương mại nội địa.
1.2.2. Nội dung của Luật Thương mại Việt Nam
1.2.2.1 Luật Thương mại quy định quy chế thương nhân
Thương nhân là chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Luật Thương mại xác lập
quy chế thương nhân thông qua các văn bản pháp luật cụ thể về doanh nghiệp và các hình
thức tổ chức kinh doanh khác.
Quy chế thương nhân được xác lập với các nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Luật Thương mại quy định các loại hình thương nhân: Thương nhân là tổ
chức, cá nhân hoạt động thương mại và hiện diện bằng nhiều hình thức khác nhau, phụ
thuộc vào quy định của mỗi quốc gia, ví dụ như: Công ty TNHH, CTCP, công ty hợp danh,
DNTN... Mỗi loại hình thương nhân cụ thể muốn được thành lập và hoạt động trong nền
kinh tế, trước hết, cần có quy định pháp luật quốc gia về loại hình đó, tức là cần có cơ sở
pháp lý để một loại hình thương nhân cụ thể thành lập và hoạt động hợp pháp.
Thứ hai, Luật Thương mại quy định về điều kiện và thủ tục gia nhập thị trường của
nhà đầu tư. Nhà đầu tư có quyền tự do thành lập doanh nghiệp để đầu tư kinh doanh trong
những ngành nghề pháp luật không cấm.
Thứ ba, Luật Thương mại quỵ định về quyền và nghĩa vụ của thương nhân và tổ
chức, cá nhân góp vốn (gọi chung là nhà đầu tư)
Thứ tư, Luật Thương mại quy định vấn đề quản trị nội bộ của mỗi loại hình thương nhân
Thứ năm, Luật Thương mại quy định vấn đề tổ chức lại doanh nghiệp: Hợp nhất,
sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi doanh nghiệp (gọi chung là tổ chức lại doanh nghiệp) là
các nhu cầu tất yếu của doanh nghiệp trước tác động của các yếu tố thị trường. Tổ chức lại lOMoAR cPSD| 45474828
doanh nghiệp giúp thương nhân thực hiện các mục tiêu cạnh tranh thông qua các hình thức
tập trung kinh tế hoặc chuyền đổi sang mô hình kinh doanh phù hợp khác.
Thứ sáu, Luật Thương mại quy định điều kiện, thủ tục rút khỏi thị trường của thương
nhân (bao gồm thủ tục giải thể và phá sản doanh nghiệp)
1.2.2.2 Luật Thương mại quy định về hoạt động thương mại của thương nhân
và vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại của họ
Hoạt động thương mại là hoạt động thuộc chức năng chính của thương nhân, nằm
trong khuôn khổ lý do thành lập và mục tiêu lợi nhuận của thương nhân. Hoạt động thương
mại chủ yếu diễn ra trên cơ sở quan hệ hợp đồng, có tự do thoả thuận và thống nhất ý chí
và một số các giao dịch khác như tự tổ chức khuyến mại, quảng cáo, tổ,chức đấu thầu...
Luật Thương mại quy định về hoạt động thương mại của thương nhân thông qua
các văn bản pháp luật cụ thể và với các nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, Luật Thương mại quy định các hoạt động thương mại mà thương nhân
được thực hiện, nguyên tắc và điều kiện thực hiện các hoạt động đó, bao gồm: Mua bán
hàng hoá; Cung ứng dịch vụ thương mại; Ủy thác mua bán hàng hoá; Môi giới thương mại;
Đại lý thương mại; Đấu thầu hàng hoá, dịch vụ; Đấu giá hàng hoá; Nhượng quyền thương
mại; Khuyến mại, quảng cáo và nhiều hoạt động thương mại khác.. Các quy định này vừa
là cơ sở pháp lý, vừa là khuôn khổ pháp lý cho sự thoả thuận của các bên. Trong nhiều
trường hợp, thoả thuận vượt ra ngoài khuôn khổ luật định sẽ bị coi là vô hiệu.
Thứ hai, Luật Thương mại là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại giữa các thương nhân và giữa thương nhân với các chủ thể khác có
liên quan, bao gồm cả quy định xác định quyền hạn và trách nhiệm của các bên, hình thức,
cách thức giải quyết tranh chấp giữa họ.
1.3. CHỦ THỂ CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI
Chủ thể của Luật Thương mại bao gồm các tổ chức, cá nhân tham gia vào các quan
hệ thương mại và các quan hệ pháp luật có liên quan đến quá trình hoạt động thương mại của thương nhân.
1.3.1. Thương nhân - chủ thể chủ yếu của Luật Thương mại
Nội dung chủ yếu của Luật Thương mại quy định về thương nhân và hành vi thương
mại của họ. Do vậy, ở tất cả các quốc gia, thương nhân luôn là chủ thể chủ yếu của Luật Thương mại.
Thương nhân bao gồm doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác, thường
xuyên tham gia vào các quan hệ thương mại, giữ vị trí trung tâm ở tất cả các quan hệ thương
mại và tham gia vào quan hệ pháp luật khác cần phải thực hiện trong quá trình hoạt động lOMoAR cPSD| 45474828
thương mại, bao gồm quan hệ đầu tư góp vốn, hợp đồng thương mại, đăng kí kinh doanh,
giải quyết tranh chấp thương mại, giải thể, phá sản...
Thương nhân là chủ thể chủ yếu của Luật Thương mại, xuất hiện trong các trường hợp sau đây:
-Thương nhân là chủ thể đầu tư, góp vốn để thành lập doanh nghiệp.
-Thương nhân là chủ thể thực hiện các hoạt động thương mại như mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ thương mại, xúc tiến thương mại
-Chức năng, nhiệm vụ chính của thương nhân là hoạt động thương mại nhằm mục
tiêu lợi nhuận. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu đó, thương nhân hoạt động
thương mại với tính chất nghề nghiệp, thường xuyên, liên tục và là chủ thể chủ yếu trong
các quan hệ mua bán hàng hoá, cung ứng địch vụ thương mại, xúc tiến thương mại...
-Thương nhân là chủ thể thực hiện các hoạt động đăng kí kinh doanh (đăng kí thành
lập doanh nghiệp, đăng kí thay đổi nội dung đăng kí doanh nghiệp).
-Thương nhân là chủ thể thực hiện các hoạt động tổ chức lại doanh nghiệp (hợp
nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi doanh nghiệp), là chủ thể thực hiện các hoạt động
rút khỏi thị trường (giải thể, phá sản doanh nghiệp) và là chủ thể của tranh chấp thương
mại và quan hệ giải quyết tranh chấp thương mại.
1.3.2. Các chủ thể khác có quan hệ pháp lý với thương nhân trong quá trình thành
lập, hoạt động thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại của thương nhân -
Tổ chức, cá nhân không có đăng kí kinh doanh (không phải là thương nhân)
cóthể tham gia vào quan hệ thương mại và trở thành chủ thể của Luật Thương mại. Tổ
chức, cá nhân khi thực hiện đầu tư, góp vốn thành lập doanh nghiệp và trở thành chủ thể
của quan hệ đầu tư vào tổ chức kinh tế. Tổ chức, cá nhân kí hợp đồng mua bán hàng hoá,
uỷ thác mua bán hàng hoá, môi giới... với thương nhân và trở thành chủ thể quan hệ thương
mại hỗn hợp (quan hệ thương mại có một bên là thương nhân, một bên không phải và
thương nhân). - Cơ quan đăng kí kinh doanh là đầu mối quan trọng thực hiện quản lý nhà
nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và chủ thể kinh doanh khác. Cơ quan
đăng kí kinh doanh là nơi tiến hành các thủ tục đăng kí thành lập doanh nghiệp, đăng kí hộ
kinh doanh, đăng kí thay đổi nội dung đăng kí doanh nghiệp, đăng kí tạm ngừng, chấm dứt hoạt động kinh doanh...
-Cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chuyên ngành: Trong quá trình hoạt động
thương mại, để đảm bảo quản lý nhà nước về kinh tế, thương nhân phải thực hiện một số lOMoAR cPSD| 45474828
nghĩa vụ cần thiết tại cơ quan quản lý chuyên ngành, tuỳ thuộc vào loại hoạt động thương mại mà họ thực hiện. -
Tồ chức, cá nhân thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp thương mại của
thương nhân: Khi hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại, Toà án, tổ chức trọng tài,
hoà giải viên (khi thực hiện hoà giải thương mại), trọng tài viên của hội đồng trọng tài vụ
việc được coi là chủ thể của Luật Thương mại.
1.4 HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ HÀNH VI THƯƠNG MẠI
1.4.1. Khái
niệm hoạt động kinh doanh
Theo quy định tại K21, Đ4 Luật Doanh Nghiệp năm 2020 có qui định: “Kinh doanh
là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình từ đầu tư,
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận”.

Như vậy, khác với các hành vi dân sự thuần tuý khác (cũng trao đổi, cũng cung ứng
dịch vụ), mục tiêu chính của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận. Đối với các doanh nghiệp, lợi
nhuận được tạo ra khi số tiền thu được trong kinh doanh (doanh thu) lớn hơn số tiền phải
chi phí (chi phí kinh doanh), tiền bán ra trừ tiền chi phí bằng lợi nhuận. Bất cứ hoạt động
nào, cho dù về mặt hình thức giống kinh doanh nhưng mục tiêu của hoạt động đó không
phải là tạo ra lợi nhuận đều không phải là kinh doanh
1.4.2 Khái niệm hành vi thương mại
Thương mại, comerxium (tiếng Latinh), commerce (tiếng Anh), có nghĩa là buôn
bán. Ở nước ta, theo cách hiểu phổ thông, thương mại là hoạt động trao đổi hay giao lưu
hàng hoá, dịch vụ trên cơ sở thuận mua vừa bán.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005: “ Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.

Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận về hành vi thương mại bằng một khái niệm có nghĩa
khái quát đó là hoạt động thương mại (tổ hợp các hành vi thương mại). Theo quy định của
khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005; “ Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Dưới giác độ học thuật, khái niệm
hành vi thương mại được xem xét ở đây tương ứng với khái niệm hoạt động thương mại cụ
thể: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư...
1.4.3 Đặc điểm của hành vi thương mại
Mối quan hệ giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại được nhìn nhận là mối lOMoAR cPSD| 45474828
quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, trong đó, hành vi dân sự là cái chung, hành
vi thương mại là cái riêng.
Điểm chung của hai loại hành vi này thể hiện ở chỗ hành vi dân sự và hành vi thương
mại đều là hành vi của con người, phát sinh và tồn tại trong quá trình sản xuất, trao đổi sản
phẩm, hàng hoá, đều là những nội dung của quan hệ hàng hoá - tiền tệ và ở những mức độ
nhất định đều chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan.
Bên cạnh những điểm giống nhau tạo nên tính chất chung giữa hành vi dân sự và
hành vi thương mại, giữa chúng cũng có những điểm khác biệt và chính những điểm khác
biệt này tạo nên đặc điểm của hành vi thương mại. Hành vi thương mại có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hành vi thương mại khác hành vi dân sự về thời điểm xuất hiện và về tính
ổn định. Qua nghiên cứu lịch sử ra đời và phát triển của quá trình trao đổi hàng hoá, có thể
khẳng định hành vi dân sự ra đời sớm hơn và ổn định hơn hành vi thương mại.
Thứ hai, hành vi thương mại được thực hiện trên thị trường và nhằm mục đích sinh
lợi. Theo quy định của pháp luật, hành vi thương mại không chỉ là hành vi diễn ra trên thị
trường mà còn là hành vi nhằm mục đích sinh lợi.
Thứ ba, hành vi thương mại là hành vi mang tính chất nghề nghiệp, được thương
nhân (tổ chức, cá nhân kinh doanh) thực hiện.
Thương mại là hành vi mang tính nghề nghiệp có nghĩa là chủ thể của hành vi khi
tham gia thương trường thực hiện sự phân công lao động xã hội. Các hành vi này được chủ
thể tiến hành thường xuyên, liên tục, thể hiện tính chuyên nghiệp cao và mang lại thu nhập
chính cho chủ thể thực hiện hành vi.
Cũng cần lưu ý rằng, xuất phát từ bản chất của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như xuất phát từ vai trò của hành vi thương mại
trong nền kinh tế, Nhà nước tác động ở mức độ cao hơn vào các hành vi thương mại so với
các hành vi dân sự. Chính sự tác động của Nhà nước vào hành vi thương mại đã tạo nên sự
khác biệt nhất định giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại.
Tóm lại, giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại có những sự tương đồng và
khác biệt. Chính trên cơ sở sự tương đồng, khác biệt đó có thể nhìn nhận một cách khái
quát mối quan hệ giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại là mối quan hệ giữa hành vi
dân sự và hành vi thương mại là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, trong đó hành vi
dân sự là cái chung và hành vi thương mại là cái riêng. Với tư cách cái chung và cái riêng,
hành vi dân sự và hành vi thương mại đều tồn tại khách quan và độc lập tương đối với
nhau; những thuộc tính vốn có của các hành vi dân sự được biểu hiện cụ thể trong các hành
vi thương mại đồng thời trong hành vi thương mại cũng có những nét đặc thù riêng của nó. lOMoAR cPSD| 45474828
1.4.4 Phân loại hành vi thương mại
Dựa trên những căn cứ khác nhau, hành vi thương mại có thể được chia ra các loại khác nhau.
* Dựa vào tính chất của hành vi và chủ thể thực hiện hành vi, hành vi thương mại
có thể được chia ra thành: Hành vi thương mại thuần túy, hành vi thương mại phụ thuộc,
hành vi thương mại hỗn hợp. -
Hành vi thương mại thuần túy: là hành vi thương mại vì bản chất của nó
thuộc về công việc buôn bán hoặc vì hình thức của nó được pháp luật coi là tiêu biểu cho hành vi thương mại. -
Hành vi thương mại phụ thuộc: là những hành vi có bản chất dân sự nhưng
do thương nhân thực hiện theo nhu cầu nghề nghiệp hay nhân lúc hành nghề và do đó được
coi là hành vi thương mại. Ví dụ, thương nhân mua phương tiện, trang thiết bị văn phòng
để trang bị cho các phòng làm việc của mình là hành vi thương mại phụ thuộc (do nhu cầu của nghề nghiệp).
Một hành vi có bản chất là dân sự chỉ có thể trở thành hành vi thương mại khi hội
đủ hai yếu tố: (i) Hành vi đó phải do thương nhân (thương gia) thực hiện; (ii) Hành vi đó
được thương nhân thực hiện nhân dịp hành nghề hoặc do nhu cầu nghề nghiệp.
Pháp luật thương mại Việt Nam chỉ mới liệt kê các hành vi thương mại thuần tuý
còn các hành vi thương mại phụ thuộc không được ghi nhận. Bởi vậy, khi xem xét phải căn
cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định một hành vi có được xem là một hành vi thương
mại phụ thuộc hay không. Tuy nhiên, trên cơ sở lý luận như đã trình bày, có thể suy đoạn
các hành vi của thương nhân trong hoạt động kinh doanh của mình đều là hành vi thương
mại, trừ khi họ chứng minh được rằng hành vi đó không có mục đích thương mại. -
Hành vi thương mại hỗn hợp: Có thể được hiểu là hành vi thương mại đối
với một bên (thương nhân) nhưng lại là hành vi dân sự đối với bên kia (cá nhân không có tư cách thương nhân).
* Dựa vào lĩnh vực phát sinh cũng như đối tượng của hành vi thương mại và theo
tinh thần của Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000 (US
Vietnam Bilateral Trade Agreement), các hành vi thương mại có thể chia ra các nhóm như sau:
- Nhóm hành vi thương mại hàng hoá;
- Nhóm hành vi thương mại dịch vụ;
- Nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực đầu tư;
- Nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. lOMoAR cPSD| 45474828
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung, các hành vi thương mại không
chỉ tồn tại trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá mà còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác như:
đầu tư, sản xuất, sở hữu trí tuệ v.v.. Chính vì vậy, việc phân loại các hành vi thương mại
dựa trên tiêu chí đối tượng của hành vi trở nên phức tạp, bởi trong mỗi lĩnh vực trao đổi,
đầu tư, sản xuất... đều tồn tại các hành vi mua bán hoặc dịch vụ. Như vậy, suy cho cùng
hành vi thương mại trong các lĩnh vực nói trên chỉ có thể được chia thành: thương mại hàng
hoá và thương mại dịch vụ. Trong mỗi lĩnh vực, do mỗi loại “hàng hoá” cũng như “công
việc” có những đặc thù của chúng, cho nên thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ
trong từng lĩnh vực cũng có những điểm riêng biệt. Chính vì vậy, sẽ nâng cao hiệu quả điều
chỉnh pháp luật hơn nếu có sự kết hợp tiêu chí đối tượng với lĩnh vực phát sinh hành vi
thương mại để phân loại hành vi thương mại thành các nhóm cụ thể. Hiện nay, pháp luật
nước ta đang đi theo hướng quy định các hoạt động thương mại theo từng lĩnh vực.
+ Nhóm hành vi thương mại hàng hoá: Hành vi thương mại hàng hoá là những hành
vi phát sinh trong quá trình trao đổi hàng hoá, bao gồm: mua bán hàng hoá và các hoạt
động khác liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như cung ứng dịch vụ thương mại, xúc tiến thương mại.
Trong thương mại hàng hoá, mua bán hàng hoá là hành vi chủ yếu nhất, đặc trưng
của hành vi mua bán hàng hoá thể hiện ở đối tượng của hành vi này là hàng hoá, bao gồm:
Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liều với đất đai.
Mua bán hàng hoá được quy định cụ thể trong chương 2 Luật Thương mại năm
2005. Với 49 điều trong chương 2, Luật Thương mại năm 2005 quy định tương đối đầy đủ
các vấn đề liên quan đển mua bán hàng hoá với tư cách là một hoạt động chủ yếu của
thương nhân ở Việt Nam. Ngoài những điều quy định chung đối với hoạt động mua bán
hàng hoá như: Hình thức hợp đồng mua bán hàng hoá, hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá
hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh doanh có điều kiện, áp dụng biện pháp khẩn cấp đối
với hàng hoá lưu thông trong nước, mua bán hàng hoá quốc tế, xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập hàng hoá, chuyển khẩu hàng hoá, áp dụng các
biện pháp khẩn cấp đối với hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế, nhãn hàng hoá lưu thông
trong nước và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá và quy
tắc xuất xứ hàng hoá, một nội dung quan trọng trong chương này đó là các quy định về
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá. Đặc biệt, trong chương
2 Luật Thương mại năm 2005, pháp luật đã ghi nhận hoạt động mua bán hàng hoá mới,
tiên tiến trong nền kinh tế thị trường, đó là mua bán hàng hoá qua sở giao dịch. lOMoAR cPSD| 45474828
Bên cạnh hoạt động mua bán hàng hoá trong thương mại hàng hoá còn có các hoạt
động dịch vụ thương mại như: (i) Xúc tiến thương mại (bao gồm: Khuyến mại, quảng cáo
thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hoá, dịch vụ, hội chợ, triển lãm thương mại); (ii)
Trung gian thương mại (bao gồm: Đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác
mua bán hàng hoá, đại lý thương mại) và (iii) Một số hoạt động thương mại cụ thể khác,
như: Gia công trong thương mại, đấu giá hàng hoá, đấu thầu hàng hoá dịch vụ, dịch vụ
logistics, cho thuê hàng hoậ, nhượng quyền thương mại.
Mặc dù thuộc nội hàm của khái niệm thương mại hàng hoá, song khác với hoạt động
mua bán hàng hoá, các dịch vụ thương mại kể trên có đối tượng là dịch vụ, tức là toàn bộ
các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người mà sản phẩm của nó tồn tại
dưới hình thái phi vật thể. Bên cạnh đó, các hoạt động này phải là những hành vi liên quan
trực tiếp với hành vi mua bán hàng hoá, phục vụ trực tiếp cho việc mua bán hàng hoá. Các
hành vi thương mại hàng hoá được quy định cụ thể ở trong các chương 4, 5, 6 Luật Thương
mại năm 2005. Các quy định của Luật Thương mại tập trung ghi nhận bản chất của các
hoạt động dịch vụ thương mại, cách thức thực hiện các hoạt động đó, đặc biệt quy định về
quyền và nghĩa vụ của thương nhân khi tiến hành các hoạt động dịch vụ thương mại này.
+ Nhóm hành vi thương mại dịch vụ: Thương mại dịch vụ được hiểu là các hoạt
động thướng mại trong các ngành, lĩnh vực dịch vụ. Đây là khái niệm dùng để chỉ khía
cạnh thương mại, tính chất thương mại trong các ngành, lĩnh vực dịch vụ. Khác với mua
bán hàng hoá trong thương mại hàng hoá (đối tượng của hoạt động này là các sản phẩm
hữu hình), trong thương mại dịch vụ đối tượng của nó lại là những sản phẩm vô hình, tức
là những sản phẩm không cầm nắm, không nhìn thấy được nhưng lại được cảm nhận qua
tiêu dùng trực tiếp của khách hàng và quá trình sản xuất, tiêu dùng sản phẩm dịch vụ diễn
ra đồng thời, nhưng hiệu quả của dịch vụ đối với người tiêu dùng lại rất khác nhau.
Như vậy, có thể hiểu nhóm hành vi thương mại dịch vụ là những hành vi phát sinh
trong các khu vực của nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ của nền kinh tế, bao gồm các
hành vi trong: Sản xuất công nghiệp, xây dựng, vận tải, dịch vụ tài chính - ngân hàng, bảo
hiểm V.V.. Tất nhiên, không phải tất cả các hành vi trong các khu vực trên đều là hành vi
thương mại dịch vụ mà chỉ những hành vi nào có đầy đủ những thành tố của hành vi thương
mại mới được coi là hành vi thương mại dịch vụ. -
Nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực đầu tư là những hành vi đầu tư
nhằmmục đích tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư, là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực
hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua
cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư. lOMoAR cPSD| 45474828 -
Cũng tương tự như những hành vi thương mại trong lĩnh vực dịch vụ, không
phảitất cả các hoạt động đầu tư là hành vi thượng mại mà chỉ có những hoạt động đầu tư
cho kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận mới được coi là hành vi thương mại. -
Nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là những hành vi
liênquan đến việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các sản phẩm của trí tuệ nhằm mục
đích thương mại, bao gồm các hành vi như: Sử dụng đối tượng của sở hữu công nghiệp
(bằng phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích) trong hoạt động kinh tế - thương mại, sử
dụng các đối tượng của sở hữu công nghiệp như là một yếu tố thể hiện lợi thé cạnh tranh,
chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ v.v..
1.5. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA THƯƠNG NHÂN
1.5.1 Khái niệm thương nhân

Tại khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 xác định: “Thương nhân bao gồm
tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên và có đăng kí kinh doanh
”.
Từ khái niệm thương nhân được xác định trên đây, có thể thấy thương nhân có những thuộc tính cơ bản như: (i)
Thương nhân phải thực hiện các hoạt động thương mại; thương nhân phải
thựchiện các hoạt động thương mại một cách độc lập; (ii)
Thương nhân phải thực hiện các hoạt động thương mại một cách thường
xuyên;(iii) Thương nhân phải đăng kí kinh doanh.
1.5.2. Đặc điểm pháp lý của thương nhân
- Thương nhân có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại: Thương nhân và hành
vi thương mại có mối quan hệ logic với nhau. Điều đó được thể hiện ngay chính khoản 1
Điều 6 Luật Thương mại năm 2005: “ Thương nhân bao gồm tổ chức... cá nhân hoạt động
thương mại.
.”. Như vậy, thương nhân là chủ thể thực hiện hành vi thương mại. Muốn xem
chủ thể có phải là thương nhân hay không , thì phải xem chủ thể đó có thực hiện hành vi thương mại hay không.
Thứ hai, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa
chính mình và vì lợi ích của bản thân mình: Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mạỉ Việt Nam
năm 2005 quy định, thương nhân phải hoạt động thựơng mại một cách độc lập.
Như vậy, theo tinh thần của pháp luật thương mại, thực hiện hành vi thương mại độc
lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích bản thân mình là dấu hiệu cần thiết để xác
định chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại có phải là thương nhân hay không. lOMoAR cPSD| 45474828
Thứ ba, thương nhân phải thực hiện các hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp
thường xuyên: Hoạt động thương mại thường xuyên là một trong các dấu hiệu pháp lý
không thể thiếu để xác định tư cách thương nhân. Một chủ thể thực hiện hành vi thương
mại một cách độc lập, tự thân, nhân danh chính mình nhưng hành vi thương mại đó không
diễn ra một cách thường xuyên, liên tục thì không thể là thương nhân. Điều đó được phản
ánh khá rõ nét trong pháp luật thương mại của các nước.
Như vậy, pháp luật thương mại thừa nhận sự cần thiết của hai yếu tố: tính nghề
nghiệp và tính thường xuyên để xác định tư cách thương nhân. Để trở thành thương nhân
thì các chủ thể phải thường xuyên thực hiện những hành vi thương mại, điều đó có nghĩa
là chủ thể thực hiện những hành vi thương mại một cách thực tế lặp đi, lặp lại, kế tiếp mang tính nghề nghiệp.
Thứ tư, thương nhân phải có năng lực hành vi thương mại: Năng lực hành vi là khả
năng của tổ chức, cá nhân bằng những hành vi của chính bản thân mình có thể xác lập và
thực hiên các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tổ chức, cá nhân có năng lực hành vi sẽ được
tham gia với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật bằng hành vi của mình có thể độc lập
xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý cũng như độc lập chịu trách nhiệm về những hành vi của mình.
Thứ năm, thương nhân phải có đăng kí kinh doanh: Khoản 1 Điều 6 Luật Thương
mại năm 2005 quy định: “Thương nhân gồm... và có đăng kí kinh doanh”. Như vậy, đăng
kí kinh doanh vừa có thể được nhìn nhận như là một đặc điểm của thương nhân vừa có thể
coi như là một yêu cầu bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức muốn trở thành thương nhân.
Việc đăng kí doanh nghiệp tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về kinh
tế, xác nhận sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp, cung cấp thông tin cần thiết về doanh
nghiệp nhằm tạo thuận lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ với doanh nghiệp.
1.5.3 Các loại thương nhân
Dựa vào các quy định của pháp luật, thương nhân có thể được chia ra các loại sau:
Thứ nhất, thương nhân là cá nhân: Thương nhân là cá nhân có nghĩa thương nhân
đó là một con người cụ thể. Để trở thành thương nhân, con người cụ thể phải có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự (xem thêm Mục 1
Chương 3 Bộ luật Dân sự năm 2015), đồng thời phải có đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của
thương nhân, họ có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi để thực hiện hoạt động
thương mại, tự mình gánh chịu những trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt động thương mại đó.
Theo pháp luật thương mại, thương nhân là cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên và
không thuộc các trường hợp bị pháp luật cấm kinh doanh. lOMoAR cPSD| 45474828
Cá nhân được coi là thương nhân khi họ có đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của thương
nhân và cá nhân muốn hoạt động kinh doanh thương mại, phải tiến hành đăng kí doanh
nghiệp tại cơ quan đăng kí kinh doanh có thẩm quyền. Kể từ thời điểm được cấp giấy chứng
nhận đăng kí doanh nghiệp, tư cách thương nhân của họ được xác lập và họ có thể tiến
hành các hoạt động thương mại.
Thứ hai, thương nhân là pháp nhân:
Một tổ chức chỉ được coi là thương nhân là pháp nhân khi nó hội đủ các điều kiện
của pháp nhân theo Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015: Được thành lập theo qui định của
Bộ Luật này hoặc luật có liên quan; Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ theo qui định của Bộ luật
này; Có tài sản độc lập với các nhân, pháp nhân khác; Và tự chụ Trách nhiệm bằng Tài sản
của mình; Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.; Đồng
thời có đủ các dấu hiệu của thương nhân. Xét các dấu hiệu pháp lý của thương nhân và tiêu
chuẩn pháp lý của pháp nhân, hiện nay ở nước ta, các thương nhân là pháp nhân chủ yếu
bao gồm: (i) Thương nhân là các DNNN; (ii) Thương nhân là các hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã; (iii) Thương nhân là các CTCP, công ty TNHH, công ty hợp danh.
Ngoài các đặc điểm của thương nhân nói chung, các thương nhân là pháp nhân đều
phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động thương mại trong phạm vi số
vốn, tài sản của pháp nhân. Ngoài ra, mỗi loại thương nhân còn có những đặc điểm riêng
biệt, tương ứng với hình thức tổ chức của mình.
1.6 QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CƠ BẢN CỦA THƯƠNG NHÂN
1.6.1 Trách nhiệm cơ bản của thương nhân

Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: -
DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
toànbộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp; -
Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở
hữuchung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành
viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp
vốn; Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
về các nghĩa vụ của công ty; Thành viên góp góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản
nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty; -
Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá
nhânlàm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty; lOMoAR cPSD| 45474828 -
Công ty TNHH hai thành viên trở lên là DN có từ 02 đến 50 thành viên là
tổchức, cá nhân. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ trường hợp quy định
tại khoản 4 Điều 47 của Luật Doanh nghiệp năm 2020; -
Đối với CTCP, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sảnkhấc của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Như vậy, theo quy định tại Luật DN năm 2020 có hai chế độ trách nhiệm tài sản
khác nhau cho các nhà đầu tư (chủ sở hữu) của thương nhân, đó là trách nhiệm vô hạn và
TNHH. Hay nói cách khác, khi xử lý tài sản của thương nhân bị phá sản, các chủ sở hữu
của các loại hình thương nhân khác nhau chịu trách nhiệm tài sản khác nhau: có những chủ
sở hữu chịu trách nhiệm vô hạn, có những chủ sở hữu chịu TNHH.
1.6.1.1 Trách nhiệm vô hạn
Trách nhiệm vô hạn là trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp (thương
nhân), theo đó chủ sở hữu doanh nghiệp (thương nhân) chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ
của thương nhân bằng toàn bộ tài sản của mình, kể cả những tài sản không được huy động
vào kinh doanh của doanh nghiệp (thương nhân).
Ví dụ: Chủ DNTN A có tổng số tài sản là 50 tỉ đồng, đầu tư 20 tỉ đồng vốn thành
lập một DNTN, còn 30 tỉ đồng để mua sắm các tài sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng
ngày. Sau thời gian hoạt động, doanh nghiệp này kinh doanh thua lỗ, tài sản còn lại của
doanh nghiệp chỉ còn 7 tỉ đồng, trong lúc đó, doanh nghiệp có khoản nợ phải thanh toán
cho các chủ nợ của mình là 15 tỉ đồng. Là chủ thể phải chịu trách nhiệm vô hạn theo quy
định của pháp luật, chủ DNTN A ngoài việc lấy7 tỉ đồng (tài sản còn lại của doanh nghiệp)
để thanh toán cho các chủ nợ, còn phải lấy thêm 8 tỉ đồng từ khối tài sản phục vụ nhu cầu
tiêu dùng hàng ngày của mình để thanh toán đủ 15tỉ đồng cho các chủ nợ của doanh nghiệp.
Lý do để pháp luật quy định buộc một số chủ sở hữu doanh nghiệp (thương nhân)
phải chịu trách nhiệm vô hạn là vì tài sản của các chủ sở hữu này không có sự tách bạch rõ
ràng giữa tài sản kinh doanh và tài sản khác.
Pháp luật hiện hành quy định, các chủ thể sau phải chịu trách nhiệm vô hạn: Chủ
DNTN; thành viên hợp danh của công ty hợp danh; thành viên hộ kinh doanh; thành viên tổ hợp tác.
1.6.1.2. Trách nhiệm hữu hạn
Trách nhiêm hữu hạn là trách nhiêm của chủ sở hữu doanh nghiệp, theo đó chủ sở lOMoAR cPSD| 45474828
hữu doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi vốn góp vào doanh nghiệp; bản thân doanh nghiệp chịu trách nhiệm trước nghĩa
vụ của mình đến hết giá trị tài sản có trong doanh nghiệp.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các thương nhân được hưởng quy chế TNHH
gồm: (i) Công ty TNHH; (ii) CTCP; (iii) hợp tác xã và (iv) DNNN
Ở khía cạnh thứ hai, chủ sở hữu (hay thành viên) của doanh nghiệp (thương nhân)
chịu TNHH, có nghĩa họ chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn mà các thành viên
đầu tư vào công ty. Cũng theo ví dụ trên, cho dù công ty TNHH A có khoản nợ phải xử lý
là 70 tỉ đồng, nhưng vì các thành viên của công ty này (B, C, D) được hưởng quy chế
TNHH cho nên họ chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp vào công ty TNHH A, cụ
thể: B chịu trách nhiệm trong phạm vi 10 tỉ đồng; C chịu trách nhiệm trong phạm vi 20 tỉ
đồng và D chịu trách nhiệm trong phạm vi 20 tỉ đồng.
Pháp luật hiện hành quy định, các chủ sở hữu (thành viên) của doanh nghiệp
(thương nhân) phải chịu TNHH gồm: (i) thành viên công ty TNHH; (ii) cổ đông CTCP;
(iii) thành viền góp vốn vào công ty hợp danh; (iv) thành viên họp tác xã và (v) đại diện chủ sở hữu DNNN.
1.6.2 Quyền cơ bản của thương nhân
- Quyền tự do kinh doanh:
Tại khoản 2 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 cũng quy định: “Thương nhân có
quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và
theo các phương thức mà pháp luật không cấm”
. Như vậy, ở đây quyền tự do kinh doanh
của thương nhân được tiếp cận dưới góc độ quyền chủ thể.
Dưới góc độ quyền chủ thể, quyền tự do kinh doanh của thương nhân được hiểu là
thương nhân được thực hiện các hoạt động thương mại mà pháp luật không cấm.
Nội dung của quyền tự do kinh doanh của thương nhân gồm:
+ Tự do thành lập doanh nghiệp;
+ Tự do lựa chọn ngành nghề và quy mô kinh doanh;
+ Tự do lựa chọn khách hàng và trực tiếp giao dịch vói khách
hàng; + Tự do lựa chọn lao động theo nhu cầu kinh doanh; . + Tự
do lựa chọn hình thức, cách thức giải quyết tranh chấp; + Các
quyền tự do khác mà pháp luật không cấm.
- Quyền bình đẳng trong hoạt động thương mại của thương nhân
Tại Điều 10 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Thương nhân thuộc mọi lOMoAR cPSD| 45474828
thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại”; (iii) Luật
Doanh nghiệp năm 2020 tiếp cận quyền bình đẳng của doanh nghiệp (thương nhân) như là
một sự bảo đảm của Nhà nước đối với doanh nghiệp (thương nhân): “Nhà nước... bảo đảm
bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu và
thành phần kinh tế
”.
Là một quyền chủ thể của thương nhân (doanh nghiệp) quyền bình đẳng giữa các
thương nhân (doanh nghiệp) đòi hỏi bình đẳng trong suốt thời gian tồn tại của nó, từ khi
thành lập, đi vào hoạt động thương mại (kinh doanh) và khi giải thể, phá sản doanh nghiệp/thương nhân.
+ Quyền bình đẳng của thương nhân (doanh nghiệp) trong đăng kí thành lập doanh
nghiệp + Quyền bình đẳng giữa các thương nhân (doanh nghiệp) trong hoạt động kinh doanh
- Quyền bình đẳng của thương nhân (doanh nghiệp) trong việc giải thể, phá sản:
Bên cạnh việc ghi nhận những quyền cơ bản của thương nhân (doanh nghiệp), pháp
luật hiện hành còn quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của thương nhân (doanh nghiệp).